Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 8
Đêm ấy, khi xe về đến West Egg, tôi đã tưởng nhà tôi bị cháy. Hai giờ đêm mà cả một vùng bán đảo rực sáng, ánh sáng hư ảo chan hoà các lùm cây và kéo thành những sợi lấp lánh dài trên các đường dây điện. Sau một khúc ngoặt, tôi nhận ra đó là toà biệt thự của Gatsby, đèn bật sáng trưng từ tầng thượng đến tầng hầm.
Thoạt tiên tôi tưởng lại có một cuộc vui mới, một buổi dạ hội điên loạn đã biến thành một trò “đi trốn đi tìm” lấy cả toà nhà làm chỗ chơi. Nhưng không có một tiếng động nào. Chỉ có gió thổi xào xạc trên ngọn cây đu đưa các sợi dây điện làm cho ánh đèn lấp loé như thể toàn nhà nhấp nháy mắt với bóng đêm. Trong khi chiếc tắc xi chở tôi rồ máy rời đi, tôi thấy Gatsby đi tạt ngang qua vườn nhà anh về phía tôi.
Tôi nói:
- Nhà anh cứ như Hội chợ thế giới ấy.
- Thế ư? – Gatsby ngoảnh lại nhìn toà nhà với con mắt lơ đãng. – Tôi đi xem qua các gian phòng mà. Này, người anh em, ta đi Coney Island đi. Bằng xe tôi.
- Quá muộn rồi.
- Hay ta ra tắm một lát ở bể bơi. Cả mùa hè năm nay tôi chưa dùng đến nó.
- Tôi phải đi ngủ, anh ạ.
- Thôi vậy.
Gatsby nhìn tôi chờ đợi, nén lại vẻ nôn nóng. Sau một lúc, tôi lên tiếng:
- Cô Baker đã nói chuyện với tôi rồi. Ngày mai, tôi sẽ gọi dây nói cho Daisy, mời cô ấy đến dự bữa trà tại nhà tôi.
- Ồ, tốt lắm, – Gatsby nói với giọng hờ hững, – Tôi quả không muốn làm phiền anh một chút nào.
- Hôm nào tiện cho anh?
- Hôm nào tiện cho anh? – Gatsby nhanh nhảu sửa lại lời tôi. – Quả tôi không muốn làm phiền anh một chút nào.
- Ngày kia có được không?
Gatsby cân nhắc một lúc, rồi giọng ngại ngần:
- Tôi muốn cho xén cỏ.
Hai chúng tôi cùng nhìn xuống bãi cỏ: bãi cỏ lởm chởm nhà tôi phân biệt hẳn bằng một đường rất rõ nét với thảm cỏ sẫm bằng phẳng được chăm sóc cẩn thận, trải dài bên phía nhà Gatsby. Hẳn Gatsby muốn nói về bãi cỏ nhà tôi.
- Còn một chuyện nhỏ nữa, – Gatsby lại ấp úng, ngập ngừng.
- Hay anh định lui lại một vài ngày nữa? – Tôi hỏi.
- À, không phải về chuyện ấy. Ít ra… – Gatsby lúng túng không biết mở đầu như thế nào. – Thế này, tôi nghĩ… À này, người anh em, chắc anh kiếm không được nhiều tiền cho lắm phải không?
- Không nhiều lắm.
Câu trả lời ấy làm Gatsby có vẻ vững dạ. Anh nói tiếp, giọng vững vàng hơn.
- Tôi cũng nghĩ là không nhiều lắm. Tôi xin lỗi nếu tôi… Anh biết đấy, tôi có một công việc kinh doanh phụ nho nhỏ, một thứ làm phụ thôi, anh hiểu chứ. Và tôi nghĩ nếu anh không kiếm được nhiều lắm… Anh làm nghề chào bán chứng khoán, phải không, người anh em?
- Mới tập tành thôi.
- Thế thì có việc này khá hay đối với anh. Nó không chiếm mất nhiều thời gian của anh mà lại có thể giúp anh thu về khá nhiều tiền. Đây là một việc làm ăn tương đối kín đáo.
Đến bây giờ tôi nhận ra rằng nếu như ở vào tình huống khác thì câu chuyện này có thể đã là một trong những bước ngoặt đối với cuộc đời tôi. Nhưng vì đề nghị ấy được đưa ra không khéo léo và rõ ràng là để trả ơn cho một công việc mà tôi sẽ giúp Gatsby nên tôi không có cách nào khác là phải cắt ngang ngay ở đây.
- Tôi kín hết thời gian rồi. Tôi rất cảm ơn nhưng không thể nhận thêm việc nào nữa.
- Không phải là làm việc với Wolfshiem đâu. – Rõ ràng Gatsby tưởng rằng tôi muốn thoái thác cái “đầu mối” được nêu lên hồi trưa, nhưng tôi bảo ngay là không phải. Gatsby chờ đợi một lúc nữa, mong tôi sẽ nói sang một chuyện khác nhưng tâm trí tôi đang quá bận không muốn chuyện trò gì nên anh đành phải về.
Buổi tối vừa trôi qua làm tôi cảm thấy đầu óc lâng lâng vui sướng. Hình như tôi đã chìm ngay vào một giấc ngủ say khi bước qua cổng chính nhà tôi. Vì vậy tôi không biết Gatsy có đi Coney Island không, hoặc anh “đi xem các gian phòng” mất bao nhiêu tiếng đồng hồ trong khi toà biệt thự của anh vẫn tràn trề ánh sáng. Sáng hôm sau từ nơi làm việc, tôi gọi điện thoại cho Daisy, mời nàng đến dùng trà.
- Đừng rủ Tom, – tôi nhắc.
- Gì cơ?
- Đừng rủ Tom.
- Tom là ai nhỉ? – Daisy vặn lại với giọng ngây thơ.
Đúng hôm hẹn, trời mưa to. Khoảng mười một giờ sáng, một người thợ mặc áo mưa kéo một cái máy xén cỏ đến gõ cửa nhà tôi thưa rằng ông Gatsby sai anh ta đến xén cỏ nhà tôi. Thấy vậy tôi mới sực nhớ là đã quên dặn chị giúp việc người Phần Lan đến làm việc hôm nay. Tôi đành phải lái xe sang làng West Egg tìm chị ta qua những ngõ ngách lầy lội quét vôi trắng, đồng thời mua vài cái tách, một ít chanh và hoa.
Hoa là thừa, vì đến hai giờ chiều, cả vườn ươm bên nhà Gatsby được chuyển sang nhà tôi với không biết bao nhiêu là chậu và bình để cắm hoa. Một giờ sau, có ai hấp tấp đẩy cánh cổng nhà tôi, rồi Gatsby trong bộ com-lê bằng nỉ trắng, sơ mi màu trắng bạc và ca-vát vàng, vội vã bước vào. Mặt anh tái mét và có những quầng sẫm dưới đôi mắt mất ngủ. Gatsby hỏi ngay:
- Tốt đẹp cả chứ?
- Cỏ xén đẹp lắm, nếu đó là điều anh muốn hỏi.
- Cỏ nào nhỉ? – Gatsby ngơ ngác. – À, cỏ ngoài vườn!
Gatsby nhìn qua cửa sổ ra mảnh vườn, nhưng xét theo nét mặt anh, tôi cho rằng anh chẳng nhìn thấy gì cả. Gatsby nói chung chung:
- Trông rất đẹp. Có tờ báo nói chắc rằng đến bốn giờ thì trời tạnh. Hình như tờ “Nhật báo” thì phải. Anh đã có đủ mọi thứ cần thiết cho bữa trà chưa?
Tôi dẫn Gatsby vào gian bếp. Anh nhìn chị giúp việc của tôi với vẻ trách móc. Hai chúng tôi cùng xem xét tá bánh ngọt mua ở hiệu bánh về.
- Có được không?
- Được lắm, được lắm. Rất tốt, – rồi giọng thảng thốt của Gatsby nói thêm – … người anh em ạ.
Đến khoảng ba giờ thì trời ngớt mưa và chuyển thành một làn sương bụi ẩm ướt, đây đó lơ lửng một vài giọt nước như hạt sương to. Gatsby giở xem một cuốn “Kinh tế học” của Clay với con mắt không thần sắc. Anh giật mình khi nghe thấy tiếng chân chị giúp việc làm rung sàn bếp, thỉnh thoảng lại vụng trộm nhìn qua những ô cửa kính mờ hơi sương như thể bên ngoài đang diễn ra một loạt sự việc vô hình nhưng đáng ngại. Cuối cùng, Gatsby đứng dậy, ấp úng bảo với tôi là anh đi về.
- Sao lại về?
- Không có ai đến dự bữa trà đâu. Quá muộn rồi. – Anh xem đồng hồ đeo tay như bận một việc gì cấp bách ở đâu. – Dù sao, tôi không thể đợi suốt ngày.
- Đừng ngốc nghếch. Bây giờ mới là bốn giờ kém hai phút.
Gatsby lại ngồi xuống, vẻ thiểu năo cứ như tôi đã bắt ép anh ngồi. Cùng lúc ấy có tiếng xe hơi lăn bánh vào lối đi trong vườn nhà tôi. Hai chúng tôi cùng bật dậy và tôi bước ra vườn, hơi bối rối.
Một chiếc xe hơi lớn mui trần đang tiến vào lối đi dưới hai cây tử đinh hương trụi lá và rõ những hạt nước mưa lơng tơng. Chiếc xe dừng lại. Gương mặt Daisy dưới một chiếc mũ tam giác màu trứng sáo, ngoẹo sang một bên, ở trong xe nhìn tôi với một nụ cười say sưa, tươi rói.
- Có đúng là anh sống ở đây không, anh yêu quý?
Giọng nói uốn lượn tức cười của nàng là một chủ âm nổi bật giữa tiếng mưa rơi đều đều. Tôi buộc phải lắng nghe một lúc những âm thanh lên bổng xuống trầm đó chỉ bằng riêng thính giác rồi sau mới hiểu được những lời nói. Một món tóc ướt vương xuống như một vệt sơn xanh quệt ngang má và bàn tay mà tôi cầm để đỡ nàng xuống xe đẫm những hạt sương lóng lánh.
Daisy nói rất nhỏ vào tai tôi:
- Anh yêu em ư, chứ sao em lại phải đến một mình?
- Đó là điều bí mật của lâu đài Rackrent. Em cho tài xế đi chơi độ một tiếng đi.
- Ferdie, một tiếng nữa lại đây. – Rồi bằng một giọng nho nhỏ trầm trầm: - Tên hắn là Ferdi.
- Xăng có làm ảnh hưởng đến mũi hắn không?
- Em chắc là không, – giọng Daisy ngây thơ. – Tại sao?
Chúng tôi vào trong nhà. Tôi vô cùng kinh ngạc thấy phòng khách trống không. Tôi thốt lên:
- Thật là quái lạ!
- Cái gì quái lạ?
Daisy ngoảnh đầu lại vì có tiếng gõ cửa trịnh trọng nhè nhẹ ngoài cửa trước. Tôi ra mở cửa. Nhợt nhạt như một xác chết, Gatsby đứng sừng sững giữa một vũng nước, hai tay thọc sâu vào trong túi áo vet-tông như hai quả tạ, trân trân nhìn vào mặt tôi với vẻ bi thảm.
Tay vẫn thọc trong túi áo, anh sải bước qua mặt tôi và gian tiền sảnh, quay ngoắt một cái như đi trên dây rồi mất hút vào trong phòng khách. Cảnh tượng không có gì là ngộ nghĩnh. Nghe rõ tiếng tim tôi đập thình thình, tôi khép cửa lại, ngăn những hạt mưa đang đổ xuống mỗi lúc một mau hơn.
Trong nửa phút đồng hồ, không có một tiếng động nào. Rồi tôi nghe thấy vọng từ phòng khách ra những âm thanh rì rầm nghẹn ngào và một khúc của chuỗi cười giòn tan, tiếp theo sau là giọng Daisy trong trẻo và giả tạo:
- Chắc chắn là em vô cùng vui mừng được gặp lại anh.
Một lúc im lặng, dài kinh khủng. Không có việc gì mà làm ở gian tiền sảnh nên tôi vào phòng khách.
Tay vẫn đút trong túi, Gatsby đang đứng tựa người vào thành lò sưởi, điệu bộ cố ra vẻ hoàn toàn thoải mái, thậm chí là buồn tẻ nữa. Đầu anh ngả ra sau đến nỗi nó tì vào mặt một chiếc đồng hồ hỏng trên mặt lò sưởi và ở tư thế ấy, đôi mắt hốt hoảng của Gatsby nhìn đăm đắm xuống Daisy đang ngồi trên mép một chiếc ghế cứng, hơi sợ sệt nhưng vẫn duyên dáng.
- Chúng tôi đã quen nhau từ trước. – Gatsby lẩm bẩm.
Mắt anh liếc vội nhìn tôi, môi anh mấp máy hé mở định cười nhưng không cười nổi. May thanh, chiếc đồng hồ bị đầu anh tì vào chọn đúng lúc đó nghiêng đi suýt đổ, Gatsby quay lại, hai tay run run vội đỡ lấy chiếc đồng hồ đặt vào chỗ cũ. Rồi anh ngồi xuống, người thẳng đuỗn, khuỷu tay tì lên tay đi-văng, bàn tay đỡ lấy cằm. Anh ấp úng:
- Tôi xin lỗi về cái đồng hồ…
Mặt tôi bây giờ nóng bừng. Tôi không chọn nổi một câu thông thường nào trong số hàng nghìn câu chập chờn trong đầu. Tôi nói một câu ngốc nghếch:
- Đồng hồ cũ ấy mà.
Hình như lúc nãy cả mấy người chúng tôi đã tưởng nó sẽ rơi xuống đất vỡ tan.
- Em và ông Gatsby không gặp nhau đã nhiều năm nay, – giọng Daisy rất bình thản.
- Đến tháng Một tới thì được năm năm.
Câu trả lời tắp lự như một cái máy của Gatsby lại làm chúng tôi lúng túng mất ít nhất thêm một phút nữa. Không biết xoay tính cách nào, tôi đề nghị họ vào bếp giúp tôi pha trà. Cả hai đã đứng dậy thì chị Phần Lan quái quỷ làm sao đã bê khay trà lên.
May mà nhờ lúc tíu tít bày bánh trái và tách đĩa, mọi người đã bình tâm lại một chút. Gatsby lùi vào một góc tối và trong khi Daisy và tôi nói chuyện với nhau, anh chăm chú nhìn hai chúng tôi hết người này đến người kia với con mắt căng thẳng, khổ sở. Tuy vậy, mục đích không phải là được yên tĩnh, cho nên thấy có cơ hội đầu tiên là tôi xin lỗi đứng dậy. Nhưng Gatsby đã hoảng lên:
- Anh đi đâu đấy?
- Tôi trở lại ngay bây giờ.
- Tôi cần nói với anh một chuyện đã rồi anh hẵng đi.
Gatsby đi theo tôi vào bếp, ngơ ngác như người mất hồn. Anh đóng cửa bếp lại rồi khẽ thốt lên “Ôi, Trời!” một cách thiểu năo.
- Sao thế?
- Một sai lầm kinh khủng. – Gatsby cứ lắc đầu mãi. – Một sai lầm kinh khủng, kinh khủng.
- Anh xúc động đấy mà, có sao đâu, – và may thay tôi nói thêm, – cả Daisy cũng xúc động.
- Nàng xúc động? – Gatsby nhắc lại, vẻ không tin.
- Như anh thôi.
- Anh đừng nói to thế.
- Anh cứ như con nít ấy, – mất kiên nhẫn, tôi nói lớn. – Không những thế lại còn vô ý thức. Ai lại để Daisy ngồi một mình trong phòng.
Gatsby giơ tay lên chặn lời tôi, nhìn tôi với một vẻ trách móc mà tôi không thể nào quên, rồi thận trọng mở cửa, trở lại gian phòng kia.
Tôi đi ra bằng cửa sau, – theo đúng lối Gatsby đã ra cách đây nửa giờ trước khi bồn chồn đi vòng quanh nhà – rồi chạy vội đến trú bên một thân cây lớn xù xì, vặn vẹo, tán lá dày kín tạo thành một cái mái che mưa. Trời lại mưa to và bãi cỏ mấp mô nhà tôi, đã được người thợ làm vườn của Gatsby xén rất đều, loang lổ những vũng nước và những bãi lầy ngầu bùn như mặt đất thời kì tiền sử. Đứng dưới gốc cây, không có cái gì khác để nhìn ngoài toà nhà to lớn của Gatsby, và như Kant đã ngắm cái tháp chuông nhà thờ của mình, tôi ngắm mãi toà nhà ấy trong nửa giờ đồng hồ. Một ông chủ nhà máy bia đã cho xây toà nhà này vào đầu thời kì thịnh hành các kiểu kiến trúc lịch sử, tức là cách đây khoảng một chục năm. Có câu chuyện kể rằng ông này đã xin chịu trả tiền thổ trạch cho tất cả các ngôi nhà lân cận trong vùng trong năm năm, nếu chủ các ngôi nhà ấy chịu lớp mái nhà mình bằng rơm. Có lẽ sự cự tuyệt của họ làm ông ta hết thiết tha với đồ án gây dựng lên một dòng họ, nên ông ta bước ngay sang một thời kì sa sút. Con cái ông ta đã bán nhà lúc vòng hoa tang còn treo ngoài cửa. Người Mỹ tuy sẵn sàng làm nông nô, thậm chí có thể nói là sốt sắng nữa, nhưng xưa nay họ vẫn bướng bỉnh không chịu làm nông dân. Nửa giờ sau trời lại nắng và chiếc xe của hiệu thực phẩm vòng vào đường xe chạy trong vườn nhà Gatsby chở đến những thứ dùng cho bữa tối của gia nhân nhà anh – tôi biết chắc Gatsby sẽ không đụng đến một miếng nào. Một chị hầu phòng bắt đầu đi mở các cửa sổ ở tầng trên, hiện ra từng lúc cách quãng ở các ô cửa và đến cửa sổ gian chính giữa xây lồi ra ngoài, chị ta ngả người qua bậu cửa, trầm ngâm nhổ nước bọt xuống vườn. Đã đến lúc tôi trở vào nhà. Lúc trời còn mưa, tiếng mưa rơi nghe như tiếng thì thầm của họ trong nhà, thỉnh thoảng lại cao lên, to lên đôi chút trong những cơn xúc động. Nhưng nay không gian trở lại im lìm, tôi cảm thấy trong nhà cũng lại im lặng nốt.
Thoạt tiên tôi tưởng lại có một cuộc vui mới, một buổi dạ hội điên loạn đã biến thành một trò “đi trốn đi tìm” lấy cả toà nhà làm chỗ chơi. Nhưng không có một tiếng động nào. Chỉ có gió thổi xào xạc trên ngọn cây đu đưa các sợi dây điện làm cho ánh đèn lấp loé như thể toàn nhà nhấp nháy mắt với bóng đêm. Trong khi chiếc tắc xi chở tôi rồ máy rời đi, tôi thấy Gatsby đi tạt ngang qua vườn nhà anh về phía tôi.
Tôi nói:
- Nhà anh cứ như Hội chợ thế giới ấy.
- Thế ư? – Gatsby ngoảnh lại nhìn toà nhà với con mắt lơ đãng. – Tôi đi xem qua các gian phòng mà. Này, người anh em, ta đi Coney Island đi. Bằng xe tôi.
- Quá muộn rồi.
- Hay ta ra tắm một lát ở bể bơi. Cả mùa hè năm nay tôi chưa dùng đến nó.
- Tôi phải đi ngủ, anh ạ.
- Thôi vậy.
Gatsby nhìn tôi chờ đợi, nén lại vẻ nôn nóng. Sau một lúc, tôi lên tiếng:
- Cô Baker đã nói chuyện với tôi rồi. Ngày mai, tôi sẽ gọi dây nói cho Daisy, mời cô ấy đến dự bữa trà tại nhà tôi.
- Ồ, tốt lắm, – Gatsby nói với giọng hờ hững, – Tôi quả không muốn làm phiền anh một chút nào.
- Hôm nào tiện cho anh?
- Hôm nào tiện cho anh? – Gatsby nhanh nhảu sửa lại lời tôi. – Quả tôi không muốn làm phiền anh một chút nào.
- Ngày kia có được không?
Gatsby cân nhắc một lúc, rồi giọng ngại ngần:
- Tôi muốn cho xén cỏ.
Hai chúng tôi cùng nhìn xuống bãi cỏ: bãi cỏ lởm chởm nhà tôi phân biệt hẳn bằng một đường rất rõ nét với thảm cỏ sẫm bằng phẳng được chăm sóc cẩn thận, trải dài bên phía nhà Gatsby. Hẳn Gatsby muốn nói về bãi cỏ nhà tôi.
- Còn một chuyện nhỏ nữa, – Gatsby lại ấp úng, ngập ngừng.
- Hay anh định lui lại một vài ngày nữa? – Tôi hỏi.
- À, không phải về chuyện ấy. Ít ra… – Gatsby lúng túng không biết mở đầu như thế nào. – Thế này, tôi nghĩ… À này, người anh em, chắc anh kiếm không được nhiều tiền cho lắm phải không?
- Không nhiều lắm.
Câu trả lời ấy làm Gatsby có vẻ vững dạ. Anh nói tiếp, giọng vững vàng hơn.
- Tôi cũng nghĩ là không nhiều lắm. Tôi xin lỗi nếu tôi… Anh biết đấy, tôi có một công việc kinh doanh phụ nho nhỏ, một thứ làm phụ thôi, anh hiểu chứ. Và tôi nghĩ nếu anh không kiếm được nhiều lắm… Anh làm nghề chào bán chứng khoán, phải không, người anh em?
- Mới tập tành thôi.
- Thế thì có việc này khá hay đối với anh. Nó không chiếm mất nhiều thời gian của anh mà lại có thể giúp anh thu về khá nhiều tiền. Đây là một việc làm ăn tương đối kín đáo.
Đến bây giờ tôi nhận ra rằng nếu như ở vào tình huống khác thì câu chuyện này có thể đã là một trong những bước ngoặt đối với cuộc đời tôi. Nhưng vì đề nghị ấy được đưa ra không khéo léo và rõ ràng là để trả ơn cho một công việc mà tôi sẽ giúp Gatsby nên tôi không có cách nào khác là phải cắt ngang ngay ở đây.
- Tôi kín hết thời gian rồi. Tôi rất cảm ơn nhưng không thể nhận thêm việc nào nữa.
- Không phải là làm việc với Wolfshiem đâu. – Rõ ràng Gatsby tưởng rằng tôi muốn thoái thác cái “đầu mối” được nêu lên hồi trưa, nhưng tôi bảo ngay là không phải. Gatsby chờ đợi một lúc nữa, mong tôi sẽ nói sang một chuyện khác nhưng tâm trí tôi đang quá bận không muốn chuyện trò gì nên anh đành phải về.
Buổi tối vừa trôi qua làm tôi cảm thấy đầu óc lâng lâng vui sướng. Hình như tôi đã chìm ngay vào một giấc ngủ say khi bước qua cổng chính nhà tôi. Vì vậy tôi không biết Gatsy có đi Coney Island không, hoặc anh “đi xem các gian phòng” mất bao nhiêu tiếng đồng hồ trong khi toà biệt thự của anh vẫn tràn trề ánh sáng. Sáng hôm sau từ nơi làm việc, tôi gọi điện thoại cho Daisy, mời nàng đến dùng trà.
- Đừng rủ Tom, – tôi nhắc.
- Gì cơ?
- Đừng rủ Tom.
- Tom là ai nhỉ? – Daisy vặn lại với giọng ngây thơ.
Đúng hôm hẹn, trời mưa to. Khoảng mười một giờ sáng, một người thợ mặc áo mưa kéo một cái máy xén cỏ đến gõ cửa nhà tôi thưa rằng ông Gatsby sai anh ta đến xén cỏ nhà tôi. Thấy vậy tôi mới sực nhớ là đã quên dặn chị giúp việc người Phần Lan đến làm việc hôm nay. Tôi đành phải lái xe sang làng West Egg tìm chị ta qua những ngõ ngách lầy lội quét vôi trắng, đồng thời mua vài cái tách, một ít chanh và hoa.
Hoa là thừa, vì đến hai giờ chiều, cả vườn ươm bên nhà Gatsby được chuyển sang nhà tôi với không biết bao nhiêu là chậu và bình để cắm hoa. Một giờ sau, có ai hấp tấp đẩy cánh cổng nhà tôi, rồi Gatsby trong bộ com-lê bằng nỉ trắng, sơ mi màu trắng bạc và ca-vát vàng, vội vã bước vào. Mặt anh tái mét và có những quầng sẫm dưới đôi mắt mất ngủ. Gatsby hỏi ngay:
- Tốt đẹp cả chứ?
- Cỏ xén đẹp lắm, nếu đó là điều anh muốn hỏi.
- Cỏ nào nhỉ? – Gatsby ngơ ngác. – À, cỏ ngoài vườn!
Gatsby nhìn qua cửa sổ ra mảnh vườn, nhưng xét theo nét mặt anh, tôi cho rằng anh chẳng nhìn thấy gì cả. Gatsby nói chung chung:
- Trông rất đẹp. Có tờ báo nói chắc rằng đến bốn giờ thì trời tạnh. Hình như tờ “Nhật báo” thì phải. Anh đã có đủ mọi thứ cần thiết cho bữa trà chưa?
Tôi dẫn Gatsby vào gian bếp. Anh nhìn chị giúp việc của tôi với vẻ trách móc. Hai chúng tôi cùng xem xét tá bánh ngọt mua ở hiệu bánh về.
- Có được không?
- Được lắm, được lắm. Rất tốt, – rồi giọng thảng thốt của Gatsby nói thêm – … người anh em ạ.
Đến khoảng ba giờ thì trời ngớt mưa và chuyển thành một làn sương bụi ẩm ướt, đây đó lơ lửng một vài giọt nước như hạt sương to. Gatsby giở xem một cuốn “Kinh tế học” của Clay với con mắt không thần sắc. Anh giật mình khi nghe thấy tiếng chân chị giúp việc làm rung sàn bếp, thỉnh thoảng lại vụng trộm nhìn qua những ô cửa kính mờ hơi sương như thể bên ngoài đang diễn ra một loạt sự việc vô hình nhưng đáng ngại. Cuối cùng, Gatsby đứng dậy, ấp úng bảo với tôi là anh đi về.
- Sao lại về?
- Không có ai đến dự bữa trà đâu. Quá muộn rồi. – Anh xem đồng hồ đeo tay như bận một việc gì cấp bách ở đâu. – Dù sao, tôi không thể đợi suốt ngày.
- Đừng ngốc nghếch. Bây giờ mới là bốn giờ kém hai phút.
Gatsby lại ngồi xuống, vẻ thiểu năo cứ như tôi đã bắt ép anh ngồi. Cùng lúc ấy có tiếng xe hơi lăn bánh vào lối đi trong vườn nhà tôi. Hai chúng tôi cùng bật dậy và tôi bước ra vườn, hơi bối rối.
Một chiếc xe hơi lớn mui trần đang tiến vào lối đi dưới hai cây tử đinh hương trụi lá và rõ những hạt nước mưa lơng tơng. Chiếc xe dừng lại. Gương mặt Daisy dưới một chiếc mũ tam giác màu trứng sáo, ngoẹo sang một bên, ở trong xe nhìn tôi với một nụ cười say sưa, tươi rói.
- Có đúng là anh sống ở đây không, anh yêu quý?
Giọng nói uốn lượn tức cười của nàng là một chủ âm nổi bật giữa tiếng mưa rơi đều đều. Tôi buộc phải lắng nghe một lúc những âm thanh lên bổng xuống trầm đó chỉ bằng riêng thính giác rồi sau mới hiểu được những lời nói. Một món tóc ướt vương xuống như một vệt sơn xanh quệt ngang má và bàn tay mà tôi cầm để đỡ nàng xuống xe đẫm những hạt sương lóng lánh.
Daisy nói rất nhỏ vào tai tôi:
- Anh yêu em ư, chứ sao em lại phải đến một mình?
- Đó là điều bí mật của lâu đài Rackrent. Em cho tài xế đi chơi độ một tiếng đi.
- Ferdie, một tiếng nữa lại đây. – Rồi bằng một giọng nho nhỏ trầm trầm: - Tên hắn là Ferdi.
- Xăng có làm ảnh hưởng đến mũi hắn không?
- Em chắc là không, – giọng Daisy ngây thơ. – Tại sao?
Chúng tôi vào trong nhà. Tôi vô cùng kinh ngạc thấy phòng khách trống không. Tôi thốt lên:
- Thật là quái lạ!
- Cái gì quái lạ?
Daisy ngoảnh đầu lại vì có tiếng gõ cửa trịnh trọng nhè nhẹ ngoài cửa trước. Tôi ra mở cửa. Nhợt nhạt như một xác chết, Gatsby đứng sừng sững giữa một vũng nước, hai tay thọc sâu vào trong túi áo vet-tông như hai quả tạ, trân trân nhìn vào mặt tôi với vẻ bi thảm.
Tay vẫn thọc trong túi áo, anh sải bước qua mặt tôi và gian tiền sảnh, quay ngoắt một cái như đi trên dây rồi mất hút vào trong phòng khách. Cảnh tượng không có gì là ngộ nghĩnh. Nghe rõ tiếng tim tôi đập thình thình, tôi khép cửa lại, ngăn những hạt mưa đang đổ xuống mỗi lúc một mau hơn.
Trong nửa phút đồng hồ, không có một tiếng động nào. Rồi tôi nghe thấy vọng từ phòng khách ra những âm thanh rì rầm nghẹn ngào và một khúc của chuỗi cười giòn tan, tiếp theo sau là giọng Daisy trong trẻo và giả tạo:
- Chắc chắn là em vô cùng vui mừng được gặp lại anh.
Một lúc im lặng, dài kinh khủng. Không có việc gì mà làm ở gian tiền sảnh nên tôi vào phòng khách.
Tay vẫn đút trong túi, Gatsby đang đứng tựa người vào thành lò sưởi, điệu bộ cố ra vẻ hoàn toàn thoải mái, thậm chí là buồn tẻ nữa. Đầu anh ngả ra sau đến nỗi nó tì vào mặt một chiếc đồng hồ hỏng trên mặt lò sưởi và ở tư thế ấy, đôi mắt hốt hoảng của Gatsby nhìn đăm đắm xuống Daisy đang ngồi trên mép một chiếc ghế cứng, hơi sợ sệt nhưng vẫn duyên dáng.
- Chúng tôi đã quen nhau từ trước. – Gatsby lẩm bẩm.
Mắt anh liếc vội nhìn tôi, môi anh mấp máy hé mở định cười nhưng không cười nổi. May thanh, chiếc đồng hồ bị đầu anh tì vào chọn đúng lúc đó nghiêng đi suýt đổ, Gatsby quay lại, hai tay run run vội đỡ lấy chiếc đồng hồ đặt vào chỗ cũ. Rồi anh ngồi xuống, người thẳng đuỗn, khuỷu tay tì lên tay đi-văng, bàn tay đỡ lấy cằm. Anh ấp úng:
- Tôi xin lỗi về cái đồng hồ…
Mặt tôi bây giờ nóng bừng. Tôi không chọn nổi một câu thông thường nào trong số hàng nghìn câu chập chờn trong đầu. Tôi nói một câu ngốc nghếch:
- Đồng hồ cũ ấy mà.
Hình như lúc nãy cả mấy người chúng tôi đã tưởng nó sẽ rơi xuống đất vỡ tan.
- Em và ông Gatsby không gặp nhau đã nhiều năm nay, – giọng Daisy rất bình thản.
- Đến tháng Một tới thì được năm năm.
Câu trả lời tắp lự như một cái máy của Gatsby lại làm chúng tôi lúng túng mất ít nhất thêm một phút nữa. Không biết xoay tính cách nào, tôi đề nghị họ vào bếp giúp tôi pha trà. Cả hai đã đứng dậy thì chị Phần Lan quái quỷ làm sao đã bê khay trà lên.
May mà nhờ lúc tíu tít bày bánh trái và tách đĩa, mọi người đã bình tâm lại một chút. Gatsby lùi vào một góc tối và trong khi Daisy và tôi nói chuyện với nhau, anh chăm chú nhìn hai chúng tôi hết người này đến người kia với con mắt căng thẳng, khổ sở. Tuy vậy, mục đích không phải là được yên tĩnh, cho nên thấy có cơ hội đầu tiên là tôi xin lỗi đứng dậy. Nhưng Gatsby đã hoảng lên:
- Anh đi đâu đấy?
- Tôi trở lại ngay bây giờ.
- Tôi cần nói với anh một chuyện đã rồi anh hẵng đi.
Gatsby đi theo tôi vào bếp, ngơ ngác như người mất hồn. Anh đóng cửa bếp lại rồi khẽ thốt lên “Ôi, Trời!” một cách thiểu năo.
- Sao thế?
- Một sai lầm kinh khủng. – Gatsby cứ lắc đầu mãi. – Một sai lầm kinh khủng, kinh khủng.
- Anh xúc động đấy mà, có sao đâu, – và may thay tôi nói thêm, – cả Daisy cũng xúc động.
- Nàng xúc động? – Gatsby nhắc lại, vẻ không tin.
- Như anh thôi.
- Anh đừng nói to thế.
- Anh cứ như con nít ấy, – mất kiên nhẫn, tôi nói lớn. – Không những thế lại còn vô ý thức. Ai lại để Daisy ngồi một mình trong phòng.
Gatsby giơ tay lên chặn lời tôi, nhìn tôi với một vẻ trách móc mà tôi không thể nào quên, rồi thận trọng mở cửa, trở lại gian phòng kia.
Tôi đi ra bằng cửa sau, – theo đúng lối Gatsby đã ra cách đây nửa giờ trước khi bồn chồn đi vòng quanh nhà – rồi chạy vội đến trú bên một thân cây lớn xù xì, vặn vẹo, tán lá dày kín tạo thành một cái mái che mưa. Trời lại mưa to và bãi cỏ mấp mô nhà tôi, đã được người thợ làm vườn của Gatsby xén rất đều, loang lổ những vũng nước và những bãi lầy ngầu bùn như mặt đất thời kì tiền sử. Đứng dưới gốc cây, không có cái gì khác để nhìn ngoài toà nhà to lớn của Gatsby, và như Kant đã ngắm cái tháp chuông nhà thờ của mình, tôi ngắm mãi toà nhà ấy trong nửa giờ đồng hồ. Một ông chủ nhà máy bia đã cho xây toà nhà này vào đầu thời kì thịnh hành các kiểu kiến trúc lịch sử, tức là cách đây khoảng một chục năm. Có câu chuyện kể rằng ông này đã xin chịu trả tiền thổ trạch cho tất cả các ngôi nhà lân cận trong vùng trong năm năm, nếu chủ các ngôi nhà ấy chịu lớp mái nhà mình bằng rơm. Có lẽ sự cự tuyệt của họ làm ông ta hết thiết tha với đồ án gây dựng lên một dòng họ, nên ông ta bước ngay sang một thời kì sa sút. Con cái ông ta đã bán nhà lúc vòng hoa tang còn treo ngoài cửa. Người Mỹ tuy sẵn sàng làm nông nô, thậm chí có thể nói là sốt sắng nữa, nhưng xưa nay họ vẫn bướng bỉnh không chịu làm nông dân. Nửa giờ sau trời lại nắng và chiếc xe của hiệu thực phẩm vòng vào đường xe chạy trong vườn nhà Gatsby chở đến những thứ dùng cho bữa tối của gia nhân nhà anh – tôi biết chắc Gatsby sẽ không đụng đến một miếng nào. Một chị hầu phòng bắt đầu đi mở các cửa sổ ở tầng trên, hiện ra từng lúc cách quãng ở các ô cửa và đến cửa sổ gian chính giữa xây lồi ra ngoài, chị ta ngả người qua bậu cửa, trầm ngâm nhổ nước bọt xuống vườn. Đã đến lúc tôi trở vào nhà. Lúc trời còn mưa, tiếng mưa rơi nghe như tiếng thì thầm của họ trong nhà, thỉnh thoảng lại cao lên, to lên đôi chút trong những cơn xúc động. Nhưng nay không gian trở lại im lìm, tôi cảm thấy trong nhà cũng lại im lặng nốt.
Bình luận facebook