Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 182
Lô Lĩnh Châu đã bước đầu xây dựng được quy mô. Cốc khẩu là những trại lính vừa to vừa cao đắp bằng đất vàng, sự kết dính của đất vàng rất chặt, lại được nung qua lửa, nên tường rất cứng. Vì lấy tài nguyên ngay từ vùng đất này, vì thế tường xây dựng vừa cao vừa dày, trên tường dày đặc những mũi nhọn và những hòn đá vững chắc. Cổng thàng cao đến độ nếu chặt một cây cổ thụ nghìn năm ở trong rừng, độ dài của thân cây có thể chạm đến đỉnh, nhưng vì để đề phòng bị công kích, loại gỗ mà cổng thành dùng là gỗ phức hộ, dùng từng mảnh gỗ cứng ghép lại với nhau bằng dầu, đinh và sắt.
Đại quân của Xích Chung đã về nơi ở của mình, những người canh gác thành đã được thay bởi những người dân trải qua rèn luyện đội ngũ đầy đủ, rèn luyện quân đội ở đây chủ yếu là rèn luyện kỷ luật quân đội và khả năng phối hợp, và những kỹ thuật chiến đấu mà mấy người thầy giáo truyền cho Mộc Ân rõ ràng là đã nâng cao rất nhiều khả năng của hắn ta. Đến khi Lô Lĩnh Châu kiếm được tiền, có đội quân binh mã đầy đủ rồi, họ sẽ được biến thành những chiến sĩ vừa thủ được vừa công kích được.
Đợt thương nhân đầu tiên theo Dương Hạo đến Thất Thị làm ăn đã mang về được một khối lượng lớn bò dê, lông da, xương bò, họ đã gọi một đám người trong lão bách tính Lô Lĩnh Châu làm bạn hàng, bắt đầu vận chuyển những hàng hóa đó đến Trung Nguyên.
Đồng thời, một số thương nhân nhìn xa trông rộng, bắt đầu nghĩ đến việc gia công. Lợi dụng những thứ đã mua được, họ triệu tập hàng loạt nhân công bất kể nam nữ, tiến hành gia công lại lần nữa những gì mang về từ Thất Thị. Lông và da được các cô nương làm thành áo bào và chăn, còn xương, sừng được dùng để tạo thành cung tên, những đồ này nếu làm tốt, vừa có thể để lại tự mình dùng, vừa có thể bán lại cho những người Đảng Hạng trên thảo nguyên, lợi nhuận thu được từ chúng sẽ lớn hơn không chỉ mười lần so với giá gốc.
Sau khi nhận được thư của Bích Túc, Mục Kha Trại đã toàn tâm toàn ý hưởng ứng, không chỉ có Mục Vũ hứng khởi đến nơi, mà cả tỉ tỉ và anh rể của hắn cũng mang một vài Trại Đinh độc thân đến Lô Lĩnh Châu. Mục Lão Trại chủ mặc dù là một người không có thân phận quan lại rõ ràng, nhưng ở vùng Tây Bắc này, trại chủ của một trại không thấp bé hơn một viên đại quan, ở địa phương họ có quyền uy tuyệt đối, hơn nữa phải thường xuyên qua lại với các quan phủ, không phải là loại thường dân nghĩ ngắn không có con mắt nhìn xa trông rộng.
Lô Lĩnh Châu đơn độc xây dựng, tự hình thành một chiều thế lực riêng, Mục Lão Trại Chủ đã cảm giác được tương lai phát triển của nó. Nếu Lô Lĩnh Châu tương lai có thể trở thành bạn của Tây Bắc, thì thiết lập mối quan hệ sớm với họ, có lợi lớn với Mục Kha Trại. Không chỉ có vậy, nếu thiết lập được mối quan hệ với Lô Lĩnh Châu, thì sẽ kiếm được nhiều cơ hội làm ăn, đi sớm một bước, Mục Kha Trại sẽ phát triển hơn các trại khác ở xung quanh.
Sau khi hai vợ chồng Kha Trấn Ác và Mục Thanh Tuyền đến Lô Lĩnh Châu, cũng tham gia vào Dân Đoàn, không chỉ vậy còn là người đứng đầu. Họ không giỏi về đánh trận trên thảo nguyên nhưng lại có sở trường về đánh trận và tập kích trên địa hình miền núi, hai vợ chồng đảm nhận nhiệm vụ tuần sơn, thiết kế kiến trúc và bố trí lại các Tên Lầu, ngoài ra còn nhận nhiệm vụ đặt hố bẫy, các đội tuần tra ở trong rừng, thông qua việc đánh bắt thú rừng dạy cho các chiến sĩ Dân Đoàn bản lĩnh tác chiến, cả Lô Lĩnh Châu tạo thành một khối thống nhất bền vững như sắt thép.
Trong Dao Động truyền ra tiếng đọc sách rõ ràng dõng dạc, những người thợ thủ công ra ra vào vào, những cây to mà người khai thác chặt được trong rừng, đã bắt đầu xây dựng lên những ngôi nhà, chuồng bò, chuồng lợn trên bình nguyên Sơn Cốc. Trong và ngoài Sơn Cốc đã thấy xuốt hiện từng khoảnh đất trồng rau và trồng lương thực. Dòng sông ẩn mình vào đám lau sậy ngoài Sơn Cốc giờ đang là mùa cạn nước, chiều rộng chỉ được hơn một dặm, đây chỉ là phạm vi có thể đi lại được, còn dòng nước đang hòa mình vào đám lau sậy kia không biết còn dài đến đâu.
Một số người dân biết đánh bắt cá đã xây dựng những chiếc thuyền độc mộc, như từng con cá nhanh nhẹn luồn qua đám có lau, dùng vó và lưới bắt cá. Nước Lô Lĩnh Hà sâu không tới hai mét, các loại cá rất phong phú, Dương Hạo từng được người dân mang đến tặng một con cá chép rất to, con cá đó có lẽ phải nặng đến 20 cân, làm cho người kiếp trước chỉ nhìn thấy con cá to nhất nặng đến 6, 7 cân như Dương Hạo phải tròn xoe mắt.
Xe của Diệp Gia đã tạo được tiếng tăm trong Phủ Cốc và Lô Lĩnh Châu, cơ hội làm ăn thế này, một người đã bôn ba bao năm trên thương trường như Diệp Lão Đông Gia làm sao có thể bỏ qua được? Nhất là khi nghe nói con trai có hy vọng được làm quan, làm cho Diệp Lão Đông Gia mừng đến độ chạy thẳng đến đại đường ôm bài vị của tổ tông khóc lóc một hồi, đừng nói là lãi, dù cho có làm ăn lỗ thì ông ta cũng sẽ làm.
Có xe chở đồ của nhà Diệp Gia, lão bách tính Lô Lĩnh Châu chuyên tâm tái gia công, sau đó những đồ tái gia công lại được thương nhân mang về bán, ngày ngày từng chuyến xe ra vào Lô Lĩnh Châu đều đầy ắp những hàng, việc làm ăn vô cùng phát triển, hơn nữa từ ngày cắm cờ Lô Lĩnh Châu lên, những người Đảng Hạng trước đó vô cùng man rợ giờ đây không bao giờ cướp bóc nữa, nhìn thấy những thương nhân ngày ngày ra ra vào vào Lô Lĩnh Châu, cũng rầm rập chạy đến làm ăn. Dương Hạo tất nhiên mở rộng cánh cửa chào đón họ, không có chút ý làm khó nào.
Những người làm ăn bắt đầu nhiều lên, họ lại là người độc thân, không có chỗ ở, thế là quán rượu, quán trà, tiệm cơm bắt đầu mọc lên như nấm sau mưa. Tất nhiên, sòng bạc và kỹ viện cũng bắt đầu mọc lên, lúc đầu chỉ là một số thương nhân rỗi rãi đến chơi, rất nhanh sau đõ đã phát triển đến độ có người chuyên kinh doanh. Còn kỹ viện lúc đầu cũng chỉ là nơi một số người đến với nhau, nhưng sau đó không lâu đã có người thấy được món hời béo bở trong việc mở kỹ viện.
Dương Hạo không quá gấp rút trong việc tìm cách xóa bỏ những thứ này, chỉ là cố hết sức đưa nó vào trong quy củ, tất cả những tiệm rượu quán cơ, kỹ viện đều phải đến đăng ký và nộp thuế, vì vậy phủ khố của chi phủ nha môn một thời gian ngắn sau đã căng phồng lên.
Triệu Quan Gia của Khai Phong Phủ lúc đầu không thể ngờ được một nơi vừa đứng vững chân như Lô Lĩnh Châu mà lại có thể phát triển thần tốc đến thế, theo những gì hắn dự tính, Lô Lĩnh Châu muốn đứng vững được, thì ít nhất phải kinh doanh đến 10 năm mới có thể cung cấp đủ cho bản thân, đây còn là nghĩ tốt cho Lô Lĩnh Châu rồi, vì mỗi năm triều đình đều thu thuế, món thuế đó sẽ là sự khó khăn lớn cho Lô Lĩnh Châu.
Hắn lại nghĩ đến việc thiết kế của Lô Lĩnh Châu nhất định phải chịu sự sắp đặt của Lân Châu và Phủ Châu, tên tri phủ đáng thương Dương Hạo này vừa không có tiền lại chẳng có ai giúp sức, chỉ cho hắn ta cái mũ quan rẻ tiền, mà lại là loại quan chẳng có danh tiếng gì, cảm thấy mình có chút không tử tế, trong lòng cảm thấy ân hận, vì thế đã tặng cho hắn một khối lượng lớn tiền và vật tư. Từ đó về sau, Dương Hạo có nhiều tiền trong tay rồi, thế là một quan nha hoành tráng hùng dũng xuất hiện ở trong Cốc.
“Món tiền này, nhất định phải tiêu. Xây dựng cho nó càng ngày càng lớn mạnh, càng có khí phách càng tốt! Phải làm cho tất cả những người thương nhân và Khương Nhân đến Lô Lĩnh Châu vừa nhìn thấy phủ nha này là đã hiểu được thực lực và quyền uy của Lô Lĩnh Châu ta!” Đây là lời Dương Hạo nói với Lý Ngọc Xướng.
Lần trước Lý Ngọc Xướng đã kiếm được món tiền lớn ở Lô Lĩnh Châu, ngày hôm nay lại tận mắt nhìn thấy Lô Lĩnh Châu càng ngày càng phát triển, cũng không chịu ngồi yên, hắn ta đang có ý định lập một thương hiệu hàng da ở Lô Lĩnh Châu, đã nhận nhiệm vụ kiến tạo cho tri phủ nha môn, thì nhất định sẽ làm hết sức mình.
Kiến tạo quan nha, cũng như một tiểu hoàng cung, quy mô của nó mặc dù không bằng, nhưng bố cục lại tương tự như vậy, hai mặt mà phòng cảnh vệ và phòng quan. Sau đó là đại đường, dùng để tiến hàng các nghi thức và làm những việc lớn. Đại đường là nơi uy nghiêm thường được nhìn thấy trong phim ảnh rồi.
Sau đó là nhị đường, bình thường là đình viện, đình viện vừa phải đẹp mắt, vừa phải có tính uy nghiêm của chốn quan trường. Nhị đình mới là nơi tri phủ đại nhân xử lý những việc hàng ngày, hai bên trái và phải của nhị đường là phòng kiểm định. Trong đó cũng có một hòn đá, nhỏ hơn đại đường một chút, có 6 chữ “Thiên lý quốc phả nhân tình”
Những đình viện hai bên nhị đường là nhơi làm việc của các quan lại hắn tin tưởng. Dương Hạo đã mời tên mọt sách Phạm Tư Kỳ đến làm Chủ Bố cho hắn, người này tin tưởng được, thậm chí còn có chút ngốc nghếch, nhưng dùng loại người như thế này lại thấy rất yên tâm. Nhưng các quan nếu toàn là người như Phạm Tư Kỳ, thì vị tri phủ đại nhân này đau đầu rồi.
Những quan lại khác đều là những nhân vật không thể thiếu, họ hành quyền trong thiên hạ, bày mưu xuất kế cho quan tri phủ, Dương Hạo có thể dùng họ làm những việc bản thân mình không tiện xuống tay, đồng thời có họ bên cạnh, quyền lực mới đầy đủ, nếu tất cả đều là người ngốc nghếch như Phạm Tư Kỳ, thì làm sao dùng được nữa.
Vì thế Dương Hạo đã mời bốn vị lão trượng Lâm Bằng Vũ đến, ngoài ra còn chiêu mộ thêm vài người đọc sách, có bốn lão hồ ly này, đám quan lại rất nhanh chóng đã được xây dựng lên. Lô Lĩnh Châu vừa mới thành lập, còn rất nhiều việc phải dùng đến đám quan lại này, Dương Hạo chỉ cần quyết định một số việc lớn, còn cụ thể làm thế nào thì giao cho họ, kết quả Lô Lĩnh Châu ngày càng bận bịu mà hắn ta ngày càng nhàn hạ, không cần việc gì cũng nhúng tay vào nữa.
Sau nhị đường là tam đường, đây là nơi ngày thường quan viên đến ở, có một số vụ án không tiện công khai cũng diễn ra ở đây, quan viên có thể đến đây uống trà, thay đồ và đọc sách. Tam đường có mấy chữ thư pháp rất đẹp do Phạm Tư Kỳ viết: “Đắc quan bất vinh, thất nhất quan bất nhục, vật thuyết nhất quan bất dụng, địa phương toàn kháo nhất quan, ngật bách tính chi phạn, xuyên bách tính chi y, mạc đạo bách tính khả khi, tự kỷ dã thị bách tính” (Làm quan không kiêu căng, mất chức quan không lấy làm nhục, đừng nói một vị quan không có tác dụng gì, địa phương chỉ dựa vào một vị quan, ăn cơm của bách tính, mặc áo của bách tính, đừng nói bách tính có thể ức hiếp được, bản thân mình cũng là bách tính mà ra).
Trong văn hóa người Hán, rất coi trọng chữ “Trung”. Có nghĩa là dù là hoàng cung hay quan nha, khi xây dựng đều phải có tính đối xứng, phải xây dựng trên một trung tâm chủ đạo. Món tiền lần này Lý Ngọc Xướng mang đến cho Lô Lĩnh Châu, đã mở ra cánh cửa thành Lô Lĩnh Châu, ngay chính giữa là một con đường lớn, có thể đủ cho 20 con ngựa đứng.
Cuối con đường là nha môn tri phủ Lô Lĩnh Châu mọc lên sừng sững, ở trên cao, hai bên là dân cư sinh sống, một không khí trang nghiêm lan tỏa khắp không gian…
Sau tam đường là hậu hoa viên, người đang đứng luyện kiếm trong đó, chính là Lữ Động binh. Thanh kiếm Lữ Động Binh vung lên sáng lóa, đường kiếm nhanh gọn sắc sảo, cảm giác như tiếng sấm vang bên tai, kiếm pháp này của Lữ Động Binh, vừa có chút thoát tục vừa rất nho nhã, không như những kiếm pháp khác mang đậm tính chất nhân gian, đây mới là kiếm vũ không mang chút sát khí nào
Nhưng người theo học Lữ Động Binh nhiều ngày là Dương Hạo đã nhận ra sự lợi hại trong kiếm pháp này của hắn, dù không có chút sát khí nào, nhưng lại rất sắc bén, nếu trúng chiêu thì không còn cách nào cứu vãn được, thanh kiếm lanh lợi như làn gió, vào được mọi ngóc ngách, không chừa một chỗ nào. Nhưng trên thanh kiếm lại không hề có chút uy lực nào, thật là khó lý giải.
Lữ Động Binh trình diễn xong màn kiếm vũ, thanh kiếm vẫn như phi long, hướng thẳng lên trời, chẳng phải có phải là thế thu kiếm của Đường nhân võ sỹ không nữa. Chỉ có điều hắn ta thu kiếm còn đáng sợ hơn nữa, bao kiếm của Trình Thế Dũng là cầm trên tay, còn bao kiếm của hắn ta vác trên vai, thanh kiếm đó rơi thẳng từ trên trời xuống, Lữ Động Binh cầm kiếm quyết, rồi làm một động tác, thanh kiếm đó ngoan ngoãn chui vào bao kiếm.
“Ha ha, Dương Hạo, con thấy kiếm pháp này của sư phụ thế nào?”
Dương Hạo tán dương nói: “Kiếm pháp này của sư phụ quả thật sắc bén hơn người, vừa tung kiếm thế ra đã làm người ta không còn ý chống cự, thật là lợi hại. Điều đặc biệt hơn nữa là kiếm pháp này lại rất phiêu du, không dính chút hồng trần nào cả, như thần tiên ở trên trời, làm người ta kính phục.”
Lữ Động Binh vừa nghe xong rất vui vẻ, vuốt râu nói: “Đồ đệ đúng là có con mắt hơn người, kiếm pháp này của ta có thể từ hàng vạn dặm lấy đầu người, nếu là người trong giới kiếm tiên, đều hiểu được điều đó. Ta có ba kiếm, một đánh tan tất cả phiền não, hai đánh tan tức giận, ba đánh tan tham vọng. Con nói kiếm pháp này không dính chút hồng trần đúng là cốt lõi của nó đấy.
Đồ đệ à, kiếm pháp này của ta học từ Hỏa Long Đạo nhân, lúc đầu mới học, kiếm pháp này còn dính chút hỏa khí, khi triển khai ra, uy lực của nó đúng là làm kinh lòng người. Nhưng người làm thầy như ta, trải qua mười năm nghiên cứu, đã cải tiến kiếm pháp này, để cho nó có dáng vẻ như ngày nay, ha ha…, chỉ là uy lực của nó đã ít đi nhiều.”
Dương Hạo nghe những lời này đột nhiên người run lên, Lữ Động Binh nhìn sang hắn, vuốt râu nói: “Đồ nhi, con muốn nói gì?”
Dương Hạo sờ lên mũi, chậm chạp nói: “Sư phụ dùng 10 năm làm cho uy lực kiếm pháp này bới đi, chỉ để làm cho nó có vẻ thoát tục?”
Lữ Động Binh đắc ý nói: “Đương nhiên rồi, ngày trước ở Trường An, khi ta trình diễn kiếm pháp này, đúng là không gì sánh bằng. Người đẹp rất kinh ngạc, hồng lầu đều là tiếng tán thưởng, ha ha ha…”
Dương Hạo cười khô khan không nói gì, trong lòng thầm nghĩ: “Nhân vật Đại Đường, khí chất phong lưu đúng là hơn người. Những điều họ nghĩ đúng là không giống với người thường. Thục ra, Lữ Động Binh này có phần giống với Dạ Đế, võ công tuyệt đỉnh, phong lưu hơn người, ở đâu cũng có tình nhân, hầu như tất cả nữ nhân đều nghiêng ngả vị họ, hơn nữa lại đa tài, cầm kỳ thi họa đều đủ cả. Vừa có thể hưởng thụ bất cứ lúc nào mình muốn, vừa có thể vẫn tuân thủ đạo của người tu luyện, cuộc sống nhiều màu sắc thế này, thần tiên ở chốn phàm, có lẽ cũng chỉ vậy thôi.”
Lữ Động Binh thấy nét mặt của hắn, liếc sang, rồi nghiêm túc nói: “Ái đồ Dương Hạo, con thấy sư phụ làm thế là không đúng sao?”
“Không không…” Dương Hạo rất cung kính nói: “Đồ nhi chỉ cảm thấy sư phụ được nhiều người yêu mến, lại rất phong lưu, đúng là người đa tình.”
Lữ Động Binh vui lắm, nói: “Hạo Nhi đúng là ái đồ của ta, hiểu được tính khí của người làm thầy như ta. Năm đó, ta nhờ vào vô song kiếm pháp này, đã chinh phục được người đẹp, sự yêu kiều dịu dàng đó, thật là làm rung động lòng người.”
Hắn lại nhìn sang Dương Hạo, cười nói: “Con thì ngốc hơn ta chút, ta thấy đứa con gái đó xinh đẹp mỹ miều là thế, đáng tiếc, đáng tiếc, buổi tối hôm đó lại bị con bỏ lỡ mất. tính này của con phải thay đổi đi, mới có thể kế nghiệp được sư phụ.”
Dương Hạo mặt đau khổ nói: “Đồ nhi kế nghiệp sư phụ là kế nghiệp đức tính này của người sao?”
“Đương nhiên.” Lữ Động Binh nghiêm túc nói: “Lúc ta còn trẻ, vó ngựa đi khắp bốn phương, cần rượu có rượu, cần sắc có sắc, lúc đó…lúc đó đúng là tuổi trẻ nông nôi…”
Lữ Động Binh trầm ngâm nghĩ lại những việc đã qua, mỉm cười nói: “Lúc đó, ta còn đọc làm được một bài tơ, thơ viết rằng: ‘Khuyên quân mạc tích kim khuyến quân mạc tích kim lũ y, khuyến quân tích thủ thiếu niên thì;hoa khai kham chiết trực tu chiết, mạc đãi vô hoa không chiết chi …’. Sau này, Thu Nương dựa vào bài thơ này mà giành được lòng yêu mến của Trấn Hải Tiết Độ Sử Lý Kỳ, từ đó trở thành thiếp của hắn. Ôi, nhiều năm lắm rồi…”
Hai con ngươi của Dương Hạo sắp rơi ra ngoài rồi, bài thơ này quá nổi tiếng, mọi người đều nói là do Thu Nương của Hoài Nam làm, không ngờ…lại là nàng ta chép lại của Lữ Tổ. Lữ Tổ lại là sư phụ của ta, không được, không được, việc này vẫn chưa xong đâu, về sau ta nhất định sẽ chép lại câu chuyện này để mọi người biết, sư phụ ta mới là tác giả của bài thơ này.”
Lữ Động Binh thở dài: “Ngày hôm nay nghĩ lại, những ngày cũ trôi qua như một giấc mơ. Chớp mắt, từ một thiếu niên đã biến thành người trung niên, trung niên lại già đi, nếu như…Thời gian có thể chuyển dời, thì tốt biết bao…”
Đúng lúc này, một con chim ưng bay qua, lượn mấy vòng trong không trung, đột nhiên nghiêng cánh, lao xuống như một mũi tên. Lữ Động Binh vừa ngước mắt lên, cảm thấy có cái gì đó đang lao xuống, ngay lập tức râu trước ngực dựng thẳng lên, con chim ưng đó vù xuống, rồi đậu trên vai Dương Hạo, nghiêng đầu sang nhìn hắn.
Đây là con chim ưng đầu tiên Diệp Chi Tuyền đã huấn luyện thành công, vì con đường từ Phủ Cốc đến Lô Lĩnh Châu vẫn chưa sửa xong, đi lại rất khó khăn, do vậy con chim ưng này chuyên đảm đương nhiệm vụ đưa tin ở hai nơi ấy. Xe và thuyền là hai phương tiện truyền tin phổ biến nhất vào lúc bấy giờ, Dương Hạo đã nắm vững được đoàn xe của Diệp Gia trong tay, vì thế không chỉ là đạt được lợi ích về kinh tế, mà còn thông qua đoàn xe của Diệp Gia, hắn nắm vững được rất nhiều thông tin từ nhiều mặt của xã hội.
Dương Hạo nhìn bức mật thư, nói với Lữ Động Binh nói: “Sư phụ, mấy ngày nay, con muốn đi Phủ Cốc một chuyến, sư phụ có muốn đi theo không?”
“Sao? Người làm thầy như ta muốn truyền kiếm pháp cho con, có được kiếm pháp tuyệt diệu này, về sau con muốn làm ngất ngây bao nhiêu thiếu nữ mà chẳng được, giờ con không chịu khó luyện tập, vội vàng đi Phủ Cốc để làm gì?”
Dương Hạo nói: “Đảng Hạng Thất Thị và Hạ Châu Lý Thị, Phủ Châu Chiết Thị “ký kết” hiệp ước hòa bình, Chiết đại tướng đưa quân về Phủ Cốc, Lô Lĩnh Châu giờ mặc dù đang rất phát triển, nhưng để vững chân ở đây, vẫn không thể thiếu được sự trợ giúp của Phủ Châu và Lân Châu. Con là tri phủ của Lô Lĩnh Châu dù gì cũng phải đi thăm vị tướng quân này, chỉ cần có được sự giúp đỡ của Chiết đại tướng quân, thì Lân Châu không còn là vấn đề rồi.”
“Ừm, vậy thì đúng là phải đi một chuyến thật, nhưng ta không đi đâu.” Lữ Động Binh cười đáp: “Cô nương tối hôm đó, thật là rất đáng yêu, đến sư phụ ta nhìn thấy mà còn động lòng. Nhìn tướng mạo rụt rè của con, thật làm người ta đáng phải lo. Ta là sư phụ mà lắm tài, lại đẹp đẽ ngời ngời thế này, nếu đi cùng con, ngộ nhỡ cô nướng đó thích sư phụ thì có phải ta khó nhìn mặt con không?”
Nói đến đây, hắn ta đột nhiên rất hứng thú, vui vẻ nói: “Gần mười năm nay, ta đều tu luyện ở Tử Vi Sơn, lâu lắm không lướt phong trần rồi, cũng chẳng biết bảo đao đã mòn chưa. Đồ nhi à, con thấy dáng vóc sư phụ thế này còn làm động lòng được nữ nhân hay không?”
Dương Hạo chẳng thèm để ý ông già đã già mà không giữ đạo già này, quay người đi cho chim ăn. Lữ Động Binh vừa vuốt râu vừa cầm kiếm quyết, đứng một mình ở dưới gốc cây, tự tán dương mình. Gió mùa thu thổi đến, lá vàng rơi lác đác, Lữ Tổ như uống phải men say chếnh choáng trong cơn gió, phiêu du như một lão tiên…
Khế Đan Đô Thành Thượng Kinh, ngày hôm nay càng trở nên lạnh giá hơn.
Trên thảo nguyên, thảm cỏ trước đó vốn xanh rì giờ đã trở nên lốm đốm vàng, từng đám cỏ dại bị dân mục cư cắt bỏ, chất thành một đồng chờ chở đi, đây là lương thực họ chuẩn bị cho gia súc vào mùa đông.
Dân du mục vừa phải cắt cỏ vừa phải để mắt trông coi đám nô lệ. Đám nô lệ đó có người từ nhỏ đã bị bán đến đây, họ được tự do hơn một chút, hơn nữa còn phải phụ trách quản các nô lệ khác. Đa số còn lại là đến từ Hán Cảnh Lỗ từ thời “Đả thảo cốc”, còn có một số là người bị bắt trong chiến tranh.
Trong những người này, ngoài một số đã quen với cuộc sống nơi đây, hơn nữa biểu hiện có vẻ khuất phục nghe lời, mới được chủ nhân tháo cho chiếc xích sắt ở chân, cho họ tự do đi lại. Những tên nô lệ ở đây giờ này, rõ ràng đều là những người mới đến, dưới chân họ còn mang xích sắt, trên mặt cũng chưa có sự khuất phục mà những nô lệ quen thuộc đã được tôi luyện ra.
Ở đằng xa, một người cưỡi hồng mã đi đến, màu đỏ của hoa văn bay phấp phới trong gió, những nô lệ quen thuộc đều biết đây là Tiêu Hậu đến rồi. Hoàng đế ốm yếu bệnh tật, đã giao cho Tiêu Hậu thay quyền mình, có thể hạ mệnh lệnh, cũng bằng với nữ hoàng đế của Khế Đan, những người mục dân nhìn thấy ai nấy đều cung kính, những người vừa còn gào mắng nô lệ giờ đã xuống ngựa, cung kính quỳ xuống đất chào nữ hoàng đế của họ.
Tiêu Hậu mang theo cả một đám nữ binh chạy như bay qua, chẳng thèm quay đầu lại. Đi qua rồi còn có một đám người ngựa đuổi theo sau. Nhưng khi Tiêu Hậu đã đi qua, những mục dân bèn đứng dậy, không cần phải hành lễ với những người đi cùng nữ hoàng đế đó.
Những người nô lệ bị bắt phải quỳ xuống cũng đã đứng dậy, cầm liềm tiếp tục gặt cỏ. Một Hán Tử tóc xõa xuống mặt, trên tay còn vết sẹo chậm chạp ngẩng mặt lên, nhìn đăm đăm vào bóng hình Tiêu Hậu vừa rời đi.
“Bốp!” Hắn ta bị quất một roi vào lưng, người mục dân đó quăng roi rất giỏi, cái roi quất vào lưng hắn ta, như một con rắn độc lao đến, để lại trên vai lấm tấm những giọt máu. Người Hán Tử gầy guộc đó đau tê tái người, quay mặt lại hét lên: “Tại sao ngươi lại đánh ta?”
“Ngươi là nô lệ mà ta mua về, chỉ cần ta thích, thì đánh chết ngươi cũng có sao? Khi Tiêu Hậu đi qua, ngươi dám không quỳ xuống, nếu để các đại nhân nhìn thấy ngươi không cung kính, thì đến cả ta cũng bị liên lụy, ngươi nói xem ta có nên đánh ngươi hay không?”
Người mục dân đó càng nói càng nổi giận đùng đùng, giơ tay quất thêm một nhát nữa, người Hán Tử đó không chịu nổi, đột nhiên nắm lấy sợi roi giật mạnh, người mục dân đứng không vững, lảo đảo.
Hắn vừa xấu hổ lại giận, huýt sáo một tiếng, ngay lập tức những người cưỡi ngựa tuần tra vây thành vòng tròn. Một người nô lệ cao to đứng bên cạnh người nô lệ đó nhìn người mục dân với ánh mắt căm giận, một người khác, gầy guộc, mặt mày anh tú, bước lên đằng trước, cười trừ: “Hồi Lý Bảo đại nhân, bình thường Tiểu Lục làm việc rất chăm chỉ, chỉ là hơi ương bướng một chút thôi, đại nhân chỉ cần hắn làm việc chăm chỉ là được rồi, việc gì phải để ý nhiều đến vậy.” Dưới chân hắn có xích sắt, hóa ra cũng là một nô lệ.
Người này giờ đây cũng để một bộ râu, không biết được là già hay trẻ, chỉ có hay con mắt ánh lên sức sống của tuổi trẻ. Nếu có Dương Hạo hoặc người hầu của hắn ở đây, thì không khó để có thể nhận ra, vị này chính là Đô Tri Ngu Hầu La Khắc Địch của cấm quân Đại Tống.
Lúc đó, La Đông Nhi lưng đeo cung tên phi ngựa đến. Mặc dù thân hình nàng mạnh mẽ nhưng vẫn có cái khí chất dịu dàng của con gái thảo nguyên, trong đám nữ binh, nàng là một viên ngọc quý, không giống với mọi người.
Đằng sau con tuấn mã của nàng là mấy con hươu, báo và cáo, đám thú này là do chính tay nàng săn được, khả năng cưỡi ngựa và bắn cung của nàng có thể đạt đến độ tinh thông.
“Đông Nhi, nàng thông minh lanh lợi, giờ đã là nữ cung yêu quý nhất bên Nương Nương rồi, hà hà, Nương Nương nói, qua mấy ngày nữa, phải phong nàng làm nữ quan chính, làm thống lĩnh thị vệ của người. Vậy thì nàng cũng là đại nhân rồi, phải có trang trại và nhà ở của chính mình, nàng cứ suốt ngày ở bên cạnh Nương Nương, lúc đó chẳng có thời gian đâu mà dọn dẹp cơ ngơi của chính mình, ta phái mấy nô tỳ nô lệ đến cho nàng sai bảo, nàng thấy thế nào?”
Đông Nhi đáp: “Thế thì làm phiền Gia Hưu Luật Ca rồi, những việc này quả thật ta không làm được. Nói ra, đến Thượng Kinh lâu như vậy rồi, ta cũng chỉ qua lại trong hoàng cung, cùng lắm là đến Tây Giao của Nương Nương săn bắn, đến Thượng Kinh Thành cũng chưa được nhìn thấy bao giờ.”
“Vậy…Khi nào có thời gian rảnh rỗi, ta đến đưa nàng đi thăm thú Thượng Kinh có được không? Ha ha, Thượng Kinh Thành rất phồn hoa, không thua Trung Nguyên đâu.”
“Được chứ, ôi! Chỉ sợ là không có thời gian thôi, không rảnh rỗi được.”
Gia Luật Hưu Ca vui mừng nói: “Chỉ cần nàng muốn đi thì nhất định có cơ hội, nhất định có cơ hội.”
Gia Luật Hưu Ca mừng rỡ lắm, thấy rằng thái độ của La Đông Nhi càng ngày càng tốt ra rồi, tình ý của bản thân cũng không lãng phí. Lã Đông Nhi liếc sang hắn, trong lòng cũng thầm nói: “Đến giờ cũng coi là đã giành được sự tin tưởng của Tiêu Hậu, có nhiều cơ hội ra vào rồi. Nhưng nghe nói đường về phía nam, có rất nhiều cơ quan quan trọng, ta muốn trốn thoát, chỉ có một lần cơ hội, phải chuẩn bị cho thật kỹ lưỡng, đường trốn chạy phải tìm hiểu cho kỹ, lệnh bài qua cửa đều phải lấy được, còn phải chọn khoảng thời gian không dễ để họ phát hiện, chỉ có mình ta thì khó mà làm được điều đó, giờ còn phải tìm hiểu thêm nhiều thông tin tình báo…”
Lúc này, có mấy người mục dân cưỡi ngựa đến, chẳng nói gì bèn đánh ba người nô lệ đó một trận, rồi hai bên lằng nhằng một lúc bên đường, Gia Luật Hưu Ca tức tối nói: “Các ngươi đang làm gì thế, nếu làm kinh động đến ngựa của La cô nương ta sẽ không tha cho các ngươi!”
“Đại nhân tha tội.”Người mục dân đó vội vàng hành lễ, cười nói: “A, hóa ra là Hưu Ca đại nhân à, tiểu nhân là Hồi Ly Bảo, là người đã đến chỗ ngài mua mười mấy tên nô lệ, giờ chúng không nghe lời, tiểu nhân đang dạy bảo chúng.”
Lúc này ngựa của La Đông Nhi cũng đã dừng lại, nàng lướt mắt qua ba người nô lệ mới đến, khi nhìn đến người Hán Tử vạm vỡ đó, ánh mắt của nàng bỗng khựng lại, người Hán Tử vạm vỡ đó nhìn nàng, rồi cũng trợn tròn mắt, trong mắt lộ ra vẻ kinh ngạc khiếp sợ.
La Đông Nhi vẫn giữ nguyên thái độ, trong ba người nô lệ này, Thiết Ngưu thay đổi ít nhất, vì thế hai người vừa bắt gặp ánh mắt của đối phương liền nhận ra nhau ngay. Thiết Ngưu chỉ vào người nàng “a, a” vài tiếng, nhưng không nói được ra lời nào. La Đông Nhi vội vàng xuống ngựa, bước lên trước hai bước nói: “Ngươi là Thiết Ngưu? Ngươi…Ngươi…là Tiểu Lục ư?”
Người Hán Tử gầy guộc vừa nổi giận với mục dân giờ mới nhìn rõ hình dáng của nàng, bất ngờ nói: “Nàng, sao lại là nàng, nàng vẫn còn sống ư?”
Gia Luật Hưu Ca chau mày, xuống ngựa nói: “Sao, Đông Nhi, nàng quen bọn chúng ư….”
“Họ…” Đông Nhi đứng trước mặt hắn, vội vàng đánh mắt sang, nói: “Họ là đồng hương của ta, khi còn ở Trung Nguyên, mọi người đều quen biết và thường qua lại với nhau. Không ngờ…Không ngờ lại gặp nhau ở đây, mấy người, sao lại ở chốn này?”
Tiểu Lục đã lờ mờ đoán được hoàn cảnh giờ đây của La Đông Nhi, vì thế bịa ra một cái cớ để đến Đường Tắc một chuyến. Đáng lẽ ra hai người vượt ra Tử Ngọ Cốc, đuổi theo quân của Khế Đan. Kết quả ra ngoài Tử Ngọ Cốc, gặp ngay phải ngựa của Gia Luật Hưu Ca, bị hắn bắt làm nô lệ. Mà La Khắc Địch bị thương trên mặt trận, sau khi hắn được đưa về Bắc Quốc, tự đặt họ La tên Hạo, vẫn là người đứng đầu của quân đội. Lúc đó Tống Quân đều đã hạ giáp ra thua, hơn nữa nhân số của họ không quá hơn hai trăm người, Gia Luật Hưu Ca cũng khó phân biệt hắn nói giả hay nói thật, sau khi nhốt một thời gian, không thu thập được tin tức gì, bèn bán hắn với những nô lệ khác, bị Hồi Ly Bảo mua về.
Vừa nhìn thấy Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu, La Đông Nhi vui mừng đến độ rơi nước mắt, nhưng trước mặt Gia Luật Hưu Ca không tiện biểu lộ cảm xúc, chỉ có thể nói: “Ta ở Thượng Kinh một mình, cách xa Trung Nguyên nghìn dặm, không ngờ, lại được gặp các vị cố nhân ở đây. Hưu Ca đại nhân, ta muốn…giữ họ lại bên mình, đợi đến khi ta có được Phủ Để, những người cố hương này sẽ giúp ta trông coi nhà, huynh thấy…có được không?”
Đại quân của Xích Chung đã về nơi ở của mình, những người canh gác thành đã được thay bởi những người dân trải qua rèn luyện đội ngũ đầy đủ, rèn luyện quân đội ở đây chủ yếu là rèn luyện kỷ luật quân đội và khả năng phối hợp, và những kỹ thuật chiến đấu mà mấy người thầy giáo truyền cho Mộc Ân rõ ràng là đã nâng cao rất nhiều khả năng của hắn ta. Đến khi Lô Lĩnh Châu kiếm được tiền, có đội quân binh mã đầy đủ rồi, họ sẽ được biến thành những chiến sĩ vừa thủ được vừa công kích được.
Đợt thương nhân đầu tiên theo Dương Hạo đến Thất Thị làm ăn đã mang về được một khối lượng lớn bò dê, lông da, xương bò, họ đã gọi một đám người trong lão bách tính Lô Lĩnh Châu làm bạn hàng, bắt đầu vận chuyển những hàng hóa đó đến Trung Nguyên.
Đồng thời, một số thương nhân nhìn xa trông rộng, bắt đầu nghĩ đến việc gia công. Lợi dụng những thứ đã mua được, họ triệu tập hàng loạt nhân công bất kể nam nữ, tiến hành gia công lại lần nữa những gì mang về từ Thất Thị. Lông và da được các cô nương làm thành áo bào và chăn, còn xương, sừng được dùng để tạo thành cung tên, những đồ này nếu làm tốt, vừa có thể để lại tự mình dùng, vừa có thể bán lại cho những người Đảng Hạng trên thảo nguyên, lợi nhuận thu được từ chúng sẽ lớn hơn không chỉ mười lần so với giá gốc.
Sau khi nhận được thư của Bích Túc, Mục Kha Trại đã toàn tâm toàn ý hưởng ứng, không chỉ có Mục Vũ hứng khởi đến nơi, mà cả tỉ tỉ và anh rể của hắn cũng mang một vài Trại Đinh độc thân đến Lô Lĩnh Châu. Mục Lão Trại chủ mặc dù là một người không có thân phận quan lại rõ ràng, nhưng ở vùng Tây Bắc này, trại chủ của một trại không thấp bé hơn một viên đại quan, ở địa phương họ có quyền uy tuyệt đối, hơn nữa phải thường xuyên qua lại với các quan phủ, không phải là loại thường dân nghĩ ngắn không có con mắt nhìn xa trông rộng.
Lô Lĩnh Châu đơn độc xây dựng, tự hình thành một chiều thế lực riêng, Mục Lão Trại Chủ đã cảm giác được tương lai phát triển của nó. Nếu Lô Lĩnh Châu tương lai có thể trở thành bạn của Tây Bắc, thì thiết lập mối quan hệ sớm với họ, có lợi lớn với Mục Kha Trại. Không chỉ có vậy, nếu thiết lập được mối quan hệ với Lô Lĩnh Châu, thì sẽ kiếm được nhiều cơ hội làm ăn, đi sớm một bước, Mục Kha Trại sẽ phát triển hơn các trại khác ở xung quanh.
Sau khi hai vợ chồng Kha Trấn Ác và Mục Thanh Tuyền đến Lô Lĩnh Châu, cũng tham gia vào Dân Đoàn, không chỉ vậy còn là người đứng đầu. Họ không giỏi về đánh trận trên thảo nguyên nhưng lại có sở trường về đánh trận và tập kích trên địa hình miền núi, hai vợ chồng đảm nhận nhiệm vụ tuần sơn, thiết kế kiến trúc và bố trí lại các Tên Lầu, ngoài ra còn nhận nhiệm vụ đặt hố bẫy, các đội tuần tra ở trong rừng, thông qua việc đánh bắt thú rừng dạy cho các chiến sĩ Dân Đoàn bản lĩnh tác chiến, cả Lô Lĩnh Châu tạo thành một khối thống nhất bền vững như sắt thép.
Trong Dao Động truyền ra tiếng đọc sách rõ ràng dõng dạc, những người thợ thủ công ra ra vào vào, những cây to mà người khai thác chặt được trong rừng, đã bắt đầu xây dựng lên những ngôi nhà, chuồng bò, chuồng lợn trên bình nguyên Sơn Cốc. Trong và ngoài Sơn Cốc đã thấy xuốt hiện từng khoảnh đất trồng rau và trồng lương thực. Dòng sông ẩn mình vào đám lau sậy ngoài Sơn Cốc giờ đang là mùa cạn nước, chiều rộng chỉ được hơn một dặm, đây chỉ là phạm vi có thể đi lại được, còn dòng nước đang hòa mình vào đám lau sậy kia không biết còn dài đến đâu.
Một số người dân biết đánh bắt cá đã xây dựng những chiếc thuyền độc mộc, như từng con cá nhanh nhẹn luồn qua đám có lau, dùng vó và lưới bắt cá. Nước Lô Lĩnh Hà sâu không tới hai mét, các loại cá rất phong phú, Dương Hạo từng được người dân mang đến tặng một con cá chép rất to, con cá đó có lẽ phải nặng đến 20 cân, làm cho người kiếp trước chỉ nhìn thấy con cá to nhất nặng đến 6, 7 cân như Dương Hạo phải tròn xoe mắt.
Xe của Diệp Gia đã tạo được tiếng tăm trong Phủ Cốc và Lô Lĩnh Châu, cơ hội làm ăn thế này, một người đã bôn ba bao năm trên thương trường như Diệp Lão Đông Gia làm sao có thể bỏ qua được? Nhất là khi nghe nói con trai có hy vọng được làm quan, làm cho Diệp Lão Đông Gia mừng đến độ chạy thẳng đến đại đường ôm bài vị của tổ tông khóc lóc một hồi, đừng nói là lãi, dù cho có làm ăn lỗ thì ông ta cũng sẽ làm.
Có xe chở đồ của nhà Diệp Gia, lão bách tính Lô Lĩnh Châu chuyên tâm tái gia công, sau đó những đồ tái gia công lại được thương nhân mang về bán, ngày ngày từng chuyến xe ra vào Lô Lĩnh Châu đều đầy ắp những hàng, việc làm ăn vô cùng phát triển, hơn nữa từ ngày cắm cờ Lô Lĩnh Châu lên, những người Đảng Hạng trước đó vô cùng man rợ giờ đây không bao giờ cướp bóc nữa, nhìn thấy những thương nhân ngày ngày ra ra vào vào Lô Lĩnh Châu, cũng rầm rập chạy đến làm ăn. Dương Hạo tất nhiên mở rộng cánh cửa chào đón họ, không có chút ý làm khó nào.
Những người làm ăn bắt đầu nhiều lên, họ lại là người độc thân, không có chỗ ở, thế là quán rượu, quán trà, tiệm cơm bắt đầu mọc lên như nấm sau mưa. Tất nhiên, sòng bạc và kỹ viện cũng bắt đầu mọc lên, lúc đầu chỉ là một số thương nhân rỗi rãi đến chơi, rất nhanh sau đõ đã phát triển đến độ có người chuyên kinh doanh. Còn kỹ viện lúc đầu cũng chỉ là nơi một số người đến với nhau, nhưng sau đó không lâu đã có người thấy được món hời béo bở trong việc mở kỹ viện.
Dương Hạo không quá gấp rút trong việc tìm cách xóa bỏ những thứ này, chỉ là cố hết sức đưa nó vào trong quy củ, tất cả những tiệm rượu quán cơ, kỹ viện đều phải đến đăng ký và nộp thuế, vì vậy phủ khố của chi phủ nha môn một thời gian ngắn sau đã căng phồng lên.
Triệu Quan Gia của Khai Phong Phủ lúc đầu không thể ngờ được một nơi vừa đứng vững chân như Lô Lĩnh Châu mà lại có thể phát triển thần tốc đến thế, theo những gì hắn dự tính, Lô Lĩnh Châu muốn đứng vững được, thì ít nhất phải kinh doanh đến 10 năm mới có thể cung cấp đủ cho bản thân, đây còn là nghĩ tốt cho Lô Lĩnh Châu rồi, vì mỗi năm triều đình đều thu thuế, món thuế đó sẽ là sự khó khăn lớn cho Lô Lĩnh Châu.
Hắn lại nghĩ đến việc thiết kế của Lô Lĩnh Châu nhất định phải chịu sự sắp đặt của Lân Châu và Phủ Châu, tên tri phủ đáng thương Dương Hạo này vừa không có tiền lại chẳng có ai giúp sức, chỉ cho hắn ta cái mũ quan rẻ tiền, mà lại là loại quan chẳng có danh tiếng gì, cảm thấy mình có chút không tử tế, trong lòng cảm thấy ân hận, vì thế đã tặng cho hắn một khối lượng lớn tiền và vật tư. Từ đó về sau, Dương Hạo có nhiều tiền trong tay rồi, thế là một quan nha hoành tráng hùng dũng xuất hiện ở trong Cốc.
“Món tiền này, nhất định phải tiêu. Xây dựng cho nó càng ngày càng lớn mạnh, càng có khí phách càng tốt! Phải làm cho tất cả những người thương nhân và Khương Nhân đến Lô Lĩnh Châu vừa nhìn thấy phủ nha này là đã hiểu được thực lực và quyền uy của Lô Lĩnh Châu ta!” Đây là lời Dương Hạo nói với Lý Ngọc Xướng.
Lần trước Lý Ngọc Xướng đã kiếm được món tiền lớn ở Lô Lĩnh Châu, ngày hôm nay lại tận mắt nhìn thấy Lô Lĩnh Châu càng ngày càng phát triển, cũng không chịu ngồi yên, hắn ta đang có ý định lập một thương hiệu hàng da ở Lô Lĩnh Châu, đã nhận nhiệm vụ kiến tạo cho tri phủ nha môn, thì nhất định sẽ làm hết sức mình.
Kiến tạo quan nha, cũng như một tiểu hoàng cung, quy mô của nó mặc dù không bằng, nhưng bố cục lại tương tự như vậy, hai mặt mà phòng cảnh vệ và phòng quan. Sau đó là đại đường, dùng để tiến hàng các nghi thức và làm những việc lớn. Đại đường là nơi uy nghiêm thường được nhìn thấy trong phim ảnh rồi.
Sau đó là nhị đường, bình thường là đình viện, đình viện vừa phải đẹp mắt, vừa phải có tính uy nghiêm của chốn quan trường. Nhị đình mới là nơi tri phủ đại nhân xử lý những việc hàng ngày, hai bên trái và phải của nhị đường là phòng kiểm định. Trong đó cũng có một hòn đá, nhỏ hơn đại đường một chút, có 6 chữ “Thiên lý quốc phả nhân tình”
Những đình viện hai bên nhị đường là nhơi làm việc của các quan lại hắn tin tưởng. Dương Hạo đã mời tên mọt sách Phạm Tư Kỳ đến làm Chủ Bố cho hắn, người này tin tưởng được, thậm chí còn có chút ngốc nghếch, nhưng dùng loại người như thế này lại thấy rất yên tâm. Nhưng các quan nếu toàn là người như Phạm Tư Kỳ, thì vị tri phủ đại nhân này đau đầu rồi.
Những quan lại khác đều là những nhân vật không thể thiếu, họ hành quyền trong thiên hạ, bày mưu xuất kế cho quan tri phủ, Dương Hạo có thể dùng họ làm những việc bản thân mình không tiện xuống tay, đồng thời có họ bên cạnh, quyền lực mới đầy đủ, nếu tất cả đều là người ngốc nghếch như Phạm Tư Kỳ, thì làm sao dùng được nữa.
Vì thế Dương Hạo đã mời bốn vị lão trượng Lâm Bằng Vũ đến, ngoài ra còn chiêu mộ thêm vài người đọc sách, có bốn lão hồ ly này, đám quan lại rất nhanh chóng đã được xây dựng lên. Lô Lĩnh Châu vừa mới thành lập, còn rất nhiều việc phải dùng đến đám quan lại này, Dương Hạo chỉ cần quyết định một số việc lớn, còn cụ thể làm thế nào thì giao cho họ, kết quả Lô Lĩnh Châu ngày càng bận bịu mà hắn ta ngày càng nhàn hạ, không cần việc gì cũng nhúng tay vào nữa.
Sau nhị đường là tam đường, đây là nơi ngày thường quan viên đến ở, có một số vụ án không tiện công khai cũng diễn ra ở đây, quan viên có thể đến đây uống trà, thay đồ và đọc sách. Tam đường có mấy chữ thư pháp rất đẹp do Phạm Tư Kỳ viết: “Đắc quan bất vinh, thất nhất quan bất nhục, vật thuyết nhất quan bất dụng, địa phương toàn kháo nhất quan, ngật bách tính chi phạn, xuyên bách tính chi y, mạc đạo bách tính khả khi, tự kỷ dã thị bách tính” (Làm quan không kiêu căng, mất chức quan không lấy làm nhục, đừng nói một vị quan không có tác dụng gì, địa phương chỉ dựa vào một vị quan, ăn cơm của bách tính, mặc áo của bách tính, đừng nói bách tính có thể ức hiếp được, bản thân mình cũng là bách tính mà ra).
Trong văn hóa người Hán, rất coi trọng chữ “Trung”. Có nghĩa là dù là hoàng cung hay quan nha, khi xây dựng đều phải có tính đối xứng, phải xây dựng trên một trung tâm chủ đạo. Món tiền lần này Lý Ngọc Xướng mang đến cho Lô Lĩnh Châu, đã mở ra cánh cửa thành Lô Lĩnh Châu, ngay chính giữa là một con đường lớn, có thể đủ cho 20 con ngựa đứng.
Cuối con đường là nha môn tri phủ Lô Lĩnh Châu mọc lên sừng sững, ở trên cao, hai bên là dân cư sinh sống, một không khí trang nghiêm lan tỏa khắp không gian…
Sau tam đường là hậu hoa viên, người đang đứng luyện kiếm trong đó, chính là Lữ Động binh. Thanh kiếm Lữ Động Binh vung lên sáng lóa, đường kiếm nhanh gọn sắc sảo, cảm giác như tiếng sấm vang bên tai, kiếm pháp này của Lữ Động Binh, vừa có chút thoát tục vừa rất nho nhã, không như những kiếm pháp khác mang đậm tính chất nhân gian, đây mới là kiếm vũ không mang chút sát khí nào
Nhưng người theo học Lữ Động Binh nhiều ngày là Dương Hạo đã nhận ra sự lợi hại trong kiếm pháp này của hắn, dù không có chút sát khí nào, nhưng lại rất sắc bén, nếu trúng chiêu thì không còn cách nào cứu vãn được, thanh kiếm lanh lợi như làn gió, vào được mọi ngóc ngách, không chừa một chỗ nào. Nhưng trên thanh kiếm lại không hề có chút uy lực nào, thật là khó lý giải.
Lữ Động Binh trình diễn xong màn kiếm vũ, thanh kiếm vẫn như phi long, hướng thẳng lên trời, chẳng phải có phải là thế thu kiếm của Đường nhân võ sỹ không nữa. Chỉ có điều hắn ta thu kiếm còn đáng sợ hơn nữa, bao kiếm của Trình Thế Dũng là cầm trên tay, còn bao kiếm của hắn ta vác trên vai, thanh kiếm đó rơi thẳng từ trên trời xuống, Lữ Động Binh cầm kiếm quyết, rồi làm một động tác, thanh kiếm đó ngoan ngoãn chui vào bao kiếm.
“Ha ha, Dương Hạo, con thấy kiếm pháp này của sư phụ thế nào?”
Dương Hạo tán dương nói: “Kiếm pháp này của sư phụ quả thật sắc bén hơn người, vừa tung kiếm thế ra đã làm người ta không còn ý chống cự, thật là lợi hại. Điều đặc biệt hơn nữa là kiếm pháp này lại rất phiêu du, không dính chút hồng trần nào cả, như thần tiên ở trên trời, làm người ta kính phục.”
Lữ Động Binh vừa nghe xong rất vui vẻ, vuốt râu nói: “Đồ đệ đúng là có con mắt hơn người, kiếm pháp này của ta có thể từ hàng vạn dặm lấy đầu người, nếu là người trong giới kiếm tiên, đều hiểu được điều đó. Ta có ba kiếm, một đánh tan tất cả phiền não, hai đánh tan tức giận, ba đánh tan tham vọng. Con nói kiếm pháp này không dính chút hồng trần đúng là cốt lõi của nó đấy.
Đồ đệ à, kiếm pháp này của ta học từ Hỏa Long Đạo nhân, lúc đầu mới học, kiếm pháp này còn dính chút hỏa khí, khi triển khai ra, uy lực của nó đúng là làm kinh lòng người. Nhưng người làm thầy như ta, trải qua mười năm nghiên cứu, đã cải tiến kiếm pháp này, để cho nó có dáng vẻ như ngày nay, ha ha…, chỉ là uy lực của nó đã ít đi nhiều.”
Dương Hạo nghe những lời này đột nhiên người run lên, Lữ Động Binh nhìn sang hắn, vuốt râu nói: “Đồ nhi, con muốn nói gì?”
Dương Hạo sờ lên mũi, chậm chạp nói: “Sư phụ dùng 10 năm làm cho uy lực kiếm pháp này bới đi, chỉ để làm cho nó có vẻ thoát tục?”
Lữ Động Binh đắc ý nói: “Đương nhiên rồi, ngày trước ở Trường An, khi ta trình diễn kiếm pháp này, đúng là không gì sánh bằng. Người đẹp rất kinh ngạc, hồng lầu đều là tiếng tán thưởng, ha ha ha…”
Dương Hạo cười khô khan không nói gì, trong lòng thầm nghĩ: “Nhân vật Đại Đường, khí chất phong lưu đúng là hơn người. Những điều họ nghĩ đúng là không giống với người thường. Thục ra, Lữ Động Binh này có phần giống với Dạ Đế, võ công tuyệt đỉnh, phong lưu hơn người, ở đâu cũng có tình nhân, hầu như tất cả nữ nhân đều nghiêng ngả vị họ, hơn nữa lại đa tài, cầm kỳ thi họa đều đủ cả. Vừa có thể hưởng thụ bất cứ lúc nào mình muốn, vừa có thể vẫn tuân thủ đạo của người tu luyện, cuộc sống nhiều màu sắc thế này, thần tiên ở chốn phàm, có lẽ cũng chỉ vậy thôi.”
Lữ Động Binh thấy nét mặt của hắn, liếc sang, rồi nghiêm túc nói: “Ái đồ Dương Hạo, con thấy sư phụ làm thế là không đúng sao?”
“Không không…” Dương Hạo rất cung kính nói: “Đồ nhi chỉ cảm thấy sư phụ được nhiều người yêu mến, lại rất phong lưu, đúng là người đa tình.”
Lữ Động Binh vui lắm, nói: “Hạo Nhi đúng là ái đồ của ta, hiểu được tính khí của người làm thầy như ta. Năm đó, ta nhờ vào vô song kiếm pháp này, đã chinh phục được người đẹp, sự yêu kiều dịu dàng đó, thật là làm rung động lòng người.”
Hắn lại nhìn sang Dương Hạo, cười nói: “Con thì ngốc hơn ta chút, ta thấy đứa con gái đó xinh đẹp mỹ miều là thế, đáng tiếc, đáng tiếc, buổi tối hôm đó lại bị con bỏ lỡ mất. tính này của con phải thay đổi đi, mới có thể kế nghiệp được sư phụ.”
Dương Hạo mặt đau khổ nói: “Đồ nhi kế nghiệp sư phụ là kế nghiệp đức tính này của người sao?”
“Đương nhiên.” Lữ Động Binh nghiêm túc nói: “Lúc ta còn trẻ, vó ngựa đi khắp bốn phương, cần rượu có rượu, cần sắc có sắc, lúc đó…lúc đó đúng là tuổi trẻ nông nôi…”
Lữ Động Binh trầm ngâm nghĩ lại những việc đã qua, mỉm cười nói: “Lúc đó, ta còn đọc làm được một bài tơ, thơ viết rằng: ‘Khuyên quân mạc tích kim khuyến quân mạc tích kim lũ y, khuyến quân tích thủ thiếu niên thì;hoa khai kham chiết trực tu chiết, mạc đãi vô hoa không chiết chi …’. Sau này, Thu Nương dựa vào bài thơ này mà giành được lòng yêu mến của Trấn Hải Tiết Độ Sử Lý Kỳ, từ đó trở thành thiếp của hắn. Ôi, nhiều năm lắm rồi…”
Hai con ngươi của Dương Hạo sắp rơi ra ngoài rồi, bài thơ này quá nổi tiếng, mọi người đều nói là do Thu Nương của Hoài Nam làm, không ngờ…lại là nàng ta chép lại của Lữ Tổ. Lữ Tổ lại là sư phụ của ta, không được, không được, việc này vẫn chưa xong đâu, về sau ta nhất định sẽ chép lại câu chuyện này để mọi người biết, sư phụ ta mới là tác giả của bài thơ này.”
Lữ Động Binh thở dài: “Ngày hôm nay nghĩ lại, những ngày cũ trôi qua như một giấc mơ. Chớp mắt, từ một thiếu niên đã biến thành người trung niên, trung niên lại già đi, nếu như…Thời gian có thể chuyển dời, thì tốt biết bao…”
Đúng lúc này, một con chim ưng bay qua, lượn mấy vòng trong không trung, đột nhiên nghiêng cánh, lao xuống như một mũi tên. Lữ Động Binh vừa ngước mắt lên, cảm thấy có cái gì đó đang lao xuống, ngay lập tức râu trước ngực dựng thẳng lên, con chim ưng đó vù xuống, rồi đậu trên vai Dương Hạo, nghiêng đầu sang nhìn hắn.
Đây là con chim ưng đầu tiên Diệp Chi Tuyền đã huấn luyện thành công, vì con đường từ Phủ Cốc đến Lô Lĩnh Châu vẫn chưa sửa xong, đi lại rất khó khăn, do vậy con chim ưng này chuyên đảm đương nhiệm vụ đưa tin ở hai nơi ấy. Xe và thuyền là hai phương tiện truyền tin phổ biến nhất vào lúc bấy giờ, Dương Hạo đã nắm vững được đoàn xe của Diệp Gia trong tay, vì thế không chỉ là đạt được lợi ích về kinh tế, mà còn thông qua đoàn xe của Diệp Gia, hắn nắm vững được rất nhiều thông tin từ nhiều mặt của xã hội.
Dương Hạo nhìn bức mật thư, nói với Lữ Động Binh nói: “Sư phụ, mấy ngày nay, con muốn đi Phủ Cốc một chuyến, sư phụ có muốn đi theo không?”
“Sao? Người làm thầy như ta muốn truyền kiếm pháp cho con, có được kiếm pháp tuyệt diệu này, về sau con muốn làm ngất ngây bao nhiêu thiếu nữ mà chẳng được, giờ con không chịu khó luyện tập, vội vàng đi Phủ Cốc để làm gì?”
Dương Hạo nói: “Đảng Hạng Thất Thị và Hạ Châu Lý Thị, Phủ Châu Chiết Thị “ký kết” hiệp ước hòa bình, Chiết đại tướng đưa quân về Phủ Cốc, Lô Lĩnh Châu giờ mặc dù đang rất phát triển, nhưng để vững chân ở đây, vẫn không thể thiếu được sự trợ giúp của Phủ Châu và Lân Châu. Con là tri phủ của Lô Lĩnh Châu dù gì cũng phải đi thăm vị tướng quân này, chỉ cần có được sự giúp đỡ của Chiết đại tướng quân, thì Lân Châu không còn là vấn đề rồi.”
“Ừm, vậy thì đúng là phải đi một chuyến thật, nhưng ta không đi đâu.” Lữ Động Binh cười đáp: “Cô nương tối hôm đó, thật là rất đáng yêu, đến sư phụ ta nhìn thấy mà còn động lòng. Nhìn tướng mạo rụt rè của con, thật làm người ta đáng phải lo. Ta là sư phụ mà lắm tài, lại đẹp đẽ ngời ngời thế này, nếu đi cùng con, ngộ nhỡ cô nướng đó thích sư phụ thì có phải ta khó nhìn mặt con không?”
Nói đến đây, hắn ta đột nhiên rất hứng thú, vui vẻ nói: “Gần mười năm nay, ta đều tu luyện ở Tử Vi Sơn, lâu lắm không lướt phong trần rồi, cũng chẳng biết bảo đao đã mòn chưa. Đồ nhi à, con thấy dáng vóc sư phụ thế này còn làm động lòng được nữ nhân hay không?”
Dương Hạo chẳng thèm để ý ông già đã già mà không giữ đạo già này, quay người đi cho chim ăn. Lữ Động Binh vừa vuốt râu vừa cầm kiếm quyết, đứng một mình ở dưới gốc cây, tự tán dương mình. Gió mùa thu thổi đến, lá vàng rơi lác đác, Lữ Tổ như uống phải men say chếnh choáng trong cơn gió, phiêu du như một lão tiên…
Khế Đan Đô Thành Thượng Kinh, ngày hôm nay càng trở nên lạnh giá hơn.
Trên thảo nguyên, thảm cỏ trước đó vốn xanh rì giờ đã trở nên lốm đốm vàng, từng đám cỏ dại bị dân mục cư cắt bỏ, chất thành một đồng chờ chở đi, đây là lương thực họ chuẩn bị cho gia súc vào mùa đông.
Dân du mục vừa phải cắt cỏ vừa phải để mắt trông coi đám nô lệ. Đám nô lệ đó có người từ nhỏ đã bị bán đến đây, họ được tự do hơn một chút, hơn nữa còn phải phụ trách quản các nô lệ khác. Đa số còn lại là đến từ Hán Cảnh Lỗ từ thời “Đả thảo cốc”, còn có một số là người bị bắt trong chiến tranh.
Trong những người này, ngoài một số đã quen với cuộc sống nơi đây, hơn nữa biểu hiện có vẻ khuất phục nghe lời, mới được chủ nhân tháo cho chiếc xích sắt ở chân, cho họ tự do đi lại. Những tên nô lệ ở đây giờ này, rõ ràng đều là những người mới đến, dưới chân họ còn mang xích sắt, trên mặt cũng chưa có sự khuất phục mà những nô lệ quen thuộc đã được tôi luyện ra.
Ở đằng xa, một người cưỡi hồng mã đi đến, màu đỏ của hoa văn bay phấp phới trong gió, những nô lệ quen thuộc đều biết đây là Tiêu Hậu đến rồi. Hoàng đế ốm yếu bệnh tật, đã giao cho Tiêu Hậu thay quyền mình, có thể hạ mệnh lệnh, cũng bằng với nữ hoàng đế của Khế Đan, những người mục dân nhìn thấy ai nấy đều cung kính, những người vừa còn gào mắng nô lệ giờ đã xuống ngựa, cung kính quỳ xuống đất chào nữ hoàng đế của họ.
Tiêu Hậu mang theo cả một đám nữ binh chạy như bay qua, chẳng thèm quay đầu lại. Đi qua rồi còn có một đám người ngựa đuổi theo sau. Nhưng khi Tiêu Hậu đã đi qua, những mục dân bèn đứng dậy, không cần phải hành lễ với những người đi cùng nữ hoàng đế đó.
Những người nô lệ bị bắt phải quỳ xuống cũng đã đứng dậy, cầm liềm tiếp tục gặt cỏ. Một Hán Tử tóc xõa xuống mặt, trên tay còn vết sẹo chậm chạp ngẩng mặt lên, nhìn đăm đăm vào bóng hình Tiêu Hậu vừa rời đi.
“Bốp!” Hắn ta bị quất một roi vào lưng, người mục dân đó quăng roi rất giỏi, cái roi quất vào lưng hắn ta, như một con rắn độc lao đến, để lại trên vai lấm tấm những giọt máu. Người Hán Tử gầy guộc đó đau tê tái người, quay mặt lại hét lên: “Tại sao ngươi lại đánh ta?”
“Ngươi là nô lệ mà ta mua về, chỉ cần ta thích, thì đánh chết ngươi cũng có sao? Khi Tiêu Hậu đi qua, ngươi dám không quỳ xuống, nếu để các đại nhân nhìn thấy ngươi không cung kính, thì đến cả ta cũng bị liên lụy, ngươi nói xem ta có nên đánh ngươi hay không?”
Người mục dân đó càng nói càng nổi giận đùng đùng, giơ tay quất thêm một nhát nữa, người Hán Tử đó không chịu nổi, đột nhiên nắm lấy sợi roi giật mạnh, người mục dân đứng không vững, lảo đảo.
Hắn vừa xấu hổ lại giận, huýt sáo một tiếng, ngay lập tức những người cưỡi ngựa tuần tra vây thành vòng tròn. Một người nô lệ cao to đứng bên cạnh người nô lệ đó nhìn người mục dân với ánh mắt căm giận, một người khác, gầy guộc, mặt mày anh tú, bước lên đằng trước, cười trừ: “Hồi Lý Bảo đại nhân, bình thường Tiểu Lục làm việc rất chăm chỉ, chỉ là hơi ương bướng một chút thôi, đại nhân chỉ cần hắn làm việc chăm chỉ là được rồi, việc gì phải để ý nhiều đến vậy.” Dưới chân hắn có xích sắt, hóa ra cũng là một nô lệ.
Người này giờ đây cũng để một bộ râu, không biết được là già hay trẻ, chỉ có hay con mắt ánh lên sức sống của tuổi trẻ. Nếu có Dương Hạo hoặc người hầu của hắn ở đây, thì không khó để có thể nhận ra, vị này chính là Đô Tri Ngu Hầu La Khắc Địch của cấm quân Đại Tống.
Lúc đó, La Đông Nhi lưng đeo cung tên phi ngựa đến. Mặc dù thân hình nàng mạnh mẽ nhưng vẫn có cái khí chất dịu dàng của con gái thảo nguyên, trong đám nữ binh, nàng là một viên ngọc quý, không giống với mọi người.
Đằng sau con tuấn mã của nàng là mấy con hươu, báo và cáo, đám thú này là do chính tay nàng săn được, khả năng cưỡi ngựa và bắn cung của nàng có thể đạt đến độ tinh thông.
“Đông Nhi, nàng thông minh lanh lợi, giờ đã là nữ cung yêu quý nhất bên Nương Nương rồi, hà hà, Nương Nương nói, qua mấy ngày nữa, phải phong nàng làm nữ quan chính, làm thống lĩnh thị vệ của người. Vậy thì nàng cũng là đại nhân rồi, phải có trang trại và nhà ở của chính mình, nàng cứ suốt ngày ở bên cạnh Nương Nương, lúc đó chẳng có thời gian đâu mà dọn dẹp cơ ngơi của chính mình, ta phái mấy nô tỳ nô lệ đến cho nàng sai bảo, nàng thấy thế nào?”
Đông Nhi đáp: “Thế thì làm phiền Gia Hưu Luật Ca rồi, những việc này quả thật ta không làm được. Nói ra, đến Thượng Kinh lâu như vậy rồi, ta cũng chỉ qua lại trong hoàng cung, cùng lắm là đến Tây Giao của Nương Nương săn bắn, đến Thượng Kinh Thành cũng chưa được nhìn thấy bao giờ.”
“Vậy…Khi nào có thời gian rảnh rỗi, ta đến đưa nàng đi thăm thú Thượng Kinh có được không? Ha ha, Thượng Kinh Thành rất phồn hoa, không thua Trung Nguyên đâu.”
“Được chứ, ôi! Chỉ sợ là không có thời gian thôi, không rảnh rỗi được.”
Gia Luật Hưu Ca vui mừng nói: “Chỉ cần nàng muốn đi thì nhất định có cơ hội, nhất định có cơ hội.”
Gia Luật Hưu Ca mừng rỡ lắm, thấy rằng thái độ của La Đông Nhi càng ngày càng tốt ra rồi, tình ý của bản thân cũng không lãng phí. Lã Đông Nhi liếc sang hắn, trong lòng cũng thầm nói: “Đến giờ cũng coi là đã giành được sự tin tưởng của Tiêu Hậu, có nhiều cơ hội ra vào rồi. Nhưng nghe nói đường về phía nam, có rất nhiều cơ quan quan trọng, ta muốn trốn thoát, chỉ có một lần cơ hội, phải chuẩn bị cho thật kỹ lưỡng, đường trốn chạy phải tìm hiểu cho kỹ, lệnh bài qua cửa đều phải lấy được, còn phải chọn khoảng thời gian không dễ để họ phát hiện, chỉ có mình ta thì khó mà làm được điều đó, giờ còn phải tìm hiểu thêm nhiều thông tin tình báo…”
Lúc này, có mấy người mục dân cưỡi ngựa đến, chẳng nói gì bèn đánh ba người nô lệ đó một trận, rồi hai bên lằng nhằng một lúc bên đường, Gia Luật Hưu Ca tức tối nói: “Các ngươi đang làm gì thế, nếu làm kinh động đến ngựa của La cô nương ta sẽ không tha cho các ngươi!”
“Đại nhân tha tội.”Người mục dân đó vội vàng hành lễ, cười nói: “A, hóa ra là Hưu Ca đại nhân à, tiểu nhân là Hồi Ly Bảo, là người đã đến chỗ ngài mua mười mấy tên nô lệ, giờ chúng không nghe lời, tiểu nhân đang dạy bảo chúng.”
Lúc này ngựa của La Đông Nhi cũng đã dừng lại, nàng lướt mắt qua ba người nô lệ mới đến, khi nhìn đến người Hán Tử vạm vỡ đó, ánh mắt của nàng bỗng khựng lại, người Hán Tử vạm vỡ đó nhìn nàng, rồi cũng trợn tròn mắt, trong mắt lộ ra vẻ kinh ngạc khiếp sợ.
La Đông Nhi vẫn giữ nguyên thái độ, trong ba người nô lệ này, Thiết Ngưu thay đổi ít nhất, vì thế hai người vừa bắt gặp ánh mắt của đối phương liền nhận ra nhau ngay. Thiết Ngưu chỉ vào người nàng “a, a” vài tiếng, nhưng không nói được ra lời nào. La Đông Nhi vội vàng xuống ngựa, bước lên trước hai bước nói: “Ngươi là Thiết Ngưu? Ngươi…Ngươi…là Tiểu Lục ư?”
Người Hán Tử gầy guộc vừa nổi giận với mục dân giờ mới nhìn rõ hình dáng của nàng, bất ngờ nói: “Nàng, sao lại là nàng, nàng vẫn còn sống ư?”
Gia Luật Hưu Ca chau mày, xuống ngựa nói: “Sao, Đông Nhi, nàng quen bọn chúng ư….”
“Họ…” Đông Nhi đứng trước mặt hắn, vội vàng đánh mắt sang, nói: “Họ là đồng hương của ta, khi còn ở Trung Nguyên, mọi người đều quen biết và thường qua lại với nhau. Không ngờ…Không ngờ lại gặp nhau ở đây, mấy người, sao lại ở chốn này?”
Tiểu Lục đã lờ mờ đoán được hoàn cảnh giờ đây của La Đông Nhi, vì thế bịa ra một cái cớ để đến Đường Tắc một chuyến. Đáng lẽ ra hai người vượt ra Tử Ngọ Cốc, đuổi theo quân của Khế Đan. Kết quả ra ngoài Tử Ngọ Cốc, gặp ngay phải ngựa của Gia Luật Hưu Ca, bị hắn bắt làm nô lệ. Mà La Khắc Địch bị thương trên mặt trận, sau khi hắn được đưa về Bắc Quốc, tự đặt họ La tên Hạo, vẫn là người đứng đầu của quân đội. Lúc đó Tống Quân đều đã hạ giáp ra thua, hơn nữa nhân số của họ không quá hơn hai trăm người, Gia Luật Hưu Ca cũng khó phân biệt hắn nói giả hay nói thật, sau khi nhốt một thời gian, không thu thập được tin tức gì, bèn bán hắn với những nô lệ khác, bị Hồi Ly Bảo mua về.
Vừa nhìn thấy Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu, La Đông Nhi vui mừng đến độ rơi nước mắt, nhưng trước mặt Gia Luật Hưu Ca không tiện biểu lộ cảm xúc, chỉ có thể nói: “Ta ở Thượng Kinh một mình, cách xa Trung Nguyên nghìn dặm, không ngờ, lại được gặp các vị cố nhân ở đây. Hưu Ca đại nhân, ta muốn…giữ họ lại bên mình, đợi đến khi ta có được Phủ Để, những người cố hương này sẽ giúp ta trông coi nhà, huynh thấy…có được không?”