• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG 88.198.7.247 TỪ NGÀY 1/6

New BẾN XE (1 Viewer)

  • Chương 7-8

Chương 7


Năm lớp 12 đáng sợ cuối cùng cũng tới.


Bất kể bọn trẻ vừa tham gia “nghi thức trở thành người lớn” có muốn hay không, chúng đều phải chấp nhận cuộc thử thách đầu tiên sau khi “trở thành người lớn”, đó là kỳ thi đại học. Mà phương thức chấp nhận, chính là miệt mài vùi đầu vào sách vở, học, học và học theo kiểu nhồi vịt.


Trường đại học mở rộng cửa chào đón, nhưng trong mười học sinh chỉ một người có thể tiến vào bên trong. Để khiến bản thân vượt trội trong thiên binh vạn mã, trở thành một phần tử vượt qua “cầu độc mộc”, mỗi học sinh đều cố gắng hết sức, ngày đêm học tập không ngừng nghỉ. Hơn nữa, bọn họ còn âm thầm đọ sức, chỉ sợ bạn học khác chăm chỉ hơn mình, một ngày nào đó sẽ vượt qua bản thân. Thế giới này vốn là một vũ đài cạnh tranh quyết liệt, chỗ nào cũng tranh giành cấu xé lẫn nhau. Chỉ là kẻ mạnh, bạn mới có cơ hội giành chiến thắng, kẻ yếu sẽ bị đào thải. Đây là quy tắc bất biến của nhân loại từ thời xa xưa.


Nhà trường tăng thêm giờ tự học buổi tối, bắt đầu lúc 6 giờ tối, mỗi ngày hai tiết. Tiết thứ nhất thầy giáo giảng bài, tiết thứ hai làm bài kiểm tra hoặc tự do ôn tập. Không một ai than vãn, vì đây là chuyện sớm muộn, nếu không tổ chức giờ tự học buổi tối, ngược lại sẽ có không ít phụ huynh kêu ca nhà trường.


Liễu Địch và thầy Chương tất nhiên cũng bị cuốn vào cơn lốc tự học. Lúc đầu, nhà trường sợ thầy Chương không gánh nổi nhiệm vụ dạy học nặng nề, có ý định đổi giáo viên ngữ văn khác cho lớp Liễu Địch. Nào ngờ ý định này bị học sinh phản đối kịch liệt. Cả lớp ký tên vào thư đề nghị, để Liễu Địch nộp cho hiệu trưởng Cao và cô chủ nhiệm. Với tư cách người đại diện lớp 12 (1), Liễu Địch chỉ nói một câu: “Thầy Chương gặp khó khăn trong công việc, em có thể gánh vác giúp thầy, ở bên cạnh thầy, không người nào có thể thay thế vị trí của em. Trong lòng chúng em, cũng không ai có thể thay thế vị trí của thầy Chương.”


Hiệu trưởng Cao nghe xong, thở một hơi dài. Ông vuốt tóc Liễu Địch, cất giọng hiền từ xen lẫn lo lắng: “Cô bé, thầy không thể tưởng tượng, sau khi em tốt nghiệp, thầy Chương sẽ thế nào?”


Liễu Địch ngẩn người. Sau khi cô tốt nghiệp, ai sẽ chăm sóc thầy Chương, ai sẽ giúp đỡ thầy? Nhưng tốt nghiệp là chuyện của năm sau. Việc cần làm nhất bây giờ là giữ thầy Chương ở bên cạnh cô.


Cuối cùng, lớp Liễu Địch cũng thuyết phục được nhà trường, thầy Chương vẫn tiếp tục dạy môn ngữ văn. Tuy nhiên, gánh nặng trên đôi vai Liễu Địch càng trở nên nặng nề.


Năm giờ chiều trường tan học, Liễu Địch vẫn đến văn phòng của thầy Chương như thường lệ. Nếu buổi tối không có tiết của thầy, cô sẽ tiễn thầy ra trạm xe buýt. Nếu thầy phải dạy thêm vào buổi tối, Liễu Địch sẽ ở văn phòng giúp thầy sửa bài thi, hoặc chép đáp án đề ôn tập. Tiết học đầu tiên của buổi tối kết thúc vào lúc bảy giờ rưỡi. Lúc đó không còn xe buýt, vì vậy thầy Chương quyết định ngủ lại văn phòng. Hai chiếc ghế ghép lại thành một cái giường nhỏ; áo khoác quân đội trở thành chăn bông; một miếng bánh mỳ hoặc túi mỳ ăn liền chính là bữa tối. Thiết bị sưởi ấm của tòa nhà phía Bắc không tốt, Liễu Địch liền mang quạt sưởi ấm từ nhà đến văn phòng cho thầy Chương. Thầy Chương đón nhận, không nói một câu “cám ơn”.


Năm mới lặng lẽ đến gần trong sự bận rộn ngày đêm của thầy trò. Vào ngày 31 tháng 12, ngay từ lúc sáng sớm đã có tuyết rơi. Hoa tuyết dày đặc bay trong không trung, chỉ một lúc sau nhuộm trắng cả mặt đất, mái nhà và cây cối, khiến cả thành phố tràn ngập không khí của năm mới.


Ngày hôm đó, nhà trường phá lệ cho học sinh nghỉ học, để tất cả học sinh, đặc biệt là lớp 12 tổ chức liên hoan đón chào năm mới. Bọn trẻ thoát khỏi đống bài tập nặng nề, lập tức trở nên hoạt bát, cười đùa vui vẻ. Chúng đắp vô số quả cầu tuyết, treo những ngọn đèn lồng và vô số tấm thiệp chúc mừng năm mới lên cây sồi. Không rõ ai có sáng kiến độc đáo, treo cả chuông gió lên cành cây sồi. Thế là tiếng chuông gió lanh lảnh vang vọng khắp không gian trong trường học theo tiếng cười nói vui vẻ của các thiếu niên thiếu nữ.


Trong phòng học càng náo nhiệt. Cửa sổ được phun sơn màu hình đồ họa đẹp mắt và viết hàng chữ tiếng Anh khoa trương “Happy New Year To You”. Trên bảng đen vẽ hình ông già noel, hình bánh sinh nhật, chuột Mickey…Vô số dải lụa màu, vô số bông hoa, vô số bóng bay, vô số vụn giấy, vô số gương mặt rạng rỡ tươi cười, tạo thành bầu không khí vui vẻ rộn ràng.


Đoán câu đố, truyền hoa, ca hát, nhảy múa, chơi trò chơi, biểu diễn tiểu phẩm…Bọn trẻ phát huy trí tưởng tượng và sức sáng tạo thiên bẩm, thể hiện niềm vui theo bản năng. Không có ôn tập, không có phụ đạo, không có bài tập, không có thi cử. Ngày hôm nay thuộc về bọn trẻ, thuộc về tuổi thanh xuân, thuộc về nụ cười và mộng ước.


Liễu Địch cũng bị lôi cuốn theo đám bạn bè náo nhiệt. Cô cùng hát, cùng nhảy múa, cùng vỗ tay, cùng cười nói với mọi người. Năm lớp 12 đúng là áp lực quá lớn, Liễu Địch không có nhiều thời gian cá nhân. Cô thật sự cần thả lỏng bản thân, để sợi dây thần kinh căng thẳng và cơ thể mệt mỏi được nghỉ ngơi.


Cô là người thích một thân một mình. Nhưng hôm nay, cùng các bạn học vui chơi, cô cảm thấy rất hưng phấn và thỏa mãn, cảm thấy niềm vui như được bộc phát. Cuối cùng cô cũng lĩnh ngộ, người sống cô độc đến mức nào, từ nơi sâu thẳm trong nội tâm cũng đều có khát vọng giao tiếp với người khác, được mọi người biết đến. Khi hiểu ra đạo lý này, Liễu Địch càng nhận thức sâu sắc, thầy Chương phải có dũng khí và nghị lực to lớn ra sao mới tự nguyện lựa chọn cách sống cô độc.


Buổi liên hoan kéo dài đến tận hai giờ chiều mới kết thúc. Các bạn học vẫn chưa thỏa mãn, lớp trưởng đột nhiên hét lớn: “Karaoke! Ai muốn đi KTV?”


Lập tức có người cất giọng khe khẽ: “Học sinh cấp ba không được phép đi KTV.” Người vừa lên tiếng chính là Liễu Địch.


“Sợ đếch gì?” Lớp trưởng bất chợt nói bậy một câu: “Chúng ta nín nhịn ba năm rồi, chỉ một ngày hôm nay, còn kiêng kị gì chứ? Hơn nữa, KTV đâu phải là nơi bẩn thỉu nhơ nhớp. Chúng ta chỉ đến đó tụ tập liên hoan mà thôi. Ai muốn đi cùng tớ? Xảy ra chuyện, tớ sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm.”


Ngay lập tức có hơn hai mươi người đứng về phía lớp trưởng. Liễu Địch đưa mắt quan sát, phần lớn đều là những bạn có thành tích không tồi. Các bạn đó có lẽ càng cảm thấy bị gò ép, càng cần phát tiết hơn những người khác.


“Liễu Địch, cậu có đi không?” Lớp trưởng hỏi cô.


“Tớ…” Liễu Địch ngập ngừng nhìn về ô cửa sổ nhỏ ở tầng bốn tòa nhà phía bắc.


“Thầy Chương phải không?” Lớp trưởng đọc ra tâm tư của cô, cậu ta nói một câu giải quyết mọi vướng mắc: “Bây giờ mới là hai giờ chiều. Năm giờ chắc chắn chúng ta quay về rồi, không làm nhỡ việc của cậu.”


“Nhưng…” Liễu Địch vẫn không yên tâm. Tuyết rơi dày đặc, làm cô nhìn không rõ ô cửa sổ nhỏ đó. Trông nó rất nhỏ bé và cô độc trong hoa tuyết trắng xóa.


Cậu lớp trưởng nhìn Liễu Địch chăm chú. Thiếu nữ trước mặt cậu dù khoác chiếc áo to xù nhưng vẫn lộ rõ vẻ đẹp ngời ngời. Lông mày thanh tú, bờ môi chúm chím, nước da trắng nõn, khuôn mặt trái xoan, còn cả đôi mắt đen nhánh trong veo, tràn đầy tình thơ họa ý, bộc lộ vẻ ngây thơ và yên tĩnh khó diễn tả. Một thiếu nữ thông minh xinh xắn, khiến nam sinh toàn trường rung động, vậy mà bình thường cô không thèm liếc bọn họ, chỉ suốt ngày quanh quẩn bên thầy giáo mù. Lớp trưởng đột nhiên cảm thấy bất bình, cậu ta nghiến răng, lên tiếng “kích động” mọi người: “Các bạn, Liễu Địch là bạn gái xinh đẹp nhất lớp ta, nhưng cậu ấy không bao giờ nể mặt nam sinh chúng ta. Hôm nay, cậu ấy lại từ chối không tham gia buổi liên hoan của chúng ta. Chẳng lẽ nam sinh lớp 12 (1) vô dụng đến vậy sao?”


Các bạn học lập tức ồn ào huyên náo. Liễu Địch xua tay: “Được rồi, được rồi, tớ đi là được chứ gì? Coi như tớ sợ các cậu rồi đấy.”


Thế là mọi người khoác vai nhau, đi tới một KTV ở gần trường. Lớp trưởng lấy một phòng lớn nhất, căn phòng không có cửa sổ, nên khi đóng cửa ra vào, bên trong không phân biệt ngày đêm. Lớp trưởng có sáng kiến thắp vài cây nến, không khí lãng mạn và ấm áp lan tỏa khắp căn phòng. Đến lúc này, mọi người hoàn toàn giải phóng bản thân.


Liễu Địch không hề hay biết, trong lớp cô lại có nhiều nhân tài như vậy. Điệu nhảy “côn trùng ngủ gật” của Viên Hà rất tuyệt. Toàn thân cậu mềm dẻo như không có xương cốt. Nhảy đến điệu cuối cùng, cậu còn xoay vài vòng trên mặt đất, được mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.


Lớp trưởng hát tình ca rất hay. Hết “Quay đầu”, lại đến “Thật ra em không hiểu lòng anh”, “Tình yêu mùa thu”, “Cám ơn tình yêu của em”…Không biết cậu ta hát bao nhiêu bài, dù sao đây không phải là trường học, sẽ chẳng có ai chỉ trích bạn. Mấy nam sinh biết chơi ghita tổ chức một ban nhạc, hát hết các bài dân ca học đường. Các bạn nữ sinh cũng không chịu thua kém, họ nhảy điệu disco quay cuồng khiến đám nam sinh há hốc miệng.


Liễu Địch cũng hết sức kinh ngạc. Những “thiên tài” này sao không được phát hiện? Cũng phải, bọn họ bị giam cầm trong đống sách vở bài tập, mang trên vai gánh nặng thi cử, làm gì có cơ hội thể hiện tài năng? Nếu không nhờ buổi liên hoan hôm nay, có lẽ cho đến khi tốt nghiệp, bọn họ chỉ để lại ấn tượng là những con mọt sách vùi đầu khổ học mà thôi.


Liễu Địch cũng bị ảnh hưởng bởi không khí đó, bị bầu không khí vui vẻ và tự do ảnh hưởng. Cô và các bạn học cùng ca hát, cùng nhảy múa, cùng cười nói. Dưới sự cổ vũ của mọi người, Liễu Địch biểu diễn ca khúc tiếng Anh “Yesterday Once More” của anh em Carpenters:


“Những ngày vui vẻ không kéo dài,


Chúng đã bặt vô âm tín từ lâu.

Hôm nay chúng lại quay về,


Giống những người bạn cũ mất đi…”


Điệu nhạc chậm rãi, mang tâm trạng hoài niệm và buồn bã lập tức lây nhiễm các bạn học. Mọi người không hẹn cùng cất cao tiếng hát với Liễu Địch:


“Mọi quá khứ tươi đẹp.


Đều hiện rõ trước mắt.

Tôi vẫn như trước kia,


Chảy dài hai hàng lệ.”


Khi bài hát kết thúc, tất cả mọi người đều thật sự rơi lệ.


Trong hoàn cảnh và bầu không khí như vậy, Liễu Địch không khỏi cảm động. Tuổi thanh xuân là chân thành, là đầy sức sống, là vui vẻ. Liễu Địch thật sự chìm đắm trong không khí đó. Cô quên cả thời gian, quên cả địa điểm, quên hết tất cả. Tất nhiên, cô cũng quên mất hình bóng đang sốt ruột chờ đợi cô ở đằng sau ô cửa sổ nhỏ bé trên tầng bốn tòa nhà phía bắc.


Cho đến khi rời khỏi phòng KTV, bắt gặp gió tuyết bay trong bầu trời đêm, Liễu Địch mới chợt nhớ ra. Cô nhảy dựng lên hỏi người bên cạnh: “Trời ạ! Mấy giờ rồi?”


“Tám giờ rưỡi.” Một bạn học nhìn đồng hồ.


“Gì cơ?” Đầu óc Liễu Địch nổ tung. Tám giờ rưỡi? Cô mải chơi quên cả thời gian, chơi đến tám rưỡi tối? Liễu Địch không thể khống chế cơ thể run rẩy và quả tim đập thình thịch trong lồng ngực.


Sao cô có thể quên mất thầy Chương. Thầy Chương, thầy Chương hiện giờ ở đâu? Thầy đã về nhà chưa? Trong lòng Liễu Địch như bị đổ một chảo dầu nóng, khiến cô đau đớn vô ngần. Cô cảm thấy bản thân là một kẻ tệ bạc.


Tuyết rơi ngày càng lớn, trời không biết nổi gió từ lúc nào. Ngọn gió bắc cuốn từng hoa tuyết bay vào mặt Liễu Địch. Liễu Địch mặc nhiều quần áo như vậy, mà vẫn còn run cầm cập. Cô lại nhớ đến thầy Chương, thầy chỉ mặc áo khoác mỏng. Trời ạ, thầy Chương, thầy đang ở đâu? Nếu thầy ở văn phòng, thầy làm thế nào để trải qua một buổi chiều dài cô độc? Nếu thầy đã về nhà…Tuyết lớn như vậy, thầy làm thế nào để đi ra bến xe? Trong lòng Liễu Địch rối bời, cô dùng hết sức lao nhanh về phía trường học, bất chấp gió tuyết.


Cuối cùng, Liễu Địch cũng lảo đảo tới cổng trường. Ơn trời, cổng trường vẫn chưa khóa. Theo thói quen, cô đưa mắt về ô cửa sổ nhỏ ở tầng bốn tòa nhà phía bắc. Văn phòng tối om, nhưng chuyện này có thể chứng minh điều gì? Người mù vĩnh viễn không cần ánh sáng. Liễu Địch không hề nghĩ ngợi, chạy vội về phía tòa nhà phía Bắc.


Bên trong dãy nhà không bật đèn, Liễu Địch lập tức rơi vào bóng tối. Cảm giác phương hướng biến mất, ánh sáng cũng biến mất, cô chỉ có thể dựa vào trí nhớ, mò đến chân cầu thang, leo từng bậc một lên tầng bốn.


Nghe tiếng giày nện cộp cộp dưới nền nhà, bị bóng tối hư vô hỗn độn bao vây, Liễu Địch đột nhiên cảm thấy một nỗi sợ hãi và cô độc chưa từng có. Không có trời đất, không có trăng sao và mặt trời, không có cây cỏ, không có muôn loài, cả thế giới chỉ còn lại một mình cô, như con thuyền nhỏ cô độc, trôi dạt trong bóng tối vô cùng vô tận, không biết lúc nào sẽ thịt nát xương tan. Bóng tối có lẽ là thế giới bất hạnh và đáng sợ nhất. Liễu Địch bỗng dưng nhận ra, thầy Chương cũng phải sống trong thế giới như vậy. Vụ hỏa hoạn năm năm trước đã định số mệnh của thầy không thoát khỏi bóng tối vô tận, bóng tối không bờ bến. Lúc này, Liễu Địch mới thật sự cảm nhận được tâm trạng của thầy Chương lúc thầy bị mù. Thế giới của người khiếm thị vốn rất cô đơn, vậy mà thầy Chương còn đẩy bản thân vào nơi cô độc hơn. Hôm nay, bản thân cô còn tặng thêm cho thầy một nỗi cô độc, cô quả thực quá tàn nhẫn.


Cuối cùng cũng leo lên tầng bốn, đôi mắt Liễu Địch đã bắt đầu quen dần với bóng tối, miễn cưỡng nhận ra đường nét của vật thể. Cô bám theo bờ tường, đi về phía văn phòng của thầy Chương. Đến trước cửa phòng, cô dừng bước theo thói quen, ngập ngừng một hai giây rồi giơ tay gõ cửa.


Không có tiếng trả lời, bốn bề chỉ là sự im lặng đến tột cùng.


Liễu Địch lại gõ cửa, vẫn là sự yên tĩnh đáng sợ.


Cô vội vàng đẩy cửa, cánh cửa khép hờ lập tức mở ra.


Trong phòng tối đen, Liễu Địch lần mò công tắc bật đèn. Ánh sáng bất thình lình khiến Liễu Địch lóa mắt. Sau đó, cô quan sát một lượt quanh căn phòng. Bàn làm việc, ghế ngồi, cốc trà, phích nước, chậu hoa nhài, quạt sưởi…vẫn ở nguyên chỗ cũ. Nhưng thầy Chương không thấy đâu cả. Mặc dù sớm đoán biết, Liễu Địch vẫn không khỏi hoảng hốt và thất vọng.


Liễu Địch lại đảo mắt một vòng, cô chợt phát hiện thấy mũ và găng tay của thầy Chương vẫn ở trên bàn. Tim cô thắt lại, thầy Chương không mang theo mũ và găng tay, chắc chắn thầy chưa về nhà. Thầy có thể đi đâu?


Sau đó, Liễu Địch nhìn thấy một tờ giấy và cây bút đặt bên cạnh mũ và găng tay. Đó là cây bút mực đỏ dùng để nhận xét bài văn. Lẽ nào, thầy Chương viết điều gì? Ba năm nay, Liễu Địch chưa từng nhìn thấy thầy Chương viết chữ. Cô vội cầm tờ giấy lấy xem, bàn tay cô đột nhiên run run. Trên tờ giấy không có chữ, mà chỉ có vô số dấu chấm hỏi, các loại dấu chấm hỏi to nhỏ, nặng nhẹ chồng lẫn lên nhau. Có mấy dấu hỏi, do người viết ấn bút quá sâu, thậm chí chọc thủng cả giấy. Chứng tỏ tâm trạng của người viết nôn nóng và sốt ruột đến mức nào.


Tim Liễu Địch nhói đau, nước mắt chảy giàn giụa, rơi cả xuống tờ giấy, làm nhòe dấu hỏi màu đỏ trên giấy trắng. Trong lòng Liễu Địch tràn ngập nỗi đau đớn và ân hận. Thầy Chương, thầy muốn hỏi ai? thầy muốn hỏi điều gì? Có phải thầy muốn hỏi tại sao em không đến đón thầy? Tại sao con bé đó lại để thầy một mình ở đây, để nỗi cô độc gặm nhấm linh hồn thầy? Thầy có biết không, em đã quên mất thầy, quên mất thầy…


Trong tầm nhìn mơ hồ bởi nước mắt, Liễu Địch lại thấy mũ và găng tay bị bỏ quên trên bàn làm việc. Thầy Chương không đội mũ và đeo găng tay đã đi ra ngoài. Trong đêm gió tuyết này, thầy có thể đi đâu? Lẽ nào thầy đi tìm cô? Trời ạ, thầy làm sao có thể đi “tìm”?


Lòng Liễu Địch đau như cắt, trán rịn mồ hôi lạnh. Cô lập tức quay người chạy ra khỏi văn phòng, chạy như bay xuống cầu thang, bất chấp bóng tối xung quanh.


Liễu Địch chạy một mạch đến phòng bảo vệ ở cổng ra vào. Cô vừa đập cửa phòng bảo vệ vừa hét to: “Ông Lý! Ông Lý!”


Ông Lý chậm chạp đi ra mở cửa. Liễu Địch túm tay ông: “Ông Lý, thầy Chương đâu rồi? Ông có nhìn thấy thầy Chương không?”


“Thầy Chương à? Ờ, ông có nhìn thấy.” Ông Lý cất giọng già nua chậm rãi: “Lúc năm giờ hơn thầy đến chỗ ông, hỏi ông có nhìn thấy cháu đi ra ngoài không. Ông nói “không thấy”. Người đi lại nhiều như vậy, ông thật sự không nhìn thấy cháu. Sao hôm nay cháu không ra về cùng thầy Chương?”


Trong lòng Liễu Địch càng rối bời và chua xót.


“Nghe ông nói vậy, thầy Chương quay người đi lớp học của cháu xem thế nào.”


“Hả? Thầy đi lớp học của cháu ư?” Liễu Địch kinh ngạc hỏi.


“Đúng vậy.” Ông Lý thở dài: “Ông khuyên thầy đừng đi nhưng thầy không nghe. Tính của thầy chắc cháu hiểu rõ hơn ai hết. Ông không dám giúp thầy, chỉ có thể đứng nhìn thầy dò dẫm từng bước tới tòa nhà phía Nam. Tuyết lớn như vậy, thầy lại chẳng nhìn thấy gì, ông thấy thầy bị trượt ngã, rồi đứng lên, sau đó lại bị ngã…” Ông Lý thở dài một hơi, lắc đầu: “Thật đấy, ông không biết thầy ngã bao nhiêu lần. Thầy còn không đội mũ…”


“Được rồi, ông Lý, ông đừng nói nữa”. Trong lòng Liễu Địch dội lên một nỗi đau xé nát tim gan. Tất cả đều là lỗi của cô! “Sau đó thì sao ạ?” Cô sốt ruột hỏi.


“Sau đó, ông không đành lòng nhìn thầy, nên quay về phòng bảo vệ.”


“Sau đó thì sao ạ? Rốt cuộc thầy Chương đi đâu?”


“Ông không biết.” Ông Lý tỏ ra mờ mịt.


Liễu Địch thất vọng thở dài. Hỏi thăm một hồi, cô vẫn không biết tung tích của thầy Chương. Thầy Chương có thể đi đâu? Liễu Địch tự hỏi bản thân. Đầu óc cô đột nhiên vụt qua một ý nghĩ. Bến xe, đúng rồi, là bến xe. Sao cô có thể quên mất bến xe? Liễu Địch không nghĩ ngợi, chạy nhanh ra trạm xe buýt.


Tuyết nhỏ đi từ lúc nào. Mọi người đã về nhà đón năm mới từ lâu. Trên đường phố chỉ thấp thoáng vài bóng người và xe cộ. Đèn đường tỏa ánh sáng mờ mờ xuống nền tuyết trắng, tạo thành một vẻ cô tịch thê lương. Liễu Địch bất giác đi chậm lại. Vỉa hè vắng lặng, bước chân cô ngày càng nặng nề.


Trạm xe buýt mỗi lúc một gần. Liễu Địch cảm thấy một nỗi sợ hãi không nói thành lời. Thầy Chương liệu có ở bến xe? Chuyến xe cuối cùng đã chuyển bánh từ lâu, chắc thầy không ở bến xe đấy chứ? Liễu Địch cắn môi, bước chân cô trở nên chậm chạp. Cô muốn đi nhanh đến bến xe nhưng lại sợ hãi. Trong tâm trạng đầy mâu thuẫn đó, Liễu Địch cuối cùng cũng đến gần tấm biển sắt cô độc ở trạm xe buýt. Dưới tấm biển là một thân hình cao lớn bất động. Nhờ ánh đèn đường, Liễu Địch nhận ra đó là thầy Chương của cô.


Chính là thầy Chương. Thầy vẫn mặc chiếc áo khoác mỏng màu đen, không đội mũ và đeo găng tay. Thầy đứng bên cạnh tấm biển, một tay nắm chặt cột sắt của biển báo. Thầy đứng ở đó rất lâu rồi, bởi vì Liễu Địch nhìn thấy đống tuyết trên người thầy. Hai chân thầy vùi dưới tuyết. Thầy cứ đứng bất động ở đó, dưới ánh đèn mờ mờ. Trông thầy như một bức tượng đá hoa cương.


Liễu Địch ngây người. Đầu óc cô trống rỗng, cô thậm chí không thể hô hấp trong giây lát. Cô cảm thấy trái tim cô thắt lại, đau đến mức lòng bàn tay đổ đầy mồ hôi. Nước mắt lại trào ra khóe mi. Qua làn nước mắt, thầy Chương trở thành hình bóng mơ hồ. Liễu Địch lau nước mắt, rồi ấn tay vào lồng ngực đau đớn. Sau đó, cô nhẹ nhàng đi đến bên bức “tượng điêu khắc”, cất giọng đầy nghẹn ngào: “Thầy Chương!”


“Bức tượng điêu khắc” động nhẹ: “Liễu Địch, là em phải không?” Thanh âm trầm thấp của thầy không che giấu nỗi vui mừng. Nhưng chỉ trong chốc lát, thầy khôi phục sự bình tĩnh thường ngày: “Tôi biết.” Thầy nói, ngữ khí hơi run run: “Tôi biết, nếu em không xảy ra chuyện gì, em nhất định sẽ ra bến xe này tìm tôi.”


“Thầy Chương!” Liễu Địch nấc nghẹn. Cô cảm thấy hai bàn chân, tứ chi, toàn thân đến trái tim và cả linh hồn cô đều run rẩy. Thầy Chương vẽ nhiều dấu chấm hỏi như vậy, thầy đội gió tuyết đi tìm cô. Thầy đứng ở bến xe, đợi cô trong giá lạnh không biết bao nhiêu lâu. Vậy mà thầy còn lo cô xảy ra chuyện.


Trong lúc thầy Chương cô đơn lo lắng cho cô, cô lại cùng người khác đi chơi bời, ca hát, ném thầy ra khỏi đầu. Vào giây phút này, cô cảm thấy bản thân đê tiện, ích kỷ và vô tình. Cô tháo găng tay, từ từ nắm lấy bàn tay đang bám cây cột sắt của thầy Chương. Thầy Chương run rẩy, vội vàng thu tay về. Nhưng do ở ngoài trời quá lâu, bàn tay thầy cứng đờ không thể nhúc nhích. Liễu Địch nhẹ nhàng xoa bóp bàn tay đông cứng đó. Cô có muôn vàn điều muốn nói nhưng cổ họng tắc nghẹn, không thể thốt ra lời. Cuối cùng, vẫn là thầy Chương lên tiếng trước: “Liễu Địch, em bỏ tay ra đi, đừng để lạnh cóng.”


Chỉ một câu nói ngắn gọn, đã khiến tất cả sự hối hận, áy náy, cảm động, tự trách…dội vào lòng Liễu Địch. Nhiều cảm xúc đến cùng một lúc, làm linh hồn nhỏ bé của Liễu Địch không ngừng run rẩy. Cô cuối cùng không thể khống chế bản thân, vùi đầu vào lòng thầy Chương, òa khóc nức nở. Tâm trạng đau đớn, hối hận, áy náy, cảm động cùng giải phóng theo tiếng khóc của cô. Liễu Địch ôm chặt thầy Chương nói: “Thầy Chương, thầy hãy trách mắng em đi, trừng phạt em đi! Em sai rồi, em sai rồi! Em đã quên mất thầy, em không nhớ đến thầy…”


Liễu Địch vừa khóc vừa lẩm bẩm, nhưng bản thân cô cũng không biết cô đang nói gì. Sau đó, cô cảm thấy một cách rõ ràng, bàn tay lạnh giá của thầy Chương nhẹ nhàng vỗ lưng cô. Trong khi giọng nói thầy vang lên bên tai cô. Lần này, ngữ khí của thầy vô cùng ôn hòa, vô cùng dịu dàng:


“Liễu Địch, em đừng khóc. Em không làm sai điều gì. Em đã vì tôi hy sinh quá nhiều thời gian…Đừng khóc nữa, được không em?” Thanh âm đó dịu dàng như cơn gió xuân tháng ba, không một chút hàn ý. Liễu Địch từ từ ngừng khóc trong tiếng thì thầm dịu dàng đó. Cô đột nhiên cảm thấy trái tim cô như búp hoa dính đầy giọt sương ban mai, kỳ ảo, đẹp đẽ và thuần khiết.


Tuyết lặng lẽ ngừng rơi. Vầng trăng chui ra khỏi tầng mây, chiếu ánh sáng nhàn nhạt khắp không gian. Ánh trăng và tuyết trắng phảng phất khiến thế giới được khoác chiếc áo cưới lung linh mộng ảo.


Tất cả trở nên thánh thiện vô cùng…


Chương 8


Sau Tết dương lịch, kỳ nghỉ đông lặng lẽ đến, rồi lặng lẽ đi.


Đối với học sinh lớp 12, kỳ nghỉ đông chỉ là hữu danh vô thực. Ngoài sáu ngày nghỉ Tết theo luật định, bọn họ vẫn đến trường học thêm, vẫn về nhà vào lúc hoàng hôn, vẫn phải làm cả núi bài tập như thường lệ. Tài liệu ôn thi các môn và đề thi thử liên tục được phát, cặp sách của mỗi học sinh đều nặng trĩu, khối lượng bài tập khổng lồ khiến họ không thở ra hơi.


Học kỳ mới lại bắt đầu. Chỉ hơn hai tháng sau, bọn họ sẽ bước một chân ra khỏi cánh cửa trường trung học. Hơn bốn tháng sau, họ sẽ tham gia kỳ thi đại học đáng sợ. Đám học sinh lớp 12 ai nấy gầy rộc, sắc mặt nhợt nhạt và đôi mắt lờ đờ mất ngủ. Thế nhưng, các thầy cô và các bậc phụ huynh không vì bọn họ mệt mỏi căng thẳng mà thả lỏng bọn họ. Bọn họ càng không dám lơ là. Đây là giai đoạn then chốt nhất, chỉ cần lơ là một chút là nỗ lực trước đó sẽ tan thành bọt biển. Cạnh tranh lúc nào cũng tàn khốc như vậy.


Mùa xuân ở phương Bắc đến rất muộn. Sau tiết thanh minh, ngọn cỏ mới bắt đầu đâm chồi lên mặt đất. Nhờ mấy trận mưa phùn, hoa đào phơn phớt hồng, hoa lê trắng muốt, hoa lài mùa đông vàng ươm nở rộ trong chốc lát. Trong và ngoài khuôn viên trường học được nhuộm đủ màu sắc tươi sáng. Tiếp theo, cây bạch dương nhú chồi xanh lục, cây dương liễu đung đưa tà váy dài dịu dàng, cây hợp hoan lắc lư cành lá mềm mại như đuôi chim công. Mùa xuân đều thuộc về mọi sinh mệnh.


Chỉ có những học sinh chuẩn bị tốt nghiệp cấp ba ngày ngày vùi đầu vào đống bài tập là không thuộc về mùa xuân này. Thời gian trôi qua nhanh như cơn gió thoảng. Đến tháng năm, học sinh bắt đầu đăng ký nguyện vọng vào đại học. Các em học sinh và phụ huynh thận trọng cân nhắc suy nghĩ, đồng thời trưng cầu ý kiến của người khác. Sau đó, họ nộp tờ đăng ký nguyện vọng cho nhà trường, phảng phất giao phó vận mệnh của mình. Nguyện vọng của Liễu Địch vô cùng đơn giản, cô chỉ điền một nguyện vọng duy nhất: khoa trung văn đại học Bắc Kinh.


Không khí ở trường học ngày càng căng thẳng. Đám học sinh ra sức làm bài tập, đọc sách, học thuộc lòng…chỉ hận đến mức không thể đọc mọi loại sách trong hơn một tháng. Tóm lại là trong khoảng thời gian này, bọn họ không rời tay khỏi quyển sách, bất kể là lúc ăn cơm hay đi vệ sinh.


Không biết, ai đó viết trên bảng dòng chữ: “Chúng ta phải cố gắng! Chúng ta ra sức tiến về phía trước! Thế giới tươi đẹp, thế giới quang vinh xán lạn đang chờ đón chúng ta phía trước!” Đám học sinh không ai cười nhạo, cũng không ai xóa khẩu hiệu này. Một thời gian gian sau, nó trở thành động lực học tập của mọi người. Trong không khí khổ học hăng say, không một ai chú ý mùa xuân đầy sắc màu bên ngoài cửa sổ.


Trong những ngày tháng căng thẳng đó, một buổi chiều, Liễu Địch bị cô chủ nhiệm Trần Chi gọi tới một góc khuất trên hành lang.


“Cô đã xem tờ đăng ký nguyện vọng của em.” Cô giáo cất giọng nghiêm nghị: “Tại sao em không điền nguyện vọng hai?”


“Em không có nguyện vọng hai.” Liễu Địch lập tức trả lời mà không hề suy nghĩ: “Em chỉ muốn vào Bắc Đại.”


“Không có ư?” Cô giáo Trần nghi hoặc cau mày: “Nhỡ em không thi đỗ thì sao? Kiểu gì cũng phải có một đường lùi chứ?”


“Em không cần lưu lại đường lùi cho mình. Từ trước đến nay, đường lùi chỉ dành cho những người nhu nhược. Em không tin em không thi đỗ.”


“Hả?” Cô giáo Trần vô cùng kinh ngạc. Tuy cô biết rõ khả năng của Liễu Địch, nhưng cô không ngờ Liễu Địch lại tự tin đến mức dám “đập nồi dìm thuyền”, tựa hồ nữ sinh trước mặt cô đã nắm chắc vận mệnh trong tay mình. Hơn hai mươi năm dạy học, cô giáo Trần lần đầu tiên gặp học sinh tự tin như Liễu Địch.


“Liễu Địch.” Trầm tư một lát, cô giáo Trần mở miệng: “Cô rất tán thưởng dũng khí của em, cũng tin tưởng khả năng của em, nhưng thi cử vô thường, cô thật sự không dám cam đoan 100% em thi đỗ. May mà hiện tại em vẫn còn cơ hội, trường chúng ta vừa xin được một suất tuyển thẳng vào Bắc Đại. Em cũng là một trong những ứng cử viên cạnh tranh suất đó.”


“Vậy hả cô?” Liễu Địch động lòng. Tuy cô có niềm tin bản thân, nhưng cũng không dám chắc 100%. Nếu giành được suất tuyển thẳng này, cô không những có thể thực hiện được ước mơ của mình, mà còn có thể tránh hai tháng ôn thi khổ cực. Nhưng cô chủ nhiệm nói cô chỉ là một trong những ứng cử viên. Vậy…Liễu Địch hỏi thăm dò: “Thưa cô, em có cơ hội không ạ?”


“Cơ hội tất nhiên là có, nhưng khó khăn cũng rất lớn.” Cô Trần nói thẳng: “Luận về thành tích học tập của em thì không có gì đáng bàn. Ai cũng biết em luôn đứng nhất nhì toàn khối. Tuy nhiên, Bắc Đại yêu cầu học sinh tuyển thẳng phải có tài đức vẹn toàn. Mà em chưa bao giờ là học sinh “ba tốt”, cũng không phải là cán bộ lớp, thậm chí không phải là đoàn viên…”


(“Ba tốt” là một danh hiệu giành cho học sinh xuất sắc, bắt đầu áp dụng từ năm 1954. “Ba tốt” chỉ đạo đức tốt, học tập tốt, sức khỏe tốt)


“Việc đó có thể chứng minh điều gì? Đạo đức của em không tốt hay sao?” Liễu Địch nói nhỏ, ngữ khí hơi tức giận. Cô cảm thấy bản thân bị sỉ nhục. Không làm cán bộ, không vào đoàn là sự lựa chọn của cô. Nhưng cũng chính vì điều này, mỗi lần bình bầu “ba tốt”, cô đều bị đánh trượt. Liễu Địch chẳng bận tâm cô có được nhận danh hiệu “ba tốt” hay không, nhưng không thể vì điều đó phủ nhận nhân phẩm của cô.


“Tuy không thể nói đạo đức của em không tốt, nhưng ở trong trường học, đó là căn cứ quan trọng để đánh giá phẩm chất của một học sinh. Ít nhất…” Cô Trần nhấn mạnh: “Nó chứng tỏ em không có thái độ tích cực và tinh thần cầu tiến.”


Liễu Địch ngẩng đầu. Cô không đồng ý với câu nói sau cùng của cô Trần, nhưng cũng không thể phủ nhận câu nói đầu tiên. Trầm tư một lát, Liễu Địch cất giọng quả quyết: “Cô Trần, cô hãy để người khác cạnh tranh suất tuyển thẳng này đi. Nếu bắt em dùng chuyện vào đoàn hay làm cán bộ để làm ván cầu nhảy tới Bắc Đại, em thà dựa vào sự nỗ lực của mình, đường đường chính chính thi vào Bắc Đại còn hơn.”


Cô giáo Trần hít một hơi sâu. Liễu Địch có ngoại hình xinh xắn trầm tĩnh, nhưng bên trong là người quật cường và tự phụ. Về điểm này, cô bé rất giống thầy giáo mù mà cô bé chăm sóc. Nghĩ đến thầy giáo “mù”, đầu óc cô Trần liền nảy ra một ý tưởng. Đúng rồi, tại sao cô không nghĩ tới cách này chứ?


“Liễu Địch!” Cô giáo Trần cất giọng hưng phấn: “Cô có một cách, khiến em không cần vào đoàn cũng như làm cán bộ lớp cũng có thể giành được suất tuyển thẳng vào Bắc Đại. Hơn nữa, cách này tám chín mươi phần trăm đảm bảo có tác dụng.”


“Thật không ạ? Cách gì vậy cô?” Liễu Địch vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.


“Chẳng phải em chăm sóc thầy Chương suốt ba năm nay hay sao? Đây chính là hành động thực tế nhất.” Cô giáo Trần vô cùng phấn khích về ý tưởng “thiên tài” của mình: “Cô có một người bà con làm phóng viên ở đài truyền hình. Hôm nay, cô sẽ nói chuyện với người đó, bảo ngày mai đến trường phỏng vấn em. Em hãy kể chuyện chăm sóc thầy Chương, không cần khoa trương, cứ có thế nào nói như vậy. Đây vốn là một câu chuyện cảm động lòng người. Cô sẽ bảo người bà con của cô phát cuộc phỏng vấn này trên truyền hình trong thời gian nhanh nhất. Nếu việc làm của em được tuyên truyền trên tivi, chắc sẽ gây tiếng vang gấp nhiều lần việc vào đoàn hay làm cán bộ ấy chứ. Đến lúc đó, em sẽ nắm chắc tám chín mươi phần trăm cơ hội tuyển thẳng vào Bắc Đại.”


Cô Trần càng nói càng hưng phấn: “Được rồi, cứ quyết định như vậy đi nhé. Em hãy về nhà chuẩn bị, ngày mai tiến hành phỏng vấn. À, em hãy nói trước với thầy Chương, ngày mai sẽ phỏng vấn cả thầy ấy, thầy ấy nhất định bằng lòng. Được lên tivi và nổi tiếng, ai mà không muốn chứ?” Nói đến đây, cô Trần mới phát hiện, Liễu Địch đang nhìn cô bằng ánh mắt phẫn nộ xen lẫn khinh thường.


“Thưa cô.” Thanh âm của Liễu Địch tựa hồ phun ra ngọn lửa: “Cô không cảm thấy làm vậy là rất đê tiện hay sao?”


“Đê tiện?” Cô Trần không tin vào tai mình: “Sao lại nói là đê tiện? Cô cũng chỉ vì muốn tốt cho em mà.”


“Muốn tốt cho em?” Liễu Địch hít một hơi sâu, lắc đầu. Cô nói rành rọt từng câu từng chữ một: “Cô coi em là gì? Cô coi thầy Chương là gì?”


“Sao em có thể nói như vậy?” Cô giáo Trần không khỏi tức giận. Làm sao không bực tức khi kế hoạch hoàn hảo do cô nghĩ ra bị Liễu Địch dùng từ “đê tiện” phủ nhận sạch sẽ. “Chuyện này đều có lợi đối với em và cả thầy Chương. Em có thể nổi tiếng, có thể vào Bắc Đại. Còn thầy Chương cũng sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ hơn, cuộc sống và sự nghiệp của thầy sẽ dễ dàng thuận lợi hơn.”


“Có lợi ở điểm nào ạ?” Liễu Địch cuối cùng cũng không kiềm chế nổi, cất cao giọng: “Cô Trần, cô muốn đẩy thầy Chương đến trước giới truyền thông, xé toạc vết thương của thầy cho tất cả mọi người cùng thấy. Cô bắt em lợi dụng thầy để nổi tiếng, khiến vết thương lòng của thầy nhuốm đầy máu tươi. Cô khiến tất cả mọi người đều biết thầy mù lòa, khiến tất cả mọi người thương hại thầy, bố thí sự giúp đỡ với thầy, khiến tất cả mọi người giẫm đạp lên sự tôn nghiêm của thầy! Cô biến thầy thành kẻ đáng thương, biến em thành học trò mua danh trục lợi, biến sự chăm sóc không đáng kể của em với thầy trở thành vốn để em tiến lên, biến quan hệ giữa em và thầy trở thành quan hệ lợi dụng và bị lợi dụng. Vậy mà cô còn nói muốn tốt cho em và thầy. Cô…sao cô có thể thốt ra những lời đó?”


Cô giáo Trần hoàn toàn mờ mịt. Một loạt lý luận của Liễu Địch khiến đầu óc cô lùng bùng. Cô cất giọng nghi hoặc: “Liễu Địch, em nói gì thế? Cô có ý tốt mà em lại coi cô lòng lang dạ thú sao?”


Liễu Địch thở dài bất lực: “Cô Trần, em biết cô có ý tốt với em. Nhưng cô cũng như tất cả mọi người, đều coi thầy Chương là người mù. Do đó, việc thầy không nhìn thấy ánh sáng khiến mọi người cảm thấy thương hại. Còn em, em coi thầy là một người thầy em kính phục và sùng bái. Vì vậy, việc thầy sống trong tăm tối khiến em cảm thấy đau đớn và bi thương. Sự thương hại là được xây dựng trên cơ sở cảm giác ưu việt . Vì vậy, khi cô và mọi người thương hại thầy, cũng có nghĩa chà đạp lên sự tôn nghiêm của thầy. Thật ra, chúng ta không có tư cách thương hại bất cứ ai, đặt biệt là thầy Chương. Bởi vì chúng ta không hẳn đã ưu việt hơn thầy, cũng không nhất định đứng trên đầu thầy. Thậm chí em có thể nói, phần lớn chúng ta đứng dưới chân thầy. Có thể về mặt thân thể, thầy có khiếm khuyết không bằng người khác, nhưng về mặt kiến thức, học vấn và tư tưởng, thầy cao quý hơn bất cứ người nào.”


Cô Trần chỉ biết trợn mắt há mồm. Trong đầu óc của nữ sinh này toàn nhồi nhét những suy nghĩ kỳ lạ. Con bé dám bảo vệ Chương Ngọc, còn khẳng định người đàn ông mù lòa, người giáo viên chưa tốt nghiệp đại học và chỉ dạy tạm thời đó cao quý hơn bất cứ ai? Thảo nào con bé tận tâm tận lực chăm sóc Chương Ngọc, thảo nào Chương Ngọc nhìn nó bằng ánh mắt khác. Con bé này và Chương Ngọc đúng là một đôi thầy trò không bình thường.


“Vậy..” Cô giáo Trần không cam lòng hỏi: “Em không cần suất tuyển thẳng? Không cần cơ hội nổi tiếng hay sao?”


Nổi tiếng? Đến bây giờ, cô chủ nhiệm vẫn cho rằng việc này là cơ hội nổi tiếng? Liễu Địch cắn môi, cố gắng đè nén cơn giận dữ. Nhưng lời nói của cô không khách khí: “Em không cần. Em và thầy Chương đều không phải là người dung tục như vậy.”


Cô giáo Trần sắp không thể đè nén nộ khí. Liễu Địch dám dùng từ “dung tục”, ai dung tục ở đây? Là cô hay sao? Cô cũng chỉ muốn tốt cho học trò, vậy mà bị con bé nói thành “dung tục”.


Cô giáo Trần muốn mắng Liễu Địch một trận, nhưng cô biết không thể làm vậy. Liễu Địch vẫn chỉ là một đứa trẻ, cô không thể so đo với trẻ con. Hơn nữa, Liễu Địch là một học trò đầy triển vọng. Nếu Liễu Địch đăng ký nguyện vọng hai, cô cũng chẳng cần bận tâm, bởi vì Liễu Địch kiểu gì cũng thi đỗ đại học. Nhưng Liễu Địch chỉ đăng ký đại học Bắc Kinh, đây không phải là chuyện giỡn chơi. Từ một trường trung học nhỏ ở miền Bắc chen chân vào cánh cửa Bắc Đại đâu phải là dễ dàng. Ngộ nhỡ sơ sẩy, một học sinh có thành tích xuất sắc như Liễu Địch mà thi trượt đại học, thử hỏi mặt mũi cô sẽ để vào đâu? Hơn nữa còn ảnh hưởng đến tỷ lệ thi đỗ đại học của lớp cô. Nghĩ đến đây, cô giáo Trần đổ mồ hôi hột. Con bé này đúng là chẳng hiểu biết gì cả.


Nhưng đối diện với một học trò vừa bướng bỉnh vừa tự phụ, cô giáo Trần biết nói thế nào cũng vô tác dụng. Ai có thể khuyên nhủ nó? Trừ khi…trong đầu cô giáo Trần lại nảy ra một sáng kiến.


“Liễu Địch.” Cô giáo Trần tiếp tục mở miệng: “Nếu thầy Chương đồng ý, em sẽ không phản đối đúng không?”


“Gì ạ? Cô định đi nói với thầy Chương hay sao?” Liễu Địch nhảy dựng lên. Cô hiểu rõ hơn ai hết, đối với thầy Chương mà nói, kiến nghị này chẳng khác nào đâm thêm một nhát vào nỗi đau của thầy: “Thưa cô, cô đừng đi nói với thầy Chương, thầy sẽ không đồng ý đâu ạ.”


“Nếu vì bản thân, có thể thầy ấy không chịu. Nhưng vì em, chẳng lẽ thầy ấy không đồng ý hay sao?” Cô Trần lên tiếng, ngữ khí vô cùng chắc chắn.


Liễu Địch ngẩn người. Cô không ngờ cô chủ nhiệm lại nghĩ ra cách này, dùng cô làm vũ khí tấn công thầy Chương. Con người quả nhiên là động vật tàn nhẫn.


Cô giáo Trần nói tiếp: “Cô sẽ bàn với thầy Chương, sự việc này liên quan đến lợi ích thiết thân của em. Cô không tin em chăm sóc thầy ấy suốt ba năm, thầy ấy không chịu báo đáp em. Thầy ấy không đến nỗi máu lạnh như vậy đấy chứ?”


“Đây không phải là vấn đề báo đáp, cũng không phải vấn đề máu lạnh hay không, mà là vấn đề nhân cách và tôn nghiêm.” Liễu Địch nói nhỏ. Trầm mặc vài giây, cô ngẩng đầu, ánh mắt vụt qua một tia sáng lạ thường: “Cô Trần, bất kể cô dùng lý do gì, thầy Chương chắc chắn không đồng ý.”


“Nếu thầy ấy đồng ý thì sao?” Cô giáo Trần hỏi một câu.


“Nếu thầy ấy đồng ý.” Thanh âm Liễu Địch rõ ràng và kiên định: “Vậy thì…thầy ấy không phải là thầy Chương mà em biết.”


Cô giáo Trần ngây người, logic kiểu gì lạ vậy? “Dù thế nào, cô cũng sẽ thử một lần.” Cô Trần nói xong liền quay người đi ra ngoài.


Năm giờ chiều, Liễu Địch tiễn thầy Chương đi trạm xe buýt đợi xe như thường lệ. Hôm nay lớp cô không có tiết tự học ngữ văn buổi tối. Trên đường đi, hai thầy trò đều im lặng. Liễu Địch muốn đọc ra điều gì đó từ nét mặt của thầy Chương. Tuy nhiên, thầy Chương vẫn tỏ ra bình tĩnh lạnh nhạt không thay đổi. Có lẽ cô chủ nhiệm vẫn chưa kịp nói chuyện với thầy.


Ánh hoàng hôn chiếu tia nắng màu vàng dịu dàng khắp không gian. Liễu Địch dắt thầy Chương đến trạm xe buýt, cô định để thầy ngồi nghỉ ngơi ở bồn hoa đinh hương. Nhưng thầy Chương nhẹ nhàng giật khỏi tay cô, đi thẳng đến bên cây dương liễu. Từ trước đến nay, cảm giác phương hướng của thầy đều rất chính xác.


Liễu Địch hơi sững sờ khi phát hiện ra điều bất bình thường. Lẽ nào cô chủ nhiệm đã đi tìm thầy Chương, và thầy đã nhận lời cô chủ nhiệm? Không, không thể. Cô tình nguyện chăm sóc thầy không phải vì ơn huệ, hơn nữa thầy Chương cũng chưa bao giờ coi cô là ân nhân. Bằng không, thầy tuyệt đối không chấp nhận sự chăm sóc của cô. Thầy…chắc chắn thầy không nhận lời.


Bốn bề rất yên tĩnh, ngoài hai thầy trò không có ai đứng đợi xe. Ánh hoàng hôn chiếu xuống cây dương liễu, tạo thành hình bóng dài trên mặt đất.


“Liễu Địch.” Trầm mặc một lát, thầy Chương cuối cùng cũng mở miệng, ngữ khí của thầy hơi nặng nề, tựa hồ thầy phải hạ quyết tâm rất lớn mới nói ra lời: “Có một chuyện, tôi muốn cho em biết.”


“Gì ạ?” Đôi lông mày thanh tú của Liễu Địch nhíu chặt vào nhau. Theo bản năng, cô đã đoán ra thầy muốn nói điều gì.


“Chiều nay, cô chủ nhiệm của lớp em đến tìm tôi. Cô ấy nói với tôi một chuyện liên quan đến em…”


“Thầy không cần phải nói.” Liễu Địch đột ngột cắt ngang lời thầy: “Em biết, là việc tuyển thẳng vào Bắc Đại.” Liễu Địch không dám nghe tiếp. Không hiểu tại sao, cô đột nhiên nhớ tới cảnh thầy Chương đứng đợi cô ở bến xe trong buổi tối tuyết rơi ngày cuối cùng của năm, bên tai cô vang lên câu nói của cô chủ nhiệm: “Vì em, chẳng lẽ thầy ấy không đồng ý hay sao?”


“Em biết rồi à?” Thầy Chương hơi kinh ngạc.


“Vâng ạ. Cô Trần đã nói với em chuyện này, nhưng em từ chối.” Liễu Địch cất giọng dứt khoát. Cô không dám để thầy Chương nói trước, cô sợ nghe thấy lời thỏa hiệp từ thầy, dù sự thỏa hiệp đó là vì bản thân cô. Liễu Địch biết rõ, chỉ cần thỏa hiệp, thầy Chương sẽ coi thường nhân cách của cô, cô cũng sẽ coi thường nhân cách của thầy. Cô rất sợ mối quan hệ giữa cô và thầy sẽ thay đổi vì chuyện này.


“Ờ.” Thầy Chương thở nhẹ một hơi, phảng phất được an ủi. Sau đó, thầy nói khẽ: “Tôi cũng từ chối đề nghị của cô giáo.”


Sống mũi Liễu Địch đột nhiên cay cay. Tất cả mọi cảm giác sợ hãi, thấp thỏm đè nặng trong suốt một buổi chiều, lúc này như được đôi bàn tay vô hình gỡ xuống. Cùng lúc đó, một thứ tình cảm dịu dàng lặng lẽ ngập tràn trái tim cô.


Liễu Địch nhìn thầy Chương, gương mặt nhợt nhạt của thầy được nhuộm bởi ánh hoàng hôn nhàn nhạt ôn hòa. Cô bỗng cảm thấy, vào thời khắc này, trái tim cô rất gần thầy Chương. Họ chỉ đứng đó, đối diện nhau mà không nói một lời nào, nhưng hai linh hồn quấn quýt hòa nhập.


Cơn gió chiều mát lạnh thổi tới, không khí xung quanh đặc biệt trong lành. Liễu Địch đột nhiên phát hiện, bầu không khí êm dịu này tỏa ra mùi hương khiến con người chếnh choáng như mùi rượu vang. Cô nhìn ngó xung quanh, sau đó ngạc nhiên mừng rỡ khi bắt gặp nụ hoa màu tím nhạt ở trong bồn đinh hương không biết nở từ lúc nào.


Liễu Địch bất giác reo lên như một cô bé ngây thơ: “Thầy Chương, thầy mau lại đây xem đi, đinh hương nở hoa rồi! Đinh hương nở hoa rồi!”


Vừa nói dứt lời, Liễu Địch liền ôm miệng. Cô hoảng hốt nhìn thầy Chương. Trời ạ, sao cô có thể nói ra những lời này. Thầy Chương lặng lẽ đứng ở đó. Gương mặt thầy không lộ vẻ tức giận, ngược lại, khóe miệng thầy nhếch lên thành đường cong dịu dàng. Thầy hít mũi như muốn nắm bắt điều gì đó. Thế là Liễu Địch cũng bắt chước thầy, hít thở không khí trong lành. Ờ, không khí có mùi thơm của hoa đinh hương, mùi của cây cỏ, mùi của đất cát, mùi hương dìu dịu của chồi non, chúng đều là sinh khí của mùa xuân.


Liễu Địch đưa mắt ngắm nhìn xung quanh. Cô bắt gặp cây dương liễu của mùa xuân, hoa đinh hương của mùa xuân, con đường trải xi măng, và bầu trời trong vắt không một vẩn đục của mùa xuân, ánh tịch dương làm lay động lòng người và con chim nhỏ líu lo trên cành cây…Liễu Địch cuối cùng cũng cảm nhận thấy không khí của mùa xuân. Mùa xuân đến rồi! Trong lòng tràn ngập sự xúc động khiến Liễu Địch muốn hét to, muốn ca hát, muốn nhảy múa.


Nhưng cô cố gắng đè nén niềm vui, chuyển ánh mắt về phía thầy Chương. Thầy đang tắm trong ánh chiều tà, đã trở thành bức tượng điêu khắc màu vàng. Thầy cũng là một phần của mùa xuân. Thầy đứng nghiêm trang, thần sắc vô cùng tập trung, tựa hồ thầy đang dùng linh hồn để cảm nhận mùa xuân. Sau đó, thầy với tay cầm một cành dương liễu, nhẹ nhàng chạm vào mặt thầy, bình thản thốt ra một câu: “Mùa xuân đẹp thật.”


Thanh âm bình tĩnh của thầy Chương có vẻ run run thâm trầm, như nốt nhạc chạy thẳng vào trái tim Liễu Địch, khiến cả thân thể và linh hồn của cô đều run rẩy. Trong lòng cô dội lên một tâm tình mãnh liệt. Cô ngước nhìn bầu trời, mặt trời đã dần khuất bóng nhưng vẫn cháy đỏ rực ở phía xa xa.
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom