Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 635
Đại Tống vĩnh hòa năm năm.
Dương Hạo đương quốc, trải qua năm năm phát triển, Kim Lăng lại khôi phục lại cảnh tượng phồn hoa thịnh vượng, hơn nữa còn giàu có hơn trước. Hai bờ Tần Hoài thuyền bè tấp nập, đêm xuống đèn chăng dọc hai bờ, thỉnh thoảng có tiếng thiếu nữ gần đó ngân nga một khúc nhạc, hòa với tiếng buôn bán nhộn nhịp.
Trên đường cái dù các cửa hàng bán vải, bán trang sức, khăn trùm đầu, túi... Tiệm nào tiệm nấy dựng sát nhau thành hàng, đầy vẻ sung túc. Các cửa hàng cũng mọc lên như nấm theo những ngành nghề sản xuất mới hưng, Kim Lăng trăm nghiệp hưng vượng, sức sống bừng bừng.
Lấy ngay tiệm bán vải cực lớn trước mặt này làm ví dụ, trong năm năm đã có tới ba lần mở rộng, vẫn cung không đủ cầu, tơ lụa ở đây đều là những loại cực phẩm quý giá, đa phần đều là để bán ra nước ngoài, bán cho phía bắc, Đại Lý ở phía nam, Giao Chỉ cũng cần, lượng khách lớn nhất có hai nơi, một là ở đông, một là ở tây.
Phía tây là đại thương nhân họ Lý ở Diêm Châu Hà Tây, vị Lý công tử này xây dựng điểm buôn bán ở Kim Lăng, nhiều năm thu mua, những tơ lụa, gốm sứ qua tay hắn nghe nói đưa qua Thiên Trúc, Đại Thực, Đại Tần thậm chí là những quốc gia Tây phương, trong một năm lượng hắn thu mua rồi bán ra đạt đến một con số kinh người.
Một đại khách hàng khác là đến từ phía đông, đi qua phía bên kia bờ biển là Nhật Bản, vị đại khách thương này họ Bích, khẩu âm Biện Lương, có điều thân phận thật sự của hắn luôn không có ai biết được, có người nói hắn là đại hải tặc cực giỏi, lý do là vì có rất nhiều lão đại ăn chặn trên biển hay mấy con sông đều phải cung kính trước mặt hắn.
Lại có người nói hắn là con rể của một đại thủ lĩnh thuộc nước Nhật Bản, được thiên hoàng lệnh làm chư hầu, thế lực ở thượng quốc rất lớn, vì thế hắn mới có thể buôn bán được nhiều cực phẩm như vậy. Lý do là vì từng có hải thương nhìn thấy hắn dáng vẻ uy phong bát điện ở nước Nhật Bản. Còn có người nói con người này thực tế là tổng quản nội thị trong hoàng thất Đại Tống, lý do là vì hắn không có mọc râu, hơn nữa có người từng nhìn thấy hắn ra vào hoàng thành Đại Tống.
Mọi người nói qua nói lại rất nhiều, cũng không biết rốt cuộc hắn có thân phận gì, kệ hắn. Người này tuy lai lịch bất minh nhưng vàng bạc của hắn không phải là giả. Theo sự phát triển hưng thịnh mấy năm nay của Đại Tống, thứ trên thị trường thiếu thốn không phải là vật tư mà là tiền mặt, tuy vàng bạc Tây Vực và Nam Dương không ngừng chảy vào, nhưng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu lưu thông vật tư, mà người này ở khắp các địa phương của Đại Tống đều có bạn làm ăn, khi giao hàng hóa đều dùng vàng bạc chi trả, vì thế hắn là người khách được quan phủ địa phương và thương gia hoan nghênh nhất.
Buôn bán tơ lụa hưng vượng, theo đó mà các ngành trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, nhuộm vải, thêu thùa, may y phục... Cũng không ngừng mở rộng, huống hồ quan gia đã liệt Hàng Châu vào danh sách năm cửa khẩu thông thương mậu địch lớn nhất. Thuyền đại hải do Đường gia chế tạo mỗi ngày không ngừng ra ra vào vào. Đâu chỉ có tơ lụa, gốm sứ mà ngay cả lá trà, trang sức, đủ các loại thương phẩm bây giờ đều cung không đủ cầu. Nghề nghiệp thủ công cũng tăng nhanh, mấy phường nhuộm vải của Thôi gia ở Giang Nam mỗi nơi chiêu mộ nhân công không dưới mấy nghìn người.
Phường Kê Lung phồn vinh nhất Kim Lăng, một hàng bốn người đang chậm rãi đi, nhìn đông nhìn tây, xem ra có vẻ hết sức nhàn nhã, nhìn dáng vẻ bọn họ có lẽ là một đôi phu phụ và một đôi nô bộc. Đi phía trước là một nam tử khí độ ung dung chừng ba mươi tuổi, mặt như quan ngọc, mặt mày anh tuấn, nhìn qua cũng có được cảm giác khí phái.
Bên cạnh hắn là một nữ tử xinh đẹp mặc bích la sam, thân dài ngọc lệ, eo nhỏ như liễu, đang đúng vào độ phong tình dung mạo thành thục nhất. Khuôn mặt có che một chiếc mạng mỏng, nhưng ngũ quan xinh đẹp lúc ẩn lúc hiện càng làm lộ vẻ kiều mỹ của nàng.
Đi sau hai người là đôi nam nữ mặc thanh y, nam tử khoảng trên dưới hai mươi tuổi, mặc trang phục nô bộc, trên vai đeo một cái túi, dáng đi chân tay rất hiên ngang. Người nữ tử mặc thanh y trên mặt cũng che một chiếc mạng mỏng, bước đi nhẹ nhàng, thân hình uyên chuyển, tuy quấn tóc kiểu nô bộc nhưng dáng vẻ của nàng trông còn cao quý ưu nhã hơn nhiều thiên kim khuê tú đại hộ.
Bách tính Kim Lăng đã từng nhìn thấy nhiều quan viên, vừa nhìn thấy khí chất của bốn người này liền biết đó là người thuộc đẳng cấp tôn quý. Nhàn rỗi không có việc gì làm nên đi đạo phố phường, cho nên những người buôn bán hay lôi kéo khách cũng không dám chạy tới quấy rầy, bốn người cứ như thế mà đi, vô cùng tiêu diêu tự tại.
Cả chặng đường chỉ thấy những cửa hàng đủ màu sắc sáng rực cả đường, mãn cả nhãn.
Mỹ nhân mặc bích la sam đi sát bên cạnh quý nhân khoảng tam tuần, tươi cười bình phẩm những tiệm hàng bên đường: “Từ khi quan nhân cho mở các khoa khai công, lý khoa, nhân tài bách nghiệp có thể làm quan thì mấy năm nay cuộc sống của Đại Tống ta thay đổi không ngừng, mới mẻ thêm tầng tầng lớp lớp. Người qua người lại, nhà cửa mọc lên như nấm sau mưa. Quan nhân, chàng xem, chủ nhân cửa hàng này vừa mới chế ra một loại trang sức cực phẩm, hoa văn tinh xảo, tuy giá cả cực cao nhưng vẫn cung không đủ cầu”.
Quý nhân tam tuần mỉm cười gật đầu, mỹ nhân liền che tay cười: “Thật là tốt, cuộc sống sung túc đường hoàng, tuy không sánh bằng sự trang nghiêm của Trường An, nhưng sự phồn hoa lại không hề kém, đặc biệt có phong vị Giang Nam, chuyến này đi quá không uổng”.
Đôi mắt xinh đẹp của nàng chuyển chuyển con ngươi, cười khúc khích: “Đáng tiếc, Tử Du tỷ tỷ lại có mang rồi, không có phúc khí theo quan gia đi tuần thiên hạ. Hi hi, Tử Du tỷ tỷ thật là biết sinh, năm năm sinh ba đứa con trai, cứ như thế này mà sinh tiếp thì hai nhà Chiết Dương cộng lại thì người ta phải trố mắt mà nhìn rồi”.
Quý nhân đó ho nhẹ một tiếng, cười khổ nói: “Cái này... Tử Du... Ha ha ha, Tử Du cũng thật quá biết sinh một chút. Thôi, sau này nên dùng song tu pháp nhiều một chút, nếu không cả đời này nàng ngay cả cung môn nhi cũng không được đâu”.
Đôi nam nữ thanh y phía sau nghe thấy, không nhịn nổi mà trong mắt cũng lộ ra một ý cười. Bốn người tuần hành này đương nhiên chính là Dương Hạo, Trúc Vận, Mục Vũ và Mã Diệc.
Trúc Vận cười nói: “Nhưng trong nhà phò mã lại liên tiếp sinh hai nữ nhi, làm cho La lão đầu buồn tới mức râu cũng rụng một nửa rồi. Muốn nạp thiếp cho phò mã, nhưng lại sợ chàng không vui”.
Dương Hạo cười nói: “Nhà lão La con cháu đầy đàn, Khắc Địch không sinh con trai cũng không sao chứ? Ta thấy lão La cũng không buồn bực lắm như nàng nói. Khắc Địch nhậm chức lưu thủ U Châu kiêm quản chế binh mã ở Nữ Chân mới có ba năm, lão La cả ngày đi theo ta to nhỏ, muốn điều Khắc Địch về Trường An, nói ông ta muốn có thêm tiểu tôn nữ rồi”.
Trúc Vận hừ một tiếng nói: “Lão La chi nói miệng thế thôi, đúng rồi...”.
Nàng đột nhiên dừng bước, cười như không cười nhìn Dương Hạo: “Theo như thiệp biết, vị công chúa Da Luật Nhã đến bây giờ vẫn chưa gả cho ai, phò mã vừa đến U Châu là nàng ta lại tìm đủ cớ chạy tới, quan nhân phái phò mã đến thủ U Châu, nhưng chắc là không có ý định gì khác chứ?”.
Dương Hạo xoa xoa mũi, cười khan nói: “Muội tử của ta là Đại Trường công chúa, cho dù Khắc Địch có thật sự nạp thiếp thì thân phận đối phương cũng không thể quá thấp, phải không? Việc này à, để xem duyên phận đi, tiếp theo như thế nào ta không quản được”.
Trúc Vận bĩu môi, hừ nhẹ một tiếng, mắt thấy phía trước đã là ngã tư, Trúc Vận lại dừng bước, nói: “Quan nhân tuy đã lệnh cho nghi trượng đi từ từ ở sau, có điều tính đến thời điểm này có lẽ cũng nên tới rồi, chúng ta bây giờ về cung sao?”.
Dương Hạo lắc đầu nhẹ, đứng trầm ngâm trong chốc lát nói: “Nàng về cung trước đi, nhiều năm không đặt chân đến Kim Lăng rồi, ta muốn đi một mình một chút”.
Trúc Vận vâng một tiếng rồi xoay người đi, một đám người sớm đã đứng ở một góc, ăn mặc như văn sĩ từ đi tới nghênh đón. Trúc Vận lên xe, vừa vào bên trong ngồi xuống đột nhiên lại vén rèm cửa sổ lên, thò đầu ra ngoài, cười ranh mãnh nói: “Quan nhân, A Cổ Lệ sắp đến Kim Lăng rồi, chàng định... Làm gì người ta?”.
“Cái gì mà làm gì?”.
Trúc Vận hừ nhẹ một tiếng nói: “Tâm tư của người ta đối với chàng đến cả kẻ mù cũng nhìn ra, chàng biết mà chúng thiếp không biết sao? Người ta thay chàng củng cố Lũng Hữu, ổn định Cam Châu, bây giờ công đức đã viên mãn, lại giao đại quyền lại, tùy cho chàng phái đi làm quan. Một nữ nhi gia có thể có bao nhiêu tuổi xuân cơ chứ? Đông Nhi, Tử Du, còn có cả mấy tỷ muội Diễm Diễm đều đã gật đầu rồi, còn nếu như Dương đại quan nhân chàng thật sự có lòng dạ sắt đá thì coi như thiếp chưa nói gì đi”.
Trúc Vận buông rèm xuống, một đoàn thị vệ bảo vệ xe ngựa rời đi, Dương Hạo lắc đầu cười, quay lại nhìn Mục Vũ, trầm giọng hỏi: “Việc ta giao cho khanh làm thế nào rồi?”.
Mục Vũ liền tiến lên một bước, vừa đi vừa nói: “Tuân dặn dò của quan gia thần đã đưa thái tử và thái phó tiên sinh đến U Châu trước rồi. Thái tử rất thích nơi đó, trước khi ra khỏi Quan Trung thái tử còn khóc quấy cả ngày, nói là nhớ quan gia và hoàng hậu nương nương, bây giờ đã tốt hơn rồi. Ăn được, ngủ được, phò mã đã tặng cho thái tử một con ngựa nhỏ, thái tử tuổi tuy nhỏ nhưng về khả năng săn bắn lại không hề nhò”.
Dương Hạo cười vui vẻ: “Thật là tốt, đọc trăm vạn cuốn sách cũng không bằng hành tẩu ngàn dặm được, tuyệt đối không thể để thái tử ở trong thâm cung quá lâu, nuôi dưỡng thành một kẻ đần độn như Tấn Huệ đế. Các hoàng tử khác sau này cũng sẽ làm như thế, mỗi một thái phó mỗi năm phải thay nhau đưa một hoàng tử đi, nửa năm sống trong cung, nửa năm ở bên ngoài, tạo thành một thông lệ”.
Mục Vũ nói: “Vâng, sau đó thần đã đến thượng kinh, theo như lời quan gia dặn dò, dâng lên quốc thư và tư thư cho Tiêu hậu nương nương, có điều... Có điều dặn dò của quan gia, thần mới chỉ hoàn thành một nửa”.
Dương Hạo nhíu mày, ngạc nhiên nói: “Hoàn thành một nửa, nghĩa là sao?”.
Mục Vũ cười khổ nói: “Quan gia hẹn Tiêu hậu nương nương hội ngộ, thương lượng việc hai nước tiến thêm một bước mở rộng giao thương, thay đổi luật pháp mậu dịch, Tiêu hậu nương nương đã đồng ý rồi. Có điều thứ mà quan gia sai thần đưa cho Tiêu hậu nương nương, nương nương chỉ nhận một nửa”.
“Sao cơ? Chỉ nhận một nửa?”.
Mục Vũ nói, rồi lấy ra một hộp cẩm. Dương Hạo nhận lấy, mở ra nhìn, nhìn thật kỹ rồi lại nghĩ ngợi, dần dần lộ ra một nụ cười hiểu ý, lòng như đã mở cờ nói: “Khanh giữ hộp cẩm này cẩn thận, đợi khi trẫm hội ngộ với Liêu hậu nhất định phải mang theo”.
Mấy năm nay, Tống Quốc hoàn toàn mở các thị trường giao thông buôn bán, bỏ hết chướng ngại ảnh hưởng tới việc giao thông hàng hóa, biên cảnh hai nước ngày càng hưng thịnh, chiếm một phần năm tổng lượng mậu địch của Tống Quốc, còn bên Liêu Quốc thậm chí còn đạt đến một phần hai.
Lá trà, nồi sắt, vải... Lưu thông không chút chướng ngại, quan thuế rất thấp, hơn nữa Dương Hạo còn hết sức giúp đỡ cho bắc triều phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp. Tuy nói bắc triều trong mười năm cần phải cống nạp cho Tống triều đầy đủ số lượng ngựa, dê, nhưng ở mặt nào cũng có ưu đãi rất nhiều.
Cửu Châu Sơn Hậu của Liêu Quốc là nơi tụ cư của người Hán, cũng là vùng nông canh lớn nhất của Liêu triều, bọn họ là những người thu hoạch lớn nhất về mặt trồng lương và kỹ thuật canh tác, đồng thời do xu thể phát triển biên cương ngày càng hưng thịnh mà bọn họ cũng là nhóm người được hưởng lợi nhiều nhất. Mấy năm nay, người Hán bắc triều với hoàn cảnh sống được cải thiện lớn cũng những bách tính chư tộc khác cũng đã có thiện cảm hơn nhiều đối với Tống Quốc, không còn lạnh lùng nhìn như kẻ địch nữa. Cho dù lúc trước hai nước là kẻ địch không độ trời chung, tình hình này có quan hệ rất mật thiết với những ngày tháng tốt đẹp ở hậu thế.
Mục đích của Dương Hạo rất đơn giản, hắn muốn sống nhưng cũng muốn người khác được sống, nếu không mọi người dùng mong thái bình.
Dương Hạo biết, dân tộc thảo nguyên phương bắc là những người bất khuất bất phục, giống như những người trên thảo nguyên ở Âu châu, hoàn cảnh sinh tồn khó khăn, chỉ có thể dùng cây cỏ và nhu phẩm, thịt động vật để đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Họ chỉ có thể liên tục chuyển tới các vùng thảo nguyên khác để kiếm ăn khi thời tiết thay đổi.
Bọn họ đã chinh phục được thiên nhiên, đồng thời cũng trở thành nô lệ của hoàn cảnh thiên nhiên. Khi đến lúc thiên nhiên khắc nghiệt khó có thể bảo toàn tính mạng thì bọn họ duy chỉ có con đường thông qua chiến tranh để đoạt lấy. Vậy có thể đến cướp đoạt ở đâu? Là nơi bắc cực nghèo khó và hoang vu sao? Đương nhiên là phải huy quân nam hạ, khách quan mà nói dân tộc thảo nguyên đã có tiền lệ từ lâu. Họ không ngừng xâm chiếm về phía nam, nhân tố chủ yếu quyết định không phải là dã tâm cá nhân của kẻ thống trị mà là quyết định của ông trời.
Cho nên bọn họ hiếu chiến hơn người Trung Nguyên, thiện chiến hơn người Trung Nguyên, cũng không tính toán nhiều đến cái giá của chiến tranh như người Trung Nguyên, còn có cái giá nào quan trọng hơn sự sinh tồn chứ?
Dương Hạo hy vọng việc văn hóa đồng hóa, kinh tế thẩm thấu, kỹ thuật nông canh được truyền bá có thể làm cho hoàn cảnh sinh tồn của bắc triều sẽ không thảm khốc như khi chiến tranh. Nếu như đã không có cách nào diệt được lang thì chi bằng biến lang thành cừu. Đối lập và áp chế không thể giải quyết được vấn đề, hy vọng có thể dùng những thủ đoạn khác để giải quyết chúng, ít nhất cũng giảm thiểu lượng lớn bắc nhân xâm phạm phương nam. Nếu như có một ngày con cháu hậu thế thật sự hủ bại, triều đình trở thành con quỷ chỉ biết nuốt mỡ dân hút máu dân thì triều đại thay thế ít nhất cũng sẽ là nhóm người văn minh, còn hơn là để một bầy người dã man kéo cả Trung Quốc thụt lùi lại.
Đương nhiên, chiếm lĩnh được thất châu Sơn Tiền, không chế những yếu địa chiến lược, văn hóa kinh tế cùng lúc xâm lược và đồng hóa, đó là vì sự vững chắc của quốc gia sau này, nhưng việc nội bộ ổn định vẫn quan trọng hơn tất cả. Điểm này không thể xem thường.
Một lượng lớn vật tư sự sinh sống được chuyển vào bắc triều, đã cải thiện hoàn cảnh sống của họ. Bất kể thứ nào vừa được ra đời và phát triển ở Trung Nguyên thì rất nhanh đều được lưu hành đến cả bắc triều. Sự chấp nhận văn hóa, cải thiện kinh tế đang dần làm thay đổi tập tục, thói quen và tính cách của người bắc triều. Đồng thời, Tống Quốc đã cho cải cách lại trị, khoa cử, quân chế, mở rộng biển thông thương, giao du vạn quốc, dần dần xóa bỏ được những hủ tục tiêu cực, bảo thủ trong văn hóa.
Đây là công trình trường kỳ, hoặc có thể phải cần có sự nỗ lực của mấy thế hệ, nhưng tác dụng của nó cực lớn. Dựa vào sự thông minh tài trí của người Trung Quốc, trong tương lai có thể tích cực mở rộng và phát triển tiếp tục. Cho dù một ngày hắn không còn nữa, cho dù một ngày con cháu hắn bất hiếu làm mất đi giang sơn. Thì người bị suy sụp chỉ có một họ một nhà hắn, còn dân tộc này vẫn sẽ ngày càng phát triển, sẽ không biến thành một hũ tương hỗn tạp.
Liêu Quốc tuy mất đi thất châu Sơn Tiền, nhưng hoàn cảnh nội bộ quốc gia lại thay đổi rõ rệt, mỗi người đều cảm nhận được nó. Cho dù là mục dân bình thường cũng cảm thấy sự thay đổi cực đại sau khi kết hòa bình với Trung Nguyên, bọn họ cũng không còn đáng thương đến mức cái nồi sắt sứt cũng coi như gia bảo nữa.
Vì mảnh đất Hà Tây và thất châu Sơn Tiền đã vào tay nên ngựa, bò dê Liêu Quốc không còn là thứ cầu cũng không được nữa, vì thế có thể vận chuyển vào với giá cả phải chăng, Trường An bắt đầu hưng vượng ngành nghề này, Quan Trung cũng bắt đầu phát đạt hơn.
Đây là chuyện có lợi cho cả hai bên, Dương Hạo tin rằng với sự thông minh của Tiêu Xước có thể hiểu rõ được lợi và hại của chiến với hòa, có thể hiểu được nỗi khổ tâm của hắn, để đủ có thể giải được nối hận thù với hắn, thậm chí... Khụ khụ... Cả thứ trang sức mang trả lại một nửa này nữa, nàng ấy hy vọng... Mình sẽ chính tay đeo cho nàng ấy sao?
Nhất thời Dương Hạo không nén nổi cảm khái mà thở dài.
Mục Vũ khom người ho khan một tiếng, liếc nhìn thần sắc của Dương Hạo, lại nói: “Trên đường trở về thần đã đến Sùng Hiếu am, bí mật hội kiến Vĩnh Khánh điện hạ ở hậu am...”.
Dương Hạo vội hỏi: “Nàng ấy nói sao?”.
Mục Vũ nói: “Thần đã làm theo những gì quan gia đặn dò, khổ công khuyên điện hạ để tóc hoàn tục. Nhưng... Nhưng điện hạ không chịu, điện hạ nói chỉ nguyện làm thanh đăng cổ phật cho tới cuối đời để cầu phúc cho vạn dân trong thiên hạ. Điện hạ nói bây giờ người sống rất tốt, lòng rất thanh thản, Vĩnh Khánh công chúa đã báo được đại thù, giang sơn đã truyền lại, nên Vĩnh Khánh trước kia đã chết thật rồi, người bây giờ chỉ là một ni cô tiềm tâm tĩnh tu. Bảo chuyển lời tới quan gia về sau đừng phái người đến làm phiền người tĩnh tu nữa”.
Dương Hạo trầm mặc một lúc, lại thở dài.
Rồi họ lại đi tiếp, đi tới một thư viện Giang Nam, bây giờ đang là thời gian tổ chức khoa cử mùa xuân, ngũ đô đồng thời mở khoa khảo, chẳng trách sĩ tử trong thiên hạ đều lặn lội đường xa, tập trung hết ở Trường An. Sĩ tử ở mảnh đất Kim Lăng này cũng không ngoại lệ, họ ùn ùn kéo nhau đi ứng thi, người đông như trẩy hội.
Dương Hạo thấy tình cảnh tấp nập như vậy không khỏi mỉm cười.
Hắn đột nhiên nhớ tới cái ngày khi mới đến Biện Lương, chính là ngày hắn gặp Thôi Đại Lang, một ngày rất khó quên.
Bây giờ Thôi gia trải qua sự tranh đấu ngầm với Trịnh gia, lực lượng ẩn nấp đã hoàn toàn bị bại lộ, qua sự truy tìm của mật vụ Phi Vũ, cộng thêm sự nổi dậy của Đường gia, Lý gia, lực lượng ngầm của Thôi gia đã hoàn toàn không còn tác dụng, không thể gây nổi cơn sóng nào nữa. Dương Hạo căn bản không có ý chèn ép Thôi thị, chỉ là hắn giờ đang đứng ở chỗ rất cao, khi nhìn thấy rộng hơn thì sẽ tiến hành tu chỉnh và thay đổi những lực lượng kinh tế đang làm lũng đoạn thị trường. Khi quốc gia cường thịnh, những thế lực đó sẽ trợ lực cho sự phát triển của quốc gia, nhưng khi quốc gia bên bờ diệt vong, thì nếu như không có chúng, quốc gia sẽ thoát được vận mệnh diệt vong.
Đường gia, Lý gia, Thôi gia, thậm chí trong thất tông ngũ tính của Kế Tự đường bây giờ đều đã được bày lên đài, trở thành những kẻ nổi bật trong công thương nghiệp Tống Quốc, làm ăn thậm chí còn vươn ra cả hải ngoại, thông qua sự dẫn dắt của chính sách, Dương Hạo đã thành công biến những âm mưu gia thành xí nghiệp gia, dưới cờ của bọn họ đã có rất nhiều công xưởng cực lớn. Có lẽ sẽ có một ngày bọn họ trờ thành nguồn thu thuế lớn trụ cột của Đại Tống, thậm trí là những đại công ty liên doanh, trở thành những công ty có thể chế kinh tế, chính trị như các công ty Mỹ. Dương Hạo rất hy vọng chúng có thể phát triển một cách toàn diện, có thể lột xác hoàn toàn.
Trong đám sĩ tử, nhân gia, nô bộc, tiểu thương đang thì thầm to nhỏ, kẻ buồn người vui, có một tên ăn mày lưng còng đang chú ý quan sát tinh thần của đám sĩ tử. Kẻ nào mặt mày ù rũ, đau thương thì đương nhiên hắn sẽ không đến xin xỏ, nhưng chỉ cần thấy có kẻ mặt mày hớn hở là hắn lập tức mò tới, tươi cười chúc mừng, nịnh bợ vài câu. Người ta vui sẽ không để cho hắn đi với hai bàn tay không, ít nhiều cũng cho một chút gì đấy.
Đột nhiên quay đầu lại, thấy Dương Hạo đang nhếch môi cười, tên ăn mày đó mắt sáng lên, vội vàng chạy tới, khi cách khoảng tám thước liền cúi đầu xuống, mở mồm cao giọng nói: “Chúc mừng lão gia, chúc mừng lão gia, kim bảng đề tên, ngư vượt long môn”.
Mục Vũ vừa bực mình vừa buồn cười, bước lên một bước, mắng: “Cái đồ mắt mù, lão gia nhà ta...”.
“Thôi, thôi”. Dương Hạo đẩy Mục Vũ ra, thấy tên ăn mày quần áo rách nát, mặt mày lấm lem, sau lưng có cái gì đó nhô lên. Hình như cột sống bị dị dạng, cho dù hắn có đứng thẳng cũng như đang cúi cung kính vậy, trông dáng vẻ rất đáng thương, Dương Hạo liền lấy trong áo ra một xâu tiền, đưa tới nói: “Cầm lấy đi”.
Người đó vừa ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một xâu tiền ánh vàng rực rỡ, không khỏi mừng rỡ như phát điên, khấu đầu nói: “Đa tạ đại gia. Đa tạ đại gia. Tiểu nhân chúc đại gia ngài...”.
Hắn vừa nói vừa đưa tay ra nhận tiền, đột nhiên nhìn rõ mặt Dương Hạo, bất giác sắc mặt đại biến, như nhìn thấy quỷ, liền lùi lại, kêu mấy tiếng rồi như muốn bỏ chạy.
Thấy ánh mắt khác thường của hắn, thị vệ ngầm trong đám đông sớm đã có sự cảnh giác, hắn vừa động một cái thì mấy đại hán mặc thường phục từ trong đám đông liền nhảy ra, vây chặt hắn ở giữa. Dương Hạo tay vẫn cầm xâu tiền, nhìn chằm chằm vào cái tên ân mày đang cúi gằm đầu xuống đất, ánh mắt như đang muốn lẩn tránh kia, ánh mắt Dương Hạo cũng dần dần ngưng trọng lại.
Hắn đứng thẳng dậy, từ từ đi lại trước mặt tên ăn mày, trầm giọng nói: “Ngẩng đầu lên”.
Tên đó run cả người lên, cằm dí sát xuống ngực, vì có cái bướu nên cơ thể như cong lại, nhìn rất giống một cái đầu hỏi không được tiêu chuẩn cho lắm.
Dương Hạo lớn tiếng quát: “Ngẩng đầu lên”.
Cơ thể hắn lại run lên, hai đầu gối nhũn ra, đột nhiên quỳ phục xuống đất, đầu liên tục đập xuống đất: “Đinh... Dương Hạo... Hoàng... Đại gia tha mạng, tha mạng. Nhìn tiểu nhân rơi vào bước đường này rồi, quý nhân ngài giơ cao đánh khẽ, tha cho cái mạng chó của tiểu nhân. Tiểu nhân khấu đầu với ngài, khấu đầu với ngài, xin thứ tội... Xin thứ tội, là tiểu nhân đã sai, tiểu nhân đã gặp báo ứng, đại gia tha mạng...”.
Tên đó khóc rống lên, khấu đầu đến nỗi chảy cả máu nhưng lại không dám dừng lại. Đám sĩ tử xung quanh hoảng sợ thất sắc, không biết tên ăn mày kia là ai, lại có quan hệ gì với vị công tử khí độ bất phàm kia.
“Ngẩng đầu lên!”.
Tên ăn mày không dám trái y hắn nữa, từ từ ngẩng đầu dậy, Dương Hạo nhìn hắn một lúc lâu mới thở dài một tiếng, từ từ bước lên phía trước hai bước, cái tên ăn mày bộ dạng giống như con chó kia sợ hãi nhưng không dám lùi lại. Dương Hạo nhẹ nhàng đặt xâu tiền lên vai hắn, lạnh lùng nói: “Người mà ngươi có tội nhất thực ra không phải là ta, mà là Nhạn Cừu”.
Dương Hạo xoay người bước đi, đám sĩ tử đang há mồm trợn mắt đứng nhìn vội vàng tránh đường, đợi khi Dương Hạo và đám người thân cận rời đi, tên ăn mày đang quỳ dưới đất mới từ từ ngẩng đầu lên.
Hắn ngẩn ra một hồi lâu, mới lắc lắc người, ánh mắt có chút mờ mịt.
Khuôn mặt hắn bây giờ gầy guộc lấm lem, cáu bẩn và tang thương. Nếu như là người cực kỳ thân thuộc với hắn, lại biết rõ thân phận thật sự của hắn có lẽ còn có thể thấp thoáng nhìn ra dáng vẻ phong lưu năm đó của nhị công tử Đinh Thừa Nghiệp của Đinh gia Bá Châu.
“Nhạn Cừu?”.
Đầu hắn đã cứng nhắc, khó khăn lắm mới nhúc nhích được cái đầu, rồi dần dần nhớ đến cái tên cẩu nô tài ngày xưa đã từng ở bên hắn: “Nhạn Cừu? Sao ta lại có lỗi với Nhạn Cừu chứ?”.
Gió thổi nhẹ nhẹ qua, Đinh Thừa Nghiệp vẫn đứng đó, đứng rất lâu, rất lâu, đột nhiên sống mũi cay cay, trong cơn gió, một hàng nước mắt chợt tuôn rơi...
Dương Hạo không ngờ Đinh Thừa Nghiệp năm đó bị trúng tên sau lưng, rơi xuống hố phân lại không chết, nhưng đối mặt với tên ăn mày tàn phế này hắn thật sự không ra tay nổi, kết cục như thế này còn đau đớn hơn là giết chết hắn.
Dương Hạo trầm mặt xuống, đi về phía trước, thấy thần sắc không vui của hắn, ngay cả Mục Vũ và Mã Diệc cũng không dám nhiều lời. Thư viện này thật lớn, khắp nơi đều là sĩ tử đang ngồi, Dương Hạo lần này đi cũng là muốn đến Tĩnh Tâm am. Tĩnh Tâm am là nơi tĩnh tu năm đó của Tĩnh Thủy Nguyệt. Từ sau khi Triệu Quang Nghĩa gặp thích khách, Bích Túc cũng lưu lạc không rõ nơi đâu. Cách đây không lâu, Dương Hạo đột nhiên nhớ tới Tĩnh Tâm am, liền phái người đến vùng lân cận dò hỏi, mới biết được am này đã đổi thành Tự Khố miếu. Tự danh vẫn là Tĩnh Tâm tự, còn Bích Túc đã xuất gia ở đây, lần này tuần Giang Nam, hắn cũng muốn thăm cố nhân một chút.
Bước lên cây cầu gỗ Tần Hoài, người qua lại khá ít nhưng ở phía trước lại có rất nhiều sĩ tử tụ tập ở một chỗ, thỉnh thoảng lại có mấy giọng nói vang lên, xem lên tiếng léo nhéo của nữ tử.
Dương Hạo hơi nhíu mày, từ từ đi tới, thị vệ sớm đã đi trước một bước, đẩy người ra, mở đường đi cho hắn.
Đến phía trước đám người thì thấy có một thư viện, ngói xanh tường trắng, cánh cửa đỏ thắm, phía trên giữa cửa có một tẩm bảng viết: “Liên tử thư ngụ”.
Dưới cửa có ba bậc đá, đứng sát cửa có một tiểu cô nương mặc áo màu phi thúy, mặt mày như tranh vẽ, khuôn mặt xinh xắn ửng đỏ, hai tay chống eo, tức giận trừng trừng nhìn đám sĩ tử trước mặt.
Một lão hủ trong đám sĩ tử đó dung mạo thanh sáng, mái đầu đã đầy tóc mạc, tinh thần rất không vui. Ông ta mặc một trường bào thêu hoa văn hình mây, dáng vẻ làm cho người ta thấy cũng phải cung kính. Lão tiên sinh này vuốt râu, khinh thường nói: “Quan gia xướng đạo nữ học là có nỗi khổ trong lòng, Lục mỗ đương nhiên không dám phi lễ. Chỉ là Phật gia có câu ‘nhân văn giải nghĩa, tam thế phật oan’, quan gia xướng đạo nữ tử học chữ học văn, để giải ngu muội, chứ không phải thật sự muốn đám nữ nhân cô nương được lập triều đường như nam tử.
Biết chữ cũng được, học văn cũng được... Những những nữ tử thông văn biết chữ mà có thể làm một đại nghĩa giả, hiên đức lại không nhiều, những người khác lại được khơi dậy dã tâm, thậm chí là nghĩ ra đủ mọi thứ, làm ra rất nhiều chuyện xấu, ngược lại chẳng bằng những kẻ không biết chữ. Cái này gọi là nam tử có đức là có tài, nữ tử vô tài mới có đức.
Nhưng tiên sinh nhà cô nương lại đang dạy cái gì chứ? Hừ! Chính lược quốc sách cũng kệ thôi, nhưng ngay cả mấy điệu hát dân ca, tạp kỹ cũng đều dạy, thật là hoang đường. Trong ngũ luận, nam nữ có sự khác biệt, nam là trời, nữ là đất, nam nữ ai cũng nên về chỗ của người ấy, nam có tài mới làm nên nghiệp lớn, còn nữ chỉ cần thủ phụ đạo là được, đây mới là đạo lý.
Nhưng tiên sinh nhà cô nương lại dạy toàn thứ linh tinh, đã làm mê hoặc dân chúng lại còn dám nói tương lai quan gia tất sẽ mở nữ khoa, lấy điều này để lừa gạt thế dân, lão phu quyết vì chính nghĩa, vì giới sĩ lâm Giang Nam quét sạch tà vọng”.
Lão đầu này dẫn dắt những luận chứng luận cứ, thao thao bất tuyệt, đám chúng sinh nghe đều gật gật đầu. Dương Hạo lướt nhìn lão đầu, suýt nữa bật cười, đó chính là Lục Nhân Gia, cái lão già này nhiều năm không gặp, hóa ra lại đã khởi dạy ở Giang Nam, khó trách sĩ lâm Giang Nam không biết chuyện hắn ở Biện Lương bị mắng cho phun cả máu.
Tiểu cô nương tức khí dậm chân: “Phì phì, lão bất tu, mồm thì nói có vẻ đường hoàng, nhưng một bụng lại toàn là thứ rác rưởi, ngươi biết tiên sinh nhà ta mỹ sắc hơn người, nên dùng đủ mọi thủ đoạn rắn mềm đều có, dùng hết rồi cũng không đoạt được nên mới quay lại báo thù”.
Khuôn mặt già nua của Lục Nhân Gia liền đỏ lên, thẹn quá thành giận nói: “Nói bậy, nói bậy, lão phu là một người luôn hiển minh trong giới sĩ lâm Giang Nam. Tiểu cô nương như cô lại đám nhục mạ lão phu, sao lại có cái lý đó, mọi người xem xem, xem xem, một tiểu mữ tử rất ngoan ngoãn đã lại bị tiên sinh vô lương đó dạy hư rồi”.
Đám sĩ tử đứng cạnh đều gật đầu, cho là đúng.
Dương Hạo thấy cảnh này không khỏi thầm than: “Không biết tiên sinh của thư viện này là ai mà lại có tuệ nhãn nhìn ra việc ta xướng mở trưởng nữ là để một ngày nào đó sẽ mở nữ khoa, để cho nữ tử cũng sẽ dốc sức vì quốc gia như nam tử. Chỉ là xem tình hình này tuy thời Đường Tống, nữ tử đã tự do hơn nhưng muốn thay đổi quan niệm của mọi người vẫn là một việc khó khăn và lâu dài”.
Hắn lại thở dài một tiếng nữa, đứng thẳng người đậy, bước ra nói: “Theo ta thấy những lời vị tiểu cô nương này nói rất có lý. Lục tiên sinh là có tiền khoa, nếu ngài thấy tiên sinh nhà người ta sắc nước hương trời thì mang đại vọng vong đại nghĩa, sẽ tìm đủ mọi cách để đoạt được, ta thấy đây đúng là bản chất làm người của ngài rồi”.
Đúng lúc này, từ trong viện phát ra một giọng nói: “Lê Hương, đóng cửa vào đi, không cần phải để ý đến đám tục nhân đó nữa”.
Đi theo giọng nói đó, một nữ tử yểu điệu đi khoan thai từ trong viện ra, nữ tử này mặc một bộ sa la y màu trắng bạc, dáng người thon thả trông như ngọc nhân bích thủy.
Dương Hạo bước từ trong đám người ra, cười nhìn Lục Nhân Gia, nhưng vẫn chưa quay sang nhìn dáng vẻ nữ tử ấy. Nàng ấy vừa bước ra khỏi cửa đã nhìn thấy Dương Hạo, bất giác như sấm đánh ngay trước mặt, cả người cứng đơ lại, tay chân run run, rõ ràng là rất sợ hãi.
Lục Nhân Gia nghe được có người đang chế nhạo mình, vô cùng tức giận quay đầu lại, vừa nhìn thấy Dương Hạo lập tức mặt biến sắc. Dương Hạo, kẻ ngày trước đã hại hắn thân bại danh liệt, bây giờ đã làm đương kim thiên tử. Hắn đương nhiên biết hôm nay Dương Hạo đứng ở đây chính là đang mặc thường phục vi hành, trong nhất thời vừa kinh vừa sợ. Cũng không biết nên quỳ xuống bái lễ, làm cho thân phận của hắn bị bại lộ hay là vờ như không biết. Nhưng bất kể như thế nào, giờ Dương Hạo ở đây thật sự ép hắn vào đường cùng, làm cho hắn không biết làm thế nào mới tốt.
Những sĩ tử này vốn ồn ào quát lớn, đột nhiên nhìn thấy thần thái cổ quái của Lục tiên sinh, hình như đang sợ hãi cực độ. Liền ngậm mồm vào, kinh ngạc nhìn, Dương Hạo cười nói: “Những lời tiểu cô nương nói chắc là có chứng cớ. Với nhân phẩm của Lục tiên sinh có lẽ là có thể làm ra được ra những chuyện này, Lục tiên sinh, ngài còn gì để phản bác không?”.
Lục Nhân Gia như gặp quỷ mị, thụt lùi vài bước, đột nhiên kêu lên mấy tiếng kỳ lạ rồi bỏ chạy. Thật không hổ danh hắn, tuổi đã lớn thế rồi mà lại chạy nhanh như thế, hồn bay phách lạc không biết chạy về hướng nào. Hắn chạy xông qua đám sĩ tử, đẩy ngã một người đang cầm một rổ đựng giấy, bút và nghiên mực, làm mọi thứ rơi xuống tung tóe.
Dương Hạo cười lớn ha ha, tiến lên cúi người xuống nhặt giấy và bút lên, giọng trầm trầm nói: “Tiểu Vũ, đến đây, làm thư án cho ta”.
Mục Vũ đáp một tiếng rồi cúi người xuống, Dương Hạo đặt tờ giấy lên lưng hắn, nhấc bút chấm mực, rồi như nghĩ ngợi gì đó.
Tiểu cô nương Lê Hương đứng trên bậc thềm thấy vị công tử này chỉ mắng có một câu mà cái tên Lục tiên sinh kiêu căng đã phải sợ chạy bán sống bán chết, nên vô cùng kinh ngạc, nói: “Vị công tử này, ngài là ai, tại sao người họ Lục đó lại sợ ngài như vậy”.
Dương Hạo cười nói: “Vị họ Lục đó ăn uống đánh bạc, nợ của ta rất nhiều ngân lượng, đương nhiên vừa thấy ta sẽ phải bỏ chạy rồi”.
Hắn cười dài rồi nói, ánh mắt hơi di chuyển, đột nhiên nhìn thấy nữ tử bạch y đứng ở tiểu viện, thần sắc ngẩn ngơ, nữ tử đó biết hắn đã nhìn thấy mình liền nhích người một cái như muốn bỏ trốn, nhưng cuối cùng đánh miễn cưỡng đi về phía hắn.
Tiểu cô nương ngây thơ kia vẫn chưa phát giác ra vị công tử này và tiên sinh nhà mình đang nhìn nhau, liền do dự gật đầu nói: “Hóa ra là như vậy, nếu như đã nợ người ta khoản lớn mà không trả được thì đành phải chạy thôi”.
Dương Hạo cười lớn, nâng dịch giấy vừa viết bốn chữ lớn: “Kim Lăng nữ giáo”.
Vừa rồi thấy hắn chỉ dùng một lời đã làm cho Lục lão tiên sinh, vốn được coi là một bậc đạo đức văn chương phải chạy mất dép, đám sĩ tử đó vừa kinh lại vừa nghi ngờ, không biết vị công tử khí độ bất phàm này có tài kinh thiên gì, lại làm cho dũng khí của Lục tiên sinh hoàn toàn biến mất khi đối diện với hắn. Thấy hắn muốn động bút, đám sĩ tử liền nín thở, mang tâm trạng kính nể yên lặng đợi hắn.
Không ngờ bốn chữ Dương Hạo viết ra này lại hoàn toàn không có chút tài hoa nào, xấu đến mức người ta chẳng muốn nhìn, chúng sĩ tử suýt chút nữa ngã ngửa. Ngay cả tiểu cô nương này trên mặt cũng tỏ ra ngượng ngùng, có lòng muốn khen hắn mấy câu nhưng quả thật lương tâm không cho phép.
Dương Hạo lại không bận tâm, hắn viết xong bốn chữ to dùng, liền nghiêng đầu thưởng thức, cười tự đắc, lại nói: “Tiểu Diệc”.
Mã Diệc đáp một tiếng, lấy trong người ra một chiếc hộp vuông vức, mở ra, cầm ngọc ấn màu xanh ngọc bích, đóng một cái lên tờ giấy đó.
Những thư sinh đứng bên cạnh liếc mắt nhìn, rõ ràng đó là “Vĩnh Hằng ngự bút”, họ không khỏi giật mình sợ hãi, lùi lại mấy bước, một lúc lâu mới kêu lên.
“Soạt soạt soạt...”. Đám sĩ tử đã lấy lại phản ứng, vội vã quỳ xuống, mồm năm miệng mười hô lên, người có công danh thì xưng làm tiểu thần, người không có công danh thì xưng là thảo dân, ào ào bái thiên tử.
Dương Hạo lại chỉ nhìn vào bạch y nhân đang đứng trong viện, Liễu Đóa Nhi hít một hơi, cố gắng trấn áp tim mình, rồi mới từ từ đi ra. Nhìn vào bốn chữ, trong mắt ẩn hiện một nụ cười: “Chữ của người... Vẫn xấu như vậy...”.
Dương Hạo cũng mỉm cười nói: “Còn con người nàng lại hao gầy đi nhiều”.
“Đại thúc, có mấy chữ viết này thì có thể đảm bảo sẽ không có ai đến quấy rầy bọn họ nữa phải không, còn có thể hưng chấn việc nữ tử hướng học phải không?”. Mã Diệc ngây thơ hỏi.
Dương Hạo cười nói: “Việc đó là đương nhiên, nữ tử Giang Nam vốn có truyền thống học hành, huồng hồ đó còn là ngự bút do đích thân đại thúc viết. Lời của hoàng thượng chính là kim khẩu ngọc ngôn, không cho phép bất kỳ ai làm trái cho dù bản thân hoàng đế cũng không dễ dàng thu lại được thánh mệnh, nếu như có thêm bút tích thì càng được coi trọng, nhất ngôn cửu đỉnh, không có gì có thể làm trái được”.
“Ừm”. Mã Diệc gật đầu, trong mắt đột nhiên lóe lên, không biết là đang nghĩ cái gì nữa.
Đáng tiếc Dương Hạo đi ở phía trước nên chưa phát hiện ra, vẫn trầm ngâm nói: “Đúng vậy, luận về phong khí thói quen, Tây Bắc là một khối ngọc lớn, tùy cho ta điêu khắc, phổ biến dễ dàng. Còn trong những nơi khác thì Giang Nam là nơi phong khí mở cửa nhất, nên nếu muốn phát triển việc học, khoa khảo, chính vụ nghiệp của nữ tử thì nơi đây sẽ là nơi bắt đầu dễ dàng nhất. Ừm... Hãy giao việc này cho Liễu Đóa Nhi. Tiểu Diệc, ghi lại việc này, khi trở về gặp Kim Lăng lưu thủ thì gọi Liễu cô nương đến, ta muốn nàng ấy đồng ý gánh vác việc này”.
Mã Diệc cắn cắn môi, mắt lại lóe lên, không biết đang nghĩ cái gì nữa, nghe Dương Hạo dặn dò liền vội vã gật đầu đáp tiếng, sau đó lại nhỏ tiếng hỏi Mục Vũ chuyện gì đó.
Phía trước là Tĩnh Thủy am rồi, Tĩnh Thủy am trải qua chiến hỏa tàn phá giờ đã được tu sửa lại, chỉ là trên cửa am đổi chữ am thành chữ tự.
Dương Hạo dừng bước, nhìn vào trong ngôi tự miếu không nói gì, một thị vệ liền nhẹ nhàng đi tới, bẩm báo nói: “Trụ trì tự này đang ở bên trong, có cần đuổi hết thiện nam tín nữ lui ra hết để quan gia gặp đại sư không ạ?”.
Dương Hạo lắc lắc đầu: “Không cần kinh động, trẫm... Tự đi vào”.
Trên đại điện, rất nhiều tín đồ phật gia đang chắp tay nghe giảng kinh, trên chiếc đệm hương bồ phía dưới tượng Phật Tổ có một vị tăng nhân cụt một tay đang ngồi khoanh chân, dùng giọng nói thanh thoát trong trẻo niệm kinh.
Dương Hạo đứng yên lặng nhìn tên trộm năm xưa bây giờ đã hoàn toàn khác. Hắn cứ đứng đó nhìn, yên lặng lắng nghe, đôi mắt dần dần nhòa đi.
Bích Túc cao giọng tuyên pháp, trong nháy mắt đã nhìn thấy Dương Hạo đang đứng ở một bên điện, hắn không kinh ngạc cũng không sợ hãi, không vui không buồn, chỉ cúi đầu làm lễ với Dương Hạo, rồi tiếp tục giảng kinh.
Dương Hạo cũng chắp hai tay kiến lễ lại hắn, rồi từ từ lui ra, trong tai hắn như vẫn văng vẳng tiếng kinh trong trẻo thanh cao của Bích Túc...
“Ừm” một tiếng, nhưng mỹ nhân vẫn chưa tỉnh giấc, chỉ vì chiếc gối dễ chịu dịch đi một chút nên trong lúc ngủ mơ mới phát ra một tiếng.
Dương Hạo lật người ngồi dậy làm cho mỹ nhân có chút không thoải mái, hai hàng mi thanh tú của Trúc Vận nhíu nhíu lên, uể oải xoay người, cuốn chăn lại vào mình, chỉ để thò đầu ra. Dương Hạo mỉm cười vỗ một cái vào mông nàng, rồi lắc lắc đầu đứng dậy.
Đêm nay sau khi uống mấy chén rượu và hoan lạc một trận, Trúc Vận thỏa mãn ngủ tiếp, nhưng hắn vẫn muốn tiện một chút nên đã khoác áo bào vào, rồi buộc hờ chiếc đai, bước ra ngoài bức bình phong.
Nơi đây là hành cung của hắn, được tu sửa từ hoàng thất của nguyên Đường quốc, tẩm cung rất rộng, rất tiện để làm tiền hiên thiên điện.
Trên vách tường cung có nhưng ngọn đèn hoa mai tỏa ra ánh sáng ấm áp. Dương Hạo mới ngủ dậy nên mắt vẫn mơ màng, vừa mới bước qua bức bình phong, chưa đi được mấy bước thì trước mắt đột nhiên xuất hiện một bóng người, hắn thấp thoáng thấy được người đó có khuôn mặt trái xoan, kiều diễm ướt át như một trái chín.
Dương Hạo giật nảy người, vội buộc chặt đai áo lại, che đi hai chiếc đùi, giật mình nói: “Tiểu Diệc, đêm hôm khuya khoắt ngươi không ngủ chạy đến đây làm gì?”.
Cẩu Nhi đã trưởng thành rồi, ít nhất là nó tự cho rằng mình đã trường thành. Một đại cô nương mười tám tuổi còn gì không hiểu chứ? Trước đây nó chỉ cần được ở bên đại thúc là được rồi, nhưng bây giờ... Thân làm thị vệ thân cận của Dương Hạo, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Từ nhỏ nó đã bắt đầu nghe lén những âm thanh đó, nhưng tiếng thở dốc đó, những tiếng kêu đau đớn nhưng đầy hoan lạc. Thậm chí... Nó còn nhìn trộm cảnh hai người quấn vào nhau, nghe nói đó là yêu tinh đánh nhau.
Cẩu Nhi dần dần lớn lên, mỗi lần yêu tinh đánh nhau khiến cho ý loạn tình mê, nó rất hy vọng mình có thể là người nữ tử đang nằm trên giường và bị đại thúc ức hiếp đến chảy cả nước mắt nhưng lại vô cùng hoan lạc kia, nhưng... Nhưng đại thúc chưa bao giờ coi nó là một nữ nhân.
Quan âm hợp thập, sở bái hà nhân? Cầu nhân chi bằng cầu mình.
Cẩu Nhi quyết định chính mình sẽ động thủ, cơm no áo ấm, quyết định, đạp đổ đại thúc.
Hành động ngay ngày hôm nay.
Cẩu Nhi cắn răng, không để ý gì mà xông lên trước: “Hôm nay Cẩu Nhi thấy đại thúc đã rất... Phóng khoáng... Viết chữ cho Liễu cô nương, Cẩu Nhi... Cẩu Nhi cũng muốn đại thúc viết ký một cái tên...”.
Lồng ngực Cẩu Nhi như nổi trống, hơi thở dồn dập, nhưng vẫn nói được hết câu, sau khi nói xong nó liền cầm bút và một tờ giấy được che một nửa bằng một miếng gỗ lại chạy tới.
“Không phải chứ? Đang làm gì vậy?”. Dương Hạo vẫn chưa hết buồn ngủ, có điều cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng Cẩu Nhi đã nhanh chóng thúc giục.
“Ký một chữ thôi mà, cho dù thể nào Cẩu Nhi vĩnh viễn cũng sẽ không thể hại mình đâu”.
Dương Hạo cười bất đắc dĩ, lắc đầu bất đắc dĩ, nhận lấy bút, rất chăm chú viết tên mình lên nửa tờ giấy.
“Đại thúc!”.
Vừa nhìn thấy Dương Hạo ký tên xong, Cẩu Nhi vui mừng chảy nước mắt, đột nhiên nhảy lên, ôm chặt lấy Dương Hạo, rồi liếm vào mặt hắn như một con chó nhỏ. Đây là hành động mà Mã Diệc đã âm thầm học tập, người ta gọi đó là hôn nồng nhiệt.
Dương Hạo ngẩn ra tại chỗ, để mặc cho cái lưỡi nhỏ của Cẩu Nhi liếm vào mặt mình, kinh ngạc nói: “Chuyện gì thế này? Xảy ra chuyện gì thế này?”.
Cẩu Nhi nước mắt lưng tròng, nhưng sau đó lại phá lên cười, nó nắm chặt lấy cánh tay Dương Hạo, tay kia bỏ tấm gỗ ra, dương đương đắc ý giơ ra trước mặt hắn. Dương Hạo vừa nhìn lập tức hết buồn ngủ, tỉnh cả rượu, há mồm trợn mắt nhìn.
Tờ giấy trong tay Cẩu Nhi lại là một tờ “hứa hôn văn thư” được in hoa văn uyên ương.
“Cẩu Nhi, ngươi... Ngươi lại dám lừa đại thúc... Ngươi...”.
“Nếu như đại thúc thấy không vui thì có thể đánh vào mông người ta mà”.
Cẩu Nhi đắc ý cười, khuôn mặt dưới ánh đèn lập lòe càng trở nên xinh đẹp hơn, rõ ràng là một tiểu nữ nhân quyến rũ vô cùng.
Dương Hạo đột nhiên phát hiện Cẩu Nhi, người luôn đi sát mình như hình với bóng, thật sự đã trường thành, trở thành một đại cô nương rất đáng yêu rồi.
o O o
~o~o~ HẾT TRỌN BỘ ~o~o~
Dương Hạo đương quốc, trải qua năm năm phát triển, Kim Lăng lại khôi phục lại cảnh tượng phồn hoa thịnh vượng, hơn nữa còn giàu có hơn trước. Hai bờ Tần Hoài thuyền bè tấp nập, đêm xuống đèn chăng dọc hai bờ, thỉnh thoảng có tiếng thiếu nữ gần đó ngân nga một khúc nhạc, hòa với tiếng buôn bán nhộn nhịp.
Trên đường cái dù các cửa hàng bán vải, bán trang sức, khăn trùm đầu, túi... Tiệm nào tiệm nấy dựng sát nhau thành hàng, đầy vẻ sung túc. Các cửa hàng cũng mọc lên như nấm theo những ngành nghề sản xuất mới hưng, Kim Lăng trăm nghiệp hưng vượng, sức sống bừng bừng.
Lấy ngay tiệm bán vải cực lớn trước mặt này làm ví dụ, trong năm năm đã có tới ba lần mở rộng, vẫn cung không đủ cầu, tơ lụa ở đây đều là những loại cực phẩm quý giá, đa phần đều là để bán ra nước ngoài, bán cho phía bắc, Đại Lý ở phía nam, Giao Chỉ cũng cần, lượng khách lớn nhất có hai nơi, một là ở đông, một là ở tây.
Phía tây là đại thương nhân họ Lý ở Diêm Châu Hà Tây, vị Lý công tử này xây dựng điểm buôn bán ở Kim Lăng, nhiều năm thu mua, những tơ lụa, gốm sứ qua tay hắn nghe nói đưa qua Thiên Trúc, Đại Thực, Đại Tần thậm chí là những quốc gia Tây phương, trong một năm lượng hắn thu mua rồi bán ra đạt đến một con số kinh người.
Một đại khách hàng khác là đến từ phía đông, đi qua phía bên kia bờ biển là Nhật Bản, vị đại khách thương này họ Bích, khẩu âm Biện Lương, có điều thân phận thật sự của hắn luôn không có ai biết được, có người nói hắn là đại hải tặc cực giỏi, lý do là vì có rất nhiều lão đại ăn chặn trên biển hay mấy con sông đều phải cung kính trước mặt hắn.
Lại có người nói hắn là con rể của một đại thủ lĩnh thuộc nước Nhật Bản, được thiên hoàng lệnh làm chư hầu, thế lực ở thượng quốc rất lớn, vì thế hắn mới có thể buôn bán được nhiều cực phẩm như vậy. Lý do là vì từng có hải thương nhìn thấy hắn dáng vẻ uy phong bát điện ở nước Nhật Bản. Còn có người nói con người này thực tế là tổng quản nội thị trong hoàng thất Đại Tống, lý do là vì hắn không có mọc râu, hơn nữa có người từng nhìn thấy hắn ra vào hoàng thành Đại Tống.
Mọi người nói qua nói lại rất nhiều, cũng không biết rốt cuộc hắn có thân phận gì, kệ hắn. Người này tuy lai lịch bất minh nhưng vàng bạc của hắn không phải là giả. Theo sự phát triển hưng thịnh mấy năm nay của Đại Tống, thứ trên thị trường thiếu thốn không phải là vật tư mà là tiền mặt, tuy vàng bạc Tây Vực và Nam Dương không ngừng chảy vào, nhưng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu lưu thông vật tư, mà người này ở khắp các địa phương của Đại Tống đều có bạn làm ăn, khi giao hàng hóa đều dùng vàng bạc chi trả, vì thế hắn là người khách được quan phủ địa phương và thương gia hoan nghênh nhất.
Buôn bán tơ lụa hưng vượng, theo đó mà các ngành trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, nhuộm vải, thêu thùa, may y phục... Cũng không ngừng mở rộng, huống hồ quan gia đã liệt Hàng Châu vào danh sách năm cửa khẩu thông thương mậu địch lớn nhất. Thuyền đại hải do Đường gia chế tạo mỗi ngày không ngừng ra ra vào vào. Đâu chỉ có tơ lụa, gốm sứ mà ngay cả lá trà, trang sức, đủ các loại thương phẩm bây giờ đều cung không đủ cầu. Nghề nghiệp thủ công cũng tăng nhanh, mấy phường nhuộm vải của Thôi gia ở Giang Nam mỗi nơi chiêu mộ nhân công không dưới mấy nghìn người.
Phường Kê Lung phồn vinh nhất Kim Lăng, một hàng bốn người đang chậm rãi đi, nhìn đông nhìn tây, xem ra có vẻ hết sức nhàn nhã, nhìn dáng vẻ bọn họ có lẽ là một đôi phu phụ và một đôi nô bộc. Đi phía trước là một nam tử khí độ ung dung chừng ba mươi tuổi, mặt như quan ngọc, mặt mày anh tuấn, nhìn qua cũng có được cảm giác khí phái.
Bên cạnh hắn là một nữ tử xinh đẹp mặc bích la sam, thân dài ngọc lệ, eo nhỏ như liễu, đang đúng vào độ phong tình dung mạo thành thục nhất. Khuôn mặt có che một chiếc mạng mỏng, nhưng ngũ quan xinh đẹp lúc ẩn lúc hiện càng làm lộ vẻ kiều mỹ của nàng.
Đi sau hai người là đôi nam nữ mặc thanh y, nam tử khoảng trên dưới hai mươi tuổi, mặc trang phục nô bộc, trên vai đeo một cái túi, dáng đi chân tay rất hiên ngang. Người nữ tử mặc thanh y trên mặt cũng che một chiếc mạng mỏng, bước đi nhẹ nhàng, thân hình uyên chuyển, tuy quấn tóc kiểu nô bộc nhưng dáng vẻ của nàng trông còn cao quý ưu nhã hơn nhiều thiên kim khuê tú đại hộ.
Bách tính Kim Lăng đã từng nhìn thấy nhiều quan viên, vừa nhìn thấy khí chất của bốn người này liền biết đó là người thuộc đẳng cấp tôn quý. Nhàn rỗi không có việc gì làm nên đi đạo phố phường, cho nên những người buôn bán hay lôi kéo khách cũng không dám chạy tới quấy rầy, bốn người cứ như thế mà đi, vô cùng tiêu diêu tự tại.
Cả chặng đường chỉ thấy những cửa hàng đủ màu sắc sáng rực cả đường, mãn cả nhãn.
Mỹ nhân mặc bích la sam đi sát bên cạnh quý nhân khoảng tam tuần, tươi cười bình phẩm những tiệm hàng bên đường: “Từ khi quan nhân cho mở các khoa khai công, lý khoa, nhân tài bách nghiệp có thể làm quan thì mấy năm nay cuộc sống của Đại Tống ta thay đổi không ngừng, mới mẻ thêm tầng tầng lớp lớp. Người qua người lại, nhà cửa mọc lên như nấm sau mưa. Quan nhân, chàng xem, chủ nhân cửa hàng này vừa mới chế ra một loại trang sức cực phẩm, hoa văn tinh xảo, tuy giá cả cực cao nhưng vẫn cung không đủ cầu”.
Quý nhân tam tuần mỉm cười gật đầu, mỹ nhân liền che tay cười: “Thật là tốt, cuộc sống sung túc đường hoàng, tuy không sánh bằng sự trang nghiêm của Trường An, nhưng sự phồn hoa lại không hề kém, đặc biệt có phong vị Giang Nam, chuyến này đi quá không uổng”.
Đôi mắt xinh đẹp của nàng chuyển chuyển con ngươi, cười khúc khích: “Đáng tiếc, Tử Du tỷ tỷ lại có mang rồi, không có phúc khí theo quan gia đi tuần thiên hạ. Hi hi, Tử Du tỷ tỷ thật là biết sinh, năm năm sinh ba đứa con trai, cứ như thế này mà sinh tiếp thì hai nhà Chiết Dương cộng lại thì người ta phải trố mắt mà nhìn rồi”.
Quý nhân đó ho nhẹ một tiếng, cười khổ nói: “Cái này... Tử Du... Ha ha ha, Tử Du cũng thật quá biết sinh một chút. Thôi, sau này nên dùng song tu pháp nhiều một chút, nếu không cả đời này nàng ngay cả cung môn nhi cũng không được đâu”.
Đôi nam nữ thanh y phía sau nghe thấy, không nhịn nổi mà trong mắt cũng lộ ra một ý cười. Bốn người tuần hành này đương nhiên chính là Dương Hạo, Trúc Vận, Mục Vũ và Mã Diệc.
Trúc Vận cười nói: “Nhưng trong nhà phò mã lại liên tiếp sinh hai nữ nhi, làm cho La lão đầu buồn tới mức râu cũng rụng một nửa rồi. Muốn nạp thiếp cho phò mã, nhưng lại sợ chàng không vui”.
Dương Hạo cười nói: “Nhà lão La con cháu đầy đàn, Khắc Địch không sinh con trai cũng không sao chứ? Ta thấy lão La cũng không buồn bực lắm như nàng nói. Khắc Địch nhậm chức lưu thủ U Châu kiêm quản chế binh mã ở Nữ Chân mới có ba năm, lão La cả ngày đi theo ta to nhỏ, muốn điều Khắc Địch về Trường An, nói ông ta muốn có thêm tiểu tôn nữ rồi”.
Trúc Vận hừ một tiếng nói: “Lão La chi nói miệng thế thôi, đúng rồi...”.
Nàng đột nhiên dừng bước, cười như không cười nhìn Dương Hạo: “Theo như thiệp biết, vị công chúa Da Luật Nhã đến bây giờ vẫn chưa gả cho ai, phò mã vừa đến U Châu là nàng ta lại tìm đủ cớ chạy tới, quan nhân phái phò mã đến thủ U Châu, nhưng chắc là không có ý định gì khác chứ?”.
Dương Hạo xoa xoa mũi, cười khan nói: “Muội tử của ta là Đại Trường công chúa, cho dù Khắc Địch có thật sự nạp thiếp thì thân phận đối phương cũng không thể quá thấp, phải không? Việc này à, để xem duyên phận đi, tiếp theo như thế nào ta không quản được”.
Trúc Vận bĩu môi, hừ nhẹ một tiếng, mắt thấy phía trước đã là ngã tư, Trúc Vận lại dừng bước, nói: “Quan nhân tuy đã lệnh cho nghi trượng đi từ từ ở sau, có điều tính đến thời điểm này có lẽ cũng nên tới rồi, chúng ta bây giờ về cung sao?”.
Dương Hạo lắc đầu nhẹ, đứng trầm ngâm trong chốc lát nói: “Nàng về cung trước đi, nhiều năm không đặt chân đến Kim Lăng rồi, ta muốn đi một mình một chút”.
Trúc Vận vâng một tiếng rồi xoay người đi, một đám người sớm đã đứng ở một góc, ăn mặc như văn sĩ từ đi tới nghênh đón. Trúc Vận lên xe, vừa vào bên trong ngồi xuống đột nhiên lại vén rèm cửa sổ lên, thò đầu ra ngoài, cười ranh mãnh nói: “Quan nhân, A Cổ Lệ sắp đến Kim Lăng rồi, chàng định... Làm gì người ta?”.
“Cái gì mà làm gì?”.
Trúc Vận hừ nhẹ một tiếng nói: “Tâm tư của người ta đối với chàng đến cả kẻ mù cũng nhìn ra, chàng biết mà chúng thiếp không biết sao? Người ta thay chàng củng cố Lũng Hữu, ổn định Cam Châu, bây giờ công đức đã viên mãn, lại giao đại quyền lại, tùy cho chàng phái đi làm quan. Một nữ nhi gia có thể có bao nhiêu tuổi xuân cơ chứ? Đông Nhi, Tử Du, còn có cả mấy tỷ muội Diễm Diễm đều đã gật đầu rồi, còn nếu như Dương đại quan nhân chàng thật sự có lòng dạ sắt đá thì coi như thiếp chưa nói gì đi”.
Trúc Vận buông rèm xuống, một đoàn thị vệ bảo vệ xe ngựa rời đi, Dương Hạo lắc đầu cười, quay lại nhìn Mục Vũ, trầm giọng hỏi: “Việc ta giao cho khanh làm thế nào rồi?”.
Mục Vũ liền tiến lên một bước, vừa đi vừa nói: “Tuân dặn dò của quan gia thần đã đưa thái tử và thái phó tiên sinh đến U Châu trước rồi. Thái tử rất thích nơi đó, trước khi ra khỏi Quan Trung thái tử còn khóc quấy cả ngày, nói là nhớ quan gia và hoàng hậu nương nương, bây giờ đã tốt hơn rồi. Ăn được, ngủ được, phò mã đã tặng cho thái tử một con ngựa nhỏ, thái tử tuổi tuy nhỏ nhưng về khả năng săn bắn lại không hề nhò”.
Dương Hạo cười vui vẻ: “Thật là tốt, đọc trăm vạn cuốn sách cũng không bằng hành tẩu ngàn dặm được, tuyệt đối không thể để thái tử ở trong thâm cung quá lâu, nuôi dưỡng thành một kẻ đần độn như Tấn Huệ đế. Các hoàng tử khác sau này cũng sẽ làm như thế, mỗi một thái phó mỗi năm phải thay nhau đưa một hoàng tử đi, nửa năm sống trong cung, nửa năm ở bên ngoài, tạo thành một thông lệ”.
Mục Vũ nói: “Vâng, sau đó thần đã đến thượng kinh, theo như lời quan gia dặn dò, dâng lên quốc thư và tư thư cho Tiêu hậu nương nương, có điều... Có điều dặn dò của quan gia, thần mới chỉ hoàn thành một nửa”.
Dương Hạo nhíu mày, ngạc nhiên nói: “Hoàn thành một nửa, nghĩa là sao?”.
Mục Vũ cười khổ nói: “Quan gia hẹn Tiêu hậu nương nương hội ngộ, thương lượng việc hai nước tiến thêm một bước mở rộng giao thương, thay đổi luật pháp mậu dịch, Tiêu hậu nương nương đã đồng ý rồi. Có điều thứ mà quan gia sai thần đưa cho Tiêu hậu nương nương, nương nương chỉ nhận một nửa”.
“Sao cơ? Chỉ nhận một nửa?”.
Mục Vũ nói, rồi lấy ra một hộp cẩm. Dương Hạo nhận lấy, mở ra nhìn, nhìn thật kỹ rồi lại nghĩ ngợi, dần dần lộ ra một nụ cười hiểu ý, lòng như đã mở cờ nói: “Khanh giữ hộp cẩm này cẩn thận, đợi khi trẫm hội ngộ với Liêu hậu nhất định phải mang theo”.
Mấy năm nay, Tống Quốc hoàn toàn mở các thị trường giao thông buôn bán, bỏ hết chướng ngại ảnh hưởng tới việc giao thông hàng hóa, biên cảnh hai nước ngày càng hưng thịnh, chiếm một phần năm tổng lượng mậu địch của Tống Quốc, còn bên Liêu Quốc thậm chí còn đạt đến một phần hai.
Lá trà, nồi sắt, vải... Lưu thông không chút chướng ngại, quan thuế rất thấp, hơn nữa Dương Hạo còn hết sức giúp đỡ cho bắc triều phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp. Tuy nói bắc triều trong mười năm cần phải cống nạp cho Tống triều đầy đủ số lượng ngựa, dê, nhưng ở mặt nào cũng có ưu đãi rất nhiều.
Cửu Châu Sơn Hậu của Liêu Quốc là nơi tụ cư của người Hán, cũng là vùng nông canh lớn nhất của Liêu triều, bọn họ là những người thu hoạch lớn nhất về mặt trồng lương và kỹ thuật canh tác, đồng thời do xu thể phát triển biên cương ngày càng hưng thịnh mà bọn họ cũng là nhóm người được hưởng lợi nhiều nhất. Mấy năm nay, người Hán bắc triều với hoàn cảnh sống được cải thiện lớn cũng những bách tính chư tộc khác cũng đã có thiện cảm hơn nhiều đối với Tống Quốc, không còn lạnh lùng nhìn như kẻ địch nữa. Cho dù lúc trước hai nước là kẻ địch không độ trời chung, tình hình này có quan hệ rất mật thiết với những ngày tháng tốt đẹp ở hậu thế.
Mục đích của Dương Hạo rất đơn giản, hắn muốn sống nhưng cũng muốn người khác được sống, nếu không mọi người dùng mong thái bình.
Dương Hạo biết, dân tộc thảo nguyên phương bắc là những người bất khuất bất phục, giống như những người trên thảo nguyên ở Âu châu, hoàn cảnh sinh tồn khó khăn, chỉ có thể dùng cây cỏ và nhu phẩm, thịt động vật để đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Họ chỉ có thể liên tục chuyển tới các vùng thảo nguyên khác để kiếm ăn khi thời tiết thay đổi.
Bọn họ đã chinh phục được thiên nhiên, đồng thời cũng trở thành nô lệ của hoàn cảnh thiên nhiên. Khi đến lúc thiên nhiên khắc nghiệt khó có thể bảo toàn tính mạng thì bọn họ duy chỉ có con đường thông qua chiến tranh để đoạt lấy. Vậy có thể đến cướp đoạt ở đâu? Là nơi bắc cực nghèo khó và hoang vu sao? Đương nhiên là phải huy quân nam hạ, khách quan mà nói dân tộc thảo nguyên đã có tiền lệ từ lâu. Họ không ngừng xâm chiếm về phía nam, nhân tố chủ yếu quyết định không phải là dã tâm cá nhân của kẻ thống trị mà là quyết định của ông trời.
Cho nên bọn họ hiếu chiến hơn người Trung Nguyên, thiện chiến hơn người Trung Nguyên, cũng không tính toán nhiều đến cái giá của chiến tranh như người Trung Nguyên, còn có cái giá nào quan trọng hơn sự sinh tồn chứ?
Dương Hạo hy vọng việc văn hóa đồng hóa, kinh tế thẩm thấu, kỹ thuật nông canh được truyền bá có thể làm cho hoàn cảnh sinh tồn của bắc triều sẽ không thảm khốc như khi chiến tranh. Nếu như đã không có cách nào diệt được lang thì chi bằng biến lang thành cừu. Đối lập và áp chế không thể giải quyết được vấn đề, hy vọng có thể dùng những thủ đoạn khác để giải quyết chúng, ít nhất cũng giảm thiểu lượng lớn bắc nhân xâm phạm phương nam. Nếu như có một ngày con cháu hậu thế thật sự hủ bại, triều đình trở thành con quỷ chỉ biết nuốt mỡ dân hút máu dân thì triều đại thay thế ít nhất cũng sẽ là nhóm người văn minh, còn hơn là để một bầy người dã man kéo cả Trung Quốc thụt lùi lại.
Đương nhiên, chiếm lĩnh được thất châu Sơn Tiền, không chế những yếu địa chiến lược, văn hóa kinh tế cùng lúc xâm lược và đồng hóa, đó là vì sự vững chắc của quốc gia sau này, nhưng việc nội bộ ổn định vẫn quan trọng hơn tất cả. Điểm này không thể xem thường.
Một lượng lớn vật tư sự sinh sống được chuyển vào bắc triều, đã cải thiện hoàn cảnh sống của họ. Bất kể thứ nào vừa được ra đời và phát triển ở Trung Nguyên thì rất nhanh đều được lưu hành đến cả bắc triều. Sự chấp nhận văn hóa, cải thiện kinh tế đang dần làm thay đổi tập tục, thói quen và tính cách của người bắc triều. Đồng thời, Tống Quốc đã cho cải cách lại trị, khoa cử, quân chế, mở rộng biển thông thương, giao du vạn quốc, dần dần xóa bỏ được những hủ tục tiêu cực, bảo thủ trong văn hóa.
Đây là công trình trường kỳ, hoặc có thể phải cần có sự nỗ lực của mấy thế hệ, nhưng tác dụng của nó cực lớn. Dựa vào sự thông minh tài trí của người Trung Quốc, trong tương lai có thể tích cực mở rộng và phát triển tiếp tục. Cho dù một ngày hắn không còn nữa, cho dù một ngày con cháu hắn bất hiếu làm mất đi giang sơn. Thì người bị suy sụp chỉ có một họ một nhà hắn, còn dân tộc này vẫn sẽ ngày càng phát triển, sẽ không biến thành một hũ tương hỗn tạp.
Liêu Quốc tuy mất đi thất châu Sơn Tiền, nhưng hoàn cảnh nội bộ quốc gia lại thay đổi rõ rệt, mỗi người đều cảm nhận được nó. Cho dù là mục dân bình thường cũng cảm thấy sự thay đổi cực đại sau khi kết hòa bình với Trung Nguyên, bọn họ cũng không còn đáng thương đến mức cái nồi sắt sứt cũng coi như gia bảo nữa.
Vì mảnh đất Hà Tây và thất châu Sơn Tiền đã vào tay nên ngựa, bò dê Liêu Quốc không còn là thứ cầu cũng không được nữa, vì thế có thể vận chuyển vào với giá cả phải chăng, Trường An bắt đầu hưng vượng ngành nghề này, Quan Trung cũng bắt đầu phát đạt hơn.
Đây là chuyện có lợi cho cả hai bên, Dương Hạo tin rằng với sự thông minh của Tiêu Xước có thể hiểu rõ được lợi và hại của chiến với hòa, có thể hiểu được nỗi khổ tâm của hắn, để đủ có thể giải được nối hận thù với hắn, thậm chí... Khụ khụ... Cả thứ trang sức mang trả lại một nửa này nữa, nàng ấy hy vọng... Mình sẽ chính tay đeo cho nàng ấy sao?
Nhất thời Dương Hạo không nén nổi cảm khái mà thở dài.
Mục Vũ khom người ho khan một tiếng, liếc nhìn thần sắc của Dương Hạo, lại nói: “Trên đường trở về thần đã đến Sùng Hiếu am, bí mật hội kiến Vĩnh Khánh điện hạ ở hậu am...”.
Dương Hạo vội hỏi: “Nàng ấy nói sao?”.
Mục Vũ nói: “Thần đã làm theo những gì quan gia đặn dò, khổ công khuyên điện hạ để tóc hoàn tục. Nhưng... Nhưng điện hạ không chịu, điện hạ nói chỉ nguyện làm thanh đăng cổ phật cho tới cuối đời để cầu phúc cho vạn dân trong thiên hạ. Điện hạ nói bây giờ người sống rất tốt, lòng rất thanh thản, Vĩnh Khánh công chúa đã báo được đại thù, giang sơn đã truyền lại, nên Vĩnh Khánh trước kia đã chết thật rồi, người bây giờ chỉ là một ni cô tiềm tâm tĩnh tu. Bảo chuyển lời tới quan gia về sau đừng phái người đến làm phiền người tĩnh tu nữa”.
Dương Hạo trầm mặc một lúc, lại thở dài.
Rồi họ lại đi tiếp, đi tới một thư viện Giang Nam, bây giờ đang là thời gian tổ chức khoa cử mùa xuân, ngũ đô đồng thời mở khoa khảo, chẳng trách sĩ tử trong thiên hạ đều lặn lội đường xa, tập trung hết ở Trường An. Sĩ tử ở mảnh đất Kim Lăng này cũng không ngoại lệ, họ ùn ùn kéo nhau đi ứng thi, người đông như trẩy hội.
Dương Hạo thấy tình cảnh tấp nập như vậy không khỏi mỉm cười.
Hắn đột nhiên nhớ tới cái ngày khi mới đến Biện Lương, chính là ngày hắn gặp Thôi Đại Lang, một ngày rất khó quên.
Bây giờ Thôi gia trải qua sự tranh đấu ngầm với Trịnh gia, lực lượng ẩn nấp đã hoàn toàn bị bại lộ, qua sự truy tìm của mật vụ Phi Vũ, cộng thêm sự nổi dậy của Đường gia, Lý gia, lực lượng ngầm của Thôi gia đã hoàn toàn không còn tác dụng, không thể gây nổi cơn sóng nào nữa. Dương Hạo căn bản không có ý chèn ép Thôi thị, chỉ là hắn giờ đang đứng ở chỗ rất cao, khi nhìn thấy rộng hơn thì sẽ tiến hành tu chỉnh và thay đổi những lực lượng kinh tế đang làm lũng đoạn thị trường. Khi quốc gia cường thịnh, những thế lực đó sẽ trợ lực cho sự phát triển của quốc gia, nhưng khi quốc gia bên bờ diệt vong, thì nếu như không có chúng, quốc gia sẽ thoát được vận mệnh diệt vong.
Đường gia, Lý gia, Thôi gia, thậm chí trong thất tông ngũ tính của Kế Tự đường bây giờ đều đã được bày lên đài, trở thành những kẻ nổi bật trong công thương nghiệp Tống Quốc, làm ăn thậm chí còn vươn ra cả hải ngoại, thông qua sự dẫn dắt của chính sách, Dương Hạo đã thành công biến những âm mưu gia thành xí nghiệp gia, dưới cờ của bọn họ đã có rất nhiều công xưởng cực lớn. Có lẽ sẽ có một ngày bọn họ trờ thành nguồn thu thuế lớn trụ cột của Đại Tống, thậm trí là những đại công ty liên doanh, trở thành những công ty có thể chế kinh tế, chính trị như các công ty Mỹ. Dương Hạo rất hy vọng chúng có thể phát triển một cách toàn diện, có thể lột xác hoàn toàn.
Trong đám sĩ tử, nhân gia, nô bộc, tiểu thương đang thì thầm to nhỏ, kẻ buồn người vui, có một tên ăn mày lưng còng đang chú ý quan sát tinh thần của đám sĩ tử. Kẻ nào mặt mày ù rũ, đau thương thì đương nhiên hắn sẽ không đến xin xỏ, nhưng chỉ cần thấy có kẻ mặt mày hớn hở là hắn lập tức mò tới, tươi cười chúc mừng, nịnh bợ vài câu. Người ta vui sẽ không để cho hắn đi với hai bàn tay không, ít nhiều cũng cho một chút gì đấy.
Đột nhiên quay đầu lại, thấy Dương Hạo đang nhếch môi cười, tên ăn mày đó mắt sáng lên, vội vàng chạy tới, khi cách khoảng tám thước liền cúi đầu xuống, mở mồm cao giọng nói: “Chúc mừng lão gia, chúc mừng lão gia, kim bảng đề tên, ngư vượt long môn”.
Mục Vũ vừa bực mình vừa buồn cười, bước lên một bước, mắng: “Cái đồ mắt mù, lão gia nhà ta...”.
“Thôi, thôi”. Dương Hạo đẩy Mục Vũ ra, thấy tên ăn mày quần áo rách nát, mặt mày lấm lem, sau lưng có cái gì đó nhô lên. Hình như cột sống bị dị dạng, cho dù hắn có đứng thẳng cũng như đang cúi cung kính vậy, trông dáng vẻ rất đáng thương, Dương Hạo liền lấy trong áo ra một xâu tiền, đưa tới nói: “Cầm lấy đi”.
Người đó vừa ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một xâu tiền ánh vàng rực rỡ, không khỏi mừng rỡ như phát điên, khấu đầu nói: “Đa tạ đại gia. Đa tạ đại gia. Tiểu nhân chúc đại gia ngài...”.
Hắn vừa nói vừa đưa tay ra nhận tiền, đột nhiên nhìn rõ mặt Dương Hạo, bất giác sắc mặt đại biến, như nhìn thấy quỷ, liền lùi lại, kêu mấy tiếng rồi như muốn bỏ chạy.
Thấy ánh mắt khác thường của hắn, thị vệ ngầm trong đám đông sớm đã có sự cảnh giác, hắn vừa động một cái thì mấy đại hán mặc thường phục từ trong đám đông liền nhảy ra, vây chặt hắn ở giữa. Dương Hạo tay vẫn cầm xâu tiền, nhìn chằm chằm vào cái tên ân mày đang cúi gằm đầu xuống đất, ánh mắt như đang muốn lẩn tránh kia, ánh mắt Dương Hạo cũng dần dần ngưng trọng lại.
Hắn đứng thẳng dậy, từ từ đi lại trước mặt tên ăn mày, trầm giọng nói: “Ngẩng đầu lên”.
Tên đó run cả người lên, cằm dí sát xuống ngực, vì có cái bướu nên cơ thể như cong lại, nhìn rất giống một cái đầu hỏi không được tiêu chuẩn cho lắm.
Dương Hạo lớn tiếng quát: “Ngẩng đầu lên”.
Cơ thể hắn lại run lên, hai đầu gối nhũn ra, đột nhiên quỳ phục xuống đất, đầu liên tục đập xuống đất: “Đinh... Dương Hạo... Hoàng... Đại gia tha mạng, tha mạng. Nhìn tiểu nhân rơi vào bước đường này rồi, quý nhân ngài giơ cao đánh khẽ, tha cho cái mạng chó của tiểu nhân. Tiểu nhân khấu đầu với ngài, khấu đầu với ngài, xin thứ tội... Xin thứ tội, là tiểu nhân đã sai, tiểu nhân đã gặp báo ứng, đại gia tha mạng...”.
Tên đó khóc rống lên, khấu đầu đến nỗi chảy cả máu nhưng lại không dám dừng lại. Đám sĩ tử xung quanh hoảng sợ thất sắc, không biết tên ăn mày kia là ai, lại có quan hệ gì với vị công tử khí độ bất phàm kia.
“Ngẩng đầu lên!”.
Tên ăn mày không dám trái y hắn nữa, từ từ ngẩng đầu dậy, Dương Hạo nhìn hắn một lúc lâu mới thở dài một tiếng, từ từ bước lên phía trước hai bước, cái tên ăn mày bộ dạng giống như con chó kia sợ hãi nhưng không dám lùi lại. Dương Hạo nhẹ nhàng đặt xâu tiền lên vai hắn, lạnh lùng nói: “Người mà ngươi có tội nhất thực ra không phải là ta, mà là Nhạn Cừu”.
Dương Hạo xoay người bước đi, đám sĩ tử đang há mồm trợn mắt đứng nhìn vội vàng tránh đường, đợi khi Dương Hạo và đám người thân cận rời đi, tên ăn mày đang quỳ dưới đất mới từ từ ngẩng đầu lên.
Hắn ngẩn ra một hồi lâu, mới lắc lắc người, ánh mắt có chút mờ mịt.
Khuôn mặt hắn bây giờ gầy guộc lấm lem, cáu bẩn và tang thương. Nếu như là người cực kỳ thân thuộc với hắn, lại biết rõ thân phận thật sự của hắn có lẽ còn có thể thấp thoáng nhìn ra dáng vẻ phong lưu năm đó của nhị công tử Đinh Thừa Nghiệp của Đinh gia Bá Châu.
“Nhạn Cừu?”.
Đầu hắn đã cứng nhắc, khó khăn lắm mới nhúc nhích được cái đầu, rồi dần dần nhớ đến cái tên cẩu nô tài ngày xưa đã từng ở bên hắn: “Nhạn Cừu? Sao ta lại có lỗi với Nhạn Cừu chứ?”.
Gió thổi nhẹ nhẹ qua, Đinh Thừa Nghiệp vẫn đứng đó, đứng rất lâu, rất lâu, đột nhiên sống mũi cay cay, trong cơn gió, một hàng nước mắt chợt tuôn rơi...
Dương Hạo không ngờ Đinh Thừa Nghiệp năm đó bị trúng tên sau lưng, rơi xuống hố phân lại không chết, nhưng đối mặt với tên ăn mày tàn phế này hắn thật sự không ra tay nổi, kết cục như thế này còn đau đớn hơn là giết chết hắn.
Dương Hạo trầm mặt xuống, đi về phía trước, thấy thần sắc không vui của hắn, ngay cả Mục Vũ và Mã Diệc cũng không dám nhiều lời. Thư viện này thật lớn, khắp nơi đều là sĩ tử đang ngồi, Dương Hạo lần này đi cũng là muốn đến Tĩnh Tâm am. Tĩnh Tâm am là nơi tĩnh tu năm đó của Tĩnh Thủy Nguyệt. Từ sau khi Triệu Quang Nghĩa gặp thích khách, Bích Túc cũng lưu lạc không rõ nơi đâu. Cách đây không lâu, Dương Hạo đột nhiên nhớ tới Tĩnh Tâm am, liền phái người đến vùng lân cận dò hỏi, mới biết được am này đã đổi thành Tự Khố miếu. Tự danh vẫn là Tĩnh Tâm tự, còn Bích Túc đã xuất gia ở đây, lần này tuần Giang Nam, hắn cũng muốn thăm cố nhân một chút.
Bước lên cây cầu gỗ Tần Hoài, người qua lại khá ít nhưng ở phía trước lại có rất nhiều sĩ tử tụ tập ở một chỗ, thỉnh thoảng lại có mấy giọng nói vang lên, xem lên tiếng léo nhéo của nữ tử.
Dương Hạo hơi nhíu mày, từ từ đi tới, thị vệ sớm đã đi trước một bước, đẩy người ra, mở đường đi cho hắn.
Đến phía trước đám người thì thấy có một thư viện, ngói xanh tường trắng, cánh cửa đỏ thắm, phía trên giữa cửa có một tẩm bảng viết: “Liên tử thư ngụ”.
Dưới cửa có ba bậc đá, đứng sát cửa có một tiểu cô nương mặc áo màu phi thúy, mặt mày như tranh vẽ, khuôn mặt xinh xắn ửng đỏ, hai tay chống eo, tức giận trừng trừng nhìn đám sĩ tử trước mặt.
Một lão hủ trong đám sĩ tử đó dung mạo thanh sáng, mái đầu đã đầy tóc mạc, tinh thần rất không vui. Ông ta mặc một trường bào thêu hoa văn hình mây, dáng vẻ làm cho người ta thấy cũng phải cung kính. Lão tiên sinh này vuốt râu, khinh thường nói: “Quan gia xướng đạo nữ học là có nỗi khổ trong lòng, Lục mỗ đương nhiên không dám phi lễ. Chỉ là Phật gia có câu ‘nhân văn giải nghĩa, tam thế phật oan’, quan gia xướng đạo nữ tử học chữ học văn, để giải ngu muội, chứ không phải thật sự muốn đám nữ nhân cô nương được lập triều đường như nam tử.
Biết chữ cũng được, học văn cũng được... Những những nữ tử thông văn biết chữ mà có thể làm một đại nghĩa giả, hiên đức lại không nhiều, những người khác lại được khơi dậy dã tâm, thậm chí là nghĩ ra đủ mọi thứ, làm ra rất nhiều chuyện xấu, ngược lại chẳng bằng những kẻ không biết chữ. Cái này gọi là nam tử có đức là có tài, nữ tử vô tài mới có đức.
Nhưng tiên sinh nhà cô nương lại đang dạy cái gì chứ? Hừ! Chính lược quốc sách cũng kệ thôi, nhưng ngay cả mấy điệu hát dân ca, tạp kỹ cũng đều dạy, thật là hoang đường. Trong ngũ luận, nam nữ có sự khác biệt, nam là trời, nữ là đất, nam nữ ai cũng nên về chỗ của người ấy, nam có tài mới làm nên nghiệp lớn, còn nữ chỉ cần thủ phụ đạo là được, đây mới là đạo lý.
Nhưng tiên sinh nhà cô nương lại dạy toàn thứ linh tinh, đã làm mê hoặc dân chúng lại còn dám nói tương lai quan gia tất sẽ mở nữ khoa, lấy điều này để lừa gạt thế dân, lão phu quyết vì chính nghĩa, vì giới sĩ lâm Giang Nam quét sạch tà vọng”.
Lão đầu này dẫn dắt những luận chứng luận cứ, thao thao bất tuyệt, đám chúng sinh nghe đều gật gật đầu. Dương Hạo lướt nhìn lão đầu, suýt nữa bật cười, đó chính là Lục Nhân Gia, cái lão già này nhiều năm không gặp, hóa ra lại đã khởi dạy ở Giang Nam, khó trách sĩ lâm Giang Nam không biết chuyện hắn ở Biện Lương bị mắng cho phun cả máu.
Tiểu cô nương tức khí dậm chân: “Phì phì, lão bất tu, mồm thì nói có vẻ đường hoàng, nhưng một bụng lại toàn là thứ rác rưởi, ngươi biết tiên sinh nhà ta mỹ sắc hơn người, nên dùng đủ mọi thủ đoạn rắn mềm đều có, dùng hết rồi cũng không đoạt được nên mới quay lại báo thù”.
Khuôn mặt già nua của Lục Nhân Gia liền đỏ lên, thẹn quá thành giận nói: “Nói bậy, nói bậy, lão phu là một người luôn hiển minh trong giới sĩ lâm Giang Nam. Tiểu cô nương như cô lại đám nhục mạ lão phu, sao lại có cái lý đó, mọi người xem xem, xem xem, một tiểu mữ tử rất ngoan ngoãn đã lại bị tiên sinh vô lương đó dạy hư rồi”.
Đám sĩ tử đứng cạnh đều gật đầu, cho là đúng.
Dương Hạo thấy cảnh này không khỏi thầm than: “Không biết tiên sinh của thư viện này là ai mà lại có tuệ nhãn nhìn ra việc ta xướng mở trưởng nữ là để một ngày nào đó sẽ mở nữ khoa, để cho nữ tử cũng sẽ dốc sức vì quốc gia như nam tử. Chỉ là xem tình hình này tuy thời Đường Tống, nữ tử đã tự do hơn nhưng muốn thay đổi quan niệm của mọi người vẫn là một việc khó khăn và lâu dài”.
Hắn lại thở dài một tiếng nữa, đứng thẳng người đậy, bước ra nói: “Theo ta thấy những lời vị tiểu cô nương này nói rất có lý. Lục tiên sinh là có tiền khoa, nếu ngài thấy tiên sinh nhà người ta sắc nước hương trời thì mang đại vọng vong đại nghĩa, sẽ tìm đủ mọi cách để đoạt được, ta thấy đây đúng là bản chất làm người của ngài rồi”.
Đúng lúc này, từ trong viện phát ra một giọng nói: “Lê Hương, đóng cửa vào đi, không cần phải để ý đến đám tục nhân đó nữa”.
Đi theo giọng nói đó, một nữ tử yểu điệu đi khoan thai từ trong viện ra, nữ tử này mặc một bộ sa la y màu trắng bạc, dáng người thon thả trông như ngọc nhân bích thủy.
Dương Hạo bước từ trong đám người ra, cười nhìn Lục Nhân Gia, nhưng vẫn chưa quay sang nhìn dáng vẻ nữ tử ấy. Nàng ấy vừa bước ra khỏi cửa đã nhìn thấy Dương Hạo, bất giác như sấm đánh ngay trước mặt, cả người cứng đơ lại, tay chân run run, rõ ràng là rất sợ hãi.
Lục Nhân Gia nghe được có người đang chế nhạo mình, vô cùng tức giận quay đầu lại, vừa nhìn thấy Dương Hạo lập tức mặt biến sắc. Dương Hạo, kẻ ngày trước đã hại hắn thân bại danh liệt, bây giờ đã làm đương kim thiên tử. Hắn đương nhiên biết hôm nay Dương Hạo đứng ở đây chính là đang mặc thường phục vi hành, trong nhất thời vừa kinh vừa sợ. Cũng không biết nên quỳ xuống bái lễ, làm cho thân phận của hắn bị bại lộ hay là vờ như không biết. Nhưng bất kể như thế nào, giờ Dương Hạo ở đây thật sự ép hắn vào đường cùng, làm cho hắn không biết làm thế nào mới tốt.
Những sĩ tử này vốn ồn ào quát lớn, đột nhiên nhìn thấy thần thái cổ quái của Lục tiên sinh, hình như đang sợ hãi cực độ. Liền ngậm mồm vào, kinh ngạc nhìn, Dương Hạo cười nói: “Những lời tiểu cô nương nói chắc là có chứng cớ. Với nhân phẩm của Lục tiên sinh có lẽ là có thể làm ra được ra những chuyện này, Lục tiên sinh, ngài còn gì để phản bác không?”.
Lục Nhân Gia như gặp quỷ mị, thụt lùi vài bước, đột nhiên kêu lên mấy tiếng kỳ lạ rồi bỏ chạy. Thật không hổ danh hắn, tuổi đã lớn thế rồi mà lại chạy nhanh như thế, hồn bay phách lạc không biết chạy về hướng nào. Hắn chạy xông qua đám sĩ tử, đẩy ngã một người đang cầm một rổ đựng giấy, bút và nghiên mực, làm mọi thứ rơi xuống tung tóe.
Dương Hạo cười lớn ha ha, tiến lên cúi người xuống nhặt giấy và bút lên, giọng trầm trầm nói: “Tiểu Vũ, đến đây, làm thư án cho ta”.
Mục Vũ đáp một tiếng rồi cúi người xuống, Dương Hạo đặt tờ giấy lên lưng hắn, nhấc bút chấm mực, rồi như nghĩ ngợi gì đó.
Tiểu cô nương Lê Hương đứng trên bậc thềm thấy vị công tử này chỉ mắng có một câu mà cái tên Lục tiên sinh kiêu căng đã phải sợ chạy bán sống bán chết, nên vô cùng kinh ngạc, nói: “Vị công tử này, ngài là ai, tại sao người họ Lục đó lại sợ ngài như vậy”.
Dương Hạo cười nói: “Vị họ Lục đó ăn uống đánh bạc, nợ của ta rất nhiều ngân lượng, đương nhiên vừa thấy ta sẽ phải bỏ chạy rồi”.
Hắn cười dài rồi nói, ánh mắt hơi di chuyển, đột nhiên nhìn thấy nữ tử bạch y đứng ở tiểu viện, thần sắc ngẩn ngơ, nữ tử đó biết hắn đã nhìn thấy mình liền nhích người một cái như muốn bỏ trốn, nhưng cuối cùng đánh miễn cưỡng đi về phía hắn.
Tiểu cô nương ngây thơ kia vẫn chưa phát giác ra vị công tử này và tiên sinh nhà mình đang nhìn nhau, liền do dự gật đầu nói: “Hóa ra là như vậy, nếu như đã nợ người ta khoản lớn mà không trả được thì đành phải chạy thôi”.
Dương Hạo cười lớn, nâng dịch giấy vừa viết bốn chữ lớn: “Kim Lăng nữ giáo”.
Vừa rồi thấy hắn chỉ dùng một lời đã làm cho Lục lão tiên sinh, vốn được coi là một bậc đạo đức văn chương phải chạy mất dép, đám sĩ tử đó vừa kinh lại vừa nghi ngờ, không biết vị công tử khí độ bất phàm này có tài kinh thiên gì, lại làm cho dũng khí của Lục tiên sinh hoàn toàn biến mất khi đối diện với hắn. Thấy hắn muốn động bút, đám sĩ tử liền nín thở, mang tâm trạng kính nể yên lặng đợi hắn.
Không ngờ bốn chữ Dương Hạo viết ra này lại hoàn toàn không có chút tài hoa nào, xấu đến mức người ta chẳng muốn nhìn, chúng sĩ tử suýt chút nữa ngã ngửa. Ngay cả tiểu cô nương này trên mặt cũng tỏ ra ngượng ngùng, có lòng muốn khen hắn mấy câu nhưng quả thật lương tâm không cho phép.
Dương Hạo lại không bận tâm, hắn viết xong bốn chữ to dùng, liền nghiêng đầu thưởng thức, cười tự đắc, lại nói: “Tiểu Diệc”.
Mã Diệc đáp một tiếng, lấy trong người ra một chiếc hộp vuông vức, mở ra, cầm ngọc ấn màu xanh ngọc bích, đóng một cái lên tờ giấy đó.
Những thư sinh đứng bên cạnh liếc mắt nhìn, rõ ràng đó là “Vĩnh Hằng ngự bút”, họ không khỏi giật mình sợ hãi, lùi lại mấy bước, một lúc lâu mới kêu lên.
“Soạt soạt soạt...”. Đám sĩ tử đã lấy lại phản ứng, vội vã quỳ xuống, mồm năm miệng mười hô lên, người có công danh thì xưng làm tiểu thần, người không có công danh thì xưng là thảo dân, ào ào bái thiên tử.
Dương Hạo lại chỉ nhìn vào bạch y nhân đang đứng trong viện, Liễu Đóa Nhi hít một hơi, cố gắng trấn áp tim mình, rồi mới từ từ đi ra. Nhìn vào bốn chữ, trong mắt ẩn hiện một nụ cười: “Chữ của người... Vẫn xấu như vậy...”.
Dương Hạo cũng mỉm cười nói: “Còn con người nàng lại hao gầy đi nhiều”.
“Đại thúc, có mấy chữ viết này thì có thể đảm bảo sẽ không có ai đến quấy rầy bọn họ nữa phải không, còn có thể hưng chấn việc nữ tử hướng học phải không?”. Mã Diệc ngây thơ hỏi.
Dương Hạo cười nói: “Việc đó là đương nhiên, nữ tử Giang Nam vốn có truyền thống học hành, huồng hồ đó còn là ngự bút do đích thân đại thúc viết. Lời của hoàng thượng chính là kim khẩu ngọc ngôn, không cho phép bất kỳ ai làm trái cho dù bản thân hoàng đế cũng không dễ dàng thu lại được thánh mệnh, nếu như có thêm bút tích thì càng được coi trọng, nhất ngôn cửu đỉnh, không có gì có thể làm trái được”.
“Ừm”. Mã Diệc gật đầu, trong mắt đột nhiên lóe lên, không biết là đang nghĩ cái gì nữa.
Đáng tiếc Dương Hạo đi ở phía trước nên chưa phát hiện ra, vẫn trầm ngâm nói: “Đúng vậy, luận về phong khí thói quen, Tây Bắc là một khối ngọc lớn, tùy cho ta điêu khắc, phổ biến dễ dàng. Còn trong những nơi khác thì Giang Nam là nơi phong khí mở cửa nhất, nên nếu muốn phát triển việc học, khoa khảo, chính vụ nghiệp của nữ tử thì nơi đây sẽ là nơi bắt đầu dễ dàng nhất. Ừm... Hãy giao việc này cho Liễu Đóa Nhi. Tiểu Diệc, ghi lại việc này, khi trở về gặp Kim Lăng lưu thủ thì gọi Liễu cô nương đến, ta muốn nàng ấy đồng ý gánh vác việc này”.
Mã Diệc cắn cắn môi, mắt lại lóe lên, không biết đang nghĩ cái gì nữa, nghe Dương Hạo dặn dò liền vội vã gật đầu đáp tiếng, sau đó lại nhỏ tiếng hỏi Mục Vũ chuyện gì đó.
Phía trước là Tĩnh Thủy am rồi, Tĩnh Thủy am trải qua chiến hỏa tàn phá giờ đã được tu sửa lại, chỉ là trên cửa am đổi chữ am thành chữ tự.
Dương Hạo dừng bước, nhìn vào trong ngôi tự miếu không nói gì, một thị vệ liền nhẹ nhàng đi tới, bẩm báo nói: “Trụ trì tự này đang ở bên trong, có cần đuổi hết thiện nam tín nữ lui ra hết để quan gia gặp đại sư không ạ?”.
Dương Hạo lắc lắc đầu: “Không cần kinh động, trẫm... Tự đi vào”.
Trên đại điện, rất nhiều tín đồ phật gia đang chắp tay nghe giảng kinh, trên chiếc đệm hương bồ phía dưới tượng Phật Tổ có một vị tăng nhân cụt một tay đang ngồi khoanh chân, dùng giọng nói thanh thoát trong trẻo niệm kinh.
Dương Hạo đứng yên lặng nhìn tên trộm năm xưa bây giờ đã hoàn toàn khác. Hắn cứ đứng đó nhìn, yên lặng lắng nghe, đôi mắt dần dần nhòa đi.
Bích Túc cao giọng tuyên pháp, trong nháy mắt đã nhìn thấy Dương Hạo đang đứng ở một bên điện, hắn không kinh ngạc cũng không sợ hãi, không vui không buồn, chỉ cúi đầu làm lễ với Dương Hạo, rồi tiếp tục giảng kinh.
Dương Hạo cũng chắp hai tay kiến lễ lại hắn, rồi từ từ lui ra, trong tai hắn như vẫn văng vẳng tiếng kinh trong trẻo thanh cao của Bích Túc...
“Ừm” một tiếng, nhưng mỹ nhân vẫn chưa tỉnh giấc, chỉ vì chiếc gối dễ chịu dịch đi một chút nên trong lúc ngủ mơ mới phát ra một tiếng.
Dương Hạo lật người ngồi dậy làm cho mỹ nhân có chút không thoải mái, hai hàng mi thanh tú của Trúc Vận nhíu nhíu lên, uể oải xoay người, cuốn chăn lại vào mình, chỉ để thò đầu ra. Dương Hạo mỉm cười vỗ một cái vào mông nàng, rồi lắc lắc đầu đứng dậy.
Đêm nay sau khi uống mấy chén rượu và hoan lạc một trận, Trúc Vận thỏa mãn ngủ tiếp, nhưng hắn vẫn muốn tiện một chút nên đã khoác áo bào vào, rồi buộc hờ chiếc đai, bước ra ngoài bức bình phong.
Nơi đây là hành cung của hắn, được tu sửa từ hoàng thất của nguyên Đường quốc, tẩm cung rất rộng, rất tiện để làm tiền hiên thiên điện.
Trên vách tường cung có nhưng ngọn đèn hoa mai tỏa ra ánh sáng ấm áp. Dương Hạo mới ngủ dậy nên mắt vẫn mơ màng, vừa mới bước qua bức bình phong, chưa đi được mấy bước thì trước mắt đột nhiên xuất hiện một bóng người, hắn thấp thoáng thấy được người đó có khuôn mặt trái xoan, kiều diễm ướt át như một trái chín.
Dương Hạo giật nảy người, vội buộc chặt đai áo lại, che đi hai chiếc đùi, giật mình nói: “Tiểu Diệc, đêm hôm khuya khoắt ngươi không ngủ chạy đến đây làm gì?”.
Cẩu Nhi đã trưởng thành rồi, ít nhất là nó tự cho rằng mình đã trường thành. Một đại cô nương mười tám tuổi còn gì không hiểu chứ? Trước đây nó chỉ cần được ở bên đại thúc là được rồi, nhưng bây giờ... Thân làm thị vệ thân cận của Dương Hạo, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Từ nhỏ nó đã bắt đầu nghe lén những âm thanh đó, nhưng tiếng thở dốc đó, những tiếng kêu đau đớn nhưng đầy hoan lạc. Thậm chí... Nó còn nhìn trộm cảnh hai người quấn vào nhau, nghe nói đó là yêu tinh đánh nhau.
Cẩu Nhi dần dần lớn lên, mỗi lần yêu tinh đánh nhau khiến cho ý loạn tình mê, nó rất hy vọng mình có thể là người nữ tử đang nằm trên giường và bị đại thúc ức hiếp đến chảy cả nước mắt nhưng lại vô cùng hoan lạc kia, nhưng... Nhưng đại thúc chưa bao giờ coi nó là một nữ nhân.
Quan âm hợp thập, sở bái hà nhân? Cầu nhân chi bằng cầu mình.
Cẩu Nhi quyết định chính mình sẽ động thủ, cơm no áo ấm, quyết định, đạp đổ đại thúc.
Hành động ngay ngày hôm nay.
Cẩu Nhi cắn răng, không để ý gì mà xông lên trước: “Hôm nay Cẩu Nhi thấy đại thúc đã rất... Phóng khoáng... Viết chữ cho Liễu cô nương, Cẩu Nhi... Cẩu Nhi cũng muốn đại thúc viết ký một cái tên...”.
Lồng ngực Cẩu Nhi như nổi trống, hơi thở dồn dập, nhưng vẫn nói được hết câu, sau khi nói xong nó liền cầm bút và một tờ giấy được che một nửa bằng một miếng gỗ lại chạy tới.
“Không phải chứ? Đang làm gì vậy?”. Dương Hạo vẫn chưa hết buồn ngủ, có điều cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng Cẩu Nhi đã nhanh chóng thúc giục.
“Ký một chữ thôi mà, cho dù thể nào Cẩu Nhi vĩnh viễn cũng sẽ không thể hại mình đâu”.
Dương Hạo cười bất đắc dĩ, lắc đầu bất đắc dĩ, nhận lấy bút, rất chăm chú viết tên mình lên nửa tờ giấy.
“Đại thúc!”.
Vừa nhìn thấy Dương Hạo ký tên xong, Cẩu Nhi vui mừng chảy nước mắt, đột nhiên nhảy lên, ôm chặt lấy Dương Hạo, rồi liếm vào mặt hắn như một con chó nhỏ. Đây là hành động mà Mã Diệc đã âm thầm học tập, người ta gọi đó là hôn nồng nhiệt.
Dương Hạo ngẩn ra tại chỗ, để mặc cho cái lưỡi nhỏ của Cẩu Nhi liếm vào mặt mình, kinh ngạc nói: “Chuyện gì thế này? Xảy ra chuyện gì thế này?”.
Cẩu Nhi nước mắt lưng tròng, nhưng sau đó lại phá lên cười, nó nắm chặt lấy cánh tay Dương Hạo, tay kia bỏ tấm gỗ ra, dương đương đắc ý giơ ra trước mặt hắn. Dương Hạo vừa nhìn lập tức hết buồn ngủ, tỉnh cả rượu, há mồm trợn mắt nhìn.
Tờ giấy trong tay Cẩu Nhi lại là một tờ “hứa hôn văn thư” được in hoa văn uyên ương.
“Cẩu Nhi, ngươi... Ngươi lại dám lừa đại thúc... Ngươi...”.
“Nếu như đại thúc thấy không vui thì có thể đánh vào mông người ta mà”.
Cẩu Nhi đắc ý cười, khuôn mặt dưới ánh đèn lập lòe càng trở nên xinh đẹp hơn, rõ ràng là một tiểu nữ nhân quyến rũ vô cùng.
Dương Hạo đột nhiên phát hiện Cẩu Nhi, người luôn đi sát mình như hình với bóng, thật sự đã trường thành, trở thành một đại cô nương rất đáng yêu rồi.
o O o
~o~o~ HẾT TRỌN BỘ ~o~o~
Last edited:
Bình luận facebook