Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Quyển 5 - Chương 26: Cương thi
Tôi phát giác trên vách ống cống xi năng có thêm một cái bóng, nghĩ bụng, phen này đúng là chó cắn áo rách, không ngờ âm hồn kia lại theo xuống tận dưới này, nhưng lúc lắng nghe động tĩnh phía sau lại tuyệt không có âm thanh gì cả, tựa hồ như sau lưng bốn chúng tôi, ngoài cái bóng ma ra, thì căn bản không hề tồn tại bất cứ thứ gì nữa.
Tôi không dám tùy tiện manh động, trong đầu thầm suy đoán ý đồ của bóng ma ấy, rõ ràng là nó không thể trực tiếp hại chết chúng tôi được, vì sao vậy nhỉ? Rất có khả năng là thanh bảo đao Khang Hy của lão Dương Bì kỵ tà thật. Những thứ binh khí từng giết người trong chiến trận, bản thân đã có mấy phần hung khí, giết người càng nhiều, sát khí càng nặng. Có điều, hoàng đế Khang Hy tuy có ngự giá thân chinh thật đấy, song chắc gì đã xông trận sát địch bao giờ, vậy nên đao này chắc không thể có sát khí. Tuy nhiên, vật ở trong Tử cấm thành của hoàng gia sao có thể tầm thường được, có thể cái bóng ma kia vẫn có điều úy kị thanh đao này, vậy nên mới chỉ ra tay với chúng tôi qua con đường gián tiếp.
Những ý nghĩ lóe lên trong óc, bước chân tôi vẫn không dừng lại, chỉ thấy ngọn đuốc trong tay lão Dương Bì đã cháy hết đến nơi. Nếu không nhân lúc vẫn còn chút ánh sáng mà nhìn cho rõ ràng, kéo dài thời gian thêm nữa sẽ chỉ càng bất lợi. Tôi tuy cũng hơi sờ sợ, nhưng không thể không đánh liều một phen, nghiến răng quay đầu lại nhìn cho rõ ràng. Không triệt để thoát khỏi sự đeo bám của bóng ma, sợ rằng chúng tôi khó mà thoát khỏi nơi đây.
Tôi xuất kỳ bất ý, đột nhiên quay ngoắt người lại, vốn tưởng rằng sẽ trông thấy gì đó, rồi gọi Tuyền béo rút đao đuổi ma, không ngờ lại được một phen chưng hửng, trước mắt chỉ có đường ống cống tối đen như mực, đừng nói là bóng ma bóng quỷ gì, đến cả mấy con giòi bọ, gián giếc cũng chẳng có. Bóng đen trên tường cũng biến mất trong khoảnh khắc tôi vừa quay người lại, chỉ còn lại mùi hôi thối vẫn lan tỏa trong không gian tối tăm mờ mịt.
Tôi dõi mắt nhìn vào đường ống cống sâu hun hút, tim đập thình thịch, có thể cảm nhận được, ở trong chỗ tối tăm kia, thực sự có một đôi mắt oán độc đang nhìn về phía này, toàn thân tôi nổi hết cả da gà lên, một cảm giác lạnh lẽo xuyên thấu qua lồng ngực. Nhưng chỉ với ánh sáng của một ngọn đuốc, chúng tôi cũng chẳng thể làm gì được nó.
Tôị đang ngập ngừng chưa biết tính sao, thì mấy người hội lão Dương Bì, Đinh Tư Điềm và Tuyền béo bị hành động đột nhiên xoay người ấy làm cho sợ tái cả mặt, lại còn tưởng phía sau đã xảy ra chuyện gì. Cả bọn đều dừng lại ngoảnh đầu ngó nghiêng, họ thấy tôi cứ nhìn chằm chằm vào đường ống cống tối tăm bần thần cả người ra, tưởng lúc tôi ở trong gian đốt xác bị kinh hãi quá độ, vội vàng kéo lại hỏi han tình hình.
Tôi thầm nhủ: “Nếu nói vừa nãy phát hiện ra phía sau có một cái bóng đi theo chúng tôi thì há chẳng phải là đánh cỏ động rắn hay sao? Chi bằng tạm thời không nói ra, tùy cơ hành động thôi vậy.” Nghĩ đoạn, liền nói với mọi người: “Đi mãi trong cái cống thối hoắc này mà không thấy lối ra, tôi thấy hơi lo lo nên dừng lại quan sát địa hình một chút thôi.”
Đinh Tư Điềm thấy vậy bèn an ủi: “Đường ống cống này vừa dài vừa sâu, chắc hẳn trên mặt đất ngoài tòa nhà ba tầng có cái lò đốt xác ấy, còn có rất nhiều công trình kiến trúc khác nữa. Nếu là vậy, thì thế nào cũng có những đường cống khác nối liền với đường này, nước bẩn cuối cùng sẽ tụ hợp lại một chỗ, chúng ta cứ đi tiếp, thế nào cũng sẽ gặp cửa ra thôi.
Tôi gật đầu khen phải, kiên trì đến cùng sẽ thấy thắng lợi. Từ lúc sáng sớm xuất phát đi tìm bò, cho đến giờ đã quá nửa đêm, cả một ngày trời đằng đẵng vất vả khôn cùng, nhưng chưa tìm được lối ra thì chưa thể thả lỏng mình được, cần phải đề cao cảnh giác mà tiếp tục tiến lên. Nghĩ xong, tôi bảo lão Dương Bì đốt cây đuốc mới, rồi lại bảo Tuyền béo đưa thanh bảo đao Khang Hy cho. Bốn người lấy lại tinh thần, tiếp tục bước đi, tôi vẫn đoạn hậu, bất cứ lúc nào cũng lưu tâm động tĩnh phía sau, nhưng kể từ lúc đó lại không thấy có gì dị thường nữa.
Tốc độ tiêu hao đuốc nhanh hơn tính toán của chúng tôi, nếu không mau ra khỏi đường ống cống tối om này, một khi hết nguồn sáng thì càng không có hy vọng rời khỏi nơi đây. Chúng tôi không thể không rảo bước chân nhanh hơn, mới đi được một quãng không xa, đã thấy đường ống cống xi măng bị một cửa chấn song sắt chặn lại, phía dưới còn có một cái khóa xích rất to, một nửa xích chìm sâu trong nước, chấn song cái nào cái nấy đều to như quả trứng gà. Phía trên đỉnh đầu có một cái nắp cống hình chữ nhật đục đầy lỗ thoát nước, nhưng quá hẹp, không thể nào chui lên được, vả lại cũng đã bị khóa cứng phía bên trên rồi, căn bản không thể nào đẩy ra từ phía dưới này được. Thấy tình hình đó, chúng tôi đều lạnh hết cả người, phía trước không còn đường nào để đi nữa, lần này đúng là tiêu đời rồi.
Lão Dương Bì ngồi xổm xuống rờ tay sờ bên dưới lớp nước đen ngòm, đột nhiên mừng rỡ kêu lên: “Đừng cuống, thanh đao của lão là bảo đao ngự dụng, bao nhiêu năm rồi mà lưỡi đao vẫn sắc bén như thế, tuy không cắt được mấy thanh sắt này, nhưng đoạn xích sắt ngâm trong bùn này thì đã gỉ hết cả rồi, dồn sức vào thì cũng không khó chặt đứt lắm đâu!”
Tôi nghe vậy lập tức động lòng, vội cúi xuống kiểm tra đoạn xích bị khóa chặt lại ấy. Cửa sắt kiểu này vốn không có chỗ để lắp khóa, ở phía ngoài chỉ có một cái then sắt có thể di động được. Dây xích này có lẽ là được khóa tạm vào trong lúc gấp gáp, vì vậy mới bị tuột xuống dưới, đoạn xích ngâm trong nước đã gỉ sét hết cả, vả lại dây xích cũng nhỏ hơn các chấn song phía trên rất nhiều. Thanh bảo đao Khang Hy này được rèn phỏng theo kiểu trường đao của người Mông Cổ, là loại vũ khí chuyên dùng chiến đấu trên lưng ngựa, sống đao rất dày, tuy không thể chém sắt như chém bùn, nhưng muốn chặt đứt sợi xích đã gỉ này thì cũng không hề khó. Thấy vậy, tôi vội bảo Tuyền béo và Đinh Tư Điềm kéo sợi xích sắt lên, rồi nhắm chuẩn vào mắt xích rút đao chém tới. Sợi xích gỉ to bằng ngón tay lập tức đứt lìa, nhìn lại lưỡi đao, thấy không hề sứt mẻ chút nào.
Mọi người đều khen lưỡi đao sắc bén, rồi nhanh chóng hợp sức đẩy cửa sắt ra, đi thêm mấy bước nữa liền gặp một ngã tư, trong đó một lối rẽ quá hẹp, không len vào được. Hai phía còn lại lần lượt đều có một cửa cống thoát nước có thể mở được từ phía chúng tôi đang đứng, xem ra nơi này đã thuộc một khu vực khác rồi. Sau khi mở cánh cửa sắt to nhất, chúng tôi không vội vào ngay, nhớ lại cảm giác lúc bị khóa trái trong gian đốt xác lên trời không được xuống đất không xong đến giờ vẫn thấy rùng cả mình, cũng may đó là lò đốt xác chứ không phải nhà ngục, bằng không dù có lỗ thoát nước thì người cũng không thể nào chui lọt được. Một lần thiệt là một lần khôn ra, lần này chúng tôi phá hỏng luôn cái khóa trên cửa sắt, vạn nhất phía trước không đi được thì cũng không đến nỗi không còn đường quay lại.
Chúng tôi kiểm tra mấy lượt, chắc chắn tuyệt đối không thể bị khóa trái từ phía bên này rồi mới đặt chân bước vào trong cánh cửa. Thế nhưng, sau đó vẫn chỉ là đường cống ngầm thối hoắc dài tít tắp không thấy tận cùng. Chúng tôi cảm thấy đường cống ngầm này đi mãi không hết, trên thực tế rất có khả năng chỉ là do ảo giác gây ra. Vì không gian xung quanh vừa dài vừa hẹp lại nồng nặc mùi hôi thối, thân thể mệt mỏi, tốc độ bước đi lại cực kỳ chậm chạp, vậy nên mới sinh ra cảm giác ấy. Sau khi đi được một đoạn, hai bên đường ống cuối cùng cũng bắt đầu xuất hiện một số đường ống thoát nước phụ nhỏ hẹp hơn, nhưng đường kính của chúng đều không lớn hơn quả bóng rổ, chỉ có chuột và gián mới có thể chui vào. Ngoài ra còn mấy chỗ khe thoát nước hình chữ nhật, nhưng đều rất hẹp, người không chui vào được, ngó vào chỉ thấy tối om om, không hiểu là chỗ nào, xem ra không phải khu vực nào cũng có cống thoát nước lớn như chỗ lò đốt xác kia.
Tôi đi sau cùng, nhưng không lưu ý lắm đến sự thay đổi của địa hình trong cống ngầm, những thứ này để cho hội Đinh Tư Điềm lo là được rồi, sức chú ý của tôi đều tập trung hết cả ra phía sau để đề phòng bất trắc. Đinh Tư Điềm đi trước đột nhiên dừng lại, tôi hoàn toàn bị bất ngờ, suýt chút nữa thì đụng vào người cô, định thần ngước mắt lên nhìn, thì ra Tuyền béo và lão Dương Bì đi trước đều đã dừng bước. Tôi đang định hỏi họ đã xảy ra chuyện gì, nhưng nhờ ánh sáng của ngọn đuốc, đã phát hiện ra sự tình.
Ở trên bức vách rất gần chỗ trước mặt Tuyền béo, có một vòng tròn màu đen, đường kính cũng khoảng bằng cái miệng cống thoát nước, hình dáng khấp khểnh không đều, cũng chẳng theo quy tắc gì. Dưới ánh đuốc, trên bức vách xi măng màu trắng xám tự dưng có một vòng tròn màu đen như thế nên rất nổi bật. Trong ánh lửa bập bùng, chỉ thấy cái vòng màu đen ấy dường như đang khẽ cựa quậy, Tuyền béo trông thế, tưởng là một con rắn nước màu đen bò trên tường, liền dừng phắt lại.
Tôi thầm nhủ rắn nước có loại nào màu đen hay không thì không chắc lắm, huống hồ rắn nước sao có thể cuộn thành một vòng dính người trên vách tường như vậy được chứ? Cho dù là rắn, thì với chiều dài ấy, cơ thể nó cũng không thể nhỏ xíu vậy được, mà chỗ này lại càng không thể có giun đất được. Nhưng chúng tôi không nhìn lầm, vết đen trên tường không phải là dấu vết bùn đất lắng lại, đích thực là đang nhích động, tuy biên độ rất nhỏ, nếu không nhìn kỹ thì rất có thể sẽ không để ý thấy, còn tưởng rằng đó chỉ là một dấu hiệu hình tròn bôi lên bằng thứ bùn đen dưới chân mà thôi.
Vòng tròn màu đen ấy đã thu hút sự chú ý của chúng tôi, sau khi nhìn rõ đó chắc chắn không phải là rắn nước hay du diên gì cuộn thành vòng tròn, bốn người chúng tôi liền bước lại gần mấy bước, quan sát bức vách ấy kỹ hơn. Vừa trông rõ đó là thứ gì, cả bọn đều không khỏi rùng mình, da dầu gai gai, tóc gáy dựng ngược cả lên. Thì ra trên bức vách trét xi măng ấy có một cái rãnh hình tròn, bên trong toàn là gián đang bò ra bò vào, con nào con nấy chẳng to hơn hạt vừng là bao, toàn bộ đều là lũ gián sơ sinh cả, cái rãnh hình tròn này đã bị chúng nó biến thành ổ đẻ mất rồi, vừa khéo khép đúng một vòng, trong ánh sáng mờ ảo này mà đứng xa một chút, thì chắc chắn sẽ tưởng rằng trên vách có một vòng tròn màu đen đang nhúc nhích chầm chậm.
Đinh Tư Điềm nhìn thế chỉ thấy buồn nôn, muốn lập tức rời khỏi đây, mau chóng tìm lối ra ở phía trước, nhưng tôi kéo cô lại nói: “Đường cống ngầm này chẳng khác nào mê cung, đến phương hướng chúng ta còn chẳng phân biệt nổi, mà đuốc cũng sắp dùng hết rồi, đi tiếp cũng chẳng biết đến bao giờ mới hết đường cống này nữa. Cái rãnh hình tròn trên bức vách này thật kỳ lạ, nói không chừng lại là một lối đi bí mật cũng nên.”
Tuyền béo cũng nói: “Chắc chắn là thế rồi, dùng mông đít cũng nghĩ ra được điều ấy, trong ống cống làm sao lại dễ dàng xuất hiện một chỗ khuyết hình dáng quy chuẩn thế này được chứ.” Cậu ta sớm đã khó chịu với cái ống cống hôi thối này lắm rồi, nói xong cũng chẳng buồn quan sát kỹ càng, giơ chân lên đạp luôn vào chỗ giữa vòng tròn, làm vô số con gián bên trong khe rãnh bị chấn động chạy toán loạn ra.
Mảng vách xi măng ấy không lớn lắm, khe rãnh hình tròn là do có người đục ra từ phía bên trong, ở chỗ tiếp giáp không khít lắm bò đầy những gián là gián, mảng vách xi măng lỏng lẻo bị Tuyền béo đạp sập xuống, lũ gián lớn gián nhỏ bên trong liền chạy loạn khắp lên. Lão Dương Bì vội vung đuốc xua chúng ra xa, phía sau mảng vách vừa sập là một đường hầm do người đào, bên trong gập ghềnh nhấp nhô, phải quỳ hai gối khom người xuống, khó khăn lắm mới chui vào được. Tính hiếu kỳ của tôi nổi lên, muốn tra xét tận cùng, liền đón lấy cây đuốc chui vào bên trong xem thử. Đoạn đường hầm này chỉ dài khoảng bảy tám mét, ở phía cuối có một lối ra hướng lên trên đậy bằng gạch lát, đẩy lên là mở được. Tôi thò đầu lên quan sát, thấy lối ra này nằm ở bên dưới gầm giường trong một gian phòng, trong phòng còn bày bừa bãi rất nhiều thứ linh tinh khác.
Bọn Đinh Tư Điềm ở đằng sau gọi tôi mau chui ra, tôi sợ họ lo lắng, nên cũng không kịp quan sát kỹ, đành chui ngược trở ra, rồi kể lại tình hình trong ấy cho cả bọn nghe, ở trong ống cống thối mù, người nào người nấy đều cảm thấy bực bội khó chịu, sắp bị hun cho chết đến nơi rồi, nếu đã có lối thông lên một gian phòng, thì ngại gì mà không vào hít thở ít không khí trong lành. Vả lại, căn phòng đó hình như còn rất nhiều dồ dùng được, nói không chừng lại tìm đươc đồ ăn và công cụ chiếu sáng cũng nên, ít ra cũng có thêm mấy phần hy vọng sống sót.
Vậy là cả bọn đều nhất trí đồng ý, vẫn là tôi bò vào trước tiên. Mới đầu, tôi tưởng đây là một nhà giam, còn chỗ khuyết trong đường cống ngầm này là do người bị nhốt bên trong đào khi vượt ngục. Nhưng ngay khi thò đầu ra khỏi gầm giường quan sát, tôi liền tự phủ định ngay phán đoán của mình. Phòng giam tuyệt đối không giống như thế này, tôi chuyển mấy viên gạch lát và cái giường ra nơi khác, lần lượt kéo ba người kia lên. Mọi người giơ đuốc quan sát xung quanh, đều cảm thấy hết sức kỳ lạ, nơi này tuy cũng là tầng ngầm, nhưng rõ ràng là có bố trí hệ thống lỗ thông gió khá hoàn thiện, không khí lưu thông, hoàn toàn không khiến người ta có cảm giác tức ngực khó thở. Gian phòng được bố trí theo phong cách châu Âu điển hình, thậm chí còn có một cái lò sưởi trong tường để trang trí nữa. Tuy đang ở trong một gian hầm dưới lòng đất, song chúng tôi đều có cảm giác như mình vừa lạc bước vào miền đất xa lạ nào đấy vậy. Trong đây có đủ mọi đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt, sát tường có một giá gỗ chất đầy sách, nhưng đường điện thì đã đứt từ lâu, không thể nào dùng đèn điện được.
Đinh Tư Điềm thấy trong phòng bày một giá nến dùng để trang trí, bên trên lại có cả mấy ngọn nến vẫn còn nguyên vẹn chưa hư hao gì, bèn bước tới cầm lên châm lửa, sau đó giơ giá nến lên cao, tò mò quan sát xung quanh, bất giác đã đi ra phòng bên ngoài lúc nào cũng chẳng hay. Tuyền béo thấy trên giá có mấy chai rượu Tây, vừa khéo đang khát khô cả cổ, bèn cầm lên tu luôn mấy ngụm. Lão Dương Bì quanh năm ngày tháng chỉ biết bò dê lợn gà, không biết Tuyền béo đang uống cái gì, liền hỏi tôi xem cái thứ đựng trong bình thủy tinh ấy là gì thế?
Tôi đang định trả lời, bỗng nghe Đinh Tư Điềm ở gian phòng bên ngoài thét lên kinh hãi, ba chúng tôi vừa nghe có động vội vàng xông qua tiếp ứng. Đinh Tư Điềm thấy chúng tôi chạy tới, liền kinh hãi vòng ra nấp sau lưng tôi. Không cần hỏi cũng biết chắc trăm phần trăm là cô đã trông thấy thứ gì đó kinh khủng lắm, bọn tôi đón lấy giá nến, vừa giơ lên soi sáng gian phòng, cũng không khỏi giật thót mình kinh ngạc.
Trong miệng Tuyền béo vẫn còn ngậm nửa ngụm rượu Tây chưa kịp nuốt xuống, khi ấy liền “phụt” một tiếng, phun hết cả rượu ra ngoài: “Ở đây sao lại có con khỉ chết khô thế?” Lão Dương Bì run run giọng nói: “Cái cậu này đừng có nói bậy, khỉ đâu mà khỉ, trong mộ hoang ở Thiểm Tây quê lão, thứ này là nhiều nhất đấy, đây là... là... là là là...” Lúc này ông già cũng kinh hoảng thất sắc, không sao tự điều khiển được mình nữa, nói được đến đấy thì cứ “là” mãi không thôi.
Tôi thấy trên ghế gỗ ở gian bên ngoài có một cái xác đàn ông cao lớn đang ngồi, xác chết mặc áo choàng ngủ, nước trong cơ thể đã bay hơi sạch, biến thành cương thi rồi, làn da khô đét màu tím mọc ra một tầng lông trắng trông như lông chim, nửa người bên dưới thì mọc lông thú, móng tay sắc nhọn dài thượt mà không gãy, đã uốn lại thành một đường cong, ngũ quan hung ác dữ tợn, miệng há hốc, chết không nhắm mắt. Vì các xác ấy đã mọc lông khắp người, nên tướng mạo cũng khó mà nhìn cho rõ được.
Tôi đáp thay lão Dương Bì: “Là một cỗ cương thi, đừng ai chạm vào nó, người sống không chạm vào thì sẽ không xảy ra thi biến đâu.” Tuyền béo không tin: “Sao cậu biết là cương thi? Chẳng lẽ chạm vào một cái là nó nhảy dựng lên luôn à? Cậu lại muốn hù dọa anh em đấy phỏng?”
Tôi chỉ chú ý vào cái xác cổ quái trước mắt, hoàn toàn để ngoài tai những lời của Tuyền béo. Hồi trước chưa lần nào tận mắt trông thấy cương thi, nhưng tương truyền hình dạng của nó đúng là vậy rồi. Trong ánh nến, tôi thấy trên bàn viết phía trước cỗ cương thi, có mấy tấm giấy đã ngả vàng viết chi chít chữ, nói không chừng những tờ giấy này là do người chết viết trước lúc lâm chung, cũng biết đâu lại giúp được gì cho việc thoát khỏi nơi đây của chúng tôi. Vậy là tôi đưa giá nến cho Tuyền béo, bảo cậu ta đứng bên soi cho rõ, rồi tôi bịt mũi hết sức dè dặt bước đến phía trước cái xác, đưa tay nhặt mấy tờ giấy đó lên, rồi mau chóng giật lùi trở lại.
Tôi bảo Tuyền béo và lão Dương Bì để ý quan sát tử thi và ngọn nến, một khi có động, phải mau chóng rút trở về đường cống ngầm, sau đó giơ tờ giấy đã ngả vàng ấy lên xem thử, bên trên kín đặc toàn là chữ Nga. Trình độ tiếng Nga của tôi thực sự quá thấp, đành đưa cho Đinh Tư Điềm xem trên đó viết gì, rốt cuộc có thông tin gì giá trị hay không?
Đinh Tư Điềm nhanh chóng lật xem mấy tờ giấy, rồi thuận miệng dịch cho chúng tôi nghe mấy câu, càng nghe tôi lại càng kinh hồn động phách. Thì ra đây là một nhà khoa học người Nga bị quân Nhật giam lỏng, ép phải tham gia một hành động trong căn cứ bí mật này. Mấy tờ giấy này là di thư của ông, bên trong có nhắc đến rất nhiều sự thực khó tưởng tượng ra nổi, người Nhật đã đào được một số thứ ở trong động Bách Nhãn này.
Tôi không dám tùy tiện manh động, trong đầu thầm suy đoán ý đồ của bóng ma ấy, rõ ràng là nó không thể trực tiếp hại chết chúng tôi được, vì sao vậy nhỉ? Rất có khả năng là thanh bảo đao Khang Hy của lão Dương Bì kỵ tà thật. Những thứ binh khí từng giết người trong chiến trận, bản thân đã có mấy phần hung khí, giết người càng nhiều, sát khí càng nặng. Có điều, hoàng đế Khang Hy tuy có ngự giá thân chinh thật đấy, song chắc gì đã xông trận sát địch bao giờ, vậy nên đao này chắc không thể có sát khí. Tuy nhiên, vật ở trong Tử cấm thành của hoàng gia sao có thể tầm thường được, có thể cái bóng ma kia vẫn có điều úy kị thanh đao này, vậy nên mới chỉ ra tay với chúng tôi qua con đường gián tiếp.
Những ý nghĩ lóe lên trong óc, bước chân tôi vẫn không dừng lại, chỉ thấy ngọn đuốc trong tay lão Dương Bì đã cháy hết đến nơi. Nếu không nhân lúc vẫn còn chút ánh sáng mà nhìn cho rõ ràng, kéo dài thời gian thêm nữa sẽ chỉ càng bất lợi. Tôi tuy cũng hơi sờ sợ, nhưng không thể không đánh liều một phen, nghiến răng quay đầu lại nhìn cho rõ ràng. Không triệt để thoát khỏi sự đeo bám của bóng ma, sợ rằng chúng tôi khó mà thoát khỏi nơi đây.
Tôi xuất kỳ bất ý, đột nhiên quay ngoắt người lại, vốn tưởng rằng sẽ trông thấy gì đó, rồi gọi Tuyền béo rút đao đuổi ma, không ngờ lại được một phen chưng hửng, trước mắt chỉ có đường ống cống tối đen như mực, đừng nói là bóng ma bóng quỷ gì, đến cả mấy con giòi bọ, gián giếc cũng chẳng có. Bóng đen trên tường cũng biến mất trong khoảnh khắc tôi vừa quay người lại, chỉ còn lại mùi hôi thối vẫn lan tỏa trong không gian tối tăm mờ mịt.
Tôi dõi mắt nhìn vào đường ống cống sâu hun hút, tim đập thình thịch, có thể cảm nhận được, ở trong chỗ tối tăm kia, thực sự có một đôi mắt oán độc đang nhìn về phía này, toàn thân tôi nổi hết cả da gà lên, một cảm giác lạnh lẽo xuyên thấu qua lồng ngực. Nhưng chỉ với ánh sáng của một ngọn đuốc, chúng tôi cũng chẳng thể làm gì được nó.
Tôị đang ngập ngừng chưa biết tính sao, thì mấy người hội lão Dương Bì, Đinh Tư Điềm và Tuyền béo bị hành động đột nhiên xoay người ấy làm cho sợ tái cả mặt, lại còn tưởng phía sau đã xảy ra chuyện gì. Cả bọn đều dừng lại ngoảnh đầu ngó nghiêng, họ thấy tôi cứ nhìn chằm chằm vào đường ống cống tối tăm bần thần cả người ra, tưởng lúc tôi ở trong gian đốt xác bị kinh hãi quá độ, vội vàng kéo lại hỏi han tình hình.
Tôi thầm nhủ: “Nếu nói vừa nãy phát hiện ra phía sau có một cái bóng đi theo chúng tôi thì há chẳng phải là đánh cỏ động rắn hay sao? Chi bằng tạm thời không nói ra, tùy cơ hành động thôi vậy.” Nghĩ đoạn, liền nói với mọi người: “Đi mãi trong cái cống thối hoắc này mà không thấy lối ra, tôi thấy hơi lo lo nên dừng lại quan sát địa hình một chút thôi.”
Đinh Tư Điềm thấy vậy bèn an ủi: “Đường ống cống này vừa dài vừa sâu, chắc hẳn trên mặt đất ngoài tòa nhà ba tầng có cái lò đốt xác ấy, còn có rất nhiều công trình kiến trúc khác nữa. Nếu là vậy, thì thế nào cũng có những đường cống khác nối liền với đường này, nước bẩn cuối cùng sẽ tụ hợp lại một chỗ, chúng ta cứ đi tiếp, thế nào cũng sẽ gặp cửa ra thôi.
Tôi gật đầu khen phải, kiên trì đến cùng sẽ thấy thắng lợi. Từ lúc sáng sớm xuất phát đi tìm bò, cho đến giờ đã quá nửa đêm, cả một ngày trời đằng đẵng vất vả khôn cùng, nhưng chưa tìm được lối ra thì chưa thể thả lỏng mình được, cần phải đề cao cảnh giác mà tiếp tục tiến lên. Nghĩ xong, tôi bảo lão Dương Bì đốt cây đuốc mới, rồi lại bảo Tuyền béo đưa thanh bảo đao Khang Hy cho. Bốn người lấy lại tinh thần, tiếp tục bước đi, tôi vẫn đoạn hậu, bất cứ lúc nào cũng lưu tâm động tĩnh phía sau, nhưng kể từ lúc đó lại không thấy có gì dị thường nữa.
Tốc độ tiêu hao đuốc nhanh hơn tính toán của chúng tôi, nếu không mau ra khỏi đường ống cống tối om này, một khi hết nguồn sáng thì càng không có hy vọng rời khỏi nơi đây. Chúng tôi không thể không rảo bước chân nhanh hơn, mới đi được một quãng không xa, đã thấy đường ống cống xi măng bị một cửa chấn song sắt chặn lại, phía dưới còn có một cái khóa xích rất to, một nửa xích chìm sâu trong nước, chấn song cái nào cái nấy đều to như quả trứng gà. Phía trên đỉnh đầu có một cái nắp cống hình chữ nhật đục đầy lỗ thoát nước, nhưng quá hẹp, không thể nào chui lên được, vả lại cũng đã bị khóa cứng phía bên trên rồi, căn bản không thể nào đẩy ra từ phía dưới này được. Thấy tình hình đó, chúng tôi đều lạnh hết cả người, phía trước không còn đường nào để đi nữa, lần này đúng là tiêu đời rồi.
Lão Dương Bì ngồi xổm xuống rờ tay sờ bên dưới lớp nước đen ngòm, đột nhiên mừng rỡ kêu lên: “Đừng cuống, thanh đao của lão là bảo đao ngự dụng, bao nhiêu năm rồi mà lưỡi đao vẫn sắc bén như thế, tuy không cắt được mấy thanh sắt này, nhưng đoạn xích sắt ngâm trong bùn này thì đã gỉ hết cả rồi, dồn sức vào thì cũng không khó chặt đứt lắm đâu!”
Tôi nghe vậy lập tức động lòng, vội cúi xuống kiểm tra đoạn xích bị khóa chặt lại ấy. Cửa sắt kiểu này vốn không có chỗ để lắp khóa, ở phía ngoài chỉ có một cái then sắt có thể di động được. Dây xích này có lẽ là được khóa tạm vào trong lúc gấp gáp, vì vậy mới bị tuột xuống dưới, đoạn xích ngâm trong nước đã gỉ sét hết cả, vả lại dây xích cũng nhỏ hơn các chấn song phía trên rất nhiều. Thanh bảo đao Khang Hy này được rèn phỏng theo kiểu trường đao của người Mông Cổ, là loại vũ khí chuyên dùng chiến đấu trên lưng ngựa, sống đao rất dày, tuy không thể chém sắt như chém bùn, nhưng muốn chặt đứt sợi xích đã gỉ này thì cũng không hề khó. Thấy vậy, tôi vội bảo Tuyền béo và Đinh Tư Điềm kéo sợi xích sắt lên, rồi nhắm chuẩn vào mắt xích rút đao chém tới. Sợi xích gỉ to bằng ngón tay lập tức đứt lìa, nhìn lại lưỡi đao, thấy không hề sứt mẻ chút nào.
Mọi người đều khen lưỡi đao sắc bén, rồi nhanh chóng hợp sức đẩy cửa sắt ra, đi thêm mấy bước nữa liền gặp một ngã tư, trong đó một lối rẽ quá hẹp, không len vào được. Hai phía còn lại lần lượt đều có một cửa cống thoát nước có thể mở được từ phía chúng tôi đang đứng, xem ra nơi này đã thuộc một khu vực khác rồi. Sau khi mở cánh cửa sắt to nhất, chúng tôi không vội vào ngay, nhớ lại cảm giác lúc bị khóa trái trong gian đốt xác lên trời không được xuống đất không xong đến giờ vẫn thấy rùng cả mình, cũng may đó là lò đốt xác chứ không phải nhà ngục, bằng không dù có lỗ thoát nước thì người cũng không thể nào chui lọt được. Một lần thiệt là một lần khôn ra, lần này chúng tôi phá hỏng luôn cái khóa trên cửa sắt, vạn nhất phía trước không đi được thì cũng không đến nỗi không còn đường quay lại.
Chúng tôi kiểm tra mấy lượt, chắc chắn tuyệt đối không thể bị khóa trái từ phía bên này rồi mới đặt chân bước vào trong cánh cửa. Thế nhưng, sau đó vẫn chỉ là đường cống ngầm thối hoắc dài tít tắp không thấy tận cùng. Chúng tôi cảm thấy đường cống ngầm này đi mãi không hết, trên thực tế rất có khả năng chỉ là do ảo giác gây ra. Vì không gian xung quanh vừa dài vừa hẹp lại nồng nặc mùi hôi thối, thân thể mệt mỏi, tốc độ bước đi lại cực kỳ chậm chạp, vậy nên mới sinh ra cảm giác ấy. Sau khi đi được một đoạn, hai bên đường ống cuối cùng cũng bắt đầu xuất hiện một số đường ống thoát nước phụ nhỏ hẹp hơn, nhưng đường kính của chúng đều không lớn hơn quả bóng rổ, chỉ có chuột và gián mới có thể chui vào. Ngoài ra còn mấy chỗ khe thoát nước hình chữ nhật, nhưng đều rất hẹp, người không chui vào được, ngó vào chỉ thấy tối om om, không hiểu là chỗ nào, xem ra không phải khu vực nào cũng có cống thoát nước lớn như chỗ lò đốt xác kia.
Tôi đi sau cùng, nhưng không lưu ý lắm đến sự thay đổi của địa hình trong cống ngầm, những thứ này để cho hội Đinh Tư Điềm lo là được rồi, sức chú ý của tôi đều tập trung hết cả ra phía sau để đề phòng bất trắc. Đinh Tư Điềm đi trước đột nhiên dừng lại, tôi hoàn toàn bị bất ngờ, suýt chút nữa thì đụng vào người cô, định thần ngước mắt lên nhìn, thì ra Tuyền béo và lão Dương Bì đi trước đều đã dừng bước. Tôi đang định hỏi họ đã xảy ra chuyện gì, nhưng nhờ ánh sáng của ngọn đuốc, đã phát hiện ra sự tình.
Ở trên bức vách rất gần chỗ trước mặt Tuyền béo, có một vòng tròn màu đen, đường kính cũng khoảng bằng cái miệng cống thoát nước, hình dáng khấp khểnh không đều, cũng chẳng theo quy tắc gì. Dưới ánh đuốc, trên bức vách xi măng màu trắng xám tự dưng có một vòng tròn màu đen như thế nên rất nổi bật. Trong ánh lửa bập bùng, chỉ thấy cái vòng màu đen ấy dường như đang khẽ cựa quậy, Tuyền béo trông thế, tưởng là một con rắn nước màu đen bò trên tường, liền dừng phắt lại.
Tôi thầm nhủ rắn nước có loại nào màu đen hay không thì không chắc lắm, huống hồ rắn nước sao có thể cuộn thành một vòng dính người trên vách tường như vậy được chứ? Cho dù là rắn, thì với chiều dài ấy, cơ thể nó cũng không thể nhỏ xíu vậy được, mà chỗ này lại càng không thể có giun đất được. Nhưng chúng tôi không nhìn lầm, vết đen trên tường không phải là dấu vết bùn đất lắng lại, đích thực là đang nhích động, tuy biên độ rất nhỏ, nếu không nhìn kỹ thì rất có thể sẽ không để ý thấy, còn tưởng rằng đó chỉ là một dấu hiệu hình tròn bôi lên bằng thứ bùn đen dưới chân mà thôi.
Vòng tròn màu đen ấy đã thu hút sự chú ý của chúng tôi, sau khi nhìn rõ đó chắc chắn không phải là rắn nước hay du diên gì cuộn thành vòng tròn, bốn người chúng tôi liền bước lại gần mấy bước, quan sát bức vách ấy kỹ hơn. Vừa trông rõ đó là thứ gì, cả bọn đều không khỏi rùng mình, da dầu gai gai, tóc gáy dựng ngược cả lên. Thì ra trên bức vách trét xi măng ấy có một cái rãnh hình tròn, bên trong toàn là gián đang bò ra bò vào, con nào con nấy chẳng to hơn hạt vừng là bao, toàn bộ đều là lũ gián sơ sinh cả, cái rãnh hình tròn này đã bị chúng nó biến thành ổ đẻ mất rồi, vừa khéo khép đúng một vòng, trong ánh sáng mờ ảo này mà đứng xa một chút, thì chắc chắn sẽ tưởng rằng trên vách có một vòng tròn màu đen đang nhúc nhích chầm chậm.
Đinh Tư Điềm nhìn thế chỉ thấy buồn nôn, muốn lập tức rời khỏi đây, mau chóng tìm lối ra ở phía trước, nhưng tôi kéo cô lại nói: “Đường cống ngầm này chẳng khác nào mê cung, đến phương hướng chúng ta còn chẳng phân biệt nổi, mà đuốc cũng sắp dùng hết rồi, đi tiếp cũng chẳng biết đến bao giờ mới hết đường cống này nữa. Cái rãnh hình tròn trên bức vách này thật kỳ lạ, nói không chừng lại là một lối đi bí mật cũng nên.”
Tuyền béo cũng nói: “Chắc chắn là thế rồi, dùng mông đít cũng nghĩ ra được điều ấy, trong ống cống làm sao lại dễ dàng xuất hiện một chỗ khuyết hình dáng quy chuẩn thế này được chứ.” Cậu ta sớm đã khó chịu với cái ống cống hôi thối này lắm rồi, nói xong cũng chẳng buồn quan sát kỹ càng, giơ chân lên đạp luôn vào chỗ giữa vòng tròn, làm vô số con gián bên trong khe rãnh bị chấn động chạy toán loạn ra.
Mảng vách xi măng ấy không lớn lắm, khe rãnh hình tròn là do có người đục ra từ phía bên trong, ở chỗ tiếp giáp không khít lắm bò đầy những gián là gián, mảng vách xi măng lỏng lẻo bị Tuyền béo đạp sập xuống, lũ gián lớn gián nhỏ bên trong liền chạy loạn khắp lên. Lão Dương Bì vội vung đuốc xua chúng ra xa, phía sau mảng vách vừa sập là một đường hầm do người đào, bên trong gập ghềnh nhấp nhô, phải quỳ hai gối khom người xuống, khó khăn lắm mới chui vào được. Tính hiếu kỳ của tôi nổi lên, muốn tra xét tận cùng, liền đón lấy cây đuốc chui vào bên trong xem thử. Đoạn đường hầm này chỉ dài khoảng bảy tám mét, ở phía cuối có một lối ra hướng lên trên đậy bằng gạch lát, đẩy lên là mở được. Tôi thò đầu lên quan sát, thấy lối ra này nằm ở bên dưới gầm giường trong một gian phòng, trong phòng còn bày bừa bãi rất nhiều thứ linh tinh khác.
Bọn Đinh Tư Điềm ở đằng sau gọi tôi mau chui ra, tôi sợ họ lo lắng, nên cũng không kịp quan sát kỹ, đành chui ngược trở ra, rồi kể lại tình hình trong ấy cho cả bọn nghe, ở trong ống cống thối mù, người nào người nấy đều cảm thấy bực bội khó chịu, sắp bị hun cho chết đến nơi rồi, nếu đã có lối thông lên một gian phòng, thì ngại gì mà không vào hít thở ít không khí trong lành. Vả lại, căn phòng đó hình như còn rất nhiều dồ dùng được, nói không chừng lại tìm đươc đồ ăn và công cụ chiếu sáng cũng nên, ít ra cũng có thêm mấy phần hy vọng sống sót.
Vậy là cả bọn đều nhất trí đồng ý, vẫn là tôi bò vào trước tiên. Mới đầu, tôi tưởng đây là một nhà giam, còn chỗ khuyết trong đường cống ngầm này là do người bị nhốt bên trong đào khi vượt ngục. Nhưng ngay khi thò đầu ra khỏi gầm giường quan sát, tôi liền tự phủ định ngay phán đoán của mình. Phòng giam tuyệt đối không giống như thế này, tôi chuyển mấy viên gạch lát và cái giường ra nơi khác, lần lượt kéo ba người kia lên. Mọi người giơ đuốc quan sát xung quanh, đều cảm thấy hết sức kỳ lạ, nơi này tuy cũng là tầng ngầm, nhưng rõ ràng là có bố trí hệ thống lỗ thông gió khá hoàn thiện, không khí lưu thông, hoàn toàn không khiến người ta có cảm giác tức ngực khó thở. Gian phòng được bố trí theo phong cách châu Âu điển hình, thậm chí còn có một cái lò sưởi trong tường để trang trí nữa. Tuy đang ở trong một gian hầm dưới lòng đất, song chúng tôi đều có cảm giác như mình vừa lạc bước vào miền đất xa lạ nào đấy vậy. Trong đây có đủ mọi đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt, sát tường có một giá gỗ chất đầy sách, nhưng đường điện thì đã đứt từ lâu, không thể nào dùng đèn điện được.
Đinh Tư Điềm thấy trong phòng bày một giá nến dùng để trang trí, bên trên lại có cả mấy ngọn nến vẫn còn nguyên vẹn chưa hư hao gì, bèn bước tới cầm lên châm lửa, sau đó giơ giá nến lên cao, tò mò quan sát xung quanh, bất giác đã đi ra phòng bên ngoài lúc nào cũng chẳng hay. Tuyền béo thấy trên giá có mấy chai rượu Tây, vừa khéo đang khát khô cả cổ, bèn cầm lên tu luôn mấy ngụm. Lão Dương Bì quanh năm ngày tháng chỉ biết bò dê lợn gà, không biết Tuyền béo đang uống cái gì, liền hỏi tôi xem cái thứ đựng trong bình thủy tinh ấy là gì thế?
Tôi đang định trả lời, bỗng nghe Đinh Tư Điềm ở gian phòng bên ngoài thét lên kinh hãi, ba chúng tôi vừa nghe có động vội vàng xông qua tiếp ứng. Đinh Tư Điềm thấy chúng tôi chạy tới, liền kinh hãi vòng ra nấp sau lưng tôi. Không cần hỏi cũng biết chắc trăm phần trăm là cô đã trông thấy thứ gì đó kinh khủng lắm, bọn tôi đón lấy giá nến, vừa giơ lên soi sáng gian phòng, cũng không khỏi giật thót mình kinh ngạc.
Trong miệng Tuyền béo vẫn còn ngậm nửa ngụm rượu Tây chưa kịp nuốt xuống, khi ấy liền “phụt” một tiếng, phun hết cả rượu ra ngoài: “Ở đây sao lại có con khỉ chết khô thế?” Lão Dương Bì run run giọng nói: “Cái cậu này đừng có nói bậy, khỉ đâu mà khỉ, trong mộ hoang ở Thiểm Tây quê lão, thứ này là nhiều nhất đấy, đây là... là... là là là...” Lúc này ông già cũng kinh hoảng thất sắc, không sao tự điều khiển được mình nữa, nói được đến đấy thì cứ “là” mãi không thôi.
Tôi thấy trên ghế gỗ ở gian bên ngoài có một cái xác đàn ông cao lớn đang ngồi, xác chết mặc áo choàng ngủ, nước trong cơ thể đã bay hơi sạch, biến thành cương thi rồi, làn da khô đét màu tím mọc ra một tầng lông trắng trông như lông chim, nửa người bên dưới thì mọc lông thú, móng tay sắc nhọn dài thượt mà không gãy, đã uốn lại thành một đường cong, ngũ quan hung ác dữ tợn, miệng há hốc, chết không nhắm mắt. Vì các xác ấy đã mọc lông khắp người, nên tướng mạo cũng khó mà nhìn cho rõ được.
Tôi đáp thay lão Dương Bì: “Là một cỗ cương thi, đừng ai chạm vào nó, người sống không chạm vào thì sẽ không xảy ra thi biến đâu.” Tuyền béo không tin: “Sao cậu biết là cương thi? Chẳng lẽ chạm vào một cái là nó nhảy dựng lên luôn à? Cậu lại muốn hù dọa anh em đấy phỏng?”
Tôi chỉ chú ý vào cái xác cổ quái trước mắt, hoàn toàn để ngoài tai những lời của Tuyền béo. Hồi trước chưa lần nào tận mắt trông thấy cương thi, nhưng tương truyền hình dạng của nó đúng là vậy rồi. Trong ánh nến, tôi thấy trên bàn viết phía trước cỗ cương thi, có mấy tấm giấy đã ngả vàng viết chi chít chữ, nói không chừng những tờ giấy này là do người chết viết trước lúc lâm chung, cũng biết đâu lại giúp được gì cho việc thoát khỏi nơi đây của chúng tôi. Vậy là tôi đưa giá nến cho Tuyền béo, bảo cậu ta đứng bên soi cho rõ, rồi tôi bịt mũi hết sức dè dặt bước đến phía trước cái xác, đưa tay nhặt mấy tờ giấy đó lên, rồi mau chóng giật lùi trở lại.
Tôi bảo Tuyền béo và lão Dương Bì để ý quan sát tử thi và ngọn nến, một khi có động, phải mau chóng rút trở về đường cống ngầm, sau đó giơ tờ giấy đã ngả vàng ấy lên xem thử, bên trên kín đặc toàn là chữ Nga. Trình độ tiếng Nga của tôi thực sự quá thấp, đành đưa cho Đinh Tư Điềm xem trên đó viết gì, rốt cuộc có thông tin gì giá trị hay không?
Đinh Tư Điềm nhanh chóng lật xem mấy tờ giấy, rồi thuận miệng dịch cho chúng tôi nghe mấy câu, càng nghe tôi lại càng kinh hồn động phách. Thì ra đây là một nhà khoa học người Nga bị quân Nhật giam lỏng, ép phải tham gia một hành động trong căn cứ bí mật này. Mấy tờ giấy này là di thư của ông, bên trong có nhắc đến rất nhiều sự thực khó tưởng tượng ra nổi, người Nhật đã đào được một số thứ ở trong động Bách Nhãn này.