Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 151
– Tới xem cái này nè.
Lý Thịnh chỉ có một cánh tay kẹp cả đống vỏ trường kiếm khá bất tiện, đành ném hết xuống đất:
– Bên kia còn nhiều vỏ kiếm này lắm. Chỗ này thật tuyệt, dựa đại mảnh tường nào cũng có thể lọt vào trận pháp cơ quan, dù muội từng học chút ít cũng bị nhốt nửa ngày không ra được, quay lại nhớ bảo mọi người đừng đi lung tung.
Một chân Chu Phỉ bị mũi tên của Bắc quân bắn xuyên qua, nàng không dám chạm chân xuống đất, chỉ di chuyển nhờ gậy và chân còn lại, nàng nghi ngờ hễ mình ngồi là không đứng dậy nổi, đành chống hai tay lên gậy gỗ, hơi khom người nhìn xuống.
Dương Cẩn và Ưng Hà Tòng đều sáp lại.
Đoạn Nhạn đao của Dương Cẩn chém đến cong lưỡi đao, sau cơn đau lòng, y tạm thời tìm vật thay thế, ai ngờ lật tung chỗ ban nãy cũng không tìm được thanh kiếm nào, toàn bộ đều là vỏ kiếm, y lập tức vô cùng thất vọng:
– Cấm địa gì thế này? Ta thấy giống cái hầm để đồ linh tinh hơn.
Lý Thịnh đặt mấy vỏ kiếm kia quay mặt chính lên, xếp thành một hàng:
– Nhìn ra gì không?
Chu Phỉ cau mày, thấy trên mỗi vỏ kiếm đều có một hoa văn sóng nước ở cùng một vị trí, hầu như giống nhau như đúc.
Lý Thịnh nói:
– Tương truyền Sơn Xuyên kiếm cũng xuất xứ từ tay vị Trần đại sư ở Bồng Lai. Nhưng bản thân kiếm đã bị mất từ lâu, chỉ còn lại vỏ kiếm.
– “Sơn Xuyên kiếm” thực ra không phải kiếm mà là chỉ bản thân Ân đại hiệp.
Chu Phỉ sửa lại, tò mò đống vỏ Sơn Xuyên kiếm trông thế nào, bèn chống một chân và gậy, từ từ dịch về phía bọn Lý Thịnh.
Lý Thịnh thở dài:
– Qua đây, ca cõng muội.
Chu Phỉ khoát tay với hắn, nói tiếp:
– Ân đại hiệp cả đời không biết đã thay bao nhiêu thanh kiếm, đều là hàng dỏm phí ít tiền nhờ người ta rèn, còn không có tên khắc nữa là. “Ẩm Trầm Tuyết” của Nghê Thường phu nhân về sau không phải vẫn chưa giao cho Ân đại hiệp đấy sao? Muội thấy nguyên nhân lớn là do bà ấy thấy Ân đại hiệp tìm Trần đại sư mua bừa một thanh.
Ưng Hà Tòng lấy làm lạ:
– Nguyên nhân đó nghĩa là sao?
Chu Phỉ:
– Trần đại sư là danh gia đương thời, có vài món đồ ông làm là do người ta đặt, chẳng hạn như Vọng Xuân Sơn và Ẩm Trầm Tuyết, đều là binh khí có thể truyền lại đời sau. Nhưng có vài món đồ ông làm tương đối qua quít, ông gom nồi lấy sắt vụn đúc bừa vài thanh, không hề dụng tâm, không khắc tên, không kiểu cọ, thống nhất cho vào vỏ gỗ đem bán lấy tiền trợ cấp vật dụng trong nhà. Ta nghe Trần đại sư nói Ân đại hiệp chính là mua kiếm kiểu “trợ cấp vật dụng trong nhà” đó, Nghê Thường phu nhân về sau có lẽ đã hiểu, với cảnh giới của Ân đại hiệp năm xưa, nếu ông cầm một mảnh sắt thì mảnh sắt đó chính là “Sơn Xuyên kiếm”, nếu có người dùng danh kiếm đem tặng thì ngược lại có vẻ cố ý… đây chỉ là ta đoán, nghe qua rồi thôi, chưa chắc đúng.
Trong lúc nói chuyện, nhóm người họ từ từ tới chỗ Lý Thịnh đi ban nãy, thấy trên vách đá mở ra một cánh cửa nhỏ, bên trong có một động khác, nhìn không thấy đầu mút.
– Theo sát ta, trong này ba tầng trận pháp trùng điệp, biến ảo khó lường, bọn ta ban nãy bị vây bên trong gần một canh giờ mới ra được đấy.
Lý Thịnh vừa nói vừa giơ cao bó đuốc.
Ưng Hà Tòng xách một cái vỏ Sơn Xuyên kiếm, nói:
– Cũng tức là cái vỏ Sơn Xuyên kiếm mà khắp nơi tranh đoạt kia là sau này mới làm chứ không phải từ tay Trần đại sư. Ta đang nghĩ một chuyện, Ân Bái từng tới đây, nghe nói trước khi hắn ta có Niết Bàn cổ thì võ công vô cùng kém, nếu lúc đó tiền bối Tề môn ra tay tráo vỏ Sơn Xuyên kiếm trên người hắn ta, cô nói xem liệu hắn ta có nhận ra không?
Chu Phỉ ngẩn người, vì Mộc Tiểu Kiều từng nói với nàng, bây giờ truyền thuyết về Hải Thiên Nhất Sắc càng ngày càng quái gở, mấy nhân chứng như họ bắt đầu muốn thu lại tín vật được truyền đến tay hậu nhân, Ân Bái trước kia võ công kém cỏi, sau này thì nhân phẩm kém cỏi, Tề môn muốn thu lại vỏ kiếm trong tay hắn ta cũng hợp lý.
Nếu đúng là vậy, các đạo trưởng Tề môn không khỏi thiếu quang minh lỗi lạc.
Chu Phỉ nói:
– Ừm, lấy giả tráo thật, không phải là không có khả năng. Nhưng đồ giả làm một cái là đủ, làm nhiều thế làm gì?
– Vỏ kiếm rốt cuộc có gì đáng nghiên cứu?
Dương Cẩn rốt cuộc nghe không nổi nữa, không nhịn được chen mồm:
– Ta nói này, các ngươi có đúng là người dùng đao kiếm không vậy? Đao kiếm có phân tốt xấu cao thấp, còn vỏ kiếm… vỏ kiếm không phải chỉ là một cái hộp đựng sao? Ai lại nhìn ra thật giả? Kiếm khách Trung Nguyên các ngươi thịnh hành lấy gùi bỏ ngọc à?
Chu Phỉ nhướng mày:
– Giỏi lắm, Nam man, ngươi còn biết từ “lấy gùi bỏ ngọc” cơ đấy!
– Được rồi A Phỉ, sao muội vừa mở mắt là gây sự thế, Dương huynh nói đúng, vấn đề là ở đây.
Đuốc trong tay Lý Thịnh quơ lên, vô số hạt bụi li ti băng qua ngọn lửa phát ra tiếng “lép bép” nhỏ, đường nhỏ quanh co trong mật đạo khiến người ta bối rối đã đến phần cuối, họ tới một thạch thất nho nhỏ.
Trong thạch thất đặt mấy cái rương lớn, bên trong chất đầy vỏ kiếm giống nhau như đúc.
Hoa văn sóng nước, làm cũ, ngay cả vết xước nhỏ trên vỏ kiếm cũng hoàn toàn giống nhau, đừng nói là người ngoài như họ, e đích thân Ân Bái đến đây cũng phải ngớ người chốc lát.
Lý Thịnh tiện tay cắm đuốc vào chỗ hõm trên tường, giơ lên hai tờ giấy mỏng:
– Mỗi hoa văn sóng nước trên vỏ kiếm đều y hệt, ban nãy ta và Dương huynh đã thử in nó lên giấy, mọi người xem, hoàn toàn trùng khớp.
Ưng Hà Tòng chợt nói:
– Đợi đã, đó là gì?
Mọi người nhìn theo hướng ngón tay hắn chỉ, thấy trong góc có thứ gì đó đang phản quang.
Dương Cẩn đến gần:
– Đây là thạch anh hay băng…
– Đợi đã, Dương huynh đừng động vào!
Lý Thịnh vội hô lớn ngăn y lại.
Góc tường có một tấm kính nhỏ vô cùng sáng bóng, bên cạnh là một đám thạch anh trong suốt, mỗi cái đều có góc cạnh, ánh sáng từ bó đuốc trên tường chiếu xuống bị kính phản xạ, lại băng qua tầng tầng lớp lớp thạch anh, vừa vặn hội tụ thành một điểm trên một tấm gạch cạnh mấy rương lớn.
Lý Thịnh lấy bó đuốc trên tường xuống, quơ xung quanh, thay đổi góc độ, ánh sáng xuyên qua thạch anh lập tức phân tán, không thể tụ lại nữa.
– Quả nhiên, ban nãy vào luôn là Dương huynh cầm đuốc rọi thay ta.
Lý Thịnh đặt lại đuốc vào chỗ hõm, ngọn lửa chợt sáng chợt tắt, ánh sáng cũng dao động như có như không, rất không ổn định.
Ưng Hà Tòng tiến lên gõ gạch:
– Rỗng.
Nói rồi ngón tay hắn lần theo mép, móc nhẹ, nạy nó lên, lấy ra một phong thư.
Lý Thịnh:
– Cẩn thận!
– Không sao, không có độc.
Ưng Hà Tòng đặt lá thư dưới mũi, ngửi:
– Trên thư viết “hiền điệt Ân Bái thân khải” (1). Có phải Ân Bái chưa từng thấy lá thư này không?
(1) Thân khải: Đích thân mở, cũng chỉ người nhận thư.
Hắn vừa nói vừa mở thư ra đọc nhanh như gió, sau đó chợt trở nên trầm mặc, hồi lâu mới đưa thư cho Lý Thịnh bên cạnh, nhỏ giọng:
– Xin lỗi, hình như ban nãy ta lòng dạ tiểu nhân.
Dương Cẩn hỏi:
– Viết gì thế?
Ưng Hà Tòng nói:
– “Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội (2).” Những vỏ kiếm này vốn là chuẩn bị cho Ân Bái, nếu tuồn chúng ra ngoài, trên giang hồ sẽ có vô số “vỏ Sơn Xuyên kiếm”, đến lúc đó không ai phân biệt được thật giả…
(2) Kẻ thường dân vốn không có tội, chỉ vì có ngọc bích mà thành có tội.
Chu Phỉ than:
– Ân Bái sẽ giống như giọt nước giữa biển khơi, an toàn.
Thận Độc ấn của Hoắc gia xuất hiện ở Vĩnh Châu đã gây ra họa lớn nhường nào? Sơn Xuyên kiếm đương nhiên cũng giống vậy.
Khi đó Ân Bái bị dư nghiệt Thanh Long đả thương như chó mất chủ, được Tề môn đón về chữa trị, Xung Vân đạo trưởng đương nhiên nhìn ra được hắn ta lòng dạ hẹp hòi, tính tình cực đoan, bị bệnh từ trong bụng mẹ, gân cốt toàn thân không thể tập võ. Ân Bái chỉ xem Sơn Xuyên kiếm là một di vật vô cùng quan trọng do tiên phụ để lại chứ không biết “Hải Thiên Nhất Sắc” rốt cuộc là gì, hắn ta lại không có năng lực tự bảo vệ, vỏ Sơn Xuyên kiếm rơi vào tay há chẳng phải như trẻ con ôm thỏi vàng sao?
Lý Thịnh xem thư xong, nói:
– Xung Vân đạo trưởng từng nhắc với Ân Bái là để mình bảo quản vỏ Sơn Xuyên kiếm, nhưng Ân Bái hình như hiểu lầm gì đó, kịch liệt từ chối, Xung Vân đạo trưởng không tiện thúc ép, đành lùi một bước, nghĩ ra biện pháp không ra sao thế này, đáng tiếc…
Đáng tiếc chưa để Ân Bái hiểu rõ khổ tâm của mình thì thù hận và sự cố chấp của Ân Bái đã đánh thức Niết Bàn cổ.
Hậu nhân Sơn Xuyên kiếm, cả đời bị vây trong “ý đồ riêng”, bẩm sinh nhu nhược, trước giờ chưa từng phản kháng, đành dùng ác ý để suy đoán người khác.
Nhóm người trong lúc vô tình đã phát hiện một chân tướng vu hồi như vậy, nhất thời đều không thốt nên lời, cùng lặng yên chốc lát.
Qua một lát, Ưng Hà Tòng lại nói:
– Nhưng mọi người không thấy lạ sao? Một vỏ kiếm như vậy, không cần đại sư, thợ bình thường chỉ cần có mẫu, muốn phục chế bao nhiêu là có bấy nhiêu, mọi người nói xem, Ân Văn Lam năm xưa kết minh Hải Thiên Nhất Sắc lại dùng vỏ kiếm – cái “hộp” này làm tín vật, có quá như trò đùa không?
Lý Thịnh nói:
– Như trò đùa đâu chỉ mỗi vật này, còn nhớ ấn của Hoắc gia tên gì không? “Thận Độc”, mọi người không cảm thấy hai chữ đó nghe như con ấn làm riêng chơi ư? Còn về “tín vật bảo chủ” toàn là mọi người nghe Hoắc Liên Đào tự biên tự diễn thôi. Ta nghĩ mãi không hiểu, Hoắc gia bảo không phải chỉ là một môn phái giang hồ do lão bảo chủ mang một đám đệ tử lập nên sao? Lão bảo chủ chỉ là kết giao bằng hữu rộng rãi chứ chưa bao giờ tự xưng võ lâm minh chủ, còn mọi người tới quy thuận Hoắc gia ở Nhạc Dương cũng là chuyện mấy năm trước sau khi Bắc Đẩu Liêm Trinh chết. Cho nên Hoắc lão bảo chủ năm xưa ở không làm một món tín vật to thế làm gì?
Chu Phỉ:
– Chuyện càng giống trò đùa hơn đâu phải huynh chưa từng gặp. Tín vật của Ngô tướng quân là khóa trường mệnh của Sở Sở, không phải khóa vàng mà là một cái khóa bạc không đáng tiền. Cái mà ông ngoại muội để lại càng kỳ cục hơn, năm ngoái lúc muội về nhà giúp mẹ dọn dẹp đồ đạc cũ, mẹ có cho muội xem. Đó là chiếc vòng tay mẹ đeo hồi bé, xấu chết đi được, không giấu gì mọi người, cái vòng đó nhỏ đến mức ngay cả ta cũng đeo không vừa, ngoại trừ nấu chảy ra đúc mới thì không thấy có giá trị gì. Nếu Khấu Đan biết thứ năm xưa bà ta liều mạng tìm chính là hai món đó chắc là bị tức tới mức đội mồ sống lại quá.
Một con dấu riêng tự mình làm chơi, một cái “hộp” đựng kiếm, một cái khóa bạc không đáng tiền, và một cái vòng tay bé gái… mấy người họ đang ở trong cấm địa Tề môn thần bí nhất trên đời, tán gẫu về thứ thần bí nhất giang hồ hiện nay – “Hải Thiên Nhất Sắc”, càng nói càng cảm thấy quái đản, cứ như “Hải Thiên Nhất Sắc” trong truyền thuyết vốn chỉ là một trò đùa.
Mọi người nhìn nhau chốc lát, Dương Cẩn không tưởng tượng nổi, hỏi:
– Cho nên? Đừng nói với ta là trên đời căn bản không có “Hải Thiên Nhất Sắc” gì hết nhé.
– Không thể nào, chắc chắn có Hải Thiên Nhất Sắc.
Ưng Hà Tòng nói:
– Cái chết của Sơn Xuyên kiếm và Lý lão trại chủ đều có điểm đáng ngờ, độc mà Hoắc Liên Đào hãm hại Hoắc lão bảo chủ từ đâu có, đến nay cũng chết không đối chứng, Ngô Phí tướng quân chết rồi mà thê nhi luôn bị Bắc Đẩu truy sát, tin tức tiết lộ thế nào? Còn Tề môn nữa, lánh đời nhiều năm, cuối cùng lại lộ vết tích, nếu nói một chuyện trong đó là trùng hợp thì ta tin, nhưng không thể chuyện nào cũng trùng hợp được.
Ưng Hà Tòng quanh năm đắm mình trong rắn độc và ếch nhái, ít nhiều có chút khác thường, gặp chuyện gì cũng hay liên tưởng tới âm mưu quỷ kế.
Chu Phỉ nói:
– Ý ngươi là mấy tiền bối đó đều chết vì minh ước Hải Thiên Nhất Sắc, bị người khác diệt khẩu. Điều này ta cũng từng nghĩ, nhưng sau đó thấy không ổn, nếu người hại họ chính là người năm xưa cùng họ lập ra minh ước thì thủ đoạn người đó tất nhiên vô cùng lợi hại. Hắn đã có thể giết người trong vô hình, vậy sao còn mặc cho tín vật hoa văn sóng nước phiêu bạt khắp nơi? Dù sao nếu là ta, ta chắc chắn không thể thờ ơ nhìn tín vật Hải Thiên Nhất Sắc rơi vào tay Trịnh La Sinh của núi Hoạt Nhân Tử Nhân.
Ưng Hà Tòng sững sờ:
– Cũng đúng.
Dương Cẩn nghe mà đầu như to ra, hoàn toàn rơi vào sương mù, chẳng hiểu gì ráo.
Y ngán ngẩm đi loanh quanh, xách một cái vỏ Sơn Xuyên kiếm bên cạnh lên áng chừng trong tay, nói:
– Nè, lão đạo sĩ mà các ngươi nói có phải có bệnh không? Nếu cảm thấy vỏ kiếm đó trong tay Ân Bái là mầm họa chứ không phải tham lam đồ của tiểu tử kia, thì hủy ngay trước mặt hắn ta, nói cho rõ ràng không phải được rồi sao? Có gì không nói thẳng mà lại đi làm mớ vô dụng này… Mấy đồ rởm này tuồn ra ngoài, Ân Bái thì an toàn rồi, nhưng “Hải Thiên Nhất Sắc” gì đó không phải càng ồn ào ầm ĩ hơn sao? Làm điều thừa thãi.
Ba người kia nghe vậy, toàn bộ đều sững sờ, ai nấy đều trầm mặc như có điều suy nghĩ.
Dương Cẩn lại nói to:
– Ta thấy nơi này không có đồ gì mới nữa, không phải các ngươi muốn tìm vết tích Niết Bàn cổ sao? Đi không đây?
Lời y chưa dứt, bên ngoài chợt truyền đến một tiếng hét chói tai.
Sơn cốc dưới đất tuy lớn nhưng vọng âm cũng rất mạnh.
Mọi người vội vã nối đuôi nhau ra khỏi hang đá, Lý Thịnh ôm vai Chu Phỉ, mang nàng dùng khinh công bay ra ngoài, hướng về phía âm thanh kia.
Đám lưu dân tán loạn khắp nơi không hiểu sao đều vây quanh một góc.
– Xảy ra chuyện gì?
Lý Thịnh cau mày:
– Không phải đã bảo mọi người đừng…
Lưu dân nhanh chóng nhường đường cho họ, giọng Lý Thịnh chợt im bặt. Chỗ trong tường đá có lẽ do có người không cẩn thận chạm phải, lộ ra một con đường nhỏ…
Bên trong là một cái xác khô trông rất khủng bố.
Lý Thịnh chỉ có một cánh tay kẹp cả đống vỏ trường kiếm khá bất tiện, đành ném hết xuống đất:
– Bên kia còn nhiều vỏ kiếm này lắm. Chỗ này thật tuyệt, dựa đại mảnh tường nào cũng có thể lọt vào trận pháp cơ quan, dù muội từng học chút ít cũng bị nhốt nửa ngày không ra được, quay lại nhớ bảo mọi người đừng đi lung tung.
Một chân Chu Phỉ bị mũi tên của Bắc quân bắn xuyên qua, nàng không dám chạm chân xuống đất, chỉ di chuyển nhờ gậy và chân còn lại, nàng nghi ngờ hễ mình ngồi là không đứng dậy nổi, đành chống hai tay lên gậy gỗ, hơi khom người nhìn xuống.
Dương Cẩn và Ưng Hà Tòng đều sáp lại.
Đoạn Nhạn đao của Dương Cẩn chém đến cong lưỡi đao, sau cơn đau lòng, y tạm thời tìm vật thay thế, ai ngờ lật tung chỗ ban nãy cũng không tìm được thanh kiếm nào, toàn bộ đều là vỏ kiếm, y lập tức vô cùng thất vọng:
– Cấm địa gì thế này? Ta thấy giống cái hầm để đồ linh tinh hơn.
Lý Thịnh đặt mấy vỏ kiếm kia quay mặt chính lên, xếp thành một hàng:
– Nhìn ra gì không?
Chu Phỉ cau mày, thấy trên mỗi vỏ kiếm đều có một hoa văn sóng nước ở cùng một vị trí, hầu như giống nhau như đúc.
Lý Thịnh nói:
– Tương truyền Sơn Xuyên kiếm cũng xuất xứ từ tay vị Trần đại sư ở Bồng Lai. Nhưng bản thân kiếm đã bị mất từ lâu, chỉ còn lại vỏ kiếm.
– “Sơn Xuyên kiếm” thực ra không phải kiếm mà là chỉ bản thân Ân đại hiệp.
Chu Phỉ sửa lại, tò mò đống vỏ Sơn Xuyên kiếm trông thế nào, bèn chống một chân và gậy, từ từ dịch về phía bọn Lý Thịnh.
Lý Thịnh thở dài:
– Qua đây, ca cõng muội.
Chu Phỉ khoát tay với hắn, nói tiếp:
– Ân đại hiệp cả đời không biết đã thay bao nhiêu thanh kiếm, đều là hàng dỏm phí ít tiền nhờ người ta rèn, còn không có tên khắc nữa là. “Ẩm Trầm Tuyết” của Nghê Thường phu nhân về sau không phải vẫn chưa giao cho Ân đại hiệp đấy sao? Muội thấy nguyên nhân lớn là do bà ấy thấy Ân đại hiệp tìm Trần đại sư mua bừa một thanh.
Ưng Hà Tòng lấy làm lạ:
– Nguyên nhân đó nghĩa là sao?
Chu Phỉ:
– Trần đại sư là danh gia đương thời, có vài món đồ ông làm là do người ta đặt, chẳng hạn như Vọng Xuân Sơn và Ẩm Trầm Tuyết, đều là binh khí có thể truyền lại đời sau. Nhưng có vài món đồ ông làm tương đối qua quít, ông gom nồi lấy sắt vụn đúc bừa vài thanh, không hề dụng tâm, không khắc tên, không kiểu cọ, thống nhất cho vào vỏ gỗ đem bán lấy tiền trợ cấp vật dụng trong nhà. Ta nghe Trần đại sư nói Ân đại hiệp chính là mua kiếm kiểu “trợ cấp vật dụng trong nhà” đó, Nghê Thường phu nhân về sau có lẽ đã hiểu, với cảnh giới của Ân đại hiệp năm xưa, nếu ông cầm một mảnh sắt thì mảnh sắt đó chính là “Sơn Xuyên kiếm”, nếu có người dùng danh kiếm đem tặng thì ngược lại có vẻ cố ý… đây chỉ là ta đoán, nghe qua rồi thôi, chưa chắc đúng.
Trong lúc nói chuyện, nhóm người họ từ từ tới chỗ Lý Thịnh đi ban nãy, thấy trên vách đá mở ra một cánh cửa nhỏ, bên trong có một động khác, nhìn không thấy đầu mút.
– Theo sát ta, trong này ba tầng trận pháp trùng điệp, biến ảo khó lường, bọn ta ban nãy bị vây bên trong gần một canh giờ mới ra được đấy.
Lý Thịnh vừa nói vừa giơ cao bó đuốc.
Ưng Hà Tòng xách một cái vỏ Sơn Xuyên kiếm, nói:
– Cũng tức là cái vỏ Sơn Xuyên kiếm mà khắp nơi tranh đoạt kia là sau này mới làm chứ không phải từ tay Trần đại sư. Ta đang nghĩ một chuyện, Ân Bái từng tới đây, nghe nói trước khi hắn ta có Niết Bàn cổ thì võ công vô cùng kém, nếu lúc đó tiền bối Tề môn ra tay tráo vỏ Sơn Xuyên kiếm trên người hắn ta, cô nói xem liệu hắn ta có nhận ra không?
Chu Phỉ ngẩn người, vì Mộc Tiểu Kiều từng nói với nàng, bây giờ truyền thuyết về Hải Thiên Nhất Sắc càng ngày càng quái gở, mấy nhân chứng như họ bắt đầu muốn thu lại tín vật được truyền đến tay hậu nhân, Ân Bái trước kia võ công kém cỏi, sau này thì nhân phẩm kém cỏi, Tề môn muốn thu lại vỏ kiếm trong tay hắn ta cũng hợp lý.
Nếu đúng là vậy, các đạo trưởng Tề môn không khỏi thiếu quang minh lỗi lạc.
Chu Phỉ nói:
– Ừm, lấy giả tráo thật, không phải là không có khả năng. Nhưng đồ giả làm một cái là đủ, làm nhiều thế làm gì?
– Vỏ kiếm rốt cuộc có gì đáng nghiên cứu?
Dương Cẩn rốt cuộc nghe không nổi nữa, không nhịn được chen mồm:
– Ta nói này, các ngươi có đúng là người dùng đao kiếm không vậy? Đao kiếm có phân tốt xấu cao thấp, còn vỏ kiếm… vỏ kiếm không phải chỉ là một cái hộp đựng sao? Ai lại nhìn ra thật giả? Kiếm khách Trung Nguyên các ngươi thịnh hành lấy gùi bỏ ngọc à?
Chu Phỉ nhướng mày:
– Giỏi lắm, Nam man, ngươi còn biết từ “lấy gùi bỏ ngọc” cơ đấy!
– Được rồi A Phỉ, sao muội vừa mở mắt là gây sự thế, Dương huynh nói đúng, vấn đề là ở đây.
Đuốc trong tay Lý Thịnh quơ lên, vô số hạt bụi li ti băng qua ngọn lửa phát ra tiếng “lép bép” nhỏ, đường nhỏ quanh co trong mật đạo khiến người ta bối rối đã đến phần cuối, họ tới một thạch thất nho nhỏ.
Trong thạch thất đặt mấy cái rương lớn, bên trong chất đầy vỏ kiếm giống nhau như đúc.
Hoa văn sóng nước, làm cũ, ngay cả vết xước nhỏ trên vỏ kiếm cũng hoàn toàn giống nhau, đừng nói là người ngoài như họ, e đích thân Ân Bái đến đây cũng phải ngớ người chốc lát.
Lý Thịnh tiện tay cắm đuốc vào chỗ hõm trên tường, giơ lên hai tờ giấy mỏng:
– Mỗi hoa văn sóng nước trên vỏ kiếm đều y hệt, ban nãy ta và Dương huynh đã thử in nó lên giấy, mọi người xem, hoàn toàn trùng khớp.
Ưng Hà Tòng chợt nói:
– Đợi đã, đó là gì?
Mọi người nhìn theo hướng ngón tay hắn chỉ, thấy trong góc có thứ gì đó đang phản quang.
Dương Cẩn đến gần:
– Đây là thạch anh hay băng…
– Đợi đã, Dương huynh đừng động vào!
Lý Thịnh vội hô lớn ngăn y lại.
Góc tường có một tấm kính nhỏ vô cùng sáng bóng, bên cạnh là một đám thạch anh trong suốt, mỗi cái đều có góc cạnh, ánh sáng từ bó đuốc trên tường chiếu xuống bị kính phản xạ, lại băng qua tầng tầng lớp lớp thạch anh, vừa vặn hội tụ thành một điểm trên một tấm gạch cạnh mấy rương lớn.
Lý Thịnh lấy bó đuốc trên tường xuống, quơ xung quanh, thay đổi góc độ, ánh sáng xuyên qua thạch anh lập tức phân tán, không thể tụ lại nữa.
– Quả nhiên, ban nãy vào luôn là Dương huynh cầm đuốc rọi thay ta.
Lý Thịnh đặt lại đuốc vào chỗ hõm, ngọn lửa chợt sáng chợt tắt, ánh sáng cũng dao động như có như không, rất không ổn định.
Ưng Hà Tòng tiến lên gõ gạch:
– Rỗng.
Nói rồi ngón tay hắn lần theo mép, móc nhẹ, nạy nó lên, lấy ra một phong thư.
Lý Thịnh:
– Cẩn thận!
– Không sao, không có độc.
Ưng Hà Tòng đặt lá thư dưới mũi, ngửi:
– Trên thư viết “hiền điệt Ân Bái thân khải” (1). Có phải Ân Bái chưa từng thấy lá thư này không?
(1) Thân khải: Đích thân mở, cũng chỉ người nhận thư.
Hắn vừa nói vừa mở thư ra đọc nhanh như gió, sau đó chợt trở nên trầm mặc, hồi lâu mới đưa thư cho Lý Thịnh bên cạnh, nhỏ giọng:
– Xin lỗi, hình như ban nãy ta lòng dạ tiểu nhân.
Dương Cẩn hỏi:
– Viết gì thế?
Ưng Hà Tòng nói:
– “Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội (2).” Những vỏ kiếm này vốn là chuẩn bị cho Ân Bái, nếu tuồn chúng ra ngoài, trên giang hồ sẽ có vô số “vỏ Sơn Xuyên kiếm”, đến lúc đó không ai phân biệt được thật giả…
(2) Kẻ thường dân vốn không có tội, chỉ vì có ngọc bích mà thành có tội.
Chu Phỉ than:
– Ân Bái sẽ giống như giọt nước giữa biển khơi, an toàn.
Thận Độc ấn của Hoắc gia xuất hiện ở Vĩnh Châu đã gây ra họa lớn nhường nào? Sơn Xuyên kiếm đương nhiên cũng giống vậy.
Khi đó Ân Bái bị dư nghiệt Thanh Long đả thương như chó mất chủ, được Tề môn đón về chữa trị, Xung Vân đạo trưởng đương nhiên nhìn ra được hắn ta lòng dạ hẹp hòi, tính tình cực đoan, bị bệnh từ trong bụng mẹ, gân cốt toàn thân không thể tập võ. Ân Bái chỉ xem Sơn Xuyên kiếm là một di vật vô cùng quan trọng do tiên phụ để lại chứ không biết “Hải Thiên Nhất Sắc” rốt cuộc là gì, hắn ta lại không có năng lực tự bảo vệ, vỏ Sơn Xuyên kiếm rơi vào tay há chẳng phải như trẻ con ôm thỏi vàng sao?
Lý Thịnh xem thư xong, nói:
– Xung Vân đạo trưởng từng nhắc với Ân Bái là để mình bảo quản vỏ Sơn Xuyên kiếm, nhưng Ân Bái hình như hiểu lầm gì đó, kịch liệt từ chối, Xung Vân đạo trưởng không tiện thúc ép, đành lùi một bước, nghĩ ra biện pháp không ra sao thế này, đáng tiếc…
Đáng tiếc chưa để Ân Bái hiểu rõ khổ tâm của mình thì thù hận và sự cố chấp của Ân Bái đã đánh thức Niết Bàn cổ.
Hậu nhân Sơn Xuyên kiếm, cả đời bị vây trong “ý đồ riêng”, bẩm sinh nhu nhược, trước giờ chưa từng phản kháng, đành dùng ác ý để suy đoán người khác.
Nhóm người trong lúc vô tình đã phát hiện một chân tướng vu hồi như vậy, nhất thời đều không thốt nên lời, cùng lặng yên chốc lát.
Qua một lát, Ưng Hà Tòng lại nói:
– Nhưng mọi người không thấy lạ sao? Một vỏ kiếm như vậy, không cần đại sư, thợ bình thường chỉ cần có mẫu, muốn phục chế bao nhiêu là có bấy nhiêu, mọi người nói xem, Ân Văn Lam năm xưa kết minh Hải Thiên Nhất Sắc lại dùng vỏ kiếm – cái “hộp” này làm tín vật, có quá như trò đùa không?
Lý Thịnh nói:
– Như trò đùa đâu chỉ mỗi vật này, còn nhớ ấn của Hoắc gia tên gì không? “Thận Độc”, mọi người không cảm thấy hai chữ đó nghe như con ấn làm riêng chơi ư? Còn về “tín vật bảo chủ” toàn là mọi người nghe Hoắc Liên Đào tự biên tự diễn thôi. Ta nghĩ mãi không hiểu, Hoắc gia bảo không phải chỉ là một môn phái giang hồ do lão bảo chủ mang một đám đệ tử lập nên sao? Lão bảo chủ chỉ là kết giao bằng hữu rộng rãi chứ chưa bao giờ tự xưng võ lâm minh chủ, còn mọi người tới quy thuận Hoắc gia ở Nhạc Dương cũng là chuyện mấy năm trước sau khi Bắc Đẩu Liêm Trinh chết. Cho nên Hoắc lão bảo chủ năm xưa ở không làm một món tín vật to thế làm gì?
Chu Phỉ:
– Chuyện càng giống trò đùa hơn đâu phải huynh chưa từng gặp. Tín vật của Ngô tướng quân là khóa trường mệnh của Sở Sở, không phải khóa vàng mà là một cái khóa bạc không đáng tiền. Cái mà ông ngoại muội để lại càng kỳ cục hơn, năm ngoái lúc muội về nhà giúp mẹ dọn dẹp đồ đạc cũ, mẹ có cho muội xem. Đó là chiếc vòng tay mẹ đeo hồi bé, xấu chết đi được, không giấu gì mọi người, cái vòng đó nhỏ đến mức ngay cả ta cũng đeo không vừa, ngoại trừ nấu chảy ra đúc mới thì không thấy có giá trị gì. Nếu Khấu Đan biết thứ năm xưa bà ta liều mạng tìm chính là hai món đó chắc là bị tức tới mức đội mồ sống lại quá.
Một con dấu riêng tự mình làm chơi, một cái “hộp” đựng kiếm, một cái khóa bạc không đáng tiền, và một cái vòng tay bé gái… mấy người họ đang ở trong cấm địa Tề môn thần bí nhất trên đời, tán gẫu về thứ thần bí nhất giang hồ hiện nay – “Hải Thiên Nhất Sắc”, càng nói càng cảm thấy quái đản, cứ như “Hải Thiên Nhất Sắc” trong truyền thuyết vốn chỉ là một trò đùa.
Mọi người nhìn nhau chốc lát, Dương Cẩn không tưởng tượng nổi, hỏi:
– Cho nên? Đừng nói với ta là trên đời căn bản không có “Hải Thiên Nhất Sắc” gì hết nhé.
– Không thể nào, chắc chắn có Hải Thiên Nhất Sắc.
Ưng Hà Tòng nói:
– Cái chết của Sơn Xuyên kiếm và Lý lão trại chủ đều có điểm đáng ngờ, độc mà Hoắc Liên Đào hãm hại Hoắc lão bảo chủ từ đâu có, đến nay cũng chết không đối chứng, Ngô Phí tướng quân chết rồi mà thê nhi luôn bị Bắc Đẩu truy sát, tin tức tiết lộ thế nào? Còn Tề môn nữa, lánh đời nhiều năm, cuối cùng lại lộ vết tích, nếu nói một chuyện trong đó là trùng hợp thì ta tin, nhưng không thể chuyện nào cũng trùng hợp được.
Ưng Hà Tòng quanh năm đắm mình trong rắn độc và ếch nhái, ít nhiều có chút khác thường, gặp chuyện gì cũng hay liên tưởng tới âm mưu quỷ kế.
Chu Phỉ nói:
– Ý ngươi là mấy tiền bối đó đều chết vì minh ước Hải Thiên Nhất Sắc, bị người khác diệt khẩu. Điều này ta cũng từng nghĩ, nhưng sau đó thấy không ổn, nếu người hại họ chính là người năm xưa cùng họ lập ra minh ước thì thủ đoạn người đó tất nhiên vô cùng lợi hại. Hắn đã có thể giết người trong vô hình, vậy sao còn mặc cho tín vật hoa văn sóng nước phiêu bạt khắp nơi? Dù sao nếu là ta, ta chắc chắn không thể thờ ơ nhìn tín vật Hải Thiên Nhất Sắc rơi vào tay Trịnh La Sinh của núi Hoạt Nhân Tử Nhân.
Ưng Hà Tòng sững sờ:
– Cũng đúng.
Dương Cẩn nghe mà đầu như to ra, hoàn toàn rơi vào sương mù, chẳng hiểu gì ráo.
Y ngán ngẩm đi loanh quanh, xách một cái vỏ Sơn Xuyên kiếm bên cạnh lên áng chừng trong tay, nói:
– Nè, lão đạo sĩ mà các ngươi nói có phải có bệnh không? Nếu cảm thấy vỏ kiếm đó trong tay Ân Bái là mầm họa chứ không phải tham lam đồ của tiểu tử kia, thì hủy ngay trước mặt hắn ta, nói cho rõ ràng không phải được rồi sao? Có gì không nói thẳng mà lại đi làm mớ vô dụng này… Mấy đồ rởm này tuồn ra ngoài, Ân Bái thì an toàn rồi, nhưng “Hải Thiên Nhất Sắc” gì đó không phải càng ồn ào ầm ĩ hơn sao? Làm điều thừa thãi.
Ba người kia nghe vậy, toàn bộ đều sững sờ, ai nấy đều trầm mặc như có điều suy nghĩ.
Dương Cẩn lại nói to:
– Ta thấy nơi này không có đồ gì mới nữa, không phải các ngươi muốn tìm vết tích Niết Bàn cổ sao? Đi không đây?
Lời y chưa dứt, bên ngoài chợt truyền đến một tiếng hét chói tai.
Sơn cốc dưới đất tuy lớn nhưng vọng âm cũng rất mạnh.
Mọi người vội vã nối đuôi nhau ra khỏi hang đá, Lý Thịnh ôm vai Chu Phỉ, mang nàng dùng khinh công bay ra ngoài, hướng về phía âm thanh kia.
Đám lưu dân tán loạn khắp nơi không hiểu sao đều vây quanh một góc.
– Xảy ra chuyện gì?
Lý Thịnh cau mày:
– Không phải đã bảo mọi người đừng…
Lưu dân nhanh chóng nhường đường cho họ, giọng Lý Thịnh chợt im bặt. Chỗ trong tường đá có lẽ do có người không cẩn thận chạm phải, lộ ra một con đường nhỏ…
Bên trong là một cái xác khô trông rất khủng bố.
Bình luận facebook