Mod nhà sắc
Tác Giả
-
Chương 9
NGÔI NHÀ BẤT CHỢT
Charlie chạy gần như hết quãng đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng. Trong túi quần nó là sợi dây xích cổ con Hạt Đậu và trong đầu nó là một kế hoạch tuyệt vời. Thành phố đầy những người đi mua sắm ngày thứ Bảy và điều đó làm chậm bước Charlie.
Nó quẹo vào hẻm Con Ếch cùng lúc với Dorcas Loom và hai thằng anh của con bé. Albert và Alfred Loom là những thiếu niên to bè, trông hung hăng. Chúng khoái những trò kiểu như cướp ba lô ngưòi ta đeo sau lưng, hành hạ mèo và ngáng đường những người chơi ván trượt. Chúng cũng tự hào là chủ nhân của bốn con chó săn - những con vật đã cho chúng được phép bước vào quán Cà Phê Thú Kiểng. Dorcas thường chờ ở trên chiếc ghế băng ngoài. Nó sợ thú, và Charlie thường thắc mắc là làm thế nào mà con bé sống chung được với những con vật hung hãn như vậy – đó là chưa kể tới đàn chó săn.
Với một tiếng “Chào!” thiệt lẹ, Charlie vượt băng qua anh em nhà Loom và xông vào quán Cà Phê Thú Kiểng.
“Gì vậy, Charlie?” Ông bảo vệ Norton nói. “Bộ cậu bị một con nhân mã không đầu đuổi hay sao vậy?”
Charlie trông thấy mái đầu vàng óng của Emma ở xa xa, và để mặc Norton đối phó với bọn nhà Loom, nó lao về phía con nhỏ. Nó ngạc nhiên khi thấy cái bàn đã đầy kín. Lysander và con vẹt Homer cũng đã tới. Tancred ngồi kế bên Lysander với một con chuột kiểng của Gabriel, và Gabriel đang cho con chuột đen Rembrandt của Billy ăn.
“Charlie, ngồi đây nè!” Fidelio xích ra lấy chỗ cho Charlie, trong khi con mèo điếc của nó bấu chặt lên vai.
Ngay khi Charlie ngồi xuống, con Hạt Đậu, nãy giờ ngủ say dưới gầm bàn, liền xồ lên đùi nó, khiến cho cái bàn nghiêng lệch qua một bên, báo hại mấy chiếc đĩa và ly rớt choang xuống sàn nhà.
Lập tức những tiếng nhao nhao nổi lên:
“Cái con chó!”
“Em không điều khiển được nó sao, Charlie!”
“Đang ăn cái bánh ngon thì…!”
“Tiêu nước ép của tui rồi!”
Trong khi đó Charlie hét ầm:
“Không ai báo cho em biết con Hạt Đậu dưới gầm bàn hết.”
Gần như ngay tức khắc, anh em nhà Loom xông vào, gây nên một trận náo loạn ghê gớm hơn nữa cùng với bọn chó săn. Mấy con chó lớn bắt đầu táp đuổi bất cứ sinh vật nhỏ nào xui xẻo trong tầm đớp của chúng.
Tiếng huyên náo trong quán Cà Phê ầm ĩ tới nỗi ông Onimous phải nhảy hẳn lên bàn và quát:
“Im lặng nào! Ở đây không được phép gây mất trật tự.”
Homer, con vẹt của Lysander kêu om sòm:
“Nói hay lắm, thưa ngài.”
Nghe vậy, Alfred hét vang:
“Lão mắc chứng gì đó, lão kia?”
Ông Onimous trợn mắt nhìn thằng thiếu niên, không tin nổi:
“Cậu nói gì?”
“Tôi nói lão mắc chứng gì đó?” Alfred lặp lại.
Ưỡn thẳng hết cỡ chiều cao một thước bốn mươi chín phân (cộng với cái bàn khiến ông cao hai thước hai mươi ba), ông Onimous đáp:
“Xin các công tử hãy để ý đến những con thú nhỏ hơn. Các vị thấy chúng mới hoảng sợ làm sao kìa. Lũ chó của các vị luôn gây hỗn loạn mỗi lần chúng mang các vị vô đây.”
“Không phải bọn này, mà là nó ấy.” Albert Loom chỉ Charlie. “Nó và con chó vàng hỗn hào kia. Con đó to hơn đám chó của bọn này.”
Hạt Đậu khẹt một tiếng sủa nghẹn sâu trong cổ họng và xông vào đàn chó săn, trong khi Homer la quác quác:
“Tống chúng xuống địa ngục đi!”
Một trận ẩu đả kinh hoàng diễn ra tiếp sau đó. Thêm vài con chó khác không thể cưỡng lại cũng nhập cuộc và tiếng tru rít vang lên xé màng nhĩ. Chim kêu inh ỏi bay vút lên trần nhà, mèo ngao, rắn cuốn, mấy con lừa xéo bừa lên người lạ và một con kỳ nhông chạy ra khỏi cửa. Những con nhỏ hơn thì lo tìm chỗ núp.
Norton bị cắn tơi bời khi cố can gián bọn chó, và Charlie bị một con ngựa nhỏ Shetland đang hốt hoảng xô ngã chỏng vó xuống sàn, vừa lúc nó túm được sợi dây xích cổ con Hạt Đậu.
Bà Onimous nhảy lên bên cạnh chồng (cú nhảy khiến bà cao tổng cộng hai thước năm mươi lăm phân) và bắt đầu gõ bang bang một cái hộp thiếc đựng bánh bích quy. Đầu bà bây giờ đang chạm trần nhà, và ta có thể nghĩ một người khổng lồ như thế có thể sẽ dẹp tan được bọn tham chiến. Nhưng không phải là hôm nay.
Chỉ có tiếng xe cảnh sát hụ còi tới gần mới tạo ra chút tác dụng. Ngay khi bọn nhà Loom nghe thấy tiéng còi, chúng liền lôi lũ chó của chúng ra khỏi cuộc hỗn chiến và tếch khỏi quán cà phê. Hai phút sau, cảnh sát Wood và cảnh sát Singh có mặt tại hiện trường. Tới lúc đó, vụ việc mới lắng dịu xuống đáng kể, nhưng ông bà Onimous vẫn còn đứng trên bàn.
Cảnh sát Singh dẫm rào rạo lên đống chén dĩa ly cốc bể và nói với ông bà chủ:
“Chúng tôi muốn có đôi lời, được chứ ông?” Anh ta hỏi. “Nói riêng.”
Ông Onimous nhảy xuống khỏi bàn, và sau khi đã giúp vợ xuống theo phong cách lịch lãm nhất, họ biến mất vào trong nhà bếp cùng với hai viên cảnh sát. Norton, với hai bàn tay đang chảy máu đầm dìa, cà nhắc đi theo họ.
“Nghe tiếng còi hụ là bọn Loom chuồn lẹ như chớp,” Tancred nhận xét.
“Mà tụi nó gây ra tất cả vụ lộn xộn này,” Emma thêm. “Thiệt không công bẳng.”
Charlie đã xoay sở lôi giật được Hạt Đậu trở lại bàn, và tất cả bọn đều suýt xoa khen ngợi chú ta can đảm quá chừng. Homer thậm chí còn la lên, “Croix de Guerre!” mặc dù không đứa nào hiểu câu đó có nghĩ là gì.
“Đó là Huân chương cho lòng dũng cảm của Pháp,” Lysander giải thích, “Nó học lóm của mẹ anh đấy.”
Bọn chúng chia nhau chỗ bánh quy còn sót lại trên bàn trong khi chờ ông bà Onimous xuất hiện trở lại. Chỉ còn vài con thú to mồm hơn vẫn ồn ào, và bây giờ đã đủ im ắng cho Charlie nghe thấy một tiếng quác rõ ràng và đanh sắc từ đâu đó. Nó nhìn xuống và thấy một con vịt trắng đang cúm rúm dưới ghế Ema.
“Ra là một con vịt,” nó nói. “Dì của bồ bảo với mình là bồ có một con thú cưng mới.”
“Nó bay vô sân nhà mình hồi hôm qua,” Emma nói. “Mình gọi nó là NanCÂY, theo tên mẹ mình. Mẹ mình mất rồi… bồ biết đấy.”
“Ừ. Đúng là một con vịt rất đáng yêu,” Charlie không thể nghĩ ra cái gì khác hơn để nói.
Lại không thấy Olivia tới nhỉ?” Fidelio quan sát. “Có chuyện gì với nó vậy, Em?”
Emma nhún vai:
“Mình không biết. Dạo này nó gần như chẳng nói chuyện với mình gì hết, và nếu nói thì cũng luôn trong tâm trạng cáu bẳn.”
“Trông nó luộm thà luộm thuộm,” Lysander nói.
“Mà hồi trước nó diện oách lắm,” Tancred rầu rĩ thêm.
Charlie nghĩ đã đến lúc kể cho bọn bạn nghe về cô Alice Angel và cửa hàng hoa.
“Mình nghĩ Olivia có phép thuật,” Charlie nói. “Nhưng nó không chịu thừa nhận điều đó. Nó thậm chí còn nghe được tiếng con ngựa ma, và theo như em biết, thì chỉ những người có phép thuật mới nghe được.”
Fidelio đồng ý. Nó chưa nghe, chưa thấy hay cảm giác thấy con ngựa đó bao giờ, kể cả khi những đứa khác cúi rạp người xuống né.
“Lysander muốn được biết kỹ hơn về con ngựa ma, vì vậy Charlie cập nhật tin tức cho Lysander, thêm vào những chi tiết về cuộc thử nghiệm kinh hồn của lão Ezekiel.
“Một trái tim!” Tancred thốt lên, khi Charlie kể xong. “Ghê quá!”
“Còn nữa,” không đả động gì tới ông Christopher Crowquill, Charlie kể tiếp cho bọn bạn về Billy Raven và những phép thuật đáng sợ của cha mẹ mới của thằng bé.
“Và giờ em sẽ liều thân, có lẽ là liều luôn cả bọn này, để cố cứu Billy khờ khạo, có đúng không?” Tancred hỏi.
“Đúng thế,” Charlie nói. “Nhưng Billy không khờ khạo. Chỉ tại nó gặp xui nhiều quá thôi.”
“Đúng vậy,” Gabriel lầm bầm một cách nghiêm nghị.
Xem ra đây là thời điểm thích hợp để nhắc lại cái nút áo. Charlie lôi cái nút áo và chìa ra cho Gabriel, nài nỉ nó viếng thăm thế giới gương thêm một lần nữa:
“Có lẽ nếu anh nghe lại tiếng dương cầm, anh sẽ nhận ra bản nhạc. Bất cứ cái gì có thể cho em biết về nơi ấy… và người đàn ông bị kẹt ở chỗ ấy!”
Gabriel cầm lấy cái nút áo cùng với một tiếng thở dài, một lần nữa, nó đạt cái nút lên tim. Nó nhắm mắt lại và cả bọn nín khe theo dõi khi chân mày Gabriel nhướn lên và gương mặt dài của nó bộc lộ một sự tập trung cao độ. Thỉnh thoảng một cơn rùng mình ập xuống khắp thân mình Gabriel, và miệng nó hơi giật một cái. Sau năm phút, Gabriel mở mắt và vứt cái nút áo lên bàn.
“Rachmaninov,” nó nói. “Khúc dạo đầu cung Đô trưởng. Và đó là một đĩa nhạc - một trong những đĩa nhạc cũ của năm 78.”
“Còn người đàn ông thì sao?” Charlie hỏi.
“Toàn bộ gương mặt ông ấy bị méo mó. Có quá nhiều gương, các chi tiết đều gãy vụn. Xin lỗi, Charlie.”
Nhưng Charlie không quá thất vọng. Giờ nó đã biết tên bản nhạc. Đó là thứ để mà đi tiếp.
Tiếng chuyện trò trong quán cà phê chìm xuống thành tiếng thì thào khi cảnh sát Singh và cảnh sát Wood ra khỏi nhà bếp và đi khỏi. Một loáng sau, ông Onimous xuất hiện và tuyên bố hôm nay họ đóng cửa. Norton cần được đưa đến bệnh viện để may vết thương và chích ngừa uốn ván.
“Anh ấy bị lũ chó cắn xé nặng nề,” ông Orvil nói. “Bọn chó săn!” Ông nhổ nước miếng. “Bọn giết người khát máu.”
Khi Charlie và lũ bạn đứng lên ra về, ông Onimous đến bên bàn bọn chúng.
“Xin lỗi, các cô cậu,” ông nói. “Ngày mai chúng tôi sẽ không mở cửa. Norton đang trong tình trạng tồi tệ và vợ anh ấy đang quýnh quáng cả lên. Cảnh sát đã cảnh cáo chúng tôi là quán cà phê tuyệt diệu này phải đóng cửa. Bọn nhà Loom ấy gây phiền toái bất cứ khi nào chúng tới đây, và mọi người đang phàn nàn.”
“Ông nên cấm cửa bọn chó đó, ông Onimous,” Lysander nói. “Ba của cháu sẽ khuyên như thế.”
“Ba của cậu có thể là một vị thẩm phán, nhưng ông ấy không biết gì hết về việc điều hành quán Cà Phê Thú Kiểng,” ông Onimous nói trang nghiêm. “Tôi không thể lại đi cấm chó, cậu Lysander à. Chủ nhân cấm thì được, nhưng chó thì không.”
Ông nhoài người xuống bàn và lượm con chuột đen lên:
“Tôi phải đem nó trở lại nhà bếp. Nó nhớ Billy kinh khủng, các bạn biết đấy”
“Billy sẽ tới thăm nó ngay thôi.” Charlie giả bộ tỏ ra tự tin. “Vấn đề là, ông Onimous, cháu cần tìm ra một nơi gọi là Ngôi Nhà Bất Chợt.”
“Để làm gì?” Ông Onimous hỏi với giọng nhạc nhiên.
Charlie kể cho ông nghe về vụ nhận làm con nuôi của Billy. Trong khi lắng nghe, gương mặt tinh anh, đầy râu ria của ông Onimous trở nên nhúm nhíu lại vì quan tâm.
“Trời! Trời! Thật là quá đáng,” ông kêu lên. “Thế giới làm sao rồi, đến một thằng bé mà cũng không thể sống một cuộc sống vô tư? Ngôi Nhà Bất Chợt ấy ở Ngõ Quanh Co, Charlie à. Qua khỏi nhà thờ lớn ở khu phố cổ. Nhưng coi chừng! Tôi không muốn so gươm với bọn de Grey đó đâu.”
Cháu sẽ đem theo con Hạt Đậu,” Charlie nói, tròng sợi dây xích vào cổ Hạt Đậu.
“Không có anh là em sẽ không đi được đâu,” Fidelio nói.
“Và mình cũng sẽ đi đường ấy,” Emma nhét vịt NanCÂY vào một cái giỏ có nắp đậy.
Gabriel, Tancred và Lysander sống ở đầu kia, trên một ngọn đồi cây cối um tùm gọi là Khu Đồi Cao. Nhưng bọn chúng đều muốn hể cần giúp đỡ thì liên lạc chúng ngay. Mái tóc vàng của Tancred bị nhiễm điện đang kêu xèo xèo và từng làn gió nhẹ cứ không ngừng quấn quanh mắt cá chân cả bọn khi chúng ra tới hẻm Con Ếch.
“Anh cứ thấy rờn rợn về tất cả những chuyện này,” Tancred nói. “Bảo cứ chực nổi lên, Charlie ạ.”
“Và anh thì cứ muốn gọi tổ tiên mình,” Lysander bảo.
Khi chúng tới Khu Đồi Cao, ba thằng lớn quẹo phải, trong khi Charlie, Fidelio và Emma quẹo trái về hướng nhà thờ lớn. Một lần nữa, một màn sương mù dày đặc lại bắt đầu giăng khắp thành phố. Nhưng đây không phải là thứ sương mỏng như hồi hôm qua, mà nó giống như màn hơi nước phả lên từ tít sâu dưới lòng đất - lạnh buốt và báo điềm gở - nó trì néo mỗi bước chân của ba mgười bạn mỗi khi chúng tiến gần tới nhà thờ.
Khi đi ngang tiệm sách cô Ingledew, Emma tạt vào và đặt cái rổ đựng con NanCÂY lên quầy. Dì nó đang tiếp một khách hàng, cho nên Emma vẫy tay vui vẻ và nói, “Con về ngay!” rồi lại phóng ra. Ngay lúc đó, Fidelio chạy ù vào và đặt con mèo già của nó lên nóc rổ.
“Sẽ không lâu đâu ạ,” Fidelio nói với cô Ingledew đang chẳng hiểu chuyện gì.
Khi Fidelio ra khỏi tiệm, nó nhận thấy có ba sinh vật rực rỡ đang băng xuyên qua làn sương mù.
“Em có biết là những con mèo lửa đang đi theo tụi mình không?” Nó hỏi Charlie.
Charlie ngoái ra sau nhìn ba con mèo chói lói.
“Chắc chắn phải có lý do chúng mới đi,” Charlie nói. “Chúng luôn có lý do. Hây, chào Dương Cưu! Chào Nhân Mã... Sư Tử!”
Ba con mèo đáp lại lời chào của nó bằng những tiếng meo meo thân thiện, trầm sâu. Hạt Đậu hộc lên một tiếng sủa cảnh cáo nhưng bọn mèo chẳng lấy làm phật ý. Khi đoàn quân nho nhỏ lại lên đường, đám mèo theo sau ở một khoảng cách kín đáo, dè chừng bản năng tự nhiên của con chó.
Qua khỏi nhà thờ, thành phố biến thành một mê trận với những lối hẻm hẹp rí và những bậc thang tối tăm, nhớp nháp. Những bảng chỉ tên đường nứt vẹo và bạc phếch, một số bảng không thể đọc được. Để tìm ra Ngõ Quanh Co, Charlie phải đi vào những ngõ hẻm tối nhất mà nó chưa từng băng ngang bao giờ,
“Nó đây,” Charlie hạ thấp giọng.
“Một nơi u ám,” Fidelio nhận xét, thận trọng đi theo sau.
“Có mùi thấy ghê,” Emma nhăn mũi.
Chúng bắt đầu lần theo lối đi dốc, thỉnh thoảng vấp nhào phải những bậc cấp đột ngột xuất hiện trong lúc đang mải căng mắt nhìn xuyên qua bóng tối trước mặt. Con Hạt Đậu bỗng vuột ra một tràng tru dài, suýt làm đứt thần kinh cả bọn. Lũ mèo bèn phóng vượt lên bọn trẻ và dẫn đường, bộ lông sáng chói của chúng rực lên trong màn sương.
Sau khi đi qua dưới hai bảng tên đường gỉ sét, cuối cùng Charlie thấy những chữ NGÔI NHÀ BẤT CHỢT khắc hẳn vào bảng đá, bên trên một cảnh của cao bằng gỗ sồi.
“Bồ tính sẽ nói gì đây?” Emma hỏi khi Charlie đưa tay túm cái gõ cửa - một bàn tay to bự bằng đồng.
“Mình sẽ nói ‘Billy đâu?’ Có lẽ thế là đủ,” Charlie nói.
Tuy nhiên, cuối cùng, sau vài tiếng gõ, khi cánh của mở ra, khả năng ăn nói của Charlie biến sạch, bởi vì người đàn ông đứng ngay khung cửa phóng cho nó một cái nhìn dữ tợn đến nỗi nó ngạt cả thở.
“Muốn gì?” Người đàn ông nói cụt lủn.
Charlie nuốt nước miếng khan, và Fidelio nói:
“Tụi cháu muốn đến thăm Billy, thưa ông.”
“Billy?” Người đàn ông trông rất tức giận. “Billy?”
“Nó sống ở đây, phải không ạ?” Emma hỏi.
“Cút đi,” người đàn ông rống lên.
Lão định đóng sập cửa lại nhưng Charlie đã đặt chân lên bậc cấp. Đúng lúc đó Hạt Đậu trông thấy một con mèo đen phóng sượt qua hành lang sau lưng người đàn ông. Sủa lên một tiếng vui mừng, Hạt Đậu rượt theo con mèo, hoặc đúng hơn là nó mới thử rượt theo, bởi vì có cái gì đó tông rầm vào mũi nó và xô nó bật nảy trở lại, kêu tru tréo.
“Ông làm gì con chó của tôi vậy,” Charlie la lên.
Usher de Grey đá gạt bàn chân Charlie ra và đóng rầm cửa lại.
“Nó ở trong đó,” Emma thì thầm. “MÌnh chắc chắn nó ở trong đó. Tội nghiệp Billy.”
“Nó ở trong đó, chắc chắn,” Charlie nói. “Đó là cái lão em trông thấy ở học viện Bloor... cái lão không thích con nít ấy.”
”Sao?” Fidelio hỏi.
Tiếng tru đau đớn của Hạt Đậu khiến Billy khó mà suy nghĩ được. Tông mũi vào thứ mà mình không nhìn thấy là điều rất hãi hùng đối với một con chó, mà Charlie không biết làm sao diễn tả bằng ngôn ngữ thú vật cho con chó về lực trường. Chỉ có Billy mới làm được điều đó.
“Em sẽ nghĩ ra cách gì đó,” Charlie cố tỏ ra vui vẻ.
Cả bọn dùng dằng rời khỏi Ngôi Nhà Bất Chợt, trong khi Billy vẫn kẹt bên trong, nhưng bọn chúng không thể làm gì thêm được nữa. Cần phải sắp xếp một kế hoạch khác.
Khi Charlie bước ra khỏi Ngõ Quanh Co, nó ngoái nhìn lại. Những con mèo lửa vẫn chưa đi. Chúng đang ngồi dàn hàng ngang bên ngoài cánh cửa Ngôi Nhà Bất chợt, bộ lông óng ánh của chúng sáng ngời trong bóng tối. Có lẽ chúng có lời giải cho việc đào tẩu của Billy.
Billy đang coi TV thì nghe tiếng con chó. Mới đầu âm thanh ấy chỉ là một tràng tru đau đớn, nhưng rồi Billy bắt đầu nhận ra tiếng của Hạt Đậu, và rồi hiểu được lời con chó.
“Cổng ma!” Hạt Đậu sủa. “Tường nước đá! Tường lửa! Cổng làm đau! Cú lừa con mèo! Ối đau! Charlie, cứu!”
Billy nhảy dựng lên và lao ra cửa sổ. Tất cả những gì nó có thể thấy qua làm sương dày chỉ là một bức tường đá xám. Cửa sổ phòng nó bị khoá và nó không cách chi mở ra được. Nó đi dọc lối đi bên ngoài căn phòng và nhón gót ra chiếu nghỉ. Ngó xuống hành lang, vừa lúc nó thấy lão Usher de Grey đóng sầm cửa trước lại. Billy chạy trở lại lối đi và đứng dựa sát vào tường, gần như không dám thở. Charlie ở bên ngoài, nhưng liệu chuyến thăm của anh ấy có gây rắc rối gì không? Ý nghĩ phải chịu đau đớn thêm khiến Billy nhắm mắt lại sợ hãi.
“Billy!” Một giọng nhẹ ru.
Billy mở choàng mắt ra và thấy con mèo đen nhỏ ngay cạnh bàn chân nó.
“Đám bạn,” con mèo nói, bằng giọng sáng rỡ nhất.
Billy rón rén đi trở vào phòng, có con mèo theo sau. Không gây một tiếng động nào, nó cẩn thận khép cửa lại.
“Tội chó bị đau,” con mèo nói. “Vuốt Sắc phải chỉ cho bạn của Billy thấy nguy. Phải chỉ tường bí mật của Usher. Làm ơn nói chó là Vuốt Sắc xin lỗi.”
“Nếu gặp lại nó tớ sẽ nói,” Billy đáp.
“Các bạn tôi đang ở đây,” con mèo con nói tiếp. “Họ ở lại. Họ giúp Billy đi. Tối nay, Billy phải sẵn sàng.”
“Tối nay?” Billy lắc đầu, hoảng sợ.
Nhưng vì ước muốn trốn thoát quá lớn, ý nghĩ về tự do quá cám dỗ, nên nó bật cười to, phấn khích.
“Suỵt!” Con mèo nhắc. “Chưa!”
“Tôi sẽ đi đâu?” Billy hỏi. “Nếu tôi rời khỏi đây?”
“Các bạn sẽ chỉ cho cậu.”
“Các bạn của mèo là ai?”
“Mèo, dĩ nhiên rồi. Lông đồng, lông cam và lông vàng.”
“Những con mèo lửa!” Billy thảnh thốt.
“Những con mèo lửa, đúng. Vuốt Sắc đi đây.”
Billy mở cửa và con mèo đen bước gọn ra lối đi.`
“Đừng quên,” con mèo nói. “Tối nay.”
“Làm sao quên được!” Billy thì thào.
Charlie chạy gần như hết quãng đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng. Trong túi quần nó là sợi dây xích cổ con Hạt Đậu và trong đầu nó là một kế hoạch tuyệt vời. Thành phố đầy những người đi mua sắm ngày thứ Bảy và điều đó làm chậm bước Charlie.
Nó quẹo vào hẻm Con Ếch cùng lúc với Dorcas Loom và hai thằng anh của con bé. Albert và Alfred Loom là những thiếu niên to bè, trông hung hăng. Chúng khoái những trò kiểu như cướp ba lô ngưòi ta đeo sau lưng, hành hạ mèo và ngáng đường những người chơi ván trượt. Chúng cũng tự hào là chủ nhân của bốn con chó săn - những con vật đã cho chúng được phép bước vào quán Cà Phê Thú Kiểng. Dorcas thường chờ ở trên chiếc ghế băng ngoài. Nó sợ thú, và Charlie thường thắc mắc là làm thế nào mà con bé sống chung được với những con vật hung hãn như vậy – đó là chưa kể tới đàn chó săn.
Với một tiếng “Chào!” thiệt lẹ, Charlie vượt băng qua anh em nhà Loom và xông vào quán Cà Phê Thú Kiểng.
“Gì vậy, Charlie?” Ông bảo vệ Norton nói. “Bộ cậu bị một con nhân mã không đầu đuổi hay sao vậy?”
Charlie trông thấy mái đầu vàng óng của Emma ở xa xa, và để mặc Norton đối phó với bọn nhà Loom, nó lao về phía con nhỏ. Nó ngạc nhiên khi thấy cái bàn đã đầy kín. Lysander và con vẹt Homer cũng đã tới. Tancred ngồi kế bên Lysander với một con chuột kiểng của Gabriel, và Gabriel đang cho con chuột đen Rembrandt của Billy ăn.
“Charlie, ngồi đây nè!” Fidelio xích ra lấy chỗ cho Charlie, trong khi con mèo điếc của nó bấu chặt lên vai.
Ngay khi Charlie ngồi xuống, con Hạt Đậu, nãy giờ ngủ say dưới gầm bàn, liền xồ lên đùi nó, khiến cho cái bàn nghiêng lệch qua một bên, báo hại mấy chiếc đĩa và ly rớt choang xuống sàn nhà.
Lập tức những tiếng nhao nhao nổi lên:
“Cái con chó!”
“Em không điều khiển được nó sao, Charlie!”
“Đang ăn cái bánh ngon thì…!”
“Tiêu nước ép của tui rồi!”
Trong khi đó Charlie hét ầm:
“Không ai báo cho em biết con Hạt Đậu dưới gầm bàn hết.”
Gần như ngay tức khắc, anh em nhà Loom xông vào, gây nên một trận náo loạn ghê gớm hơn nữa cùng với bọn chó săn. Mấy con chó lớn bắt đầu táp đuổi bất cứ sinh vật nhỏ nào xui xẻo trong tầm đớp của chúng.
Tiếng huyên náo trong quán Cà Phê ầm ĩ tới nỗi ông Onimous phải nhảy hẳn lên bàn và quát:
“Im lặng nào! Ở đây không được phép gây mất trật tự.”
Homer, con vẹt của Lysander kêu om sòm:
“Nói hay lắm, thưa ngài.”
Nghe vậy, Alfred hét vang:
“Lão mắc chứng gì đó, lão kia?”
Ông Onimous trợn mắt nhìn thằng thiếu niên, không tin nổi:
“Cậu nói gì?”
“Tôi nói lão mắc chứng gì đó?” Alfred lặp lại.
Ưỡn thẳng hết cỡ chiều cao một thước bốn mươi chín phân (cộng với cái bàn khiến ông cao hai thước hai mươi ba), ông Onimous đáp:
“Xin các công tử hãy để ý đến những con thú nhỏ hơn. Các vị thấy chúng mới hoảng sợ làm sao kìa. Lũ chó của các vị luôn gây hỗn loạn mỗi lần chúng mang các vị vô đây.”
“Không phải bọn này, mà là nó ấy.” Albert Loom chỉ Charlie. “Nó và con chó vàng hỗn hào kia. Con đó to hơn đám chó của bọn này.”
Hạt Đậu khẹt một tiếng sủa nghẹn sâu trong cổ họng và xông vào đàn chó săn, trong khi Homer la quác quác:
“Tống chúng xuống địa ngục đi!”
Một trận ẩu đả kinh hoàng diễn ra tiếp sau đó. Thêm vài con chó khác không thể cưỡng lại cũng nhập cuộc và tiếng tru rít vang lên xé màng nhĩ. Chim kêu inh ỏi bay vút lên trần nhà, mèo ngao, rắn cuốn, mấy con lừa xéo bừa lên người lạ và một con kỳ nhông chạy ra khỏi cửa. Những con nhỏ hơn thì lo tìm chỗ núp.
Norton bị cắn tơi bời khi cố can gián bọn chó, và Charlie bị một con ngựa nhỏ Shetland đang hốt hoảng xô ngã chỏng vó xuống sàn, vừa lúc nó túm được sợi dây xích cổ con Hạt Đậu.
Bà Onimous nhảy lên bên cạnh chồng (cú nhảy khiến bà cao tổng cộng hai thước năm mươi lăm phân) và bắt đầu gõ bang bang một cái hộp thiếc đựng bánh bích quy. Đầu bà bây giờ đang chạm trần nhà, và ta có thể nghĩ một người khổng lồ như thế có thể sẽ dẹp tan được bọn tham chiến. Nhưng không phải là hôm nay.
Chỉ có tiếng xe cảnh sát hụ còi tới gần mới tạo ra chút tác dụng. Ngay khi bọn nhà Loom nghe thấy tiéng còi, chúng liền lôi lũ chó của chúng ra khỏi cuộc hỗn chiến và tếch khỏi quán cà phê. Hai phút sau, cảnh sát Wood và cảnh sát Singh có mặt tại hiện trường. Tới lúc đó, vụ việc mới lắng dịu xuống đáng kể, nhưng ông bà Onimous vẫn còn đứng trên bàn.
Cảnh sát Singh dẫm rào rạo lên đống chén dĩa ly cốc bể và nói với ông bà chủ:
“Chúng tôi muốn có đôi lời, được chứ ông?” Anh ta hỏi. “Nói riêng.”
Ông Onimous nhảy xuống khỏi bàn, và sau khi đã giúp vợ xuống theo phong cách lịch lãm nhất, họ biến mất vào trong nhà bếp cùng với hai viên cảnh sát. Norton, với hai bàn tay đang chảy máu đầm dìa, cà nhắc đi theo họ.
“Nghe tiếng còi hụ là bọn Loom chuồn lẹ như chớp,” Tancred nhận xét.
“Mà tụi nó gây ra tất cả vụ lộn xộn này,” Emma thêm. “Thiệt không công bẳng.”
Charlie đã xoay sở lôi giật được Hạt Đậu trở lại bàn, và tất cả bọn đều suýt xoa khen ngợi chú ta can đảm quá chừng. Homer thậm chí còn la lên, “Croix de Guerre!” mặc dù không đứa nào hiểu câu đó có nghĩ là gì.
“Đó là Huân chương cho lòng dũng cảm của Pháp,” Lysander giải thích, “Nó học lóm của mẹ anh đấy.”
Bọn chúng chia nhau chỗ bánh quy còn sót lại trên bàn trong khi chờ ông bà Onimous xuất hiện trở lại. Chỉ còn vài con thú to mồm hơn vẫn ồn ào, và bây giờ đã đủ im ắng cho Charlie nghe thấy một tiếng quác rõ ràng và đanh sắc từ đâu đó. Nó nhìn xuống và thấy một con vịt trắng đang cúm rúm dưới ghế Ema.
“Ra là một con vịt,” nó nói. “Dì của bồ bảo với mình là bồ có một con thú cưng mới.”
“Nó bay vô sân nhà mình hồi hôm qua,” Emma nói. “Mình gọi nó là NanCÂY, theo tên mẹ mình. Mẹ mình mất rồi… bồ biết đấy.”
“Ừ. Đúng là một con vịt rất đáng yêu,” Charlie không thể nghĩ ra cái gì khác hơn để nói.
Lại không thấy Olivia tới nhỉ?” Fidelio quan sát. “Có chuyện gì với nó vậy, Em?”
Emma nhún vai:
“Mình không biết. Dạo này nó gần như chẳng nói chuyện với mình gì hết, và nếu nói thì cũng luôn trong tâm trạng cáu bẳn.”
“Trông nó luộm thà luộm thuộm,” Lysander nói.
“Mà hồi trước nó diện oách lắm,” Tancred rầu rĩ thêm.
Charlie nghĩ đã đến lúc kể cho bọn bạn nghe về cô Alice Angel và cửa hàng hoa.
“Mình nghĩ Olivia có phép thuật,” Charlie nói. “Nhưng nó không chịu thừa nhận điều đó. Nó thậm chí còn nghe được tiếng con ngựa ma, và theo như em biết, thì chỉ những người có phép thuật mới nghe được.”
Fidelio đồng ý. Nó chưa nghe, chưa thấy hay cảm giác thấy con ngựa đó bao giờ, kể cả khi những đứa khác cúi rạp người xuống né.
“Lysander muốn được biết kỹ hơn về con ngựa ma, vì vậy Charlie cập nhật tin tức cho Lysander, thêm vào những chi tiết về cuộc thử nghiệm kinh hồn của lão Ezekiel.
“Một trái tim!” Tancred thốt lên, khi Charlie kể xong. “Ghê quá!”
“Còn nữa,” không đả động gì tới ông Christopher Crowquill, Charlie kể tiếp cho bọn bạn về Billy Raven và những phép thuật đáng sợ của cha mẹ mới của thằng bé.
“Và giờ em sẽ liều thân, có lẽ là liều luôn cả bọn này, để cố cứu Billy khờ khạo, có đúng không?” Tancred hỏi.
“Đúng thế,” Charlie nói. “Nhưng Billy không khờ khạo. Chỉ tại nó gặp xui nhiều quá thôi.”
“Đúng vậy,” Gabriel lầm bầm một cách nghiêm nghị.
Xem ra đây là thời điểm thích hợp để nhắc lại cái nút áo. Charlie lôi cái nút áo và chìa ra cho Gabriel, nài nỉ nó viếng thăm thế giới gương thêm một lần nữa:
“Có lẽ nếu anh nghe lại tiếng dương cầm, anh sẽ nhận ra bản nhạc. Bất cứ cái gì có thể cho em biết về nơi ấy… và người đàn ông bị kẹt ở chỗ ấy!”
Gabriel cầm lấy cái nút áo cùng với một tiếng thở dài, một lần nữa, nó đạt cái nút lên tim. Nó nhắm mắt lại và cả bọn nín khe theo dõi khi chân mày Gabriel nhướn lên và gương mặt dài của nó bộc lộ một sự tập trung cao độ. Thỉnh thoảng một cơn rùng mình ập xuống khắp thân mình Gabriel, và miệng nó hơi giật một cái. Sau năm phút, Gabriel mở mắt và vứt cái nút áo lên bàn.
“Rachmaninov,” nó nói. “Khúc dạo đầu cung Đô trưởng. Và đó là một đĩa nhạc - một trong những đĩa nhạc cũ của năm 78.”
“Còn người đàn ông thì sao?” Charlie hỏi.
“Toàn bộ gương mặt ông ấy bị méo mó. Có quá nhiều gương, các chi tiết đều gãy vụn. Xin lỗi, Charlie.”
Nhưng Charlie không quá thất vọng. Giờ nó đã biết tên bản nhạc. Đó là thứ để mà đi tiếp.
Tiếng chuyện trò trong quán cà phê chìm xuống thành tiếng thì thào khi cảnh sát Singh và cảnh sát Wood ra khỏi nhà bếp và đi khỏi. Một loáng sau, ông Onimous xuất hiện và tuyên bố hôm nay họ đóng cửa. Norton cần được đưa đến bệnh viện để may vết thương và chích ngừa uốn ván.
“Anh ấy bị lũ chó cắn xé nặng nề,” ông Orvil nói. “Bọn chó săn!” Ông nhổ nước miếng. “Bọn giết người khát máu.”
Khi Charlie và lũ bạn đứng lên ra về, ông Onimous đến bên bàn bọn chúng.
“Xin lỗi, các cô cậu,” ông nói. “Ngày mai chúng tôi sẽ không mở cửa. Norton đang trong tình trạng tồi tệ và vợ anh ấy đang quýnh quáng cả lên. Cảnh sát đã cảnh cáo chúng tôi là quán cà phê tuyệt diệu này phải đóng cửa. Bọn nhà Loom ấy gây phiền toái bất cứ khi nào chúng tới đây, và mọi người đang phàn nàn.”
“Ông nên cấm cửa bọn chó đó, ông Onimous,” Lysander nói. “Ba của cháu sẽ khuyên như thế.”
“Ba của cậu có thể là một vị thẩm phán, nhưng ông ấy không biết gì hết về việc điều hành quán Cà Phê Thú Kiểng,” ông Onimous nói trang nghiêm. “Tôi không thể lại đi cấm chó, cậu Lysander à. Chủ nhân cấm thì được, nhưng chó thì không.”
Ông nhoài người xuống bàn và lượm con chuột đen lên:
“Tôi phải đem nó trở lại nhà bếp. Nó nhớ Billy kinh khủng, các bạn biết đấy”
“Billy sẽ tới thăm nó ngay thôi.” Charlie giả bộ tỏ ra tự tin. “Vấn đề là, ông Onimous, cháu cần tìm ra một nơi gọi là Ngôi Nhà Bất Chợt.”
“Để làm gì?” Ông Onimous hỏi với giọng nhạc nhiên.
Charlie kể cho ông nghe về vụ nhận làm con nuôi của Billy. Trong khi lắng nghe, gương mặt tinh anh, đầy râu ria của ông Onimous trở nên nhúm nhíu lại vì quan tâm.
“Trời! Trời! Thật là quá đáng,” ông kêu lên. “Thế giới làm sao rồi, đến một thằng bé mà cũng không thể sống một cuộc sống vô tư? Ngôi Nhà Bất Chợt ấy ở Ngõ Quanh Co, Charlie à. Qua khỏi nhà thờ lớn ở khu phố cổ. Nhưng coi chừng! Tôi không muốn so gươm với bọn de Grey đó đâu.”
Cháu sẽ đem theo con Hạt Đậu,” Charlie nói, tròng sợi dây xích vào cổ Hạt Đậu.
“Không có anh là em sẽ không đi được đâu,” Fidelio nói.
“Và mình cũng sẽ đi đường ấy,” Emma nhét vịt NanCÂY vào một cái giỏ có nắp đậy.
Gabriel, Tancred và Lysander sống ở đầu kia, trên một ngọn đồi cây cối um tùm gọi là Khu Đồi Cao. Nhưng bọn chúng đều muốn hể cần giúp đỡ thì liên lạc chúng ngay. Mái tóc vàng của Tancred bị nhiễm điện đang kêu xèo xèo và từng làn gió nhẹ cứ không ngừng quấn quanh mắt cá chân cả bọn khi chúng ra tới hẻm Con Ếch.
“Anh cứ thấy rờn rợn về tất cả những chuyện này,” Tancred nói. “Bảo cứ chực nổi lên, Charlie ạ.”
“Và anh thì cứ muốn gọi tổ tiên mình,” Lysander bảo.
Khi chúng tới Khu Đồi Cao, ba thằng lớn quẹo phải, trong khi Charlie, Fidelio và Emma quẹo trái về hướng nhà thờ lớn. Một lần nữa, một màn sương mù dày đặc lại bắt đầu giăng khắp thành phố. Nhưng đây không phải là thứ sương mỏng như hồi hôm qua, mà nó giống như màn hơi nước phả lên từ tít sâu dưới lòng đất - lạnh buốt và báo điềm gở - nó trì néo mỗi bước chân của ba mgười bạn mỗi khi chúng tiến gần tới nhà thờ.
Khi đi ngang tiệm sách cô Ingledew, Emma tạt vào và đặt cái rổ đựng con NanCÂY lên quầy. Dì nó đang tiếp một khách hàng, cho nên Emma vẫy tay vui vẻ và nói, “Con về ngay!” rồi lại phóng ra. Ngay lúc đó, Fidelio chạy ù vào và đặt con mèo già của nó lên nóc rổ.
“Sẽ không lâu đâu ạ,” Fidelio nói với cô Ingledew đang chẳng hiểu chuyện gì.
Khi Fidelio ra khỏi tiệm, nó nhận thấy có ba sinh vật rực rỡ đang băng xuyên qua làn sương mù.
“Em có biết là những con mèo lửa đang đi theo tụi mình không?” Nó hỏi Charlie.
Charlie ngoái ra sau nhìn ba con mèo chói lói.
“Chắc chắn phải có lý do chúng mới đi,” Charlie nói. “Chúng luôn có lý do. Hây, chào Dương Cưu! Chào Nhân Mã... Sư Tử!”
Ba con mèo đáp lại lời chào của nó bằng những tiếng meo meo thân thiện, trầm sâu. Hạt Đậu hộc lên một tiếng sủa cảnh cáo nhưng bọn mèo chẳng lấy làm phật ý. Khi đoàn quân nho nhỏ lại lên đường, đám mèo theo sau ở một khoảng cách kín đáo, dè chừng bản năng tự nhiên của con chó.
Qua khỏi nhà thờ, thành phố biến thành một mê trận với những lối hẻm hẹp rí và những bậc thang tối tăm, nhớp nháp. Những bảng chỉ tên đường nứt vẹo và bạc phếch, một số bảng không thể đọc được. Để tìm ra Ngõ Quanh Co, Charlie phải đi vào những ngõ hẻm tối nhất mà nó chưa từng băng ngang bao giờ,
“Nó đây,” Charlie hạ thấp giọng.
“Một nơi u ám,” Fidelio nhận xét, thận trọng đi theo sau.
“Có mùi thấy ghê,” Emma nhăn mũi.
Chúng bắt đầu lần theo lối đi dốc, thỉnh thoảng vấp nhào phải những bậc cấp đột ngột xuất hiện trong lúc đang mải căng mắt nhìn xuyên qua bóng tối trước mặt. Con Hạt Đậu bỗng vuột ra một tràng tru dài, suýt làm đứt thần kinh cả bọn. Lũ mèo bèn phóng vượt lên bọn trẻ và dẫn đường, bộ lông sáng chói của chúng rực lên trong màn sương.
Sau khi đi qua dưới hai bảng tên đường gỉ sét, cuối cùng Charlie thấy những chữ NGÔI NHÀ BẤT CHỢT khắc hẳn vào bảng đá, bên trên một cảnh của cao bằng gỗ sồi.
“Bồ tính sẽ nói gì đây?” Emma hỏi khi Charlie đưa tay túm cái gõ cửa - một bàn tay to bự bằng đồng.
“Mình sẽ nói ‘Billy đâu?’ Có lẽ thế là đủ,” Charlie nói.
Tuy nhiên, cuối cùng, sau vài tiếng gõ, khi cánh của mở ra, khả năng ăn nói của Charlie biến sạch, bởi vì người đàn ông đứng ngay khung cửa phóng cho nó một cái nhìn dữ tợn đến nỗi nó ngạt cả thở.
“Muốn gì?” Người đàn ông nói cụt lủn.
Charlie nuốt nước miếng khan, và Fidelio nói:
“Tụi cháu muốn đến thăm Billy, thưa ông.”
“Billy?” Người đàn ông trông rất tức giận. “Billy?”
“Nó sống ở đây, phải không ạ?” Emma hỏi.
“Cút đi,” người đàn ông rống lên.
Lão định đóng sập cửa lại nhưng Charlie đã đặt chân lên bậc cấp. Đúng lúc đó Hạt Đậu trông thấy một con mèo đen phóng sượt qua hành lang sau lưng người đàn ông. Sủa lên một tiếng vui mừng, Hạt Đậu rượt theo con mèo, hoặc đúng hơn là nó mới thử rượt theo, bởi vì có cái gì đó tông rầm vào mũi nó và xô nó bật nảy trở lại, kêu tru tréo.
“Ông làm gì con chó của tôi vậy,” Charlie la lên.
Usher de Grey đá gạt bàn chân Charlie ra và đóng rầm cửa lại.
“Nó ở trong đó,” Emma thì thầm. “MÌnh chắc chắn nó ở trong đó. Tội nghiệp Billy.”
“Nó ở trong đó, chắc chắn,” Charlie nói. “Đó là cái lão em trông thấy ở học viện Bloor... cái lão không thích con nít ấy.”
”Sao?” Fidelio hỏi.
Tiếng tru đau đớn của Hạt Đậu khiến Billy khó mà suy nghĩ được. Tông mũi vào thứ mà mình không nhìn thấy là điều rất hãi hùng đối với một con chó, mà Charlie không biết làm sao diễn tả bằng ngôn ngữ thú vật cho con chó về lực trường. Chỉ có Billy mới làm được điều đó.
“Em sẽ nghĩ ra cách gì đó,” Charlie cố tỏ ra vui vẻ.
Cả bọn dùng dằng rời khỏi Ngôi Nhà Bất Chợt, trong khi Billy vẫn kẹt bên trong, nhưng bọn chúng không thể làm gì thêm được nữa. Cần phải sắp xếp một kế hoạch khác.
Khi Charlie bước ra khỏi Ngõ Quanh Co, nó ngoái nhìn lại. Những con mèo lửa vẫn chưa đi. Chúng đang ngồi dàn hàng ngang bên ngoài cánh cửa Ngôi Nhà Bất chợt, bộ lông óng ánh của chúng sáng ngời trong bóng tối. Có lẽ chúng có lời giải cho việc đào tẩu của Billy.
Billy đang coi TV thì nghe tiếng con chó. Mới đầu âm thanh ấy chỉ là một tràng tru đau đớn, nhưng rồi Billy bắt đầu nhận ra tiếng của Hạt Đậu, và rồi hiểu được lời con chó.
“Cổng ma!” Hạt Đậu sủa. “Tường nước đá! Tường lửa! Cổng làm đau! Cú lừa con mèo! Ối đau! Charlie, cứu!”
Billy nhảy dựng lên và lao ra cửa sổ. Tất cả những gì nó có thể thấy qua làm sương dày chỉ là một bức tường đá xám. Cửa sổ phòng nó bị khoá và nó không cách chi mở ra được. Nó đi dọc lối đi bên ngoài căn phòng và nhón gót ra chiếu nghỉ. Ngó xuống hành lang, vừa lúc nó thấy lão Usher de Grey đóng sầm cửa trước lại. Billy chạy trở lại lối đi và đứng dựa sát vào tường, gần như không dám thở. Charlie ở bên ngoài, nhưng liệu chuyến thăm của anh ấy có gây rắc rối gì không? Ý nghĩ phải chịu đau đớn thêm khiến Billy nhắm mắt lại sợ hãi.
“Billy!” Một giọng nhẹ ru.
Billy mở choàng mắt ra và thấy con mèo đen nhỏ ngay cạnh bàn chân nó.
“Đám bạn,” con mèo nói, bằng giọng sáng rỡ nhất.
Billy rón rén đi trở vào phòng, có con mèo theo sau. Không gây một tiếng động nào, nó cẩn thận khép cửa lại.
“Tội chó bị đau,” con mèo nói. “Vuốt Sắc phải chỉ cho bạn của Billy thấy nguy. Phải chỉ tường bí mật của Usher. Làm ơn nói chó là Vuốt Sắc xin lỗi.”
“Nếu gặp lại nó tớ sẽ nói,” Billy đáp.
“Các bạn tôi đang ở đây,” con mèo con nói tiếp. “Họ ở lại. Họ giúp Billy đi. Tối nay, Billy phải sẵn sàng.”
“Tối nay?” Billy lắc đầu, hoảng sợ.
Nhưng vì ước muốn trốn thoát quá lớn, ý nghĩ về tự do quá cám dỗ, nên nó bật cười to, phấn khích.
“Suỵt!” Con mèo nhắc. “Chưa!”
“Tôi sẽ đi đâu?” Billy hỏi. “Nếu tôi rời khỏi đây?”
“Các bạn sẽ chỉ cho cậu.”
“Các bạn của mèo là ai?”
“Mèo, dĩ nhiên rồi. Lông đồng, lông cam và lông vàng.”
“Những con mèo lửa!” Billy thảnh thốt.
“Những con mèo lửa, đúng. Vuốt Sắc đi đây.”
Billy mở cửa và con mèo đen bước gọn ra lối đi.`
“Đừng quên,” con mèo nói. “Tối nay.”
“Làm sao quên được!” Billy thì thào.
Bình luận facebook