Mod nhà sắc
Tác Giả
-
Chương 16
Charlie ôm chồng nhật kí theo Ông Cậu lên lầu. Cây nến Ông cậu Paton giơ lên cao lập lòe và tỏa khói trong khu vực cầu thang gió lùa, và Charlie phải đặt bàn chân cẩn thận để tránh bước hụt bậc thang.
Về tới phòng mình rồi, Charlie đặt chồng sách lên cái bàn cạnh giường và lôi một bức tranh nhỏ từ dưới giường ra.
“Ta nghĩ con sẽ cần ánh sáng cho tử tế, Charlie,” Ông cậu Paton thập thò nơi cửa.
Trong ánh sáng nhập nhoạng từ ngọn nến, Charlie gần như không thấy bức tranh. “Con bật đèn bên giường thì có lẽ tốt hơn,” nó đồng ý.
“Vậy ta đi đây,” Ông cậu Paton bảo. “Nhưng mà Charlie, làm sao con trở lại được? Con có cần ta giúp gì không?”
Charlie lắc đầu. “Con sẽ mang nó đi cùng.” Nó hất đầu về phía con bướm trắng đậu trên giường. “Nó sẽ giúp con trở lại.Trước đây nó đã từng làm thế rồi, Ông cậu biết đấy.”
“Ra vậy. Hừm... chúc con may mắn,” Ông cậu Paton ngọ nguậy chân vẻ bất an rồi rút lui.
Charlie bật đèn lên và đóng cửa lại. Nó đặt bức tranh lên gối và lên giường ngồi cạnh. Trong cánh tay nó ôm mười quyển sách bọc da của ông Bartholomew.
Bức tranh nhỏ xíu này xưa đến hàng nhiều thế kỷ. Những đường nét mờ nhỏ xỉn, nứt nẻ, cùng niên đại của nó khoác thêm vẻ đe dọa cho một khung cảnh vốn đã hiểm ác. Hàng chú thích ghi “thầy pháp” ngoằn ngoèo màu đen ở cuối bức tranh. Và đứng đó, ông thầy pháp áo thụng đen trong căn buồng tựa xà lim của mình, với những hiệu ứng ma thuật rải khắp mặt bàn đằng sau lưng. Mái tóc đen và bộ râu quay nón đen của thầy pháp xen kẽ những sợi bạc và đôi mắt vàng sáng quắc. Đó là con mắt mà Charlie tập trung nhìn vào.
Trước đây Charlie đã thăm Skarpo vài lần rồi. Có dạo nó rất sợ lão già ấy, nhưng giờ thì không sợ nữa. Nó đã quen với cặp mắt hung dữ và giọng nói như tụng kinh trầm đặc của ông ta.
“Charlie Bone?”
Dẫu Charlie đã chủ ý đón chờ điều này, nhưng cái giọng đó vẫn khiến nó dựng tóc gáy và một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.Con bướm trắng đậu trên vai nó sẵn sàng cho cuộc hành trình phía trước.
Khi những đồ vật quen thuộc trong phòng cùa Charlie bắt đầu mờ đi, nó liền thấy một luồng sáng từ căn buồng ẩm thấp của ông thầy pháp, trộn lẫn với mùi hương thỏa mộc rang khét và sáp nến. Đầu nó bơi bơi và bàn chân nó bỗng nhẹ bẫng như không khí. Ôm thật chặt chồng sách, nó nhìn găm vào đôi mắt vàng rực cháy của Skarpo. Giờ thì nó có thể nghe thấy tiếng những lớp áo thụng của Skarpo kêu sột soạt, tiếng sắt va chạm và tiếng lửa lách tách. Charlie cảm giác mình ngã lộn tùng phèo qua nhiều thế kỷ, thân hình bị vùi dập như tờ giấy trước gió.
Khi bàn chân đã chạm xuống nền đá lạnh ngắt, nó mở bừng mắt ra. Ông thầy pháp đứng ngay trước mặt.
“Gì thế này? Ta thấy Charlie Bone trọn vẹn luôn,” Skarpo xoa xoa cái cằm râu rậm rạp. “Lúc trước thấy mỗi cái đầu mi thôi. Công lực của mi bây giờ mạnh lên rồi đấy.”
“Vậy ạ?” Charlie nhìn xuống cánh tay quặp chặt những quyển nhật ký của mình. “Ồ.”
“Mi mang quà cho ta hả?” Ông thầy pháp tia những quyển sách bọc da.
“Không hẳn vậy,” Charlie đáp. “Cháu đến để hỏi xin ngài một ân huệ.”
“À hả!” Ông thầy pháp xoa hai bàn tay xương xẩu lại với nhau. “Ta thích ân huệ lắm. Ý ta là ta có thể cũng xin mi một ân huệ.”
“Cháu nghĩ là được,” Charlie hồi hộp nói.
“Chúng ta hãy ngồi xuỗng đã.” Vén tấm vải đỏ treo phía trên bàn lên, Skarpo rút ra hai chiếc ghế đẩu thô thiển bằng gỗ. Một cái ông ta đẩy về phía Charlie, cái kia ông ta đẩy ra sau lưng mình, loay hoay tém mớ áo thụng nặng nề qua một bên và ngồi xuống. “Mi định nói với ta những quyển sách đó à?”
Charlie đặt mười quyển sách vào cánh tay duỗi ra của ông thầy pháp, “Chúng là những quyển sổ nhật ký, thưa ngài. Những quyển sổ nhật ký này rất đặc biệt. Chúng do một người bà con xa của cháu viết, tên là Bartholomew Bloor. Ông ấy đã đi khắp thế gian, và bất cứ nơi đâu nghe được chuyện về Vua Đỏ, ông ấy đều ghi lại. Những quyển nhật ký này vô cùng quý giá vì trong đó có rất nhiều bí mật – những điều về Vua Đỏ mà chúng ta chưa biết bao giờ.”
“Nếu chúng quý giá thì tại sao mi lại mang chúng đến cho ta?” Skarpo khẽ cười cái khục. “Mi có tin cậy ta không, Charlie Bone?”
“Cháu buộc phải tin,” Charlie đáp. “Có một người... một vật... mà người ta gọi là cái bóng. Hắn ở trong bức chân dung của Vua Đỏ và hắn...”
“Cái bóng?” Skarpo đứng phắt lên, đống áo thụng đen quất một làn gió băng giá qua đôi bàn chân mang dép lê của Charlie. “Khỏi nói thêm nữa. Ta biết cái bóng này. Giới thầy pháp cố tránh nói về hắn, bởi vì hắn làm ô danh giới pháp thuật bọn ta, mang tiếng lắm. Chỉ thì thầm lướt qua tên hắn thôi là anh em thầy pháp bọn ta đã xua tay phản đối rồi.”
“Ừm, cháu sẽ phải nói thêm chút xíu về hắn,” Charlie nói. “bởi vì hắn là lý do khiến cháu mang những quyển sổ nhật ký này đến cho ngài.”
“Ờ, thì vậy.” Skarpo quay lại và đặt những quyển sổ nhật ký thành hai chồng ngay ngắn lên bàn. “Nói coi.” Với tiếng áo thụng kêu phụt một cái, ông ta ngồi xuống.
Căn phòng gống như cái hang của ông thầy pháp là một nơi thích hợp vô cùng cho câu chuyện của Charlie. Nó kể cho Skarpo nghe những gì đã xảy ra kể từ đêm mưa tuyết, khi chim thú rời khỏi thành phố. Nó kể về ngoại Maisie bị đông cứng và chiếc nhẫn của mẹ nó, về cô Chrystal và Gương Thần của Amoret. Và, trong khi nó kể, năm ngọn nến trong những giá cắm nến cao bằng sắt thấp dần thấp dần, và chẳng bao lâu sau, ánh sáng duy nhất trong phòng dường như chỉ còn toả ra từ cặp mắt vàng của ông thầy pháp.
Khi Charlie đã nói xong tất cả những điều cần phải nói, Skarpo lại đứng lên và đi tới bên bàn. Ông ta thắp một cây nến to ở giữa bàn lên, và trong ánh sáng nhảy nhót của ngọn nến, ông ta bắt đầu lật lật từng quyển sách. Charlie nhìn Skarpo, trông chờ một lời nhận xét hay một lời khuyên gì đó, nhưng ông thầy pháp chẳng nói chẳng rằng, mãi cho đến khi mắt ông đã quét hết mọi trang sách. Khi đặt quyển sách cuối cùng lại chỗ cũ xong, Skarpo quay lại Charlie và nói, “Toàn chuyện hay đấy, cậu bé của ta. Những tiết lộ chấn động! Ta sẽ giữ chúng an toàn, nhưng câu thần chú, câu thần chú bằng tiếng xứ Gan ấy, mi phải mang nó trở về với mi. Để ta dịch ra cái đã, bởi vì ta biết tiếng xứ Gan, mi biết đấy, rồi mi sẽ cần tới nó.”
Charlie chờ, tự hỏi liệu đó có phải là câu thần chú mà ông Bartholomew đã nhắc tới không. Ông thầy pháp xé một mảnh giấy da dê từ một quyển sổ bằng da, và nhúng cây viết lông trông lạ mắt vào lọ mực, ông ta bắt đầu viết rột rột lên bề mặt tờ giấy da dê. Thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn vào một trong những quyển sổ nhật để mở trên bàn, gãi đầu, nhìn xa xăm, mỉm cười và rồi lại viết tiếp.
Khi hàng chữ cuối cùng đã viết xong, Skapo đặt cây viết lông xuống và nhìn Charlie với một nụ cười đắc thắng. “Một câu thần chú tuyệt vời,” ông ta tuyên bố.”Không phải của ta. Ồ không. Người bà con của ngươi chắc hẳn đã sưu tầm nó từ một trong những hậu duệ của Mathonwy, bạn ông Vua Đỏ của mi, dĩ nhiên rồi.” Ông ta lại vọt ra một tiếng cười kinh khùng khục đặc trưng. “Chính từ lão ta mà ta đánh cắp cây gậy phép của ngươi đấy, Charlie Bone. À, không phải đánh cắp, không... mà là lúc đó lão đã già khú khụ rồi, và chắc hẳn cũng không có ý để lại nó cho ta trước khi chết. Làm sao mà họ thích truyền tên tuổi của mình cho con cháu thế không biết, cái đám dân xứ Gan ấy.” Ông ta ngừng nói và nghiêng đầu. “Nhân nói đến cây gậy phép, thế nó đâu rồi?”
“Thật tình thì bây giờ nó là con bướm trắng,” Charlie nói.
“À, con bướm trắng kia.Ta thấy rồi.” Skarpo thò tay ra bắt con bướm trắng đang bay chập chờn giữa hai người.
“ĐỪNG!” Charlie hét lên thất thanh. “Nó là của cháu!”
“Đùa thôi, Charlie Bone!Ta sẽ không làm đau con bướm xíu xiu của ngươi đâu.” Ông thầy pháp thổi tấm da dê cho khô rồi chìa ra, “Cầm lấy câu thần chú của ngươi rồi rời khỏi nơi đây. Nấn ná trong những thế giới xa xôi chẳng hay ho đâu.”
“Vâng, cháu đi đây.” Charlie hấp tấp, cầm lấy câu thần chú, “và xin cảm ơn ngài. Ngài sẽ giữ những quyển sổ nhật kí an toàn chứ ạ?”
“Ngươi nghi ngờ sao?” Ông thầy pháp gặc đầu qua bên và nở nụ cười vặn vẹo.
“Không. Không, dĩ nhiên là không ạ.” Charlie giơ bàn tay rảnh rỗi của nó và con bướm trắng đậu vào ngón tay nó. “Nó giúp cháu chu du,” Charlie giải thích.
Ông thầy pháp gật đầu, “Ờ.”
Trước khi Charlie rời đi, nó liếc qua ô cửa sổ nhỏ ở cuối căn buồng tối. Có thể thấy một khu rừng đen ngòm, viền quanh là một biển nước gờn gợn ánh trăng. Có lần, Charlie đã tình cờ viếng thăm khu rừng đó, và việc đó mãi in sâu trong tâm trí Charlie, một kí ức vừa làm nó hoang mang vừa vỗ về, an ủi nó. “Thưa ngài, Vua Đỏ đã từng sống ở gần đây phải không ạ?” Nó hỏi.
“Ậy, đúng thế,” Skapo trả lời, quay về phía cửa sổ. “Và khi nhà vua ra đi, Mathonwy thầy pháp đã đến sống ở đây. Ông thu nạp ta làm đệ tử khi ta còn rất nhỏ; một đứa trẻ mồ côi không nhà, dân tộc ta bị quân lính của nhà vua Anh tàn sát. Mathonwy là một thầy pháp vĩ đại và ông ấy đã dạy ta rất nhiều, nhưng ta không bao giờ giỏi được bằng ông ấy, ở bất cứ khía cạnh nào của cái từ ‘giỏi’ này.” Một bóng đen thoáng qua nét mặt của lão thầy pháp, một tí dấu hiệu hối hận vụt qua, nhưng rồi nụ cười ác độc lại quay về, và ông ta phẩy bàn tay xua Charlie, “Đi, đi đi nhóc. May mắn sẽ đi cùng với mi.”
“Tạm biệt ngài, và cảm ơn.” Charlie nhìn con bướm trắng và dịu dàng hỏi, “Chúng ta đi bây giờ chứ, Clearwen?”
Gương mặt của lão thầy pháp là cảnh cuối cùng Charlie thấy trước khi đám sương mù thời gian trôi đến giữa hai người và Charlie bắt đầu chu du trở về nhà. Đôi mắt vàng chóe của Skarpo trợn lớn kinh ngạc, bởi vì Charlie đã vừa nói tiếng xứ Gan. Những từ ngữ lạ hoắc đã tự nhiên mà đến với nó, tuy nhiên, nó biết rằng điều đó là do con bướm trắng. Claerwen – Tuyết Trắng.
Một lúc sau, Charlie đã ngồi trên giường, với con bướm trắng đậu trên tay. Charlie ngáp dài và hất văng đôi dép lê ra. Chưa bao giờ nó buồn ngủ đến thế. Vài tiếng nữa nó sẽ phải thức dậy và sắp xếp giỏ sách để chuẩn bị đến trường. Nhưng bây giờ thì chưa. Nó cất bức tranh xuống dưới giường, nằm ngửa ra gối và ngủ lịm đi.
Nó tỉnh dậy thì thấy Ông cậu đang lo âu nhìn nó từ khung cửa ra vào.
“Không đời nào ta lại gọi con dậy đi học,” Ông cậu Paton nói, “nhưng ta nghĩ ít nhất cũng nên nhắc chừng con về thời gian. Xem ra chưa có ai thức giấc cả.”
Khi Charlie lăn khổi giường, một mảnh giấy cứng quèo, vàng vàng bay xuống đất. Nhăn mày, Ông cậu Paton bước vào phòng và nhặt nó lên. “Cái này là cái gì?”
“Con không biết,” Charlie nói, dụi mắt.
“Một bài thơ? Ồ không, còn hơn thế nữa, một... một loại như bùa chú.” Ông cậu Paton lật tờ giấy lại và nghiên cứu nét chữ xiên xiên to tướng. “Ối chu cha, ở đâu con có cái này đây, Charlie?”
“Ô, con quên mất. Skapo đưa con đấy ạ,” Charlie nói khi băng qua Ông cậu trên đường ra nhà tắm.
“Skarpo đưa à?” Ông cậu gọi với theo kinh ngạc. “Charlie, ta sẽ cất nó trong phòng ta. Đáng chú ý đấy. Nó có thể thay đổi mọi thứ.”
Charlie không để ý Ông cậu nói gì. Một lần nữa nó lại phải đánh răng trong khi Maisie nằm đông cứng trong bồn tắm bên cạnh. Hừm, bà ngoại, người duy nhất trong cả nhà có khả năng giữ mẹ nó an toàn khỏi bá tước Harken thì lại nằm đấy.
Đến lúc Charlie rửa mặt xong thì Ông cậu Paton đã biến về phòng ông, và tất cả những gì Charlie có thể nghe được là tiếng lẩm bẩm trầm đục tựa như tiếng nước ngoài.
Charlie mặc đồ chỉnh tề, sắp giỏ sách xong rồi xuống nhà bếp. Lò lạnh tanh và cái bàn trống trụi. Không một dấu tích nào chứng tỏ có ai đã ăn sáng ở đó. Mẹ đâu rồi? Đi ra ngoài hay đang ngủ? Charlie sợ tìm ra câu trả lời. Ngôi nhà phả ra mùi trống vắng lạnh lẽo, chìm trong giấc ngủ. Nó vội vã tự nướng cho mình một lát bánh mì rồi ra khỏi nhà.
Học viện Bloor vẫn chưa hồi phục sau kỳ cuối tuần hội họp đình đám. Có chăng là toàn thể ban thậm chí còn bẳn tính, hay cáu gắt hơn cả lúc trước khi một trăm vị hiệu trưởng đến chơi. Những nhánh lá thông, dây kim tuyến, dĩa nhựa rách và thức ăn thừa tràn ngập dưới tiền sảnh. Nhiều quần áo, mũ nón biến mất khỏi các phòng áo khoác và có phàn nàn ca cẩm thì cũng chỉ tổ vô ích.
“Lẽ ra trò không nên để nó ở đó,” Manfred Bloor chắc chắn sẽ đáp như thế trước lời rụt rè nghi ngờ một vị hiệu trưởng ghé thăm có thể đã chôm một cái khăn quàng, một chiếc giày, hay một chiếc găng tay viền lông thú.
Trông Manfred mới gớm ghiếc thật sự – mặt lỗ rỗ những vết thương li ti chắc chắn chỉ có vô số vụn thủy tinh mới gây ra được. Emma Tolly không chút nghi ngờ gì rằng Manfred đã đi cùng với cái bóng tới đập rầm rầm cửa tiệm sách nhà nó đêm hôm trước.
Fidelio có tiết học violin sau buổi Tập hợp, nhưng nó không có ý muốn gặp cô Chrystal. “Anh không biết làm sao mà mình có thể giả bộ không biết cô ta là ai,” nó thì thầm với Charlie khi chúng rời phòng tập hợp. “Ý anh là, anh không phải là diễn viên như Liv.”
“Anh buộc phải vậy thôi,” Charlie nói. “Chỉ cần cô ta đoán ra tụi mình biết chuyện thôi là cô ta sẽ giương móng vuốt ra liền.”
“Anh có cảm tưởng như...”
“Fidelio Gunn,” tiến sĩ Saltweather nói, ông hiện ra từ phòng tập hợp, “hãy nhớ luật.”
“Vâng, thưa thầy,” Fidelio nói, mừng quá xá vì không phải Manfred đã bắt qủa tang mình.
Charlie vọt lẹ tới lớp học toán, để mặc Fidelio tự bình tâm tĩnh trí cho cuộc chạm trán kinh khủng với cô Chrystal.
Giờ nghỉ giải lao đầu tiên không thấy tăm hơi Fidelio đâu. Charlie phập phồng không biết có chuyện gì xảy ra với anh ấy. Sân trường lạnh buốt và sương giá. Bọn trẻ con túm tụm lại thành từng nhóm nhỏ, dậm dậm chân và lầm bầm một cách bất bình. Charlie phải dòm hẳn vào từng đám để tìm cái đầu tóc quăn quen thuộc của Fidelio. Nhưng hình như không đứa bạn nào của nó ở ngoài trời cả.
Khi đi lơ thơ vào lâu đài, Charlie linh cảm có một đoàn học trò theo mình theo mình. Không muốn bị mắc kẹt trong khu đổ nát, nó bèn quẹo vào rừng. Đám đông tiến gần nó hơn. Charlie co giò chạy. Và rồi thì, đột nhiên, nó bị bao vây. Mọi cây cối đều bị bao phủ trong màn sương mù, và nó không còn phân biệt nổi trong những hình thù trôi trôi ấy đâu là những thân cây ốm và đâu là lũ truy sát nó.
“Tụi bay muốn gì?” Charlie hét to. “Tại sao tụi bay đi theo tao?”
Một đứa trong bọn ló lên trước. Charlie có thể đoán dấy là Joshua Tilpin.
“Bạn bè mày vô dụng rồi, Charlie Bone,” Joshua cười khẩy. “Mày phải bỏ chúng nó thôi.”
“Mày nói gì? Vì sao tao phải bỏ bạn?” Charlie căm phẫn quặc lại.
Joshua thảy cho nó một nụ cười thõng thượt, lạnh toát. “Tụi tao đến để dạy cho mày một bài học, Charlie. Tụi tao sẽ dạy đi dạy lại cho mày nhớ, phải không các chiến hữu?”
“PHẢAII!” Đám đông rống vang.
Và bây giờ đến lượt Dorcas Loom lẻn ra từ sau một thân cây và chế nhạo Charlie. “Mày là đồ thảm bại, Bone. Mày đừng hòng thoát. Mày đã mất cha rồi, và giờ mày sẽ mất nốt mẹ. Mày không thể giữ được cái gì thì phải? Nếu mày gia nhập tụi tao thì tụi tao sẽ giúp mày, Tụi tao mạnh hơn nhiều lũ bạn khốn khổ của mày.”
Charlie vẫn từ từ lùi xa khỏi đám đông, và giờ, lưng nó đã tựa vào bức tường cổ xưa. Không suy nghĩ, nó quay đầu và tìm được một chỗ bấu chân. Nó liền leo lên, cao nữa cao nữa, hướng tới mấy lỗ hổng trên bức tường đá, trong khi bàn chân nó cuống quít tìm chỗ mấu bám. Cuối cùng nó đứng ở trên tường, cao hơn đám đông cả hơn ba mét rưỡi.
Bọn chúng nhất loạt cười cợt nó.
Thể rồi chị em sinh đôi nhà Branko xuất hiện. Đứng sát vai nhau, chúng trừng mắt nhìn những phiến đá trên bức tường, cứ thế trừng mắt, trừng mắt... Một viên đá to bung ra và toàn bộ mảng tường sụp lở.
Chúng có thể làm điều đó sao? Charlie nghĩ. Chúng có thể làm sụp một bức tường đã chín trăm tuổi sao?
Chúng làm được chứ. Hai hòn đá khổng lồ trên đỉnh bức tường xục xịch. Rồi một trong hai đứa sinh đôi nói. Chúng hiếm khi nói, đến mức việc chúng nói đã gây sốc.
“Một tai nạn mới thương tâm làm sao!” Đứa con gái mặt trơ như búp bê, tóc đen mắp máy. “Charlie Bone leo lên bức tường cổ và thế là, chòng chành, rùng rùng, nó rớt ập xuống, với Charlie ở trên cùng...”
“Sau đó ở dưới cùng,” đứa sinh đôi khi tiếp lời bằng giọng độc địa, thâm hiểm hơn.
Rồi một tiếng ịch rung chuyển khi một viên đá khổng lồ khác đáp xuống mặt đất cứng, và lần này bức tường rung lắc dữ dội, Charlie ngã bập đầu gối. Ráng bấu chắc vào bề mặt rêu mốc trong khi bức tường rung và lắc, nó cố tưởng tượng ra việc bị chôn sống sẽ như thế nào.
Chợt có tiếng gì đó vang lên, thoạt tiên Charlie nghĩ âm thanh đó là từ một mảng tường lở khác. Nhưng rồi cái tiếng đó càng lúc càng lớn – rù rù giận dữ, căng lên...
Bọn con nít dưới đất ngỏng cổ ngó lên, liền cuống quíu quay lưng ù té chạy.Vài đứa trong bọn thì bạt vía. Ngó theo ánh mắt của chúng, Charlie thấy một đám mây đen đang đổ sập xuống qua những ngọn cây. Tiếng rù rì dần trở thành tiếng gầm rú và nguyên cả đám ăn hiếp Charlie chạy toán loạn, tru tréo và kêu la rầm trời. Joshua Tilpin là đứa cuối cùng chạy đi. “Cho mày bị đốt chết tươi luôn, Charlie Bone,” nó vừa chạy vừa gào.
Ong? Bay vào mùa đông? Ai đã xua chúng đến đây? Cái bóng chăng? Charlie nhắm mắt lại. Cái gì tệ hơn nhỉ, nó tự hỏi, bị chôn sống dưới một bức tường hay là bị ong đốt tới chết?
Tiếng rù rù ngưng bặt. Charlie vẫn nhắm tịt mắt, chờ những cặp chân ngứa ngáy của bầy ong châm vào mặt và tay chân mình. Chờ đợi cú đốt đau đớn đầu tiên. Không có gì xảy ra, Charlie mở một mắt. Không có gì trên bức tường. Trong không khí cũng chẳng có gì.
“Charlie!”
Charlie mở nốt mắt kia ra. Nó trông thấy Emma và Olivia đang ngước lên nhìn nó từ dưới chân tường. Cả hai đứa đều cười toe toét.
“Cái khỉ gì...?” Charlie hỏi.
“Một ảo ảnh!” Olivia la váng trời, nhảy cỡn lên không. “Một ảo ảnh tuyệt đấy chứ nhỉ?”
“Còn phải nói,” Charlie chù chừ leo xuống khỏi bức tường.
Không ai trong số chúng nhận thấy một phụ nữ tiến tới qua màn sương. Cô dừng lại cách chúng vài mét và núp sau một thân cây.
“Tụi này thấy chúng đi theo bồ,” Emma líu lo. “Vì vậy tụi này đi theo chúng, nhưng tụi này không biết phải làm gì bây giờ. Chúng nó đông quá. Lực hút của Joshua rõ ràng là có tác dụng.”
“Và rồi tớ nghĩ ra bầy ong,” Olivia khoái chí nhảy lên cái nữa. “Tớ tự hào về mình quá đi mất.”
“Bồ đã cứu mình!” Charlie ôm chầm lấy con nhỏ. “Phùù! Mình rất vui...”
Bất chợt có tiếng loạt soạt trong hàng cây đằng sau chúng, và cả bọn quay lại thấy một bóng người lủi đi, khá nhanh, vào làn sương mù. Không nghi ngờ gì về bộ com-lê xám chỉnh chu và mái tóc cắt ngắn cụt ngủn đó.
“Cô Brown,” Charlie thì thầm. “Chắc hẳn cô ấy đã nghe thấy bồ nói rồi, Liv.”
“Và bây giờ cô ấy đã biết tài phép của bồ. Ôi không!” Emma vặn vẹo hai bàn tay vào nhau. “Tụi mình phải làm gì bây giờ?”
“Không thể làm gì cả,” Charlie nói. “Tụi mình chỉ còn nước đợi xem chuyện gì xảy ra thôi.”
Rõ ràng, cô Brown đang suy tính thời cơ. Olivia không bị triệu hồi lên thư phòng của ông hiệu trưởng và không ai lôi con nhỏ đi để tra hỏi hay nhốt nó vào phòng học. Việc thắc mắc khi nào gia đình Bloor sẽ ra tay chống lại Olivia gần như còn tệ hơn là biết họ sẽ làm gì con nhỏ. Vào giờ đi ngủ, Charlie lén mò lên phòng ngủ chung của nữ xem sao, thấy Olivia vẫn đi nghênh ngang trong bộ đồ ngủ vàng chóe tô đen, vẫn lách chách như thế.
“Tớ ỔN mà,” nó nói, xua Charlie đi. “Đừng để bị cấm túc vì tớ đấy.”
“Thế thì chúc may mắn, Liv.” Charlie trở xuống lầu. Nó định bụng sẽ dỏng tai nghe ngóng bất kỳ tiếng động lạ nào nào trong đêm, nhưng để đề phòng mình ngủ thiếp đi mất, nó báo sự việc cho Billy, Fidelio và Gabriel.
“May Phúc sẽ cho tụi mình biết nếu có chuyện gì xảy ra,” Billy thì thầm trước khi nhắm mắt lại.
Charlie không tin tưởng lắm vào May Phúc. Con chó này đã điếc ngay từ đầu rồi. Nhưng nếu đó là con chó canh tốt nhất mà chúng có thể có được, thì chúng đành phải tin vào nó thôi chứ biết sao.
Ông cậu Paton Yewbeam đang ăn bữa tối nguội ngắt của mình. Nến lập lòe trong từng góc nhà bếp, và có thêm bốn cây nữa ở trên bàn. Ông cậu Paton tự nhủ mình cần nhiều ánh sáng là để đọc chữ in nhỏ xíu trong một quyển sách hấp dẫn đặc biệt, nhưng thật ra, ông thắp thêm nến là để xua đuổi những ý nghĩ tăm tối cứ manh nha lần mò vào tâm trí ông. Liệu ông tưởng tượng chăng, hay đúng là có một số người thật sự lạ mặt đang bước đi trên đường Filbert? Có những người đàn ông và đàn bà cứ lén nhìn vô các cửa sổ, rờ tay lên những cánh cổng và lan can, nheo mắt nhìn số nhà và vội vàng ghi chép vào những quyển sổ nhỏ màu đen.
Gián điệp, Ông cậu Paton nghĩ. Bị gã bá tước mua chuộc. Lôi kéo, thôi miên, ép buộc hay bất kỳ thủ đoạn nào. Họ bị hắn khống chế.Tất cả chúng ta rồi sẽ ra sao đây?
Ông cậu Paton rùng mình và vội vàng đặt ly rượu vang trắng xuống. Ông lại rùng mình lần nữa và cắn một miếng bánh mì cá hồi lạnh tanh.
Ông định không trả lời tiếng gõ bất thình lình cộc cộc nơi cửa trước. Một tên trong bọn chúng, ông nghĩ. Hừ, chúng sẽ không bắt mình theo kiểu thế này đâu.
Nhưng tiếng gõ cứ tiếp tục, căn cứ theo nhịp gõ thì nó có vẻ dò hỏi hơn là điên cuồng. Ông cậu Paton lần chần đi vô hành thang.
“Ai đó?” Ông hỏi qua cửa.
“Dạ, thưa ông Yeabeam, làm ơn, xin vui lòng, tôi phải nói chuyện với ông.”
Nhận ra giọng nói đó, Ông cậu Paton mở cửa trước ra và cô Brown đúng là ngã nhào vào hành lang.
“Tôi phải nói chuyện với ông, nhất định phải nói,” cô Brown gấp gáp. “Tôi không biết dựa vào ai nữa. Tôi không biết phải làm gì bây giờ.”
“Làm ơn bình tĩnh lại đi, cô Brown,” Ông cậu Paton nhỏ nhẹ. “Cô dùng chút bánh mì hồi cá nhé?”
“Không, không, trừ khi, à... è, vâng, tôi quá đói. Chồng tôi không nói chuyện với tôi nữa rồi.”
“Lạy trời! Thất thố quá.” Ông cậu Paton lọ mọ đi vào nhà bếp thắp nến. “Xin thứ lỗi vì không có điện. Hẳn là cô đã nhận ra điểm yếu nho nhỏ của tôi.”
“Ồ, tôi không gọi đó là yếu điểm, thưa ôngYewbeam,” cô Brown ngồi vào chiếc ghế mà Ông cậu Paton kéo ra cho cô.
“Paton,” ông bảo. “Cô cứ gọi tôi là Paton.”
“Cảm ơn,” cô Brown có vẻ hốt hoảng. “Tôi là Trish.”
“Trish à. Tên đẹp quá.” Ông cậu rót cho cô Brown một ly rượu vang lớn. “Nào, có gì thế?”
“Vâng, à, tôi không biết Charlie có nói với ông chưa, tôi nghĩ là rồi, rằng tôi đang làm việc cho ngài Ezekiel Bloor. Cả hai chúng tôi, anh Brown và tôi.” Cô Brown dừng lại để thở. “Ngài ấy đề nghị chúng tôi rất nhiều tiền để tìm hiểu về những đứa trẻ ở Học viện Bloor.”
“Để do thám chúng chứ, phải không cô Brown?” Nghe có vẻ buộc tội trong giọng nói của Ông cậu Paton.
“Ờm...vâng!” Cô Brown thình lình bật khóc nức nở.
Ông cậu Paton đưa cho cô một chiếc khăn tay rồi đi tới bệ bếp, ông kẹp một miếng cà hồi hun khói vào giữa hai miếng bánh mì, cắt đôi, xếp lên một cái đĩa nhỏ và bưng ra bàn.
“Cảm...cảm ơn ông,” cô Brown thút thít, lau mũi bằng chiếc khăn bàn Ông cậu Paton đưa. “Đã quá đủ rồi.”
“Cứ nói đi,” Ông cậu Paton khích lệ.
“Gì cơ?” Cô Brown có vẻ bối rối. “À, thế này, tôi đã phát hiện ra điều bí mật của một trong những đứa trẻ, cụ thể là Olivia Vertigo, nhưng tôi không thể để mình... khai ra cô bé. Chồng tôi biết được tôi nắm được điều gì đó nhưng tôi từ chối không nói cho anh ấy biết. Bây giờ tôi không biết phải làm gì nữa.”
“Patricia!” (Ông cậu Paton không thích dùng tên tắt *).
Cô Brown ngước lên nhìn ông, sợ hãi. “Dạ?”
“Sao cô lại còn nghi ngờ gì nữa chứ?” Ông cậu Paton nghiêm giọng. “Cô tuyệt đối không được thở ra lời nào về điều cô khám phá được. Hãy suy nghĩ kỹ coi, sự phản bội của cô sẽ gây hại gì cho Benjamin. Charlie sẽ không bao giờ nói chuyện với nó nữa, không bao giờ đến nhà cô nữa, không bao giờ chăm sóc con chó nhà cô nữa. Trước nguy cơ ly dị, tôi tuyệt đối cấm cô nói gì cho chồng cô biết. Anh ta rõ ràng không như cô.”
“Tôi không nghĩ việc này sẽ dẫn đến ly dị,” cô Brown bẽn lẽn bảo. “Chỉ là chúng tôi cần tiền.Ông biết đấy, chúng tôi vừa mua một chiếc xe hơi mới, và tiền trang trải...”
“Nếu cô cần tiền thì có vô khối việc cho những thám tử giỏi giang như cô chú,” Ông cậu Paton nói. “Hàng loạt các vụ cướp giật đột ngột gia tăng trong thành phố kia kìa, đó là chưa kể đến những vụ hỏa hoạn đáng ngờ, những tai nạn ám muội và những vụ giết người chưa tìm ra manh mối. Hãy đi và bảo chồng cô rằng làm việc cho Học viện Bloor khiến cô phát bệnh, rằng cô hoàn toàn không biết gì cả, và rằng cô sẽ gục ngã mất nếu không được nghỉ ngơi.”
Cô Brown mỉm cười, “Vâng,” cô thở phào. “Tôi sẽ làm như thế. Cảm ơn ông, thưa ông Yewbeam. Ông khiến tôi dễ chịu hơn rồi.”
Về tới phòng mình rồi, Charlie đặt chồng sách lên cái bàn cạnh giường và lôi một bức tranh nhỏ từ dưới giường ra.
“Ta nghĩ con sẽ cần ánh sáng cho tử tế, Charlie,” Ông cậu Paton thập thò nơi cửa.
Trong ánh sáng nhập nhoạng từ ngọn nến, Charlie gần như không thấy bức tranh. “Con bật đèn bên giường thì có lẽ tốt hơn,” nó đồng ý.
“Vậy ta đi đây,” Ông cậu Paton bảo. “Nhưng mà Charlie, làm sao con trở lại được? Con có cần ta giúp gì không?”
Charlie lắc đầu. “Con sẽ mang nó đi cùng.” Nó hất đầu về phía con bướm trắng đậu trên giường. “Nó sẽ giúp con trở lại.Trước đây nó đã từng làm thế rồi, Ông cậu biết đấy.”
“Ra vậy. Hừm... chúc con may mắn,” Ông cậu Paton ngọ nguậy chân vẻ bất an rồi rút lui.
Charlie bật đèn lên và đóng cửa lại. Nó đặt bức tranh lên gối và lên giường ngồi cạnh. Trong cánh tay nó ôm mười quyển sách bọc da của ông Bartholomew.
Bức tranh nhỏ xíu này xưa đến hàng nhiều thế kỷ. Những đường nét mờ nhỏ xỉn, nứt nẻ, cùng niên đại của nó khoác thêm vẻ đe dọa cho một khung cảnh vốn đã hiểm ác. Hàng chú thích ghi “thầy pháp” ngoằn ngoèo màu đen ở cuối bức tranh. Và đứng đó, ông thầy pháp áo thụng đen trong căn buồng tựa xà lim của mình, với những hiệu ứng ma thuật rải khắp mặt bàn đằng sau lưng. Mái tóc đen và bộ râu quay nón đen của thầy pháp xen kẽ những sợi bạc và đôi mắt vàng sáng quắc. Đó là con mắt mà Charlie tập trung nhìn vào.
Trước đây Charlie đã thăm Skarpo vài lần rồi. Có dạo nó rất sợ lão già ấy, nhưng giờ thì không sợ nữa. Nó đã quen với cặp mắt hung dữ và giọng nói như tụng kinh trầm đặc của ông ta.
“Charlie Bone?”
Dẫu Charlie đã chủ ý đón chờ điều này, nhưng cái giọng đó vẫn khiến nó dựng tóc gáy và một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.Con bướm trắng đậu trên vai nó sẵn sàng cho cuộc hành trình phía trước.
Khi những đồ vật quen thuộc trong phòng cùa Charlie bắt đầu mờ đi, nó liền thấy một luồng sáng từ căn buồng ẩm thấp của ông thầy pháp, trộn lẫn với mùi hương thỏa mộc rang khét và sáp nến. Đầu nó bơi bơi và bàn chân nó bỗng nhẹ bẫng như không khí. Ôm thật chặt chồng sách, nó nhìn găm vào đôi mắt vàng rực cháy của Skarpo. Giờ thì nó có thể nghe thấy tiếng những lớp áo thụng của Skarpo kêu sột soạt, tiếng sắt va chạm và tiếng lửa lách tách. Charlie cảm giác mình ngã lộn tùng phèo qua nhiều thế kỷ, thân hình bị vùi dập như tờ giấy trước gió.
Khi bàn chân đã chạm xuống nền đá lạnh ngắt, nó mở bừng mắt ra. Ông thầy pháp đứng ngay trước mặt.
“Gì thế này? Ta thấy Charlie Bone trọn vẹn luôn,” Skarpo xoa xoa cái cằm râu rậm rạp. “Lúc trước thấy mỗi cái đầu mi thôi. Công lực của mi bây giờ mạnh lên rồi đấy.”
“Vậy ạ?” Charlie nhìn xuống cánh tay quặp chặt những quyển nhật ký của mình. “Ồ.”
“Mi mang quà cho ta hả?” Ông thầy pháp tia những quyển sách bọc da.
“Không hẳn vậy,” Charlie đáp. “Cháu đến để hỏi xin ngài một ân huệ.”
“À hả!” Ông thầy pháp xoa hai bàn tay xương xẩu lại với nhau. “Ta thích ân huệ lắm. Ý ta là ta có thể cũng xin mi một ân huệ.”
“Cháu nghĩ là được,” Charlie hồi hộp nói.
“Chúng ta hãy ngồi xuỗng đã.” Vén tấm vải đỏ treo phía trên bàn lên, Skarpo rút ra hai chiếc ghế đẩu thô thiển bằng gỗ. Một cái ông ta đẩy về phía Charlie, cái kia ông ta đẩy ra sau lưng mình, loay hoay tém mớ áo thụng nặng nề qua một bên và ngồi xuống. “Mi định nói với ta những quyển sách đó à?”
Charlie đặt mười quyển sách vào cánh tay duỗi ra của ông thầy pháp, “Chúng là những quyển sổ nhật ký, thưa ngài. Những quyển sổ nhật ký này rất đặc biệt. Chúng do một người bà con xa của cháu viết, tên là Bartholomew Bloor. Ông ấy đã đi khắp thế gian, và bất cứ nơi đâu nghe được chuyện về Vua Đỏ, ông ấy đều ghi lại. Những quyển nhật ký này vô cùng quý giá vì trong đó có rất nhiều bí mật – những điều về Vua Đỏ mà chúng ta chưa biết bao giờ.”
“Nếu chúng quý giá thì tại sao mi lại mang chúng đến cho ta?” Skarpo khẽ cười cái khục. “Mi có tin cậy ta không, Charlie Bone?”
“Cháu buộc phải tin,” Charlie đáp. “Có một người... một vật... mà người ta gọi là cái bóng. Hắn ở trong bức chân dung của Vua Đỏ và hắn...”
“Cái bóng?” Skarpo đứng phắt lên, đống áo thụng đen quất một làn gió băng giá qua đôi bàn chân mang dép lê của Charlie. “Khỏi nói thêm nữa. Ta biết cái bóng này. Giới thầy pháp cố tránh nói về hắn, bởi vì hắn làm ô danh giới pháp thuật bọn ta, mang tiếng lắm. Chỉ thì thầm lướt qua tên hắn thôi là anh em thầy pháp bọn ta đã xua tay phản đối rồi.”
“Ừm, cháu sẽ phải nói thêm chút xíu về hắn,” Charlie nói. “bởi vì hắn là lý do khiến cháu mang những quyển sổ nhật ký này đến cho ngài.”
“Ờ, thì vậy.” Skarpo quay lại và đặt những quyển sổ nhật ký thành hai chồng ngay ngắn lên bàn. “Nói coi.” Với tiếng áo thụng kêu phụt một cái, ông ta ngồi xuống.
Căn phòng gống như cái hang của ông thầy pháp là một nơi thích hợp vô cùng cho câu chuyện của Charlie. Nó kể cho Skarpo nghe những gì đã xảy ra kể từ đêm mưa tuyết, khi chim thú rời khỏi thành phố. Nó kể về ngoại Maisie bị đông cứng và chiếc nhẫn của mẹ nó, về cô Chrystal và Gương Thần của Amoret. Và, trong khi nó kể, năm ngọn nến trong những giá cắm nến cao bằng sắt thấp dần thấp dần, và chẳng bao lâu sau, ánh sáng duy nhất trong phòng dường như chỉ còn toả ra từ cặp mắt vàng của ông thầy pháp.
Khi Charlie đã nói xong tất cả những điều cần phải nói, Skarpo lại đứng lên và đi tới bên bàn. Ông ta thắp một cây nến to ở giữa bàn lên, và trong ánh sáng nhảy nhót của ngọn nến, ông ta bắt đầu lật lật từng quyển sách. Charlie nhìn Skarpo, trông chờ một lời nhận xét hay một lời khuyên gì đó, nhưng ông thầy pháp chẳng nói chẳng rằng, mãi cho đến khi mắt ông đã quét hết mọi trang sách. Khi đặt quyển sách cuối cùng lại chỗ cũ xong, Skarpo quay lại Charlie và nói, “Toàn chuyện hay đấy, cậu bé của ta. Những tiết lộ chấn động! Ta sẽ giữ chúng an toàn, nhưng câu thần chú, câu thần chú bằng tiếng xứ Gan ấy, mi phải mang nó trở về với mi. Để ta dịch ra cái đã, bởi vì ta biết tiếng xứ Gan, mi biết đấy, rồi mi sẽ cần tới nó.”
Charlie chờ, tự hỏi liệu đó có phải là câu thần chú mà ông Bartholomew đã nhắc tới không. Ông thầy pháp xé một mảnh giấy da dê từ một quyển sổ bằng da, và nhúng cây viết lông trông lạ mắt vào lọ mực, ông ta bắt đầu viết rột rột lên bề mặt tờ giấy da dê. Thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn vào một trong những quyển sổ nhật để mở trên bàn, gãi đầu, nhìn xa xăm, mỉm cười và rồi lại viết tiếp.
Khi hàng chữ cuối cùng đã viết xong, Skapo đặt cây viết lông xuống và nhìn Charlie với một nụ cười đắc thắng. “Một câu thần chú tuyệt vời,” ông ta tuyên bố.”Không phải của ta. Ồ không. Người bà con của ngươi chắc hẳn đã sưu tầm nó từ một trong những hậu duệ của Mathonwy, bạn ông Vua Đỏ của mi, dĩ nhiên rồi.” Ông ta lại vọt ra một tiếng cười kinh khùng khục đặc trưng. “Chính từ lão ta mà ta đánh cắp cây gậy phép của ngươi đấy, Charlie Bone. À, không phải đánh cắp, không... mà là lúc đó lão đã già khú khụ rồi, và chắc hẳn cũng không có ý để lại nó cho ta trước khi chết. Làm sao mà họ thích truyền tên tuổi của mình cho con cháu thế không biết, cái đám dân xứ Gan ấy.” Ông ta ngừng nói và nghiêng đầu. “Nhân nói đến cây gậy phép, thế nó đâu rồi?”
“Thật tình thì bây giờ nó là con bướm trắng,” Charlie nói.
“À, con bướm trắng kia.Ta thấy rồi.” Skarpo thò tay ra bắt con bướm trắng đang bay chập chờn giữa hai người.
“ĐỪNG!” Charlie hét lên thất thanh. “Nó là của cháu!”
“Đùa thôi, Charlie Bone!Ta sẽ không làm đau con bướm xíu xiu của ngươi đâu.” Ông thầy pháp thổi tấm da dê cho khô rồi chìa ra, “Cầm lấy câu thần chú của ngươi rồi rời khỏi nơi đây. Nấn ná trong những thế giới xa xôi chẳng hay ho đâu.”
“Vâng, cháu đi đây.” Charlie hấp tấp, cầm lấy câu thần chú, “và xin cảm ơn ngài. Ngài sẽ giữ những quyển sổ nhật kí an toàn chứ ạ?”
“Ngươi nghi ngờ sao?” Ông thầy pháp gặc đầu qua bên và nở nụ cười vặn vẹo.
“Không. Không, dĩ nhiên là không ạ.” Charlie giơ bàn tay rảnh rỗi của nó và con bướm trắng đậu vào ngón tay nó. “Nó giúp cháu chu du,” Charlie giải thích.
Ông thầy pháp gật đầu, “Ờ.”
Trước khi Charlie rời đi, nó liếc qua ô cửa sổ nhỏ ở cuối căn buồng tối. Có thể thấy một khu rừng đen ngòm, viền quanh là một biển nước gờn gợn ánh trăng. Có lần, Charlie đã tình cờ viếng thăm khu rừng đó, và việc đó mãi in sâu trong tâm trí Charlie, một kí ức vừa làm nó hoang mang vừa vỗ về, an ủi nó. “Thưa ngài, Vua Đỏ đã từng sống ở gần đây phải không ạ?” Nó hỏi.
“Ậy, đúng thế,” Skapo trả lời, quay về phía cửa sổ. “Và khi nhà vua ra đi, Mathonwy thầy pháp đã đến sống ở đây. Ông thu nạp ta làm đệ tử khi ta còn rất nhỏ; một đứa trẻ mồ côi không nhà, dân tộc ta bị quân lính của nhà vua Anh tàn sát. Mathonwy là một thầy pháp vĩ đại và ông ấy đã dạy ta rất nhiều, nhưng ta không bao giờ giỏi được bằng ông ấy, ở bất cứ khía cạnh nào của cái từ ‘giỏi’ này.” Một bóng đen thoáng qua nét mặt của lão thầy pháp, một tí dấu hiệu hối hận vụt qua, nhưng rồi nụ cười ác độc lại quay về, và ông ta phẩy bàn tay xua Charlie, “Đi, đi đi nhóc. May mắn sẽ đi cùng với mi.”
“Tạm biệt ngài, và cảm ơn.” Charlie nhìn con bướm trắng và dịu dàng hỏi, “Chúng ta đi bây giờ chứ, Clearwen?”
Gương mặt của lão thầy pháp là cảnh cuối cùng Charlie thấy trước khi đám sương mù thời gian trôi đến giữa hai người và Charlie bắt đầu chu du trở về nhà. Đôi mắt vàng chóe của Skarpo trợn lớn kinh ngạc, bởi vì Charlie đã vừa nói tiếng xứ Gan. Những từ ngữ lạ hoắc đã tự nhiên mà đến với nó, tuy nhiên, nó biết rằng điều đó là do con bướm trắng. Claerwen – Tuyết Trắng.
Một lúc sau, Charlie đã ngồi trên giường, với con bướm trắng đậu trên tay. Charlie ngáp dài và hất văng đôi dép lê ra. Chưa bao giờ nó buồn ngủ đến thế. Vài tiếng nữa nó sẽ phải thức dậy và sắp xếp giỏ sách để chuẩn bị đến trường. Nhưng bây giờ thì chưa. Nó cất bức tranh xuống dưới giường, nằm ngửa ra gối và ngủ lịm đi.
Nó tỉnh dậy thì thấy Ông cậu đang lo âu nhìn nó từ khung cửa ra vào.
“Không đời nào ta lại gọi con dậy đi học,” Ông cậu Paton nói, “nhưng ta nghĩ ít nhất cũng nên nhắc chừng con về thời gian. Xem ra chưa có ai thức giấc cả.”
Khi Charlie lăn khổi giường, một mảnh giấy cứng quèo, vàng vàng bay xuống đất. Nhăn mày, Ông cậu Paton bước vào phòng và nhặt nó lên. “Cái này là cái gì?”
“Con không biết,” Charlie nói, dụi mắt.
“Một bài thơ? Ồ không, còn hơn thế nữa, một... một loại như bùa chú.” Ông cậu Paton lật tờ giấy lại và nghiên cứu nét chữ xiên xiên to tướng. “Ối chu cha, ở đâu con có cái này đây, Charlie?”
“Ô, con quên mất. Skapo đưa con đấy ạ,” Charlie nói khi băng qua Ông cậu trên đường ra nhà tắm.
“Skarpo đưa à?” Ông cậu gọi với theo kinh ngạc. “Charlie, ta sẽ cất nó trong phòng ta. Đáng chú ý đấy. Nó có thể thay đổi mọi thứ.”
Charlie không để ý Ông cậu nói gì. Một lần nữa nó lại phải đánh răng trong khi Maisie nằm đông cứng trong bồn tắm bên cạnh. Hừm, bà ngoại, người duy nhất trong cả nhà có khả năng giữ mẹ nó an toàn khỏi bá tước Harken thì lại nằm đấy.
Đến lúc Charlie rửa mặt xong thì Ông cậu Paton đã biến về phòng ông, và tất cả những gì Charlie có thể nghe được là tiếng lẩm bẩm trầm đục tựa như tiếng nước ngoài.
Charlie mặc đồ chỉnh tề, sắp giỏ sách xong rồi xuống nhà bếp. Lò lạnh tanh và cái bàn trống trụi. Không một dấu tích nào chứng tỏ có ai đã ăn sáng ở đó. Mẹ đâu rồi? Đi ra ngoài hay đang ngủ? Charlie sợ tìm ra câu trả lời. Ngôi nhà phả ra mùi trống vắng lạnh lẽo, chìm trong giấc ngủ. Nó vội vã tự nướng cho mình một lát bánh mì rồi ra khỏi nhà.
Học viện Bloor vẫn chưa hồi phục sau kỳ cuối tuần hội họp đình đám. Có chăng là toàn thể ban thậm chí còn bẳn tính, hay cáu gắt hơn cả lúc trước khi một trăm vị hiệu trưởng đến chơi. Những nhánh lá thông, dây kim tuyến, dĩa nhựa rách và thức ăn thừa tràn ngập dưới tiền sảnh. Nhiều quần áo, mũ nón biến mất khỏi các phòng áo khoác và có phàn nàn ca cẩm thì cũng chỉ tổ vô ích.
“Lẽ ra trò không nên để nó ở đó,” Manfred Bloor chắc chắn sẽ đáp như thế trước lời rụt rè nghi ngờ một vị hiệu trưởng ghé thăm có thể đã chôm một cái khăn quàng, một chiếc giày, hay một chiếc găng tay viền lông thú.
Trông Manfred mới gớm ghiếc thật sự – mặt lỗ rỗ những vết thương li ti chắc chắn chỉ có vô số vụn thủy tinh mới gây ra được. Emma Tolly không chút nghi ngờ gì rằng Manfred đã đi cùng với cái bóng tới đập rầm rầm cửa tiệm sách nhà nó đêm hôm trước.
Fidelio có tiết học violin sau buổi Tập hợp, nhưng nó không có ý muốn gặp cô Chrystal. “Anh không biết làm sao mà mình có thể giả bộ không biết cô ta là ai,” nó thì thầm với Charlie khi chúng rời phòng tập hợp. “Ý anh là, anh không phải là diễn viên như Liv.”
“Anh buộc phải vậy thôi,” Charlie nói. “Chỉ cần cô ta đoán ra tụi mình biết chuyện thôi là cô ta sẽ giương móng vuốt ra liền.”
“Anh có cảm tưởng như...”
“Fidelio Gunn,” tiến sĩ Saltweather nói, ông hiện ra từ phòng tập hợp, “hãy nhớ luật.”
“Vâng, thưa thầy,” Fidelio nói, mừng quá xá vì không phải Manfred đã bắt qủa tang mình.
Charlie vọt lẹ tới lớp học toán, để mặc Fidelio tự bình tâm tĩnh trí cho cuộc chạm trán kinh khủng với cô Chrystal.
Giờ nghỉ giải lao đầu tiên không thấy tăm hơi Fidelio đâu. Charlie phập phồng không biết có chuyện gì xảy ra với anh ấy. Sân trường lạnh buốt và sương giá. Bọn trẻ con túm tụm lại thành từng nhóm nhỏ, dậm dậm chân và lầm bầm một cách bất bình. Charlie phải dòm hẳn vào từng đám để tìm cái đầu tóc quăn quen thuộc của Fidelio. Nhưng hình như không đứa bạn nào của nó ở ngoài trời cả.
Khi đi lơ thơ vào lâu đài, Charlie linh cảm có một đoàn học trò theo mình theo mình. Không muốn bị mắc kẹt trong khu đổ nát, nó bèn quẹo vào rừng. Đám đông tiến gần nó hơn. Charlie co giò chạy. Và rồi thì, đột nhiên, nó bị bao vây. Mọi cây cối đều bị bao phủ trong màn sương mù, và nó không còn phân biệt nổi trong những hình thù trôi trôi ấy đâu là những thân cây ốm và đâu là lũ truy sát nó.
“Tụi bay muốn gì?” Charlie hét to. “Tại sao tụi bay đi theo tao?”
Một đứa trong bọn ló lên trước. Charlie có thể đoán dấy là Joshua Tilpin.
“Bạn bè mày vô dụng rồi, Charlie Bone,” Joshua cười khẩy. “Mày phải bỏ chúng nó thôi.”
“Mày nói gì? Vì sao tao phải bỏ bạn?” Charlie căm phẫn quặc lại.
Joshua thảy cho nó một nụ cười thõng thượt, lạnh toát. “Tụi tao đến để dạy cho mày một bài học, Charlie. Tụi tao sẽ dạy đi dạy lại cho mày nhớ, phải không các chiến hữu?”
“PHẢAII!” Đám đông rống vang.
Và bây giờ đến lượt Dorcas Loom lẻn ra từ sau một thân cây và chế nhạo Charlie. “Mày là đồ thảm bại, Bone. Mày đừng hòng thoát. Mày đã mất cha rồi, và giờ mày sẽ mất nốt mẹ. Mày không thể giữ được cái gì thì phải? Nếu mày gia nhập tụi tao thì tụi tao sẽ giúp mày, Tụi tao mạnh hơn nhiều lũ bạn khốn khổ của mày.”
Charlie vẫn từ từ lùi xa khỏi đám đông, và giờ, lưng nó đã tựa vào bức tường cổ xưa. Không suy nghĩ, nó quay đầu và tìm được một chỗ bấu chân. Nó liền leo lên, cao nữa cao nữa, hướng tới mấy lỗ hổng trên bức tường đá, trong khi bàn chân nó cuống quít tìm chỗ mấu bám. Cuối cùng nó đứng ở trên tường, cao hơn đám đông cả hơn ba mét rưỡi.
Bọn chúng nhất loạt cười cợt nó.
Thể rồi chị em sinh đôi nhà Branko xuất hiện. Đứng sát vai nhau, chúng trừng mắt nhìn những phiến đá trên bức tường, cứ thế trừng mắt, trừng mắt... Một viên đá to bung ra và toàn bộ mảng tường sụp lở.
Chúng có thể làm điều đó sao? Charlie nghĩ. Chúng có thể làm sụp một bức tường đã chín trăm tuổi sao?
Chúng làm được chứ. Hai hòn đá khổng lồ trên đỉnh bức tường xục xịch. Rồi một trong hai đứa sinh đôi nói. Chúng hiếm khi nói, đến mức việc chúng nói đã gây sốc.
“Một tai nạn mới thương tâm làm sao!” Đứa con gái mặt trơ như búp bê, tóc đen mắp máy. “Charlie Bone leo lên bức tường cổ và thế là, chòng chành, rùng rùng, nó rớt ập xuống, với Charlie ở trên cùng...”
“Sau đó ở dưới cùng,” đứa sinh đôi khi tiếp lời bằng giọng độc địa, thâm hiểm hơn.
Rồi một tiếng ịch rung chuyển khi một viên đá khổng lồ khác đáp xuống mặt đất cứng, và lần này bức tường rung lắc dữ dội, Charlie ngã bập đầu gối. Ráng bấu chắc vào bề mặt rêu mốc trong khi bức tường rung và lắc, nó cố tưởng tượng ra việc bị chôn sống sẽ như thế nào.
Chợt có tiếng gì đó vang lên, thoạt tiên Charlie nghĩ âm thanh đó là từ một mảng tường lở khác. Nhưng rồi cái tiếng đó càng lúc càng lớn – rù rù giận dữ, căng lên...
Bọn con nít dưới đất ngỏng cổ ngó lên, liền cuống quíu quay lưng ù té chạy.Vài đứa trong bọn thì bạt vía. Ngó theo ánh mắt của chúng, Charlie thấy một đám mây đen đang đổ sập xuống qua những ngọn cây. Tiếng rù rì dần trở thành tiếng gầm rú và nguyên cả đám ăn hiếp Charlie chạy toán loạn, tru tréo và kêu la rầm trời. Joshua Tilpin là đứa cuối cùng chạy đi. “Cho mày bị đốt chết tươi luôn, Charlie Bone,” nó vừa chạy vừa gào.
Ong? Bay vào mùa đông? Ai đã xua chúng đến đây? Cái bóng chăng? Charlie nhắm mắt lại. Cái gì tệ hơn nhỉ, nó tự hỏi, bị chôn sống dưới một bức tường hay là bị ong đốt tới chết?
Tiếng rù rù ngưng bặt. Charlie vẫn nhắm tịt mắt, chờ những cặp chân ngứa ngáy của bầy ong châm vào mặt và tay chân mình. Chờ đợi cú đốt đau đớn đầu tiên. Không có gì xảy ra, Charlie mở một mắt. Không có gì trên bức tường. Trong không khí cũng chẳng có gì.
“Charlie!”
Charlie mở nốt mắt kia ra. Nó trông thấy Emma và Olivia đang ngước lên nhìn nó từ dưới chân tường. Cả hai đứa đều cười toe toét.
“Cái khỉ gì...?” Charlie hỏi.
“Một ảo ảnh!” Olivia la váng trời, nhảy cỡn lên không. “Một ảo ảnh tuyệt đấy chứ nhỉ?”
“Còn phải nói,” Charlie chù chừ leo xuống khỏi bức tường.
Không ai trong số chúng nhận thấy một phụ nữ tiến tới qua màn sương. Cô dừng lại cách chúng vài mét và núp sau một thân cây.
“Tụi này thấy chúng đi theo bồ,” Emma líu lo. “Vì vậy tụi này đi theo chúng, nhưng tụi này không biết phải làm gì bây giờ. Chúng nó đông quá. Lực hút của Joshua rõ ràng là có tác dụng.”
“Và rồi tớ nghĩ ra bầy ong,” Olivia khoái chí nhảy lên cái nữa. “Tớ tự hào về mình quá đi mất.”
“Bồ đã cứu mình!” Charlie ôm chầm lấy con nhỏ. “Phùù! Mình rất vui...”
Bất chợt có tiếng loạt soạt trong hàng cây đằng sau chúng, và cả bọn quay lại thấy một bóng người lủi đi, khá nhanh, vào làn sương mù. Không nghi ngờ gì về bộ com-lê xám chỉnh chu và mái tóc cắt ngắn cụt ngủn đó.
“Cô Brown,” Charlie thì thầm. “Chắc hẳn cô ấy đã nghe thấy bồ nói rồi, Liv.”
“Và bây giờ cô ấy đã biết tài phép của bồ. Ôi không!” Emma vặn vẹo hai bàn tay vào nhau. “Tụi mình phải làm gì bây giờ?”
“Không thể làm gì cả,” Charlie nói. “Tụi mình chỉ còn nước đợi xem chuyện gì xảy ra thôi.”
Rõ ràng, cô Brown đang suy tính thời cơ. Olivia không bị triệu hồi lên thư phòng của ông hiệu trưởng và không ai lôi con nhỏ đi để tra hỏi hay nhốt nó vào phòng học. Việc thắc mắc khi nào gia đình Bloor sẽ ra tay chống lại Olivia gần như còn tệ hơn là biết họ sẽ làm gì con nhỏ. Vào giờ đi ngủ, Charlie lén mò lên phòng ngủ chung của nữ xem sao, thấy Olivia vẫn đi nghênh ngang trong bộ đồ ngủ vàng chóe tô đen, vẫn lách chách như thế.
“Tớ ỔN mà,” nó nói, xua Charlie đi. “Đừng để bị cấm túc vì tớ đấy.”
“Thế thì chúc may mắn, Liv.” Charlie trở xuống lầu. Nó định bụng sẽ dỏng tai nghe ngóng bất kỳ tiếng động lạ nào nào trong đêm, nhưng để đề phòng mình ngủ thiếp đi mất, nó báo sự việc cho Billy, Fidelio và Gabriel.
“May Phúc sẽ cho tụi mình biết nếu có chuyện gì xảy ra,” Billy thì thầm trước khi nhắm mắt lại.
Charlie không tin tưởng lắm vào May Phúc. Con chó này đã điếc ngay từ đầu rồi. Nhưng nếu đó là con chó canh tốt nhất mà chúng có thể có được, thì chúng đành phải tin vào nó thôi chứ biết sao.
Ông cậu Paton Yewbeam đang ăn bữa tối nguội ngắt của mình. Nến lập lòe trong từng góc nhà bếp, và có thêm bốn cây nữa ở trên bàn. Ông cậu Paton tự nhủ mình cần nhiều ánh sáng là để đọc chữ in nhỏ xíu trong một quyển sách hấp dẫn đặc biệt, nhưng thật ra, ông thắp thêm nến là để xua đuổi những ý nghĩ tăm tối cứ manh nha lần mò vào tâm trí ông. Liệu ông tưởng tượng chăng, hay đúng là có một số người thật sự lạ mặt đang bước đi trên đường Filbert? Có những người đàn ông và đàn bà cứ lén nhìn vô các cửa sổ, rờ tay lên những cánh cổng và lan can, nheo mắt nhìn số nhà và vội vàng ghi chép vào những quyển sổ nhỏ màu đen.
Gián điệp, Ông cậu Paton nghĩ. Bị gã bá tước mua chuộc. Lôi kéo, thôi miên, ép buộc hay bất kỳ thủ đoạn nào. Họ bị hắn khống chế.Tất cả chúng ta rồi sẽ ra sao đây?
Ông cậu Paton rùng mình và vội vàng đặt ly rượu vang trắng xuống. Ông lại rùng mình lần nữa và cắn một miếng bánh mì cá hồi lạnh tanh.
Ông định không trả lời tiếng gõ bất thình lình cộc cộc nơi cửa trước. Một tên trong bọn chúng, ông nghĩ. Hừ, chúng sẽ không bắt mình theo kiểu thế này đâu.
Nhưng tiếng gõ cứ tiếp tục, căn cứ theo nhịp gõ thì nó có vẻ dò hỏi hơn là điên cuồng. Ông cậu Paton lần chần đi vô hành thang.
“Ai đó?” Ông hỏi qua cửa.
“Dạ, thưa ông Yeabeam, làm ơn, xin vui lòng, tôi phải nói chuyện với ông.”
Nhận ra giọng nói đó, Ông cậu Paton mở cửa trước ra và cô Brown đúng là ngã nhào vào hành lang.
“Tôi phải nói chuyện với ông, nhất định phải nói,” cô Brown gấp gáp. “Tôi không biết dựa vào ai nữa. Tôi không biết phải làm gì bây giờ.”
“Làm ơn bình tĩnh lại đi, cô Brown,” Ông cậu Paton nhỏ nhẹ. “Cô dùng chút bánh mì hồi cá nhé?”
“Không, không, trừ khi, à... è, vâng, tôi quá đói. Chồng tôi không nói chuyện với tôi nữa rồi.”
“Lạy trời! Thất thố quá.” Ông cậu Paton lọ mọ đi vào nhà bếp thắp nến. “Xin thứ lỗi vì không có điện. Hẳn là cô đã nhận ra điểm yếu nho nhỏ của tôi.”
“Ồ, tôi không gọi đó là yếu điểm, thưa ôngYewbeam,” cô Brown ngồi vào chiếc ghế mà Ông cậu Paton kéo ra cho cô.
“Paton,” ông bảo. “Cô cứ gọi tôi là Paton.”
“Cảm ơn,” cô Brown có vẻ hốt hoảng. “Tôi là Trish.”
“Trish à. Tên đẹp quá.” Ông cậu rót cho cô Brown một ly rượu vang lớn. “Nào, có gì thế?”
“Vâng, à, tôi không biết Charlie có nói với ông chưa, tôi nghĩ là rồi, rằng tôi đang làm việc cho ngài Ezekiel Bloor. Cả hai chúng tôi, anh Brown và tôi.” Cô Brown dừng lại để thở. “Ngài ấy đề nghị chúng tôi rất nhiều tiền để tìm hiểu về những đứa trẻ ở Học viện Bloor.”
“Để do thám chúng chứ, phải không cô Brown?” Nghe có vẻ buộc tội trong giọng nói của Ông cậu Paton.
“Ờm...vâng!” Cô Brown thình lình bật khóc nức nở.
Ông cậu Paton đưa cho cô một chiếc khăn tay rồi đi tới bệ bếp, ông kẹp một miếng cà hồi hun khói vào giữa hai miếng bánh mì, cắt đôi, xếp lên một cái đĩa nhỏ và bưng ra bàn.
“Cảm...cảm ơn ông,” cô Brown thút thít, lau mũi bằng chiếc khăn bàn Ông cậu Paton đưa. “Đã quá đủ rồi.”
“Cứ nói đi,” Ông cậu Paton khích lệ.
“Gì cơ?” Cô Brown có vẻ bối rối. “À, thế này, tôi đã phát hiện ra điều bí mật của một trong những đứa trẻ, cụ thể là Olivia Vertigo, nhưng tôi không thể để mình... khai ra cô bé. Chồng tôi biết được tôi nắm được điều gì đó nhưng tôi từ chối không nói cho anh ấy biết. Bây giờ tôi không biết phải làm gì nữa.”
“Patricia!” (Ông cậu Paton không thích dùng tên tắt *).
Cô Brown ngước lên nhìn ông, sợ hãi. “Dạ?”
“Sao cô lại còn nghi ngờ gì nữa chứ?” Ông cậu Paton nghiêm giọng. “Cô tuyệt đối không được thở ra lời nào về điều cô khám phá được. Hãy suy nghĩ kỹ coi, sự phản bội của cô sẽ gây hại gì cho Benjamin. Charlie sẽ không bao giờ nói chuyện với nó nữa, không bao giờ đến nhà cô nữa, không bao giờ chăm sóc con chó nhà cô nữa. Trước nguy cơ ly dị, tôi tuyệt đối cấm cô nói gì cho chồng cô biết. Anh ta rõ ràng không như cô.”
“Tôi không nghĩ việc này sẽ dẫn đến ly dị,” cô Brown bẽn lẽn bảo. “Chỉ là chúng tôi cần tiền.Ông biết đấy, chúng tôi vừa mua một chiếc xe hơi mới, và tiền trang trải...”
“Nếu cô cần tiền thì có vô khối việc cho những thám tử giỏi giang như cô chú,” Ông cậu Paton nói. “Hàng loạt các vụ cướp giật đột ngột gia tăng trong thành phố kia kìa, đó là chưa kể đến những vụ hỏa hoạn đáng ngờ, những tai nạn ám muội và những vụ giết người chưa tìm ra manh mối. Hãy đi và bảo chồng cô rằng làm việc cho Học viện Bloor khiến cô phát bệnh, rằng cô hoàn toàn không biết gì cả, và rằng cô sẽ gục ngã mất nếu không được nghỉ ngơi.”
Cô Brown mỉm cười, “Vâng,” cô thở phào. “Tôi sẽ làm như thế. Cảm ơn ông, thưa ông Yewbeam. Ông khiến tôi dễ chịu hơn rồi.”
Bình luận facebook