Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 414
Đại môn động mở ra. Dương Hạo cùng Chiết Ngự Huân và Dương Sùng cùng nhau bước vào.
Bước vào trong thành Ngự Huân và Dương Sùng thầm kinh ngạc. Trong thành vốn dĩ rất yên tĩnh, nhưng không ai có thể ngờ được rằng vừ vào bên trong đã trông thấy đội binh mã hùng dũng đã đứng nghiêm trang ở đó từ trước. Hàng ngàn người ai nấy cũng đều khí thế ngút trời, khí thế mạnh mẽ như bức tường sắt kiên cố khiến hai vị đại soái cả đời theo binh nghiệp cũng không thể tránh khỏi có chút kinh động trong lòng.
Chiết Ngự Huân và Dương Sùng mỗi người đều đem theo khoảng ba trăm thị vệ và một đám liêu thuộc, tất cả lần lượt tiến vào thành, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt không thể tránh khỏi có những lời xì xào nho nhỏ.
Nhân việc hai thủ lĩnh vùng Tây Bắc đến thăm, Dương Hạo lần đầu để lộ ra thực lực thật sự của mình, giờ đây hắn không còn là một con côn trùng đáng thương phải tiếp tục luồn lách để thỉnh cầu giữ được mạng sống, cũng chẳng cần phải giả bộ là hảo hán không tranh giành thị phi với đời, hắn nhất định phô diễn hết thực lực thật sự của mình mới có thể giành được sự tin cậy tín nhiệm của quân dân Lô châu, sự tin cậy tín nhiệm của các thương hội như Tác Cổ và Kế Tự đường, phô diễn hết thực lực thật sự của mình mới có thể giành được sự ủng hộ lớn nhất của hai bên Chiết Dương.
Lý Thính Phong đứng bên ngoài một con hầm giữa núi, vuốt râu quan sát đội quân chỉnh tề, chỉ xuống mà nói:“Trường đao mà đội quân đó cầm chẳng phải chính là mạch đao đã từng bị thất truyền từ lâu rồi sao?”
Ánh mắt Tùy Đại Lang khẽ cười nói:“Nói thanh đao này không phải mạch đao cũng đúng, nói là mạch đao cũng không sai, có điều nếu đem so sánh với thanh mạch đao nhà Đường, thì đao này còn lợi hại hơn nhiều lần. Thanh mạch đao triều nhà Đường vì kĩ thuật luyện sắt có hạn, trình độ rèn cũng không cao, do đó mỗi thanh mạch đao cán gần năm cân trở lên, còn thanh mạch đao này chất gang tinh luyện rất tốt, thân đao kiên cố, lưỡi đao sắc bén, uy lực không sao kể xiết, nhưng quan trọng là chỉ nặng bằng một nửa thanh mạch đao nhà Đường mà thôi”.
“Nếu đã như vậy, Dương Hạo phải chăng sớm đã có dã tâm hùng bá một phương? Nếu không sao hắn có thể mời được thợ rèn danh tiếng đến luyện đao trong một thời gian ngắn như vậy? Từ đó đến nay không biết đã luyện được bao nhiêu binh khí?”
Ánh mắt Tùy Đại Lang khẽ dao động, lắc đầu cười nói:“Đó là cơ mật tối cao của Lô châu, ngay cả ta cũng không biết, nhưng theo động tĩnh của hắn, nếu hắn thực sự có dã tâm không để lộ ra ngoài thì đó chẳng phải là điều càng có lợi cho ta sao?”
Lý Thính Phong gật gật đầu nói:“Từ trước đến nay, bộ kì binh lợi. Những thứ như kình mã bân xung, cường nỗ cự chi lại gần trong chốc lát, cũng khiến kẻ sai lầm gặp phải họa sát thân, duy có đội quân này vẫn là khắc tinh của kỵ binh, nhưng sức mạnh uy lực nhất chính là thanh đại đao này, hàng nghìn lưỡi đao sắc nhọn như bức tường thành kiên cố, trên chém người dưới chặt đứt ngựa, nếu kỵ binh quân địch đánh áp sát, bất kể là vượt qua chân quân ta, giày xéo lên bộ túy của ta, chỉ cần có đại đao này chắn ở phía trước thì tất cả đều như tự mình tìm vào chỗ chết. Ta hãy còn nhớ, từ khi thanh mạch đao này được tạo ra, phàm là trận nào dùng mạch đao trận cũng không phát huy được hết tác dụng to lớn”.
“Dùng binh là ở mưu kế. Pháp quý thiện biến, tác dụng của kỵ binh chỉ ở chỗ xông pha trận mạc, chỉ dựa vào một đội quân dùng mạch đao trận đó đương nhiên không thể trở thành vô địch thiên hạ được, nhưng có được đội quân này kỵ binh của kẻ địch mà cận chiến nhất định sẽ chuốc lấy đau khổ, tác dụng của mạch đao chủ yếu là khống chế kỵ binh địch cận chiến, tác dụng của cung tên chủ yếu là để khống chế kỵ binh địch viễn chiến, ngươi hãy nhìn đội cung tên đối diện với đội quân dùng mạch đao xem, mạch đao và cung tên phối hợp với nhau đúng thật là khắc tinh của kỵ binh..”
“Xem ra Lô châu không những sớm đã có sự chuẩn bị mà còn bước đầu đã xây dựng được quân đội để đối phó với đối thủ có đội quân chiến mã ở Tây Bắc, đối thủ như vậy còn có thể là ai? Dĩ nhiên là Lý đại nhân của Hạ châu rồi. Từ xưa đến nay anh hùng sinh ra nhờ gặp vận, thời thế sinh anh hùng, anh hùng dễ gặp thời thế, Tây Bắc có thể thay thời đổi vận trong tay hắn hay không, chúng ta cứ từ từ chờ đợi rồi sẽ rõ”.
Đùng! Đùng! Đùng!
Ba tiếng pháo hiệu lệnh nổ ra, dàn nhạc cũng cất lên lập tức. Hai bên giáp trượng chỉnh tề, đao kiếm sừng sững, ba người Dương Hạo cùng bước chậm lại, duyệt binh diễu hành.
“ Mạch đao trận!”
Dương Sùng vừa nhìn thấy đội quân sừng sững như bức tường kiên cố con người suýt nữa rơi ra ngoài, ánh mặt trời chiếu trên lưỡi gươm phát ra những tia sáng lấp lánh như phản chiếu trên mặt hồ nhưng lại để lộ ra sát khí kinh người, Dương Sùng trông thấy mà hơi thở cũng trở nên gấp gáp hơn.
Từ cuối thời Đường đến nay, mạch đao đã dần dần trở thành binh khí được các tướng lĩnh có thân phận cao quý sử dụng, trước nay chưa từng có đội quân nào có binh lính chuyên sử dụng mạch đao, đội mạch đao khi ra trận áp sát nhau tiến lên theo hàng ngang, cán đao dài lớn như bức tường, theo tiết tấu tiếng trống lùi tiến vung chém khiến quân thù trước mặt không có cách nào chống lại được.
Trong số những trận chiến đã được ghi vào trong sử sách, sự tham chiến của mạch đao trận đều giữ vai trò quyết định quan trọng, đặc biệt là khi tham gia giao chiến với các dân tộc du mục giỏi cưỡi ngựa bắn cung,mạch đao trận đã thay đổi được tình trạng đội quân người ngựa yếu của quân trung nguyên, phát huy khí thế của bộ binh, phối hợp với các cung thủ trên chiến trường để truy đuổi kỵ binh cũng không phải là chuyện hiếm.
Nhưng bất cứ đội binh nào cũng đều có nhược điểm của nó, mạch đao trận cũng không phải là ngoại lệ. Trước tiên nó cũng cần phải phối hợp với kỵ binh và cung thủ, không thể đơn độc tác chiến, hơn nữa xây dựng binh đội như vậy rất đắt, thời gian luyện tập cũng gấp mấy lần những binh lính khác, chí ít cũng phải mất hai năm mới có thể cho binh sĩ ra tham chiến, đợi đến lúc luyện thành thục rồi thì đạt đến cảnh giới tĩnh lặng như lâm, bất động như núi, nhanh như sớm chớp, lan tỏa như lửa.
Từ cuối thời Đường các chư hầu nhất loạt nổi lên, tự ý tuyển mộ nạn dân, nhét vào tay họ một thanh đao, thế là thành binh lính, kẻ thảo dân nào có thể chịu đựng một thời gian dài nhẫn nại luyện tập thông tỏ được binh pháp phối hợp mới có thể phát huy được tác dụng to lớn của mạch đao trận, huống hồ phí tổn để chế tạo mạch đao và lớp giáp nặng bên ngoài rất lớn, cũng chẳng có kẻ điên cuồng nào dám bỏ ra.
Đúng như Tùy Đại Lang nói, dùng binh phải ở mưu kế, pháp quý thiện biến. Thời đầu Đường, binh lực của các dị tộc như Thổ Phiên, Đột Quyết còn hạn chế, quân đội do triều Đường điều động cũng có hạn, khi Lý Tịnh Đại đánh bại Tây Đột Quyết cũng không dùng quá ba nghìn quân, trận chiến Thản La Tư quân Đường điều động đại quân cũng không đến ngàn người, cho nên mạch đao tuy đắt nhưng vẫn có thể trang bị cho toàn quân đội, đến sau này, quy mô doanh trại không ngừng mở rộng, chẳng ai còn có thể chống đỡ được cho một đội quân hao tốn quá nhiều tiền bạc như vậy nữa.
Đến sau này, bản thu nhỏ của mạch đao...nhất thái đao đã lưu truyền đến Nhật Bản, trở thành vũ khí chiến đấu chủ yếu của các võ sĩ, đó là bởi vì cho dù theo sử sách ở đấy có những chiến dịch với quy mô lớn,nhưng binh lực được huy động cũng không quá vài nghìn người, mà trên chiến trường trung nguyên nếu động chút đã huy động cả vài chục ngàn người thì thứ binh khí này sẽ dần dần bị suy tàn, thay thế nó là thương và rìu, hai thứ này giá cả rẻ, có thể trang bị với số lượng lớn, tuy uy lực có bị sụt giảm song nhất thời cũng có thể khống chế được kỵ binh của địch.
Ban đầu khi Dương Hạo xây dựng Lô châu đã lấy danh nghĩa là xây Khai Bảo tự để thu được khối lượng lớn đồng thiếc, khi đó kẻ thù giả tưởng của Lô châu chính là người Khương ở Tây Bắc, cho nên vũ khí chiến đấu chủ yếu của Lô châu chính là dùng cung tên cho viễn chiến và đao rìu cho cận chiến, khi đó đã từng có người đưa ra ý kiến chế tạo mạch đao song vì để tiết kiệm tối đa đồng thiếc, đồng thời cũng là để nhanh chóng chế tạo vũ khí đưa ra chiến trường nên Dương Hạo đã bãi bỏ ý kiến đó, cho đúc lượng lớn rìu chiến.
Nhưng sau này tình hình thay đổi, Lô châu đã có mỏ thiếc của riêng mình, mà diện tích binh lực của Lô châu có hạn, chỉ có thể dựa vào tinh binh mà thôi. Do đó Dương Hạo bèn thay đổi chủ ý, lệnh cho phẩm đường Lý Hưng Tinh tuyển chọn tinh binh. Cuối cùng cũng chế tạo ra được thanh mạch đao có nhiều cải tiến hơn trước, thanh đao này nhẹ hơn rất nhiều so với thanh đao nhà Đường, các binh sĩ khi tập luyện cũng nhanh chóng sử dụng được.
Nghệ thuật chiến tranh không chỉ là trên chiến trường chém chém giết giết, nhưng phàm là nhân tố có thể khắc chế quân địch giành chiến thắng, thân làm chủ soái tất nhiên sẽ phải nghĩ cách mà lợi dụng nó.
Mạch đao là thứ vũ khí lợi hại thời thịnh Đường dùng để đối phó với người Thổ Phiên, Đột Quyết, đến ngày hôm nay nhà Đường mới bị diệt vong chưa đến trăm năm, triều đại trung nguyên cũng đã phát sinh nhiều biến cố kinh thiên động địa, trong khi văn hóa và phương thức sống của cấc dân tộc phía Bắc vẫn phát triến một cách chậm chạm, loại vũ khí có tính sát thương đáng sợ này vẫn còn trong kí ức của các dân tộc này như vừa mới hôm qua, xây dựng lại một đội quân mạch đao, sẽ có tác dụng tâm lý to lớn, khi nó đã thành công trên chiến trường,dương uy trở lại với Tây Bắc sẽ tạo ra áp lực tâm lí không thể chế ngự được với đối thủ, kẻ địch càng mạnh, nếu trước đó khiến chúng phát sinh sự lo lắng sợ hãi thì khả năng chiến đấu nhất định cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Hôm nay mạch đao trận lần đầu phô diễn quả nhiên đã khiến cho Chiết Ngự Huân và Dương Sùng vô cùng kinh ngạc. Trăm ngàn thanh mạch đao đứng sừng sững cao lớn, dày đặc như một bức tường vuông vắn, bọn hắn có thể tưởng tượng đến cảnh cả đội quân giơ cao thanh mạch đao lên, tiến từng bước vững chãi về phía trước theo tiếng trống, trăm ngàn đao lớn giương lên hạ xuống, đó sẽ chính là cảnh tượng đang ở trước mặt, chỉ huy cầm trên tay thanh mạch đao lớn, bên trong người ngựa ngay ngắn chỉnh tề, khí thế không cưỡng lại được.
Đi giữa con đường rộng rãi,cách trận mạch đao mười mấy bước, đám ngựa đều cảm thấy sát khí từ bên đó thì bất an thở phì phò không yên, những vệ binh tinh nhuệ do hai vị tiết độ sứ thống lĩnh mặt cũng biến sắc.
Khi Dương Sùng còn đang tham lam dán mắt vào đánh giá trận mạch đao, Chiết Ngự Huân lại nhìn sang phía đội cung thủ ở một bên, Chiết Ngự Huân thông qua “Tùy Phong” sớm đã biết Lô châu bí mật luyện trận mạch đao, bí mật này đối với bản thân đã không thể xem là bí mật nữa rồi, tuy hôm nay mới là lần đầu hắn được thấy uy thế của trận mạch đao song hắn vẫn có thể làm ra vẻ thản nhiên như không.
Điều hắn thật sự quan tâm đến chính là đội cung thủ của Lô châu.
Hắn sớm đã nghe nói Lô châu nghiên cứu chế tạo một loại cung nỏ mới, nghe nói phạm vi và khả năng sát thương đều khác biệt vượt trội, đáng tiếc loại vũ khí này quá bí mật, chỗ bí mật của nó chính là khi thiết kế sử dụng rất nhiều các bộ phận hỗ trợ tinh xảo trợ lực, điểm cơ bản nhất của xạ tiễn cũng giống như các loại cung nỏ bình thường, một binh sĩ tinh thông cưỡi ngừa bắn cung cũng chưa chắc đã nhìn thấy nó, chỉ cần luyện tập qua cũng có thể nhanh chóng lên tay, cho nên loại nỏ thần do Lô châu chế tạo này hoàn toàn không ai hay biết, bình thường cũng không giao cho binh sĩ luyện tập cho nên hắn cũng không rõ được tường tận.
Hôm nay là lần đầu tiên hắn tận mắt nhìn thấy loại nỏ thần do Lô châu bí mật chế tạo, hắn ngồi trên lưng ngựa, khép hờ đôi mắt, vuốt chòm râu dài quan sát một cách tỉ mỉ, nếu so sánh ra thì cung của chiếc nỏ bình thường dường như to hơn loại nỏ thần này, theo lẽ thường, nếu muốn bắn xa bắn nhanh thì cánh cung cần phải dài hơn một chút, mà khoảng cách bắn đã xa hơn các loại cung bình thường thì bắn càng khó hơn, vậy lí do nó có thể ưu việt hơn cung bình thường hiển nhiên là nhờ sự tinh xảo của các bộ phận thêm vào.
Chưa nhìn thấy họ phô diễn thì ngay cả đến uy lực của nó thế nào cũng khó có thể biết được, dùng mắt để đoán thế này cũng chẳng thể nhìn ra sự tinh xảo của nó, vậy nên hắn chỉ có thể ngắm nhìn một cách nuối tiếc đội cung nỏ được trang bị chỉnh tề.
Mỗi người đều mặc áo giáp nửa người, giữa lưng có dắt dao, ngay phía trước người là tấm lá chắn lớn, trên tay một tấm lá chắn nữa, khả năng phàng thủ của đội cung thủ được tăng lên nhiều lần, bồi dưỡng một xạ thủ không phải là chuyện dễ dàng, phải cho họ đem theo bên mình một tấm chắn lớn, đương nhiên có thể giảm đi rất nhiều tổn hại trên chiến trường, nhưng nếu như vậy, sức chiến đấu của cung thủ sẽ thế nào?
Chiết Ngự Huân rất nhanh đã phát hiện ra, tấm khiên chắn khi chuyển động vô cùng nhẹ nhàng, dường như dùng một vật có độ dai như mây để chế tạo nên, bên ngoài tráng qua lớp thiếc, vậy mà, chiếc khiên đó thả ra có thể đặt đứng thẳng trên mặt đất, Chiết Ngự Huân kinh ngạc không thể lí giải nổi, nhìn nghiêng hướng khiên xem mới chú ý đến mặt sau của chiếc khiên có một giá trụ, hai góc chân trụ kết hợp với một chân trụ thứ ba ở chỗ thấp nhất khiến tấm khiên có thể đứng vững trên mặt dất, như vậy các xạ thủ có thể chuyên tâm vào việc cung nỏ mà không cần thiết phải để ý đến tấm giáp phong hộ che chắn của mình, đồng thời lại có thể nâng cao hiệu quả phòng ngự một cách tốt nhất.
Chiết Ngự Huân thầm ca ngợi sự kì diệu của nó, trong lòng nghĩ:“Chỉ thêm vào vài thứ đồ chơi be bé đã có tác dụng lớn đến như vậy, khi trở về ta nhất định phải lệnh cho thợ mộc ở Phủ châu mô phỏng theo”.
Đi về phía trước, hai bên đều là đội khinh kỵ binh và giáp kỵ binh, khinh kỵ binh thì không cần phải nói, nhìn thấy những con ngừa A La Bác cao lớn đẹp đẽ bên phải, trên chân ngựa, cả trên lưng ngựa, toàn thân đều được trang bị giáp sắt, phía trước là võ sĩ giấu mặt thân cao trượng tám, giống như quái thú giáp sắt, Dương Sùng ghen tị mà nói:“ Ta đây nếu có được đội kỵ binh trọng giáp như thế này, bất kể người hay phật ngáng trở đường đi của ta ta đều không tha, hành sự lẽ nào còn phải nể nang kẻ khác hay sao?”
Chiết Ngự Huân lại càng ghen tị:“Thật không ngờ Dương Hạo lại có nhiều tiền của như thế, nhớ lúc đầu ta còn hào phóng tặng cho hắn không ít binh khí, sớm biết thế này, ta nên trở tay lấy một vài thứ của hắn mới đúng, tên tiểu tử này luôn miệng than nghèo khó, đại ca đây đã bị hắn lừa rồi, không được, sau này nếu tiểu muội ta thật sự được gả cho hắn, nói không chừng sẽ nhận được một món hồi môn đáng giá, huynh đây trượng nghĩa, lẽ nào ngươi lại không chịu nể mặt người huynh đệ này”.
Hắn nghĩ rồi không nhịn được, quay đầu nhìn theo đám thị vệ, trong đám thị tùng, tên thị vệ mặt mày tuấn tú, để râu chữ bát chính là Chiết Tử Du cải trang.
Nhìn thấy binh lính Lô châu bày binh bố trận chỉnh tề uy nghiêm, đôi mắt Chiết Tử Du long lanh khác thường, nàng vốn cho rằng “Tùy Phong” của mình chỗ nào cũng có thể xâm nhập, nhìn khắp cả Tây Bắc này không có thứ gì có thể qua khỏi tầm mắt của nàng, không ngờ nhìn ngay xuống mũi mình bất giác đã thấy Dương Hạo có được thực lực to lớn đến vậy, muốn vậy cũng phải tiêu tốn biết bao tiền bạc sức lực, phải chuẩn bị huấn luyện trong bao nhiêu lâu? Vậy mà hắn còn mở miệng ra là nói muốn tránh xa thế sự, lui về ở ẩn, khuyên ta không cần phải đối đầu lại với số phận, ai có thể tin được hắn? Tên lừa đảo, thật là kẻ đại lừa đảo!”
Chiết Tử Du một mặt nhớ nhung, một mặt lại căm hận, hận đến nỗi nghiến răng nghiến lợi lại, không hề chú ý đến việc huynh trưởng đang quan sát mình một cách đê tiện, con người trong đôi mắt phượng đã biến thành hai tấm “Tống Nguyên thông bảo”
Thấy hai tên Chiết Dương đi qua trận kỵ binh, Tùy Đại Lang và Lý Thính Phong đứng từ trên cao nhàn xuống không nén nổi nhìn nhau mà cười, trên mặt lộ rõ sự kiêu căng. Đội kỵ binh thùy giáp này Lô châu đã sớm bắt đầu huấn luyện rồi, nhưng những phiến giáp trụ đồng, lại có A La Bá mã cao lớn anh tuấn, tất cả đều dựa vào sự giúp đỡ của Kế Tự đường mới có thể trang bị được, thấy mình dùng tài lực lớn một tay trang võ trang quyền uy tự nhiên cảm thấy vinh quang tột cùng.
Phía trước lại là một đội trường thương và đoản đao, trường thương và đoản đao trận còn phân ra thành các động tác như vung thương (đao), chặt đâm, thu đao...các động tác nhất loạt chỉnh tề, trăm nghìn người ầm ầm khí thế, nhất tề đồng loạt, trông vô cùng đẹp mắt, cảm giác thị giác đem lại khiến người xem phải rung động.
Tuy nói thứ đồ chơi này trên chiến trường không phát huy được tác dụng gì nhưng điều quân đội coi trọng chính là luyện tập sự nhanh nhẹn, nhất loạt theo hiệu lệnh, những binh sĩ này đều có thể thực hiện các động tác vuông vắn nhất tề như cùng một người xuất ra, còn phải e ngại khi ra trận họ không tuân thủ theo quân lệnh như sơn sao?
Chiêu này là do Dương Hạo học tập theo từ trong binh pháp hậu thế, quả nhiên dành được những lời tán thưởng, các võ tướng xem xong cũng gật gù tán thành, các quan văn võ đi cùng Chiết Dương cũng không nén nổi sự phải lớn tiếng tán thưởng.
Nơi nghênh đón lưỡnng phiên tướng quân lại không phải trong phủ tiết độ sứ mà là ở lầu cao bên ngoài nha phủ, ở đó dựng một chiếc cổng chào cao, hai bên là hai dòng thác nước tuôn chảy, cảnh sắc vô cùng tráng lệ.
Hôm nay hai phía khâm chỉ đến thăm quan có ý nghĩa to lớn phi phàm, đây chính là một sự thể hiện rõ rệt nhất của chính trị.Dương Hạo cũng là muốn nhân dịp này để thể hiện sức mạnh một cách công khai, cho nên nơi nghênh đón phải chọn chỗ sáng sủa nhất.
Trong số đám thương nhân đến Lô châu này không thể không có tai mắt của triều đình, thậm chí còn có cả tai mắt của phe Hạ châu Lý Quang Duệ và Ngân châu Khánh vương, từ ngày hôm nay, Dương Hạo lấy thân phận của một kẻ mạnh để xuất hiện trước mặt thế nhân, phô trương? Đó là điều tất nhiên.
“Hai vị tiết độ sứ đến đây, ta xin giới thiệu với các vị hai người bằng hữu tốt”.
Dương Hạo cầm tay Chiết Ngự Huân và Dương Sùng lôi đi, đứng trên lầu cao rồi cười mà nói:“Vị này là Tiểu Dã Khả Nhi, là tộc trưởng bộ lạc Dã Lợi Thị, bổn quan có thể vinh dự được thăng làm tiết độ sứ, trở lại Lô châu, Đảng Hạng kết giao hữu hảo với Lô châu ta, đó là niềm vui mừng khôn xiết, đặc biệt còn ủy thác cho tộc trưởng tộc Tiểu Dã thay mặt các tộc Đảng Hạng đến trước chúc mừng.”
Tiểu Dã Khả Nhi tiến lên phía trước một bước, chắp tay hành lễ với Chiết Ngự Huân và Dương Sùng, tươi cười nói:“Tiểu Dã Khả Nhi tham kiến hai vị tiết sứ, sớm đã nghe danh tiếng hai vị, hôm nay được gặp thật là phúc đức ba đời”.
Hai nhà Chiết Dương đương nhiên hiểu rõ các bộ lạc ở Tây Bắc như lòng bàn tay, họ đều biết trong số tám bộ lạc của người Đảng Hạng thì bộ lạc Dã Lợi Thị là hung bạo nhất, cũng đã từng nghe nói danh tiếng của Tiểu Dã Khả Nhi, nghe nói người thanh niên anh vũ dũng mãnh trước mặt mình chính là Tiểu Dã Khả Nhi thì không giấu nỗi sự hoan hỉ, khách khí đáp lễ lại, hai bên hỏi han nhau một lượt.
Hai bên hành lễ đã xong, Dương Hạo bèn nói:“Ở đây còn một vị khách quý nữa, đó là Thổ Phiên Á Long Giác A Vương Hậu Thương, người đứng đầu lạc Á Lũng Giác Xích Bang Tùng Xích đại nhân, Xích Bang Tùng đại nhân, vị này là Chiết đại soái Phủ châu, vị này là Dương đại soái Lân châu, đến đây, mọi người gặp nhau”.
Chiết Ngự Huân và Dương Sùng nghe xong đều thầm kinh ngạc:“Dương Hạo ngay cả người Thổ Phiên cũng đã lôi kéo được quan hệ”.
Thổ Phiên đã từng cai trị Tây Bắc, từ thời Võ Tắc Thiên đến Đường Huyền Tông họ đã chiến tranh liên miên với Đại Đường, bên này hòa hiếu, bên kia lại gây chiến, đến sau này rốt cục cũng tranh đoạt được bốn trấn An Tây, tiêu diệt Thổ Cốc Hỗn, cướp được Hà Tây và Lũng Hữu, thậm chí có lúc còn tấn công áp sát thành Trường An của nhà Đường.
Nhưng khi đó thế lực của đế quốc Đại Thực đã bắt đầu xâm chiếm phía Đông, thay thế thế lực nhà Đường kéo dài đến Thổ Phiên của Thông Lĩnh, liên tiếp gây chiến với người Đại Thực, bên này chiến tranh không dứt, đế quốc Hồi Hất bên kia nhân đó vùng dậy, hai bên Thổ Phiên đều rơi vào chiến tranh. Sức mạnh tiêu hao cạn kiệt, cuối cùng sụp đổ.
Sau khi Tán Phổ Đạt Ma cuối cùng chết, Thổ Phiên tan rã sụp đổ, phân tách thành 4 chính quyền lớn, là A Li Vương Hệ, Á Trạch Vương Hệ, La Sa Vương Hệ, Á Lũng Giác A Vương Hệ. Bốn thế lực này cũng phân thành nhiều thế lực nhỏ khác, ví dụ A Li Vương Hệ phân chia thành ba bộ phận Mãnh Vực, Tượng Hùng, Bố Nhượng; La Sa Vương Hệ phân chia thành Sùng Ba Ba, Khương Giao Ngõa, La Ba Lãng Ba, Trị Ba, Nghiệp Đường Ba, Lô Ba Tạng Ba...
Tuy nói Thổ Phiên phân chia ra rất nhiều, người Khương của Hồi Hất và Đảng Hạng xâm lược nơi khác, đàn áp nô dịch người dân, nhưng ngựa thồ gầy yếu vẫn lớn hơn ngựa thường, bộ lạc lớn mạnh nhất trong đó vẫn là bộ tộc có vũ lực lớn mạnh nhất, không dễ bị xem thường, từ Phủ châu và Lân châu mà nói, nếu Hạ châu đi xâm lược nơi khác, họ nhất định sẽ xuất quân đánh lại, nhưng nếu để hai vị tiết độ sứ bọn họ liên thủ lại, họ cũng không dám khinh xuất khêu chiến với Hạ châu, trong khi đó Thổ Phiên lại có thực lực này.
Vừa nghe nói Dương Hạo có quan hệ mật thiết với Thổ Phiên, Chiết Ngự Huân và Dương Sùng không thể không thay đổi cách nhìn với tay láu cá này, phải đánh giá lại thực lực thật sự của hắn.
Xích Bang Tùng tuổi tác không lớn lắm, cũng tầm tầm với Tiểu Dã Khả Nhi, chỉ ít hơn Tiểu Dã Khả Nhi vài tháng, nhưng tướng mạo khôi ngô cường tráng, để râu trên mặt, nên xem ra có vẻ lớn hơn Tiểu Dã Khả Nhi vài tuổi, xem chừng tính khí thẳng thắn dũng cảm, nhất định không thể là gian tế, vừa nghe Dương Hạo giới thiệu, hắn đã nhanh chân bước lên trước, giơ cao hai cách tay, cúi người khom lưng hành lễ, vui vẻ nói:“Xích Bang Tùng bộ lạc Á Lũng Giác bái kiến Phủ châu Chiết soái, Lân châu Dương soái, danh tiếng hai vị đại nhân đã sớm lưu truyền đến chỗ tại hạ, hôm nay gặp mặt thật là vinh hạnh”.
Nói sau mấy câu nói khách sáo, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân suýt chút nữa không hiểu gì, tiếng Hán của Xích Bang Tùng rất lưu loát, chỉ là hắn nói một hơi rồi mới ngắt một câu, cũng chẳng cần quan tâm ngắt ở chỗ nào, nghe xong khiến người khác sũng sờ một lúc, hắn nói khó khăn, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân nghe còn khó khăn hơn.
Dương Hạo cười lớn rồi tiến lên phía trước giải thích vài câu rồi mời mọi người vào chỗ, sau khi đã sắp xếp ổn thỏa bèn nâng cốc lên, vô cùng đắc ý nói:“Chư vị, bổn quan trở lại Lô châu, nhận thánh chỉ của triều đình, nhận chức tiết độ sứ Hoành sơn, hôm nay vinh hạnh được bạn bè từ u nơi đến chúc mừng, Dương mỗ vô cùng cảm kích, bát rượu này, Dương mỗ xin kính mọi người trước, xin mời”.
Dương Hạo nâng bát uống cạn, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân liếc nhìn nhau, cũng mỉm cười nâng bát rượu lên, các quan lại hai bên cũng lần lượt nâng cốc đứng dậy, lớn tiếng hưởng ứng, âm thanh rung động cả khe núi, vọng lại từng hồi không dứt.
Đặt bát rượu xuống, Dương Hạo vẫn chưa quay về chỗ ngồi, nâng lên một bát rượu, cao giọng nói:“Đã nhậm chức quan, phải tạo phúc cho dân, giữ yên sự bình an cho triều đình. Ngân châu vốn là vùng đất nằm dưới sự cai trị của nhà Tống ta đây, chịu sự cai trị của Định Nam Thảo, nay lại bị quân phản nghịch Khiết Đan chiếm lấy làm của mình, Định Nam quân ngay đến thân mình còn chưa lo nổi nên không cách nào thu hồi lại được quốc thổ, Dương mỗ thân là tiết độ sứ Hoành sơn, lại gần kề với Ngân châu trong gang tấc, lẽ nào có thể nhắm mắt làm ngơ?
Hôm nay Dương mỗ khai nha xây phủ, việc thứ nhất chính là muốn chinh phạt Ngân châu, hôm nay các vị bằng hữu tề tựu đông đủ, xin hãy làm chứng cho lời tuyên thệ trước khi xuất quân của Dương mỗ, hi vọng đại quân giành được thắng lợi, mã đáo thành công, thu hồi lại được Ngân châu, đánh đuổi quân phản loạn Khiết Đan. Các vị bằng hữu, mời cạn chén”.
Chiết Ngự Huân và Dương Sùng nghe xong những lời nay mà vui mừng ra mặt, chúng đến đây vốn có ý muốn thuyết phục Dương Hạo tạm thu hồi binh lính ở Hạ châu, giành lấy Ngân châu trước vì hiện tại Ngân châu đang nằm trong tay Khánh vương, mà Khánh vương lại là tên vua phản loạn của Khiết Đan, Khiết Đan tuyệt đối sẽ không chịu ngồi nhìn Khánh vương cai trị Ngân châu, sớm muộn cũng sẽ cho quân đến khiêu chiến.
So với đại Tống, người Khiết Đan càng có dã tâm, họ một khi đánh bại Khánh vương chiếm lấy Ngân châu thì nhất định sẽ không bao giờ chịu nhả miếng mồi ngon đó ra nữa, một khi Ngân châu đã trở thành bàn đạp để tấn công của Khiết Đan rồi thì đó sẽ là một cơn ác mộng đối với các vùng Tây Bắc. So với con mãnh hổ này thì Hạ châu Lý Quang Duệ nhất thời sẽ không còn nguy hại đến bọn chúng nữa, thật không ngờ anh hùng cùng chung chí hướng, Dương Hạo vốn đã có dự tính như vậy.
Quan Lô châu Nham Phàn Nặc dẫn đầu tướng lĩnh uống cạn bát rượu.
Dương Hạo trở về chỗ ngồi. Dương Sùng đã tán thưởng:“Thái úy quả nhiên là bậc anh hùng trong thiên hạ, thật khiến nguời khác phải khâm phục, có điều tên Khánh vương của Khiết Đan này từ Đông đến Tây, đi đến đâu cũng chém giết, sức mạnh ngày càng lớn, không thể xem thường được, thái úy tuyên chiến trước rồi mới đánh đương nhiên là hành động anh minh lỗi lạc, nhưng để cho hắn có thời cơ chuẩn bị như vậy, trận này...e rằng không dễ đánh”.
Dương Hạo cười một cách xảo quyệt:“Thu hồi lại vùng đất đã mất đương nhiên là phải tuyên chiến trước rồi mới đánh, đó mới gọi là uy vũ. Có điều, Dương mỗ lại không phải là Tống Tương Công trên chiến trường còn nói lý lẽ với kẻ thù. Ha ha, Dương mỗ tuy hôm nay tuyên chiến, quân đội hùng mạnh như vậy nhưng chưa chắc sẽ xuất quân ngay bây giờ”.
“Hả?”
Ngự Huân khẽ khép đôi mắt phượng lại, thầm nghĩ:“Tên tiểu tử này rõ ràng bên trong quang minh lỗi lạc nhưng bản lĩnh làm trò hắc ám của hắn có phong cách của ta ngày trước, lúc đầu hắn cũng từng tập kích bất ngờ vào Ngân châu, cha con Lý Thế Thiên hèn nhát cuối cùng mất mạng vào tay hắn, chẳng lẽ hắn muốn lật lọng, lặng lẽ phái người lén tập kích?
Nhưng hôm nay hắn lại đi công khai chuyện này, còn không trừ khi hắn đã sớm phái quân đi trước, nhưng xem năng lực quân sự của hắn lẽ nào hắn còn đang giấu diếm sức mạnh lớn hơn?”
Chiết Ngự Huân càng ngĩ càng cảm thấy kinh ngạc, không nhịn nổi bèn thử thăm dò:“Chiết mỗ cũng là thần tử của nhà Tống, việc giành lại vùng lãnh thổ bị cướp mất là trách nhiệm chung của mọi người, thái úy đã có ý định chinh phạt Ngân châu, nếu cần bổn soái giúp đỡ, chỉ cần nói một tiếng,Chiết mỗ sẽ lập tức xuất quân trợ chiến”.
Dương Hạo cười lớn, nửa thật nửa đùa nói:“Đa tạ ý tốt của Chiết soái, có điều, việc lấy lại Ngân châu vẫn chưa cần phiền đến binh mã của Chiết soái, Dương mỗ theo đạo giáo đại thánh Thuần Dương chân nhân học được chút bản lĩnh lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh, đại quân thảo phạt Ngân châu lần này, ha ha, sớm đã có rồi”.
Phía bên dưới, Chiết Tử Du đang cải trang thành một tên tự vệ chép miệng nói:“Lại nói lung tung để gạt người khác rồi”.
Ánh mắt Dương Sùng chợt lóe sáng, cười lớn mà nói:“Thái úy lại nói đùa rồi, nếu thật sự có cái bản lĩnh đấy vậy đế vương thiên hạ này đều là cao nhân đạo giáo rồi, làm gì có cơ hội cho đám phàm nhân tục tử chúng ta trở thành anh hùng đây?
Chắc thái úy sớm đã có dự trù, binh gia đại sự càng cơ mật càng tốt, chỉ cần thái úy không lỗ mãng hành sự là được, chúng ta cũng không hỏi nhiều nữa. Ha ha, ta và thái úy đều họ Dương, năm trăm năm trước vốn là một nhà, hôm nay được gặp gỡ với thái úy càng có cảm giác chúng ta có duyên kì ngộ, bổn soái có ý cùng thái úy kết thành huynh đệ sinh tử có nhau, không biết ý thái úy thế nào?”
“Dương mỗ cũng đang có ý này, được tiết soái nâng đỡ, Dương mỗ quả là cầu được ước thấy” Dương Hạo vui mừng nói.
Chiết Ngự Huân chưa từng nghĩ đến việc Dương Sùng lại có ý này, bất giác trong lòng có chút tức giận, hai người bọn chúng kết hợp lại, Lân châu trước nay luôn dựa vào Phủ châu, hôm nay Dương Sùng lại đột nhiên tự mình làm chủ, Chiết Ngự Huân tự nhiên thấy không vui, nhưng nhìn thấy Dương Hạo thì đành phải đồng ý.
Chiết Ngự Huân không nghĩ ngợi nhiều cười một tràng dài nói:“Dương lão đệ, Chiết mỗ cũng đang có ý này, không ngờ lại để đệ đi trước một bước, ha ha, Dương thái úy, bổn soái cũng có ý muốn kết nghĩa kim lan với ngài, từ nay chúng ta kết làm huynh đệ kết nghĩa, có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, không biết ý thái úy thế nào?”
Xích Bang Tùng nhảy nhót reo mừng nói lớn:“Đúng, đúng, ý kiến này thật là hay, tính cả ta, và tộc trưởng Tiểu Dã cùng các vị, năm người chúng ta cùng kết nghĩa huynh đệ ở đây, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu!”
Bộ râu Chiết Ngự Huân nghếch lên, lạnh lùng nói:“Giữa đàn ông với nhau không có sự tranh giành đấu đá”.
Dương Hạo vô cùng vui mừng, lệnh cho người đem nến thơm đến, năm người cùng thắp hương cầu khấn, sau đó cắt máu ăn thề, kết nghĩa kim lan. Luận theo tuổi, Chiết Ngự Huân lớn nhất rồi đến Dương Sùng, Dương Hạo thứ ba, sau đó là Tiểu Dã Khả Nhi, Xích Bang Tùng nhỏ tuổi nhất, năm người đại diện cho năm thế lực ở năm vùng liền kết nghĩa anh em trước sự chứng kiến của mọi người.
Dương Hạo ban đầu cũng không ngờ đến việc sẽ cùng họ kết bái, việc này đối với hắn chỉ có lợi mà không có hại, kinh ngạc vui mừng không để đâu cho hết, nhanh chóng bái làm huynh đệ. Dương Hạo bèn dặn dò Mục Vũ nhanh chóng đi mời các vị phu nhân ra để gặp gỡ các thúc bá. Lát sau, Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Miêu Miêu trang sức quần áo gọn gàng, muôn hình muôn vẻ đi ra, lần lượt bái kiến hai vị đại thúc và nhận hành lễ của Dã Khả Nhi và Xích Bang Tùng.
Xích Bang Tùng chắp tay hành lễ:“Tiểu đệ Xích Bang Tùng bái kiến đại tẩu, nhị tẩu, tam tẩu, tứ tẩu”.
Vừa hành lễ xong liền hoa mắt chóng mặt ngẩng đầu lên, luôn miệng cười nói:“Đại ca, nhị ca, tam ca, tứ ca, bốn vị đại ca phúc khí lớn có được bốn vị đại tẩu, đều đẹp hơn nhiều so với những cô gái đẹp nhất trên thảo nguyên Thổ Phiên của Xích Bang Tùng, như là kẻ phàm nhân nhất thời được gặp nhiều tiên nữ như vậy”.
“Hả?” Đám người Dương Hạo sững sờ một lúc, mọi người phải thuật lại một lần từ đầu đến cuối lời của Xích Bang Tùng mới có thể hiểu ý hắn.
Lúc mọi người vẫn còn chưa hiểu rõ, Chiết Tử Du ở bên dưới trong bộ dạng của một tên hiệu úy có bộ râu nhỏ không nhịn được bật cười thành tiếng, vội vã đưa tay lên che miệng lại.
Động tác của nàng lộ rõ thân phận nữ nhi, may mà mọi người đều đang bị những câu nói của Xích Bang Tùng làm cho hồ đồ nên không ai chú ý đến động tác ấy.
Dương Hạo nghĩ thật kĩ lời của Xích Bang Tùng mới hiểu ra, nhất thời mặt mũi tối sầm lại, Tiểu Dã Khả Nhi cũng hiểu ra, nhanh chóng kéo Xích Bang Tùng sang một bên, cười đau khổ:“Lão ngũ, đệ nói năng mạo phạm như vậy, các vị đại tẩu đều là phu nhân của mình tam ca”.
Xích Bang Tùng chớp mắt ra bộ không hiểu gì, Tiểu Dã Khả Nhi đành phải hạ giọng giải thích lại một lần nữa, Xích Bang Tùng lúc này mới hoảng hốt ngộ ra, không kìm được đỏ mặt đi lên trước tạ lỗi, lắp bắp nói:“ Xin bốn vị tẩu tẩu thứ lỗi cho Xích Bang Tùng đệ không hiểu phép tắc lễ nghĩa trung nguyên,dẫn đến hiểu lầm đáng xấu hổ như vậy”.
Chiết Ngự Huân cười lớn nói:“Lão ngũ à, đại ca đệ ở nhà cũng có tám vị phu nhân, theo cách nói của đệ, đại ca còn phải kết nghĩa lại với ba vị huynh đệ mới có thể thu thập đủ con số ấy sao”.
Chiết Ngự Huân lấy đó làm trò cười khiến mặt Xích Bang đã đỏ gay như uống rượu nay lại chuyển sang màu tím, không ngừng chắp tay xin lỗi, đám Đông Nhi lại thích sự ngây thơ chất phác đó bèn nhấc hắn dậy an ủi một lúc, còn hỏi thăm gia cảnh thân thế.
Trước mặt vô số các quan lại, bốn vị phu nhân lại rất chú ý đến cử chỉ hành động của mình, thái độ ung dung, cử chỉ lịch thiệp, giữ gìn gia phong phép tắc. Bên dưới có rất nhiều người bao gồm cả quan lại Lô châu cũng là lần đầu tiên diện kiến bốn vị phu nhân của Dương Hạo, không tránh khỏi ngắm nhìn bình phẩm, tán dương không ngớt.
Chiết Tử Du nhìn thấy trong lòng không có cảm giác gì, khẽ chép chép miệng, ghen tức nói:“Giữa nữ nhi với nhau tranh giành càng không có gì là thú vị”.
Lời Chiết Tử Du vừa nói ra, Trúc Vận trong miệng ngậm đoạn cỏ đuôi chó không biết từ đâu xuất hiện, không hứng thú gì nói:“Tranh đấu giữa nam nữ với nhau không biết có thú vị không, đáng tiếc nếu người lại gặp phải một đống gỗ mục chỉ muốn xuất gia, thì lúc đó chính là muốn tranh đấu cũng không thể”.
Bước vào trong thành Ngự Huân và Dương Sùng thầm kinh ngạc. Trong thành vốn dĩ rất yên tĩnh, nhưng không ai có thể ngờ được rằng vừ vào bên trong đã trông thấy đội binh mã hùng dũng đã đứng nghiêm trang ở đó từ trước. Hàng ngàn người ai nấy cũng đều khí thế ngút trời, khí thế mạnh mẽ như bức tường sắt kiên cố khiến hai vị đại soái cả đời theo binh nghiệp cũng không thể tránh khỏi có chút kinh động trong lòng.
Chiết Ngự Huân và Dương Sùng mỗi người đều đem theo khoảng ba trăm thị vệ và một đám liêu thuộc, tất cả lần lượt tiến vào thành, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt không thể tránh khỏi có những lời xì xào nho nhỏ.
Nhân việc hai thủ lĩnh vùng Tây Bắc đến thăm, Dương Hạo lần đầu để lộ ra thực lực thật sự của mình, giờ đây hắn không còn là một con côn trùng đáng thương phải tiếp tục luồn lách để thỉnh cầu giữ được mạng sống, cũng chẳng cần phải giả bộ là hảo hán không tranh giành thị phi với đời, hắn nhất định phô diễn hết thực lực thật sự của mình mới có thể giành được sự tin cậy tín nhiệm của quân dân Lô châu, sự tin cậy tín nhiệm của các thương hội như Tác Cổ và Kế Tự đường, phô diễn hết thực lực thật sự của mình mới có thể giành được sự ủng hộ lớn nhất của hai bên Chiết Dương.
Lý Thính Phong đứng bên ngoài một con hầm giữa núi, vuốt râu quan sát đội quân chỉnh tề, chỉ xuống mà nói:“Trường đao mà đội quân đó cầm chẳng phải chính là mạch đao đã từng bị thất truyền từ lâu rồi sao?”
Ánh mắt Tùy Đại Lang khẽ cười nói:“Nói thanh đao này không phải mạch đao cũng đúng, nói là mạch đao cũng không sai, có điều nếu đem so sánh với thanh mạch đao nhà Đường, thì đao này còn lợi hại hơn nhiều lần. Thanh mạch đao triều nhà Đường vì kĩ thuật luyện sắt có hạn, trình độ rèn cũng không cao, do đó mỗi thanh mạch đao cán gần năm cân trở lên, còn thanh mạch đao này chất gang tinh luyện rất tốt, thân đao kiên cố, lưỡi đao sắc bén, uy lực không sao kể xiết, nhưng quan trọng là chỉ nặng bằng một nửa thanh mạch đao nhà Đường mà thôi”.
“Nếu đã như vậy, Dương Hạo phải chăng sớm đã có dã tâm hùng bá một phương? Nếu không sao hắn có thể mời được thợ rèn danh tiếng đến luyện đao trong một thời gian ngắn như vậy? Từ đó đến nay không biết đã luyện được bao nhiêu binh khí?”
Ánh mắt Tùy Đại Lang khẽ dao động, lắc đầu cười nói:“Đó là cơ mật tối cao của Lô châu, ngay cả ta cũng không biết, nhưng theo động tĩnh của hắn, nếu hắn thực sự có dã tâm không để lộ ra ngoài thì đó chẳng phải là điều càng có lợi cho ta sao?”
Lý Thính Phong gật gật đầu nói:“Từ trước đến nay, bộ kì binh lợi. Những thứ như kình mã bân xung, cường nỗ cự chi lại gần trong chốc lát, cũng khiến kẻ sai lầm gặp phải họa sát thân, duy có đội quân này vẫn là khắc tinh của kỵ binh, nhưng sức mạnh uy lực nhất chính là thanh đại đao này, hàng nghìn lưỡi đao sắc nhọn như bức tường thành kiên cố, trên chém người dưới chặt đứt ngựa, nếu kỵ binh quân địch đánh áp sát, bất kể là vượt qua chân quân ta, giày xéo lên bộ túy của ta, chỉ cần có đại đao này chắn ở phía trước thì tất cả đều như tự mình tìm vào chỗ chết. Ta hãy còn nhớ, từ khi thanh mạch đao này được tạo ra, phàm là trận nào dùng mạch đao trận cũng không phát huy được hết tác dụng to lớn”.
“Dùng binh là ở mưu kế. Pháp quý thiện biến, tác dụng của kỵ binh chỉ ở chỗ xông pha trận mạc, chỉ dựa vào một đội quân dùng mạch đao trận đó đương nhiên không thể trở thành vô địch thiên hạ được, nhưng có được đội quân này kỵ binh của kẻ địch mà cận chiến nhất định sẽ chuốc lấy đau khổ, tác dụng của mạch đao chủ yếu là khống chế kỵ binh địch cận chiến, tác dụng của cung tên chủ yếu là để khống chế kỵ binh địch viễn chiến, ngươi hãy nhìn đội cung tên đối diện với đội quân dùng mạch đao xem, mạch đao và cung tên phối hợp với nhau đúng thật là khắc tinh của kỵ binh..”
“Xem ra Lô châu không những sớm đã có sự chuẩn bị mà còn bước đầu đã xây dựng được quân đội để đối phó với đối thủ có đội quân chiến mã ở Tây Bắc, đối thủ như vậy còn có thể là ai? Dĩ nhiên là Lý đại nhân của Hạ châu rồi. Từ xưa đến nay anh hùng sinh ra nhờ gặp vận, thời thế sinh anh hùng, anh hùng dễ gặp thời thế, Tây Bắc có thể thay thời đổi vận trong tay hắn hay không, chúng ta cứ từ từ chờ đợi rồi sẽ rõ”.
Đùng! Đùng! Đùng!
Ba tiếng pháo hiệu lệnh nổ ra, dàn nhạc cũng cất lên lập tức. Hai bên giáp trượng chỉnh tề, đao kiếm sừng sững, ba người Dương Hạo cùng bước chậm lại, duyệt binh diễu hành.
“ Mạch đao trận!”
Dương Sùng vừa nhìn thấy đội quân sừng sững như bức tường kiên cố con người suýt nữa rơi ra ngoài, ánh mặt trời chiếu trên lưỡi gươm phát ra những tia sáng lấp lánh như phản chiếu trên mặt hồ nhưng lại để lộ ra sát khí kinh người, Dương Sùng trông thấy mà hơi thở cũng trở nên gấp gáp hơn.
Từ cuối thời Đường đến nay, mạch đao đã dần dần trở thành binh khí được các tướng lĩnh có thân phận cao quý sử dụng, trước nay chưa từng có đội quân nào có binh lính chuyên sử dụng mạch đao, đội mạch đao khi ra trận áp sát nhau tiến lên theo hàng ngang, cán đao dài lớn như bức tường, theo tiết tấu tiếng trống lùi tiến vung chém khiến quân thù trước mặt không có cách nào chống lại được.
Trong số những trận chiến đã được ghi vào trong sử sách, sự tham chiến của mạch đao trận đều giữ vai trò quyết định quan trọng, đặc biệt là khi tham gia giao chiến với các dân tộc du mục giỏi cưỡi ngựa bắn cung,mạch đao trận đã thay đổi được tình trạng đội quân người ngựa yếu của quân trung nguyên, phát huy khí thế của bộ binh, phối hợp với các cung thủ trên chiến trường để truy đuổi kỵ binh cũng không phải là chuyện hiếm.
Nhưng bất cứ đội binh nào cũng đều có nhược điểm của nó, mạch đao trận cũng không phải là ngoại lệ. Trước tiên nó cũng cần phải phối hợp với kỵ binh và cung thủ, không thể đơn độc tác chiến, hơn nữa xây dựng binh đội như vậy rất đắt, thời gian luyện tập cũng gấp mấy lần những binh lính khác, chí ít cũng phải mất hai năm mới có thể cho binh sĩ ra tham chiến, đợi đến lúc luyện thành thục rồi thì đạt đến cảnh giới tĩnh lặng như lâm, bất động như núi, nhanh như sớm chớp, lan tỏa như lửa.
Từ cuối thời Đường các chư hầu nhất loạt nổi lên, tự ý tuyển mộ nạn dân, nhét vào tay họ một thanh đao, thế là thành binh lính, kẻ thảo dân nào có thể chịu đựng một thời gian dài nhẫn nại luyện tập thông tỏ được binh pháp phối hợp mới có thể phát huy được tác dụng to lớn của mạch đao trận, huống hồ phí tổn để chế tạo mạch đao và lớp giáp nặng bên ngoài rất lớn, cũng chẳng có kẻ điên cuồng nào dám bỏ ra.
Đúng như Tùy Đại Lang nói, dùng binh phải ở mưu kế, pháp quý thiện biến. Thời đầu Đường, binh lực của các dị tộc như Thổ Phiên, Đột Quyết còn hạn chế, quân đội do triều Đường điều động cũng có hạn, khi Lý Tịnh Đại đánh bại Tây Đột Quyết cũng không dùng quá ba nghìn quân, trận chiến Thản La Tư quân Đường điều động đại quân cũng không đến ngàn người, cho nên mạch đao tuy đắt nhưng vẫn có thể trang bị cho toàn quân đội, đến sau này, quy mô doanh trại không ngừng mở rộng, chẳng ai còn có thể chống đỡ được cho một đội quân hao tốn quá nhiều tiền bạc như vậy nữa.
Đến sau này, bản thu nhỏ của mạch đao...nhất thái đao đã lưu truyền đến Nhật Bản, trở thành vũ khí chiến đấu chủ yếu của các võ sĩ, đó là bởi vì cho dù theo sử sách ở đấy có những chiến dịch với quy mô lớn,nhưng binh lực được huy động cũng không quá vài nghìn người, mà trên chiến trường trung nguyên nếu động chút đã huy động cả vài chục ngàn người thì thứ binh khí này sẽ dần dần bị suy tàn, thay thế nó là thương và rìu, hai thứ này giá cả rẻ, có thể trang bị với số lượng lớn, tuy uy lực có bị sụt giảm song nhất thời cũng có thể khống chế được kỵ binh của địch.
Ban đầu khi Dương Hạo xây dựng Lô châu đã lấy danh nghĩa là xây Khai Bảo tự để thu được khối lượng lớn đồng thiếc, khi đó kẻ thù giả tưởng của Lô châu chính là người Khương ở Tây Bắc, cho nên vũ khí chiến đấu chủ yếu của Lô châu chính là dùng cung tên cho viễn chiến và đao rìu cho cận chiến, khi đó đã từng có người đưa ra ý kiến chế tạo mạch đao song vì để tiết kiệm tối đa đồng thiếc, đồng thời cũng là để nhanh chóng chế tạo vũ khí đưa ra chiến trường nên Dương Hạo đã bãi bỏ ý kiến đó, cho đúc lượng lớn rìu chiến.
Nhưng sau này tình hình thay đổi, Lô châu đã có mỏ thiếc của riêng mình, mà diện tích binh lực của Lô châu có hạn, chỉ có thể dựa vào tinh binh mà thôi. Do đó Dương Hạo bèn thay đổi chủ ý, lệnh cho phẩm đường Lý Hưng Tinh tuyển chọn tinh binh. Cuối cùng cũng chế tạo ra được thanh mạch đao có nhiều cải tiến hơn trước, thanh đao này nhẹ hơn rất nhiều so với thanh đao nhà Đường, các binh sĩ khi tập luyện cũng nhanh chóng sử dụng được.
Nghệ thuật chiến tranh không chỉ là trên chiến trường chém chém giết giết, nhưng phàm là nhân tố có thể khắc chế quân địch giành chiến thắng, thân làm chủ soái tất nhiên sẽ phải nghĩ cách mà lợi dụng nó.
Mạch đao là thứ vũ khí lợi hại thời thịnh Đường dùng để đối phó với người Thổ Phiên, Đột Quyết, đến ngày hôm nay nhà Đường mới bị diệt vong chưa đến trăm năm, triều đại trung nguyên cũng đã phát sinh nhiều biến cố kinh thiên động địa, trong khi văn hóa và phương thức sống của cấc dân tộc phía Bắc vẫn phát triến một cách chậm chạm, loại vũ khí có tính sát thương đáng sợ này vẫn còn trong kí ức của các dân tộc này như vừa mới hôm qua, xây dựng lại một đội quân mạch đao, sẽ có tác dụng tâm lý to lớn, khi nó đã thành công trên chiến trường,dương uy trở lại với Tây Bắc sẽ tạo ra áp lực tâm lí không thể chế ngự được với đối thủ, kẻ địch càng mạnh, nếu trước đó khiến chúng phát sinh sự lo lắng sợ hãi thì khả năng chiến đấu nhất định cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Hôm nay mạch đao trận lần đầu phô diễn quả nhiên đã khiến cho Chiết Ngự Huân và Dương Sùng vô cùng kinh ngạc. Trăm ngàn thanh mạch đao đứng sừng sững cao lớn, dày đặc như một bức tường vuông vắn, bọn hắn có thể tưởng tượng đến cảnh cả đội quân giơ cao thanh mạch đao lên, tiến từng bước vững chãi về phía trước theo tiếng trống, trăm ngàn đao lớn giương lên hạ xuống, đó sẽ chính là cảnh tượng đang ở trước mặt, chỉ huy cầm trên tay thanh mạch đao lớn, bên trong người ngựa ngay ngắn chỉnh tề, khí thế không cưỡng lại được.
Đi giữa con đường rộng rãi,cách trận mạch đao mười mấy bước, đám ngựa đều cảm thấy sát khí từ bên đó thì bất an thở phì phò không yên, những vệ binh tinh nhuệ do hai vị tiết độ sứ thống lĩnh mặt cũng biến sắc.
Khi Dương Sùng còn đang tham lam dán mắt vào đánh giá trận mạch đao, Chiết Ngự Huân lại nhìn sang phía đội cung thủ ở một bên, Chiết Ngự Huân thông qua “Tùy Phong” sớm đã biết Lô châu bí mật luyện trận mạch đao, bí mật này đối với bản thân đã không thể xem là bí mật nữa rồi, tuy hôm nay mới là lần đầu hắn được thấy uy thế của trận mạch đao song hắn vẫn có thể làm ra vẻ thản nhiên như không.
Điều hắn thật sự quan tâm đến chính là đội cung thủ của Lô châu.
Hắn sớm đã nghe nói Lô châu nghiên cứu chế tạo một loại cung nỏ mới, nghe nói phạm vi và khả năng sát thương đều khác biệt vượt trội, đáng tiếc loại vũ khí này quá bí mật, chỗ bí mật của nó chính là khi thiết kế sử dụng rất nhiều các bộ phận hỗ trợ tinh xảo trợ lực, điểm cơ bản nhất của xạ tiễn cũng giống như các loại cung nỏ bình thường, một binh sĩ tinh thông cưỡi ngừa bắn cung cũng chưa chắc đã nhìn thấy nó, chỉ cần luyện tập qua cũng có thể nhanh chóng lên tay, cho nên loại nỏ thần do Lô châu chế tạo này hoàn toàn không ai hay biết, bình thường cũng không giao cho binh sĩ luyện tập cho nên hắn cũng không rõ được tường tận.
Hôm nay là lần đầu tiên hắn tận mắt nhìn thấy loại nỏ thần do Lô châu bí mật chế tạo, hắn ngồi trên lưng ngựa, khép hờ đôi mắt, vuốt chòm râu dài quan sát một cách tỉ mỉ, nếu so sánh ra thì cung của chiếc nỏ bình thường dường như to hơn loại nỏ thần này, theo lẽ thường, nếu muốn bắn xa bắn nhanh thì cánh cung cần phải dài hơn một chút, mà khoảng cách bắn đã xa hơn các loại cung bình thường thì bắn càng khó hơn, vậy lí do nó có thể ưu việt hơn cung bình thường hiển nhiên là nhờ sự tinh xảo của các bộ phận thêm vào.
Chưa nhìn thấy họ phô diễn thì ngay cả đến uy lực của nó thế nào cũng khó có thể biết được, dùng mắt để đoán thế này cũng chẳng thể nhìn ra sự tinh xảo của nó, vậy nên hắn chỉ có thể ngắm nhìn một cách nuối tiếc đội cung nỏ được trang bị chỉnh tề.
Mỗi người đều mặc áo giáp nửa người, giữa lưng có dắt dao, ngay phía trước người là tấm lá chắn lớn, trên tay một tấm lá chắn nữa, khả năng phàng thủ của đội cung thủ được tăng lên nhiều lần, bồi dưỡng một xạ thủ không phải là chuyện dễ dàng, phải cho họ đem theo bên mình một tấm chắn lớn, đương nhiên có thể giảm đi rất nhiều tổn hại trên chiến trường, nhưng nếu như vậy, sức chiến đấu của cung thủ sẽ thế nào?
Chiết Ngự Huân rất nhanh đã phát hiện ra, tấm khiên chắn khi chuyển động vô cùng nhẹ nhàng, dường như dùng một vật có độ dai như mây để chế tạo nên, bên ngoài tráng qua lớp thiếc, vậy mà, chiếc khiên đó thả ra có thể đặt đứng thẳng trên mặt đất, Chiết Ngự Huân kinh ngạc không thể lí giải nổi, nhìn nghiêng hướng khiên xem mới chú ý đến mặt sau của chiếc khiên có một giá trụ, hai góc chân trụ kết hợp với một chân trụ thứ ba ở chỗ thấp nhất khiến tấm khiên có thể đứng vững trên mặt dất, như vậy các xạ thủ có thể chuyên tâm vào việc cung nỏ mà không cần thiết phải để ý đến tấm giáp phong hộ che chắn của mình, đồng thời lại có thể nâng cao hiệu quả phòng ngự một cách tốt nhất.
Chiết Ngự Huân thầm ca ngợi sự kì diệu của nó, trong lòng nghĩ:“Chỉ thêm vào vài thứ đồ chơi be bé đã có tác dụng lớn đến như vậy, khi trở về ta nhất định phải lệnh cho thợ mộc ở Phủ châu mô phỏng theo”.
Đi về phía trước, hai bên đều là đội khinh kỵ binh và giáp kỵ binh, khinh kỵ binh thì không cần phải nói, nhìn thấy những con ngừa A La Bác cao lớn đẹp đẽ bên phải, trên chân ngựa, cả trên lưng ngựa, toàn thân đều được trang bị giáp sắt, phía trước là võ sĩ giấu mặt thân cao trượng tám, giống như quái thú giáp sắt, Dương Sùng ghen tị mà nói:“ Ta đây nếu có được đội kỵ binh trọng giáp như thế này, bất kể người hay phật ngáng trở đường đi của ta ta đều không tha, hành sự lẽ nào còn phải nể nang kẻ khác hay sao?”
Chiết Ngự Huân lại càng ghen tị:“Thật không ngờ Dương Hạo lại có nhiều tiền của như thế, nhớ lúc đầu ta còn hào phóng tặng cho hắn không ít binh khí, sớm biết thế này, ta nên trở tay lấy một vài thứ của hắn mới đúng, tên tiểu tử này luôn miệng than nghèo khó, đại ca đây đã bị hắn lừa rồi, không được, sau này nếu tiểu muội ta thật sự được gả cho hắn, nói không chừng sẽ nhận được một món hồi môn đáng giá, huynh đây trượng nghĩa, lẽ nào ngươi lại không chịu nể mặt người huynh đệ này”.
Hắn nghĩ rồi không nhịn được, quay đầu nhìn theo đám thị vệ, trong đám thị tùng, tên thị vệ mặt mày tuấn tú, để râu chữ bát chính là Chiết Tử Du cải trang.
Nhìn thấy binh lính Lô châu bày binh bố trận chỉnh tề uy nghiêm, đôi mắt Chiết Tử Du long lanh khác thường, nàng vốn cho rằng “Tùy Phong” của mình chỗ nào cũng có thể xâm nhập, nhìn khắp cả Tây Bắc này không có thứ gì có thể qua khỏi tầm mắt của nàng, không ngờ nhìn ngay xuống mũi mình bất giác đã thấy Dương Hạo có được thực lực to lớn đến vậy, muốn vậy cũng phải tiêu tốn biết bao tiền bạc sức lực, phải chuẩn bị huấn luyện trong bao nhiêu lâu? Vậy mà hắn còn mở miệng ra là nói muốn tránh xa thế sự, lui về ở ẩn, khuyên ta không cần phải đối đầu lại với số phận, ai có thể tin được hắn? Tên lừa đảo, thật là kẻ đại lừa đảo!”
Chiết Tử Du một mặt nhớ nhung, một mặt lại căm hận, hận đến nỗi nghiến răng nghiến lợi lại, không hề chú ý đến việc huynh trưởng đang quan sát mình một cách đê tiện, con người trong đôi mắt phượng đã biến thành hai tấm “Tống Nguyên thông bảo”
Thấy hai tên Chiết Dương đi qua trận kỵ binh, Tùy Đại Lang và Lý Thính Phong đứng từ trên cao nhàn xuống không nén nổi nhìn nhau mà cười, trên mặt lộ rõ sự kiêu căng. Đội kỵ binh thùy giáp này Lô châu đã sớm bắt đầu huấn luyện rồi, nhưng những phiến giáp trụ đồng, lại có A La Bá mã cao lớn anh tuấn, tất cả đều dựa vào sự giúp đỡ của Kế Tự đường mới có thể trang bị được, thấy mình dùng tài lực lớn một tay trang võ trang quyền uy tự nhiên cảm thấy vinh quang tột cùng.
Phía trước lại là một đội trường thương và đoản đao, trường thương và đoản đao trận còn phân ra thành các động tác như vung thương (đao), chặt đâm, thu đao...các động tác nhất loạt chỉnh tề, trăm nghìn người ầm ầm khí thế, nhất tề đồng loạt, trông vô cùng đẹp mắt, cảm giác thị giác đem lại khiến người xem phải rung động.
Tuy nói thứ đồ chơi này trên chiến trường không phát huy được tác dụng gì nhưng điều quân đội coi trọng chính là luyện tập sự nhanh nhẹn, nhất loạt theo hiệu lệnh, những binh sĩ này đều có thể thực hiện các động tác vuông vắn nhất tề như cùng một người xuất ra, còn phải e ngại khi ra trận họ không tuân thủ theo quân lệnh như sơn sao?
Chiêu này là do Dương Hạo học tập theo từ trong binh pháp hậu thế, quả nhiên dành được những lời tán thưởng, các võ tướng xem xong cũng gật gù tán thành, các quan văn võ đi cùng Chiết Dương cũng không nén nổi sự phải lớn tiếng tán thưởng.
Nơi nghênh đón lưỡnng phiên tướng quân lại không phải trong phủ tiết độ sứ mà là ở lầu cao bên ngoài nha phủ, ở đó dựng một chiếc cổng chào cao, hai bên là hai dòng thác nước tuôn chảy, cảnh sắc vô cùng tráng lệ.
Hôm nay hai phía khâm chỉ đến thăm quan có ý nghĩa to lớn phi phàm, đây chính là một sự thể hiện rõ rệt nhất của chính trị.Dương Hạo cũng là muốn nhân dịp này để thể hiện sức mạnh một cách công khai, cho nên nơi nghênh đón phải chọn chỗ sáng sủa nhất.
Trong số đám thương nhân đến Lô châu này không thể không có tai mắt của triều đình, thậm chí còn có cả tai mắt của phe Hạ châu Lý Quang Duệ và Ngân châu Khánh vương, từ ngày hôm nay, Dương Hạo lấy thân phận của một kẻ mạnh để xuất hiện trước mặt thế nhân, phô trương? Đó là điều tất nhiên.
“Hai vị tiết độ sứ đến đây, ta xin giới thiệu với các vị hai người bằng hữu tốt”.
Dương Hạo cầm tay Chiết Ngự Huân và Dương Sùng lôi đi, đứng trên lầu cao rồi cười mà nói:“Vị này là Tiểu Dã Khả Nhi, là tộc trưởng bộ lạc Dã Lợi Thị, bổn quan có thể vinh dự được thăng làm tiết độ sứ, trở lại Lô châu, Đảng Hạng kết giao hữu hảo với Lô châu ta, đó là niềm vui mừng khôn xiết, đặc biệt còn ủy thác cho tộc trưởng tộc Tiểu Dã thay mặt các tộc Đảng Hạng đến trước chúc mừng.”
Tiểu Dã Khả Nhi tiến lên phía trước một bước, chắp tay hành lễ với Chiết Ngự Huân và Dương Sùng, tươi cười nói:“Tiểu Dã Khả Nhi tham kiến hai vị tiết sứ, sớm đã nghe danh tiếng hai vị, hôm nay được gặp thật là phúc đức ba đời”.
Hai nhà Chiết Dương đương nhiên hiểu rõ các bộ lạc ở Tây Bắc như lòng bàn tay, họ đều biết trong số tám bộ lạc của người Đảng Hạng thì bộ lạc Dã Lợi Thị là hung bạo nhất, cũng đã từng nghe nói danh tiếng của Tiểu Dã Khả Nhi, nghe nói người thanh niên anh vũ dũng mãnh trước mặt mình chính là Tiểu Dã Khả Nhi thì không giấu nỗi sự hoan hỉ, khách khí đáp lễ lại, hai bên hỏi han nhau một lượt.
Hai bên hành lễ đã xong, Dương Hạo bèn nói:“Ở đây còn một vị khách quý nữa, đó là Thổ Phiên Á Long Giác A Vương Hậu Thương, người đứng đầu lạc Á Lũng Giác Xích Bang Tùng Xích đại nhân, Xích Bang Tùng đại nhân, vị này là Chiết đại soái Phủ châu, vị này là Dương đại soái Lân châu, đến đây, mọi người gặp nhau”.
Chiết Ngự Huân và Dương Sùng nghe xong đều thầm kinh ngạc:“Dương Hạo ngay cả người Thổ Phiên cũng đã lôi kéo được quan hệ”.
Thổ Phiên đã từng cai trị Tây Bắc, từ thời Võ Tắc Thiên đến Đường Huyền Tông họ đã chiến tranh liên miên với Đại Đường, bên này hòa hiếu, bên kia lại gây chiến, đến sau này rốt cục cũng tranh đoạt được bốn trấn An Tây, tiêu diệt Thổ Cốc Hỗn, cướp được Hà Tây và Lũng Hữu, thậm chí có lúc còn tấn công áp sát thành Trường An của nhà Đường.
Nhưng khi đó thế lực của đế quốc Đại Thực đã bắt đầu xâm chiếm phía Đông, thay thế thế lực nhà Đường kéo dài đến Thổ Phiên của Thông Lĩnh, liên tiếp gây chiến với người Đại Thực, bên này chiến tranh không dứt, đế quốc Hồi Hất bên kia nhân đó vùng dậy, hai bên Thổ Phiên đều rơi vào chiến tranh. Sức mạnh tiêu hao cạn kiệt, cuối cùng sụp đổ.
Sau khi Tán Phổ Đạt Ma cuối cùng chết, Thổ Phiên tan rã sụp đổ, phân tách thành 4 chính quyền lớn, là A Li Vương Hệ, Á Trạch Vương Hệ, La Sa Vương Hệ, Á Lũng Giác A Vương Hệ. Bốn thế lực này cũng phân thành nhiều thế lực nhỏ khác, ví dụ A Li Vương Hệ phân chia thành ba bộ phận Mãnh Vực, Tượng Hùng, Bố Nhượng; La Sa Vương Hệ phân chia thành Sùng Ba Ba, Khương Giao Ngõa, La Ba Lãng Ba, Trị Ba, Nghiệp Đường Ba, Lô Ba Tạng Ba...
Tuy nói Thổ Phiên phân chia ra rất nhiều, người Khương của Hồi Hất và Đảng Hạng xâm lược nơi khác, đàn áp nô dịch người dân, nhưng ngựa thồ gầy yếu vẫn lớn hơn ngựa thường, bộ lạc lớn mạnh nhất trong đó vẫn là bộ tộc có vũ lực lớn mạnh nhất, không dễ bị xem thường, từ Phủ châu và Lân châu mà nói, nếu Hạ châu đi xâm lược nơi khác, họ nhất định sẽ xuất quân đánh lại, nhưng nếu để hai vị tiết độ sứ bọn họ liên thủ lại, họ cũng không dám khinh xuất khêu chiến với Hạ châu, trong khi đó Thổ Phiên lại có thực lực này.
Vừa nghe nói Dương Hạo có quan hệ mật thiết với Thổ Phiên, Chiết Ngự Huân và Dương Sùng không thể không thay đổi cách nhìn với tay láu cá này, phải đánh giá lại thực lực thật sự của hắn.
Xích Bang Tùng tuổi tác không lớn lắm, cũng tầm tầm với Tiểu Dã Khả Nhi, chỉ ít hơn Tiểu Dã Khả Nhi vài tháng, nhưng tướng mạo khôi ngô cường tráng, để râu trên mặt, nên xem ra có vẻ lớn hơn Tiểu Dã Khả Nhi vài tuổi, xem chừng tính khí thẳng thắn dũng cảm, nhất định không thể là gian tế, vừa nghe Dương Hạo giới thiệu, hắn đã nhanh chân bước lên trước, giơ cao hai cách tay, cúi người khom lưng hành lễ, vui vẻ nói:“Xích Bang Tùng bộ lạc Á Lũng Giác bái kiến Phủ châu Chiết soái, Lân châu Dương soái, danh tiếng hai vị đại nhân đã sớm lưu truyền đến chỗ tại hạ, hôm nay gặp mặt thật là vinh hạnh”.
Nói sau mấy câu nói khách sáo, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân suýt chút nữa không hiểu gì, tiếng Hán của Xích Bang Tùng rất lưu loát, chỉ là hắn nói một hơi rồi mới ngắt một câu, cũng chẳng cần quan tâm ngắt ở chỗ nào, nghe xong khiến người khác sũng sờ một lúc, hắn nói khó khăn, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân nghe còn khó khăn hơn.
Dương Hạo cười lớn rồi tiến lên phía trước giải thích vài câu rồi mời mọi người vào chỗ, sau khi đã sắp xếp ổn thỏa bèn nâng cốc lên, vô cùng đắc ý nói:“Chư vị, bổn quan trở lại Lô châu, nhận thánh chỉ của triều đình, nhận chức tiết độ sứ Hoành sơn, hôm nay vinh hạnh được bạn bè từ u nơi đến chúc mừng, Dương mỗ vô cùng cảm kích, bát rượu này, Dương mỗ xin kính mọi người trước, xin mời”.
Dương Hạo nâng bát uống cạn, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân liếc nhìn nhau, cũng mỉm cười nâng bát rượu lên, các quan lại hai bên cũng lần lượt nâng cốc đứng dậy, lớn tiếng hưởng ứng, âm thanh rung động cả khe núi, vọng lại từng hồi không dứt.
Đặt bát rượu xuống, Dương Hạo vẫn chưa quay về chỗ ngồi, nâng lên một bát rượu, cao giọng nói:“Đã nhậm chức quan, phải tạo phúc cho dân, giữ yên sự bình an cho triều đình. Ngân châu vốn là vùng đất nằm dưới sự cai trị của nhà Tống ta đây, chịu sự cai trị của Định Nam Thảo, nay lại bị quân phản nghịch Khiết Đan chiếm lấy làm của mình, Định Nam quân ngay đến thân mình còn chưa lo nổi nên không cách nào thu hồi lại được quốc thổ, Dương mỗ thân là tiết độ sứ Hoành sơn, lại gần kề với Ngân châu trong gang tấc, lẽ nào có thể nhắm mắt làm ngơ?
Hôm nay Dương mỗ khai nha xây phủ, việc thứ nhất chính là muốn chinh phạt Ngân châu, hôm nay các vị bằng hữu tề tựu đông đủ, xin hãy làm chứng cho lời tuyên thệ trước khi xuất quân của Dương mỗ, hi vọng đại quân giành được thắng lợi, mã đáo thành công, thu hồi lại được Ngân châu, đánh đuổi quân phản loạn Khiết Đan. Các vị bằng hữu, mời cạn chén”.
Chiết Ngự Huân và Dương Sùng nghe xong những lời nay mà vui mừng ra mặt, chúng đến đây vốn có ý muốn thuyết phục Dương Hạo tạm thu hồi binh lính ở Hạ châu, giành lấy Ngân châu trước vì hiện tại Ngân châu đang nằm trong tay Khánh vương, mà Khánh vương lại là tên vua phản loạn của Khiết Đan, Khiết Đan tuyệt đối sẽ không chịu ngồi nhìn Khánh vương cai trị Ngân châu, sớm muộn cũng sẽ cho quân đến khiêu chiến.
So với đại Tống, người Khiết Đan càng có dã tâm, họ một khi đánh bại Khánh vương chiếm lấy Ngân châu thì nhất định sẽ không bao giờ chịu nhả miếng mồi ngon đó ra nữa, một khi Ngân châu đã trở thành bàn đạp để tấn công của Khiết Đan rồi thì đó sẽ là một cơn ác mộng đối với các vùng Tây Bắc. So với con mãnh hổ này thì Hạ châu Lý Quang Duệ nhất thời sẽ không còn nguy hại đến bọn chúng nữa, thật không ngờ anh hùng cùng chung chí hướng, Dương Hạo vốn đã có dự tính như vậy.
Quan Lô châu Nham Phàn Nặc dẫn đầu tướng lĩnh uống cạn bát rượu.
Dương Hạo trở về chỗ ngồi. Dương Sùng đã tán thưởng:“Thái úy quả nhiên là bậc anh hùng trong thiên hạ, thật khiến nguời khác phải khâm phục, có điều tên Khánh vương của Khiết Đan này từ Đông đến Tây, đi đến đâu cũng chém giết, sức mạnh ngày càng lớn, không thể xem thường được, thái úy tuyên chiến trước rồi mới đánh đương nhiên là hành động anh minh lỗi lạc, nhưng để cho hắn có thời cơ chuẩn bị như vậy, trận này...e rằng không dễ đánh”.
Dương Hạo cười một cách xảo quyệt:“Thu hồi lại vùng đất đã mất đương nhiên là phải tuyên chiến trước rồi mới đánh, đó mới gọi là uy vũ. Có điều, Dương mỗ lại không phải là Tống Tương Công trên chiến trường còn nói lý lẽ với kẻ thù. Ha ha, Dương mỗ tuy hôm nay tuyên chiến, quân đội hùng mạnh như vậy nhưng chưa chắc sẽ xuất quân ngay bây giờ”.
“Hả?”
Ngự Huân khẽ khép đôi mắt phượng lại, thầm nghĩ:“Tên tiểu tử này rõ ràng bên trong quang minh lỗi lạc nhưng bản lĩnh làm trò hắc ám của hắn có phong cách của ta ngày trước, lúc đầu hắn cũng từng tập kích bất ngờ vào Ngân châu, cha con Lý Thế Thiên hèn nhát cuối cùng mất mạng vào tay hắn, chẳng lẽ hắn muốn lật lọng, lặng lẽ phái người lén tập kích?
Nhưng hôm nay hắn lại đi công khai chuyện này, còn không trừ khi hắn đã sớm phái quân đi trước, nhưng xem năng lực quân sự của hắn lẽ nào hắn còn đang giấu diếm sức mạnh lớn hơn?”
Chiết Ngự Huân càng ngĩ càng cảm thấy kinh ngạc, không nhịn nổi bèn thử thăm dò:“Chiết mỗ cũng là thần tử của nhà Tống, việc giành lại vùng lãnh thổ bị cướp mất là trách nhiệm chung của mọi người, thái úy đã có ý định chinh phạt Ngân châu, nếu cần bổn soái giúp đỡ, chỉ cần nói một tiếng,Chiết mỗ sẽ lập tức xuất quân trợ chiến”.
Dương Hạo cười lớn, nửa thật nửa đùa nói:“Đa tạ ý tốt của Chiết soái, có điều, việc lấy lại Ngân châu vẫn chưa cần phiền đến binh mã của Chiết soái, Dương mỗ theo đạo giáo đại thánh Thuần Dương chân nhân học được chút bản lĩnh lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh, đại quân thảo phạt Ngân châu lần này, ha ha, sớm đã có rồi”.
Phía bên dưới, Chiết Tử Du đang cải trang thành một tên tự vệ chép miệng nói:“Lại nói lung tung để gạt người khác rồi”.
Ánh mắt Dương Sùng chợt lóe sáng, cười lớn mà nói:“Thái úy lại nói đùa rồi, nếu thật sự có cái bản lĩnh đấy vậy đế vương thiên hạ này đều là cao nhân đạo giáo rồi, làm gì có cơ hội cho đám phàm nhân tục tử chúng ta trở thành anh hùng đây?
Chắc thái úy sớm đã có dự trù, binh gia đại sự càng cơ mật càng tốt, chỉ cần thái úy không lỗ mãng hành sự là được, chúng ta cũng không hỏi nhiều nữa. Ha ha, ta và thái úy đều họ Dương, năm trăm năm trước vốn là một nhà, hôm nay được gặp gỡ với thái úy càng có cảm giác chúng ta có duyên kì ngộ, bổn soái có ý cùng thái úy kết thành huynh đệ sinh tử có nhau, không biết ý thái úy thế nào?”
“Dương mỗ cũng đang có ý này, được tiết soái nâng đỡ, Dương mỗ quả là cầu được ước thấy” Dương Hạo vui mừng nói.
Chiết Ngự Huân chưa từng nghĩ đến việc Dương Sùng lại có ý này, bất giác trong lòng có chút tức giận, hai người bọn chúng kết hợp lại, Lân châu trước nay luôn dựa vào Phủ châu, hôm nay Dương Sùng lại đột nhiên tự mình làm chủ, Chiết Ngự Huân tự nhiên thấy không vui, nhưng nhìn thấy Dương Hạo thì đành phải đồng ý.
Chiết Ngự Huân không nghĩ ngợi nhiều cười một tràng dài nói:“Dương lão đệ, Chiết mỗ cũng đang có ý này, không ngờ lại để đệ đi trước một bước, ha ha, Dương thái úy, bổn soái cũng có ý muốn kết nghĩa kim lan với ngài, từ nay chúng ta kết làm huynh đệ kết nghĩa, có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, không biết ý thái úy thế nào?”
Xích Bang Tùng nhảy nhót reo mừng nói lớn:“Đúng, đúng, ý kiến này thật là hay, tính cả ta, và tộc trưởng Tiểu Dã cùng các vị, năm người chúng ta cùng kết nghĩa huynh đệ ở đây, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu!”
Bộ râu Chiết Ngự Huân nghếch lên, lạnh lùng nói:“Giữa đàn ông với nhau không có sự tranh giành đấu đá”.
Dương Hạo vô cùng vui mừng, lệnh cho người đem nến thơm đến, năm người cùng thắp hương cầu khấn, sau đó cắt máu ăn thề, kết nghĩa kim lan. Luận theo tuổi, Chiết Ngự Huân lớn nhất rồi đến Dương Sùng, Dương Hạo thứ ba, sau đó là Tiểu Dã Khả Nhi, Xích Bang Tùng nhỏ tuổi nhất, năm người đại diện cho năm thế lực ở năm vùng liền kết nghĩa anh em trước sự chứng kiến của mọi người.
Dương Hạo ban đầu cũng không ngờ đến việc sẽ cùng họ kết bái, việc này đối với hắn chỉ có lợi mà không có hại, kinh ngạc vui mừng không để đâu cho hết, nhanh chóng bái làm huynh đệ. Dương Hạo bèn dặn dò Mục Vũ nhanh chóng đi mời các vị phu nhân ra để gặp gỡ các thúc bá. Lát sau, Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Miêu Miêu trang sức quần áo gọn gàng, muôn hình muôn vẻ đi ra, lần lượt bái kiến hai vị đại thúc và nhận hành lễ của Dã Khả Nhi và Xích Bang Tùng.
Xích Bang Tùng chắp tay hành lễ:“Tiểu đệ Xích Bang Tùng bái kiến đại tẩu, nhị tẩu, tam tẩu, tứ tẩu”.
Vừa hành lễ xong liền hoa mắt chóng mặt ngẩng đầu lên, luôn miệng cười nói:“Đại ca, nhị ca, tam ca, tứ ca, bốn vị đại ca phúc khí lớn có được bốn vị đại tẩu, đều đẹp hơn nhiều so với những cô gái đẹp nhất trên thảo nguyên Thổ Phiên của Xích Bang Tùng, như là kẻ phàm nhân nhất thời được gặp nhiều tiên nữ như vậy”.
“Hả?” Đám người Dương Hạo sững sờ một lúc, mọi người phải thuật lại một lần từ đầu đến cuối lời của Xích Bang Tùng mới có thể hiểu ý hắn.
Lúc mọi người vẫn còn chưa hiểu rõ, Chiết Tử Du ở bên dưới trong bộ dạng của một tên hiệu úy có bộ râu nhỏ không nhịn được bật cười thành tiếng, vội vã đưa tay lên che miệng lại.
Động tác của nàng lộ rõ thân phận nữ nhi, may mà mọi người đều đang bị những câu nói của Xích Bang Tùng làm cho hồ đồ nên không ai chú ý đến động tác ấy.
Dương Hạo nghĩ thật kĩ lời của Xích Bang Tùng mới hiểu ra, nhất thời mặt mũi tối sầm lại, Tiểu Dã Khả Nhi cũng hiểu ra, nhanh chóng kéo Xích Bang Tùng sang một bên, cười đau khổ:“Lão ngũ, đệ nói năng mạo phạm như vậy, các vị đại tẩu đều là phu nhân của mình tam ca”.
Xích Bang Tùng chớp mắt ra bộ không hiểu gì, Tiểu Dã Khả Nhi đành phải hạ giọng giải thích lại một lần nữa, Xích Bang Tùng lúc này mới hoảng hốt ngộ ra, không kìm được đỏ mặt đi lên trước tạ lỗi, lắp bắp nói:“ Xin bốn vị tẩu tẩu thứ lỗi cho Xích Bang Tùng đệ không hiểu phép tắc lễ nghĩa trung nguyên,dẫn đến hiểu lầm đáng xấu hổ như vậy”.
Chiết Ngự Huân cười lớn nói:“Lão ngũ à, đại ca đệ ở nhà cũng có tám vị phu nhân, theo cách nói của đệ, đại ca còn phải kết nghĩa lại với ba vị huynh đệ mới có thể thu thập đủ con số ấy sao”.
Chiết Ngự Huân lấy đó làm trò cười khiến mặt Xích Bang đã đỏ gay như uống rượu nay lại chuyển sang màu tím, không ngừng chắp tay xin lỗi, đám Đông Nhi lại thích sự ngây thơ chất phác đó bèn nhấc hắn dậy an ủi một lúc, còn hỏi thăm gia cảnh thân thế.
Trước mặt vô số các quan lại, bốn vị phu nhân lại rất chú ý đến cử chỉ hành động của mình, thái độ ung dung, cử chỉ lịch thiệp, giữ gìn gia phong phép tắc. Bên dưới có rất nhiều người bao gồm cả quan lại Lô châu cũng là lần đầu tiên diện kiến bốn vị phu nhân của Dương Hạo, không tránh khỏi ngắm nhìn bình phẩm, tán dương không ngớt.
Chiết Tử Du nhìn thấy trong lòng không có cảm giác gì, khẽ chép chép miệng, ghen tức nói:“Giữa nữ nhi với nhau tranh giành càng không có gì là thú vị”.
Lời Chiết Tử Du vừa nói ra, Trúc Vận trong miệng ngậm đoạn cỏ đuôi chó không biết từ đâu xuất hiện, không hứng thú gì nói:“Tranh đấu giữa nam nữ với nhau không biết có thú vị không, đáng tiếc nếu người lại gặp phải một đống gỗ mục chỉ muốn xuất gia, thì lúc đó chính là muốn tranh đấu cũng không thể”.