Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 80
Những nguyên lý trong “Cơ xảo tập” đang lần lần tương ứng với cảnh tượng trước mắt.
Đột nhiên, Lỗ Nhất Khí nhãn thần bừng sáng, tựa như vừa bừng tỉnh khỏi cơn mơ. Cậu chậm rãi nói:
– Lần này đúng là đã tới đích rồi! Đây chính là khảm diện bảo vệ báu vật mà tổ tiên để lại.
– Khảm diện này quả là hoành tráng, để tạo ra nó không biết phải tiêu tốn bao nhiêu thời gian sức lực! – Nhậm Hoả Cuồng trông xa nhìn gần một hồi, bất giác thốt lên lời cảm thán.
– “Dựa hình dần biến đổi, tích thế trong vô hình”, anh Phó nói đúng, khảm diện này đã lợi dụng địa hình vốn có, lại dùng cây cối đất đá để che chắn nguỵ trang nhằm đánh lừa thị giác con người. Anh Phó, anh cho tôi mượn bức tranh Lộng phủ của sư phụ anh xem một lát, chưa biết chừng tiền bối đã lưu lại manh mối gì trong đó cũng nên! – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới bức tranh với thủ pháp lạ lùng trong tay Phó Lợi Khai.
Phó Lợi Khai không chút chần chừ lập tức lấy bức tranh ra đưa cho Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí dùng năm đầu ngón tay trái đỡ lấy bên dưới bức tranh, sau đó đưa mu bàn tay xoa nhẹ trên mặt tranh một lát. Xúc giác mẫn cảm đã cho cậu thấy bề mặt bức tranh không hề bằng phẳng. Cậu bèn quay người hướng về phía mặt trời, năm đầu ngón tay vẫn đỡ lấy bức tranh, đưa bức tranh nằm trên cùng một mặt phẳng với đôi mắt, sau đó liên tục thay đổi cách nhìn, tìm kiếm xem liệu có huyền cơ nào ẩn chứa bên trong.
Đến khi Lỗ Nhất Khí nheo mắt thành bên to bên nhỏ, thì Phó Lợi Khai kinh ngạc đến há hốc cả miệng mồm, khuôn mặt lệch hẳn sang một phía.
Và Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy! Cậu đã phát hiện ra một thế giới lung linh huyền diệu ẩn giấu trong bức tranh. Trong tranh có núi, có rừng, có nước, còn có những văn tự đủ màu sặc sỡ. Chỉ có thứ màu Cung hội thái đời Nguyên mới tạo nên được hiệu quả thần kỳ đến vậy. Cung hội thái pha với dầu băng tinh, độ đậm đặc kết dính rất cao, nên có thể phủ nhiều lớp màu lên nhau tạo thành một độ dày nhất định. Lợi dụng độ dày của màu dầu để ẩn tàng một địa đồ lập thể là không quá khó khăn, thế nhưng phải lợi dụng ánh sáng chiếu nghiêng và góc nhìn thích hợp mới có thể nhận ra.
Lỗ Nhất Khí không chỉ nhìn thấy địa đồ, mà còn nhìn thấy một đường chỉ dẫn màu đỏ, vị trí mà nó chạy qua chính là lối đi từ đường mòn Sam Đỏ tới trước khe núi Hai Gối. Chỉ khác ở chỗ, trên tấm địa đồ lập thể, từ rừng sam đỏ tới trước khe núi không phải là dốc lên xuống nhấp nhô, mà là một đường dốc xuống liên tục gồm ba khúc với ba độ dốc khác nhau, khúc sau dốc hơn khúc trước.
Tấm địa đồ còn cho cậu biết ở đây có một khảm diện lớn, do vài dốc núi nối tiếp tạo thành, kết hợp với những rừng cây, đỉnh núi xung quanh mà phát huy tác dụng. Đáng tiếc là tấm địa đồ phát hiện hơi muộn, nên cũng chẳng còn ý nghĩa gì.
Song vẫn còn một thứ hữu ích, chính là những văn tự màu sắc rực rỡ trên tấm địa đồ. Trong đó có những điều mà bác cậu chưa kịp nói, mà thậm chí có lẽ bản thân ông cũng không biết.
Đoạn văn tự chép rằng, hơn hai nghìn năm trước, Lỗ Ban cùng đệ tử phải tìm hung huyệt, điểm cát địa, dựng ám cấu, giấu ngũ bảo, nên nhân lực vật lực đều cạn kiệt. Sau khi xây xong ám cấu giấu ba bảo bối đầu tiên, Lỗ gia đã hao hụt nguyên khí nặng nề, bởi vậy việc chôn giấu hai bảo bối cuối cùng có phần lao lực. Để đưa địa bảo đi chôn giấu ở phía đông, Lỗ gia đã dốc hết toàn bộ nguyên vật liệu quý hiếm trong nhà, chế tạo nên một con thuyền đi biển vô cùng kiên cố. Khi đó một đệ tử Lỗ gia tên gọi Lỗ Tử Lang mang theo Địa bảo, dắt môt người con, một người cháu ruột, một người cháu họ khởi hành từ trên sông Dương Tử, theo sông ra biển, từ đó biệt tăm biệt tích không một hồi âm. Bảo bối cuối cùng là Kim bảo ở phía đông bắc, Lỗ gia quyết định cất giấu cuối cùng, là vì đông bắc rừng núi rậm rạp, có thể lấy nguyên liệu tại chỗ, nhanh chóng hoàn thành đại nghiệp.
Lúc này Lỗ gia chỉ còn lại chín đệ tử tráng niên, nhất tề mang theo Kim bảo ngược lên đông bắc, cũng không thấy quay về. Đến tận một nghìn năm sau, Lỗ gia hưng thịnh trở lại, nhân tài Ban môn mới ngược lên vùng đông bắc tìm kiếm hậu duệ của người cất giấu và bảo vệ bảo bối năm xưa. Hậu duệ Ban môn nơi đây tuy số người thưa thớt, song đã tự thành phái riêng, không muốn quay trở lại Trung Nguyên, mà nguyện lưu lại nơi đây đời đời kiếp kiếp truyền thừa nhiệm vụ bảo vệ bảo bối cho tới ngày nay.
Mọi người chỉ biết đứng im nhìn Lỗ Nhất Khí không chớp mắt. Không ai nói câu nào, vì sợ ảnh hưởng tới cậu.
Cuối cùng, Lỗ Nhất Khí cũng đã rời mắt khỏi bức tranh, quay sang nhìn Phó Lợi Khai mà nói:
– Nội dung trên bức tranh này là bí mật môn phái của anh, cũng là bí mật của Ban môn.
Phó Lợi Khai lúc này mới khép miệng lại, lắp bắp:
– Cậu nói xem!
– Một địa đồ ẩn tàng, dẫn tới nơi giấu bảo. Giữ bảo đời đời truyền, không chịu về Trung Nguyên! – Lời Lỗ Nhất Khí có phần kín đáo vắn tắt, song Phó Lợi Khai đã hiểu. Trong mắt gã ánh lên những tia sáng tinh nhanh, khuôn mặt cứng nhắc chợt hoạt bát hẳn lên bởi một vẻ hưng phấn và xúc động lạ thường. Gã chăm chú nghe như nuốt từng câu, từng chữ của Lỗ Nhất Khí. Sau cùng, ánh sáng trong mắt chợt mờ đi, cần cổ căng thẳng cũng hơi chùng xuống.
– Không sai! Cậu quả đúng là người tôi chờ đợi. Thực ra ngay từ đầu tôi đã không hề nói dối, tôi thực sự không biết mình có phải là đệ tử Ban môn hay không. Sư phụ chưa từng nói cho tôi biết, chỉ căn dặn tôi ở yên nơi này đợi người mang tín vật Lộng phủ tới, hơn nữa, người này phải nhận ra được bí ẩn giấu trong bức tranh, hoặc có thể nói ra sự tích về tổ sư của tôi. Ban đầu, cậu không phát hiện ra bí mật trong tranh, cũng không kể gì về tổ sư gia, nên tôi đã nghi ngờ cậu. Song từ khi gặp cậu, tôi đã thấy cậu bản lĩnh phi phàm, nên muốn nhập bọn đi theo, tìm kiếm bảo cấu hung huyệt, khai quật bảo bối, hoàn thành di nguyện của tổ tiên.
– Cho nên ngay từ đầu ngươi đã giả ngây giả ngô, tới khi chúng ta thay đổi đường lối, đi về phía đường mòn Sam Đỏ, ngươi mới cảm thấy hào hứng, bắt đầu thể hiện bản thân? – Lời Nhậm Hoả Cuồng hệt như búa thợ rèn, nhát nào cũng trúng.
Khuôn mặt méo xệch của Phó Lợi Khai giật lên một cái, không biết là muốn bày tỏ sự hối lỗi hay hổ thẹn:
– Khu vực này thực sự tôi chưa từng tới, khảm diện lại càng mù tịt, có điều sư phụ trước đây đã từng nhiều lần dẫn tôi tới đường mòn Sam Đỏ, bởi vậy tôi khá thông thạo con đường dẫn đến nơi này. Sư phụ còn dặn rằng, các vị tổ tiên năm xưa khi đến đây xây dựng ám cấu đã không ngờ rằng phương đông bắc giá rét không có nhiều gỗ lạt như lời đồn đại, nên đành phải căn cứ theo địa hình địa thế tự nhiên để tiến hành cải tạo, việc đó đòi hỏi một khoảng thời gian rất dài, trước sau đã tiêu hao tinh lực của vài thế hệ. Hơn nữa, do môi trường biến hoá, cây cối sinh trưởng, nên phải liên tục tu sửa chỉnh đốn. Song trước khi về chầu trời, sư phụ bảo tôi không cần phải làm những việc này nữa, vì người dự đoán rằng chỉ qua vài năm, người tìm bảo bối sẽ tới.
Phó Lợi Khai không còn phải giả bộ ngây ngô thô vụng để che giấu bản thân, nên nói năng cũng thoải mái hơn, thi thoảng lại chêm vào một vài thuật ngữ của kẻ đi rừng.
– Sao cơ? Ban môn làm nhiệm vụ bảo vệ báu vật ở đây, lại chỉ lưu lại có một mình ngươi? – Lão mù ngạc nhiên hỏi.
Phó Lợi Khai cười nhăn nhó mà nói:
– Nơi đây dân cư thưa thớt, xây dựng nhà cửa cũng đại khái qua loa, không cần đến thợ khéo. Bởi vậy, ở đây không thể kiếm sống nhờ kỹ nghệ, nên tôi mới phải chuyển sang buôn bán gỗ rừng. Thu nạp đồ đệ lại càng khó khăn. Hơn nữa từ đời sư phụ tôi trở về trước còn phải liên tục sửa sang giữ gìn khảm diện, làm những công việc tiêu tốn sức lực mà chẳng được lợi lộc gì. Ngoài những người chịu ơn sư phụ giữ hồn (cứu mạng) như tôi đây, không có kẻ nào muốn theo nghề cả.
– Bức tranh Lộng phủ của anh tuy dùng màu vẽ cổ xưa, song độ tuổi giấy vẽ lại chưa đầy trăm năm, tức là thời gian vẽ chưa lâu, phải chăng do sư phụ của anh vẽ ra rồi lưu lại? – Lỗ Nhất Khí vẫn rất tò mò với bức tranh đang cầm trên tay.
– Đúng vậy! Sư phụ tôi nói rằng, những bậc tổ tiên bảo vệ bảo bối vốn không để lại bất kỳ hình vẽ nào, song vì thợ rừng qua lại ngày một đông đúc, bảo cấu đã nhiều lần bị người ta phát giác, song may là các bậc tổ tiên đã thiết kế nên khảm diện thần kỳ, nhờ vậy mà chưa ai phá được ám cấu. Song cũng có hai cao nhân từng lần được vào bên trong, nên các bậc tổ tiên đã phải liều mạng mới tiêu diệt được họ. Không ai dám đảm bảo ngày sau lại có cao nhân bản lĩnh cao siêu đột nhập, phát hiện ra bảo bối. Thế là khoảng trăm năm trước, các vị sư gia, tằng sư gia đã quyết định trồng cây bụi theo cách cục “rào trúc cắm nghiêng” tại lối vào, bít chặt đường đi, lại trồng cây bụi dày đặc bên rìa khảm diện, biến rìa khảm thành tường khảm.
– Nói như vậy thì anh đã biết rõ đường đi từ trước, hoá ra suốt dọc đường anh coi chúng tôi là trò hề à? – Thuỷ Băng Hoa có phần tức tối.
– Không phải không phải! Tôi biết cách xem bức tranh, song lại không thể nhìn ra con đường này. Cô nhìn tôi mà xem, tôi luyện chiêu “ngược sáng tìm gai”, luyện đến mặt mũi méo xệch đến thế này đây!
Nghe Phó Lợi Khai nói vậy, lại nhìn vào bộ mặt của gã, Thuỷ Băng Hoa không nhịn được phải phì cười.
– Nói mãi từ nãy đến giờ, vậy rốt cuộc đây là khảm diện gì? – Tùng Đắc Kim đứng cạnh đã bắt đầu sốt ruột.
Bầu không khí bỗng trở nên lặng phắc, một hồi lâu sau, vẫn là Lỗ Nhất Khí lên tiếng trước:
– Khảm diện này chưa từng có sách nào nhắc tới bởi vậy không biết gọi tên là gì. Nó dựa vào địa hình địa thế tự nhiên vốn có rồi tu sửa, cải tạo thêm mà thành. Mọi người hãy nhìn mấy gốc cây to lớn trên sườn dốc xem, có phát hiện ra điều gì bất thường không? Chúng chính là một trong những vật che mắt, là mồi nhử!
– Có thấy gì đâu! – Tùng Đắc Kim không biết là mắt mờ hay đầu đất mà không nhận ra có điểm gì khác thường.
– Hãy nhìn kỹ mà xem! Có phải tỷ lệ giữa tán cây và thân cây có sự khác biệt hay không? Anh đừng so sánh hai cây ở gần nhau, vì độ chênh lệnh quá nhỏ. Anh hãy so sánh cây đầu tiên với cây cuối cùng sẽ thấy rõ. Chúng tuy cao lớn, song tuổi cây lại chưa lâu, có lẽ do người ta bứng đến trồng ở đây! – Lỗ Nhất Khí giải thích.
– Cái này có thể nhìn ra, song vẫn có thứ không thể nhìn ra được. Ví dụ những ngọn núi mà đứng từ đây có thể nhìn thấy, do bị rừng rậm chạy dài che phủ nên không thể nhìn rõ phần chân núi. Bởi vậy, không còn thứ gì để đối chiếu, nên chúng ta không thể nhận ra rằng những ngọn núi kia vì bị ăn mòn phong hoá nên biến dạng cùng nghiêng về một phía. Tập hợp tất cả những yếu tố này lại sẽ gây ra sai lệch về thị giác, dốc xuống lại ngỡ là dốc lên. Nên đỉnh dốc kỳ thực là một chỗ ngoặt đột ngột chuyển sang con dốc dựng đứng. Trên suốt đường đi, chúng ta vô thức lầm tưởng xuống dốc là lên dốc, sau ba lần gấp khúc liên tiếp, bước chân đã tích tụ dược một sức mạnh tiềm tàng rất lớn. Khi đến chỗ chuyển ngoặt cuối cùng, người trong khảm diện sẽ chẳng khác nào lao chân xuống vực, tự quăng mình xuống dốc núi thẳng đứng.
Lỗ Nhất Khí nhìn lướt qua một lượt những khuôn mặt chăm chú lắng nghe, rồi nói tiếp:
– Lần này may mà có chú Hạ! Chú đã dựa vào cảm giác của bước chân để phân biệt độ dốc, nếu không chúng ta đều đã bỏ mạng trong chính khảm diện bảo vệ bảo bối của nhà mình. Kỳ thực, chúng ta đều ít nhiều cảm thấy bước chân có chỗ bất thường, song lại quá tin tưởng vào cặp mắt.
Nguyên lý của khảm diện đã sáng tỏ, nhưng vẫn phải tìm cách để vượt qua khảm diện. Thuỷ Băng Hoa đã đưa ra một phương pháp chuẩn xác đáng tin: đi theo khảm diên, tức rìa khảm.
Rìa khảm đã biến thành một bức tường cây ken dày rậm rạp, nhưng Tùng Đắc Kim và Quỷ Nhãn Tam kẻ chém người phạt một hồi, bên rìa rừng cây bụi đã mau chóng xuất hiện một lối đi rộng chừng một thước. Đi lại trên con đường hẹp này vài bước, lập tức cảm thấy độ lên xuống của dốc núi đảo ngược trở lại. Họ cứ phạt cây mà đi, cuối cùng đã thuận lợi vượt qua “đỉnh dốc”.
Tình hình dưới dốc giống hệt như Phó Lợi Khai đã miêu tả, đầy rẫy xác chết. Cảnh tượng vô cùng thảm khốc, sặc mùi máu tanh, khiến Thuỷ Băng Hoa phải quay đi nôn thốc nôn tháo.
Băng phủ kín trên dốc xuống, dưới chân dốc là nguyên một khối băng dày. Trên vách đá gần chân dốc là tầng tầng lớp lớp nhũ băng. Bên dưới còn có rất nhiều hài cốt, phần lớn đã bị chôn vùi dưới lớp băng, chỉ có rải rác vài cỗ thi hài dựng đứng trên mặt băng, chĩa thẳng lên bầu trời xám xịt.
Trên bề mặt khối băng dưới chân dốc đã đóng cứng một lớp băng đỏ sẫm, là do máu người đông kết mà thành. Những người này trông như mới chết chưa lâu, bị ướp trong băng giá bên ngoài và nhũ băng trong cơ thể, cảnh tượng sống động đến kinh hoàng.
Đây mới là nút lẫy chết cuối cùng của khảm diện dốc ba đoạn, từ đỉnh dốc trượt chân lao xuống theo vách băng trơn trượt, càng trượt càng nhanh, cho tới khi đâm vào tảng đá phủ kín nhũ băng. Cú va đập rất mạnh sẽ khiến cho nhũ băng gãy rời, ào ào lao xuống, xuyên suốt cơ thể. Có thể thấy khi trời ấm băng tan, nơi đây là một thác nước, nếu trượt chân sẽ ngã xuống đầm sâu bên dưới thác nước, kết cục sẽ là bị vòng xoáy trong đầm nhận xuống đáy sâu hun hút.
Trong những xác chết còn mới, có sát thủ áo đen của hội Minh tử tiêm đao, có đao thủ trong khảm diện Công tập vi. Nhưng chỉ có thể phân biệt dựa vào trang phục và vũ khí bên người, vì cơ thể mặt mày đều đã giập nát đến không thể nhận ra. Tư thế tử vong đã đóng băng nỗi đau đớn tuyệt vọng của họ trong cơn giãy giụa cuối cùng, mặt băng phía trước bị cào bới thành nhiều rãnh sâu hoắm, và những đầu ngón tay đều trơ xương trắng nhởn.
Người của đối thủ đã vượt qua đây khá lâu, cũng có nghĩa là họ phải hành động thật cấp tốc. Mọi người vô cùng thận trọng giẫm lên mặt băng dày vượt qua vách núi, không phải vì sợ mặt băng rạn nứt, mà e ngại bên dưới lớp băng có bố trí khảm diện.
Nhưng những bậc tiền bối của Lỗ gia xem ra đều là những người trung hậu, từ lúc vượt qua đầm băng cho tới khi đến trước khe núi Hai Gối, bọn họ không còn gặp thêm khảm diện nào nữa. Kỳ thực “bố trí theo hình, theo hình mà biến” nói thì dễ, song bắt tay vào thực hiện không những vô cùng gian khổ, phức tạp, mà còn phải chịu sự hạn chế của rất nhiều nhân tố khác như địa hình, địa thế, cục diện rất đồ sộ đến khó tưởng tượng.
Nhìn từ xa lại, lối vào khe núi Hai Gối khói sương vấn vít như chốn thần tiên. Song khi tới gần, mới biết bên trong sương mù cuồn cuộn, chỉ cách vài bước đã không nhìn rõ mặt người, khác gì động yêu hang quỷ. Lại thêm hơi nóng dồn dập phả ra, khiến dám sương mù hệt như hơi nước đang ngùn ngụt bốc lên từ một chảo nước sôi khổng lồ.
Cả đám đều sững sờ khựng lại, không ai dám phán đoán trước mặt họ là một thế giới quái dị ra sao. Chỉ nhìn vào hơi sương mù mịt, chí ít có thể đoán rằng nhiệt độ trước khe núi rất cao, chưa biết chừng bên trong còn cao hơn nữa. Lẽ nào họ sắp phải bước vào quỷ vực băng hoả giao tranh?
Trời đã xế chiều, ánh tịch dương trải dài trên rừng núi, nhuốm sắc vàng kim lên những ngọn cao. Từ lưng núi trở xuống sắc ngả âm trầm, đặc biệt là những sườn dốc sấp bóng mặt trời lại càng thẫm đen u ám, tựa như trời đất sắp đến hồi tàn, khiến lòng người cũng ngột ngạt nặng trĩu.
Bước vào trong khe núi, sương mù càng dày đặc, trong hoàn cảnh này, con mắt nhìn thấu đêm đen của Quỷ Nhãn Tam cũng trở nên vô dụng. Lối vào tuy không rộng, song bước vào trong lại phân thành mấy ngả đường, không biết được đâu mới là lối đi chính xác.
Cảm giác của Lỗ Nhất Khí bắt đầu trở nên rối loạn, không phải do sương mù dày đặc, cũng không phải do đường đi phức tạp, mà do bên trong có một làn khí lớp lớp lan toả, đợt đợt tràn trề, xuyên qua sương mù mà tới. Trong làn khí hỗn độn rất nhiều thứ, may mắn có, nguy hiểm có, trong trẻo có, tanh tưởi có, khiến Lỗ Nhất Khí tâm tư xáo trộn dữ dội, trong lòng dấy lên một nỗi bồn chồn giận dữ khó mà kiểm soát nổi. Cậu hiểu rằng, đây là nơi giao thoa tụ hội của những thứ tốt đẹp nhất và hung dữ nhất, nếu muốn hoàn thành đại sự, trước hết phải trấn tĩnh tư duy, điều hoà tâm thái.
– Hãy dừng lại đây nghỉ ngơi một lát! Mọi người đã đi hơn một ngày trời mà chưa ăn uống gì! – Lỗ Nhất Khí nói xong câu này, cũng cảm thấy lấy làm lạ. Lao lực suốt một ngày đêm, tại sao không ai cảm thấy mệt mỏi hay đói khát? Sức hấp dẫn của bảo bối quả thực đáng sợ.
– Đây là lối ra vào thung lũng, phía trước lại có sương mù dày đặc che mắt. Dừng chân ở đây, nếu đối thủ lén lút tiếp cận, bất ngờ đánh lén, chúng ta sẽ trở tay không kịp. Cho dù đối thủ không có ý định tập kích, song nơi đây cũng là con đường tất yếu phải đi qua, chẳng may đụng đầu, khó tránh một trường kịch chiến. Lại thêm hai bên đều là vách núi dựng đứng, kiểu gì cũng là chỗ nguy hiểm cần phải tránh xa! – Lão mù nói rất có lý, hơn nữa câu cuối cùng không chỉ là kinh nghiệm giang hồ mà còn là thường thức trong quân sự.
Quỷ Nhãn Tam chọn lấy một con đường, và mọi người lại tiếp tục đi về phía trước. Nhìn vào hướng nghiêng của cây cỏ và đá vụn hai bên đường để phán đoán, có vẻ như con dường chạy dốc lên trên. Đi lên trên cao sẽ thoát khỏi đám sương mù, nguy hiểm sẽ giảm bớt, khả năng đụng đầu đối thủ cũng thấp hơn.
Đoàn người cứ đi cho đến tận khi nhìn thấy ánh tà dương mới dừng lại. Núi Hai Gối không cao, lên tới đoạn này, lớp sương mù đã ở dưới chân họ.
Họ chia nhau chỗ lương khô cuối cùng còn sót lại, rồi đổ đầy tuyết vào trong những vật đựng mang theo. Bởi vì sau khi tiếp tục hành trình, không ai biết trước liệu mình có còn sống sót để ăn bữa tiếp hay không.
Nhân lúc trời còn chưa tối hẳn, Lỗ Nhất Khí và mọi người đứng ở trên cao quan sát kỹ lưỡng địa hình trong thung lũng.
Địa thế dưới lòng thung lũng không thực bằng phẳng, có hình chữ nhật hẹp dài, song chính giữa có môt vùng hơi nhô cao so với xung quanh. Trong thung lũng không có cây cối, chỉ có một lớp cỏ khô rất dày che phủ
– Ồ, hình như đây chính là “Thần ngao phụ đỉnh”*! – Nhậm Hoả Cuồng kêu lên.
– Không phải! Có lẽ là “Long bàn ngao đỉnh”**. Lão Nhậm mới chỉ thấy bên dưới thung lũng địa thế bằng phẳng, ở giữa nhô lên, xung quanh lõm xuống, hình giống mai rùa; bốn xung quanh là vách núi, bốn góc là đỉnh núi, toàn bộ hình thành cách cục Ngao đỉnh. Nhưng mọi người hãy chú ý quan sát mà xem, thế núi xung quanh thung lũng lên xuống nhấp nhô, trập trùng không dứt, nổi lên từ cửa thung lũng, rồi lại quay về cửa thung lũng, giống hệt con rồng lớn cuộn tròn, rõ ràng là cách cục Bàn long. Hai cách cục này kết hợp với nhau, hẳn là cục tướng Long bàn ngao đỉnh! – Phó Lợi Khai phóng tay chỉ trỏ, nói thao thao đến mức nước bọt toé tung, bộ dạng vô cùng đắc ý.
* Có nghĩa là rùa thần cõng vạc. (Nd)
** Có nghĩa là rồng cuộn vạc rùa. (Nd)
– Thần ngao phụ đỉnh là bảo địa phong thuỷ thuộc hàng công hầu khanh tướng, tìm được bảo địa như vậy đã là hiếm có. Nếu đặt mộ tổ phía dưới đầu ngao, có thể đời đời quyền cao chức trọng. Còn Long bàn ngao đỉnh lại càng thần kỳ, đó là cục tướng nắm giữ thiên hạ. Không biết con cháu nhà ai có được phúc phận này? – Lão mù nghe Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai bàn luận, bất giác cũng thốt lên đầy cảm khái.
– Nghe nói gần đây có vùng đất cư trú và cúng tế của tổ tiên người Mãn. Tộc Mãn năm xưa mẹ goá con côi nhập quan mà giành được thiên hạ, không chừng là nhờ phúc của phong thuỷ chôn này! – Lỗ Nhất Khí đã có dự cảm này từ trước. Hốt Tất Liệt nhờ Thổ bảo đoạt thiên hạ, Chu Nguyên Chương nhờ Hoả bảo nắm cực quyền, người Mãn giành được Trung Nguyên, chưa biết chừng cũng có liên quan tới Kim bảo vùng đông bắc.
Đột nhiên, Lỗ Nhất Khí nhãn thần bừng sáng, tựa như vừa bừng tỉnh khỏi cơn mơ. Cậu chậm rãi nói:
– Lần này đúng là đã tới đích rồi! Đây chính là khảm diện bảo vệ báu vật mà tổ tiên để lại.
– Khảm diện này quả là hoành tráng, để tạo ra nó không biết phải tiêu tốn bao nhiêu thời gian sức lực! – Nhậm Hoả Cuồng trông xa nhìn gần một hồi, bất giác thốt lên lời cảm thán.
– “Dựa hình dần biến đổi, tích thế trong vô hình”, anh Phó nói đúng, khảm diện này đã lợi dụng địa hình vốn có, lại dùng cây cối đất đá để che chắn nguỵ trang nhằm đánh lừa thị giác con người. Anh Phó, anh cho tôi mượn bức tranh Lộng phủ của sư phụ anh xem một lát, chưa biết chừng tiền bối đã lưu lại manh mối gì trong đó cũng nên! – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới bức tranh với thủ pháp lạ lùng trong tay Phó Lợi Khai.
Phó Lợi Khai không chút chần chừ lập tức lấy bức tranh ra đưa cho Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí dùng năm đầu ngón tay trái đỡ lấy bên dưới bức tranh, sau đó đưa mu bàn tay xoa nhẹ trên mặt tranh một lát. Xúc giác mẫn cảm đã cho cậu thấy bề mặt bức tranh không hề bằng phẳng. Cậu bèn quay người hướng về phía mặt trời, năm đầu ngón tay vẫn đỡ lấy bức tranh, đưa bức tranh nằm trên cùng một mặt phẳng với đôi mắt, sau đó liên tục thay đổi cách nhìn, tìm kiếm xem liệu có huyền cơ nào ẩn chứa bên trong.
Đến khi Lỗ Nhất Khí nheo mắt thành bên to bên nhỏ, thì Phó Lợi Khai kinh ngạc đến há hốc cả miệng mồm, khuôn mặt lệch hẳn sang một phía.
Và Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy! Cậu đã phát hiện ra một thế giới lung linh huyền diệu ẩn giấu trong bức tranh. Trong tranh có núi, có rừng, có nước, còn có những văn tự đủ màu sặc sỡ. Chỉ có thứ màu Cung hội thái đời Nguyên mới tạo nên được hiệu quả thần kỳ đến vậy. Cung hội thái pha với dầu băng tinh, độ đậm đặc kết dính rất cao, nên có thể phủ nhiều lớp màu lên nhau tạo thành một độ dày nhất định. Lợi dụng độ dày của màu dầu để ẩn tàng một địa đồ lập thể là không quá khó khăn, thế nhưng phải lợi dụng ánh sáng chiếu nghiêng và góc nhìn thích hợp mới có thể nhận ra.
Lỗ Nhất Khí không chỉ nhìn thấy địa đồ, mà còn nhìn thấy một đường chỉ dẫn màu đỏ, vị trí mà nó chạy qua chính là lối đi từ đường mòn Sam Đỏ tới trước khe núi Hai Gối. Chỉ khác ở chỗ, trên tấm địa đồ lập thể, từ rừng sam đỏ tới trước khe núi không phải là dốc lên xuống nhấp nhô, mà là một đường dốc xuống liên tục gồm ba khúc với ba độ dốc khác nhau, khúc sau dốc hơn khúc trước.
Tấm địa đồ còn cho cậu biết ở đây có một khảm diện lớn, do vài dốc núi nối tiếp tạo thành, kết hợp với những rừng cây, đỉnh núi xung quanh mà phát huy tác dụng. Đáng tiếc là tấm địa đồ phát hiện hơi muộn, nên cũng chẳng còn ý nghĩa gì.
Song vẫn còn một thứ hữu ích, chính là những văn tự màu sắc rực rỡ trên tấm địa đồ. Trong đó có những điều mà bác cậu chưa kịp nói, mà thậm chí có lẽ bản thân ông cũng không biết.
Đoạn văn tự chép rằng, hơn hai nghìn năm trước, Lỗ Ban cùng đệ tử phải tìm hung huyệt, điểm cát địa, dựng ám cấu, giấu ngũ bảo, nên nhân lực vật lực đều cạn kiệt. Sau khi xây xong ám cấu giấu ba bảo bối đầu tiên, Lỗ gia đã hao hụt nguyên khí nặng nề, bởi vậy việc chôn giấu hai bảo bối cuối cùng có phần lao lực. Để đưa địa bảo đi chôn giấu ở phía đông, Lỗ gia đã dốc hết toàn bộ nguyên vật liệu quý hiếm trong nhà, chế tạo nên một con thuyền đi biển vô cùng kiên cố. Khi đó một đệ tử Lỗ gia tên gọi Lỗ Tử Lang mang theo Địa bảo, dắt môt người con, một người cháu ruột, một người cháu họ khởi hành từ trên sông Dương Tử, theo sông ra biển, từ đó biệt tăm biệt tích không một hồi âm. Bảo bối cuối cùng là Kim bảo ở phía đông bắc, Lỗ gia quyết định cất giấu cuối cùng, là vì đông bắc rừng núi rậm rạp, có thể lấy nguyên liệu tại chỗ, nhanh chóng hoàn thành đại nghiệp.
Lúc này Lỗ gia chỉ còn lại chín đệ tử tráng niên, nhất tề mang theo Kim bảo ngược lên đông bắc, cũng không thấy quay về. Đến tận một nghìn năm sau, Lỗ gia hưng thịnh trở lại, nhân tài Ban môn mới ngược lên vùng đông bắc tìm kiếm hậu duệ của người cất giấu và bảo vệ bảo bối năm xưa. Hậu duệ Ban môn nơi đây tuy số người thưa thớt, song đã tự thành phái riêng, không muốn quay trở lại Trung Nguyên, mà nguyện lưu lại nơi đây đời đời kiếp kiếp truyền thừa nhiệm vụ bảo vệ bảo bối cho tới ngày nay.
Mọi người chỉ biết đứng im nhìn Lỗ Nhất Khí không chớp mắt. Không ai nói câu nào, vì sợ ảnh hưởng tới cậu.
Cuối cùng, Lỗ Nhất Khí cũng đã rời mắt khỏi bức tranh, quay sang nhìn Phó Lợi Khai mà nói:
– Nội dung trên bức tranh này là bí mật môn phái của anh, cũng là bí mật của Ban môn.
Phó Lợi Khai lúc này mới khép miệng lại, lắp bắp:
– Cậu nói xem!
– Một địa đồ ẩn tàng, dẫn tới nơi giấu bảo. Giữ bảo đời đời truyền, không chịu về Trung Nguyên! – Lời Lỗ Nhất Khí có phần kín đáo vắn tắt, song Phó Lợi Khai đã hiểu. Trong mắt gã ánh lên những tia sáng tinh nhanh, khuôn mặt cứng nhắc chợt hoạt bát hẳn lên bởi một vẻ hưng phấn và xúc động lạ thường. Gã chăm chú nghe như nuốt từng câu, từng chữ của Lỗ Nhất Khí. Sau cùng, ánh sáng trong mắt chợt mờ đi, cần cổ căng thẳng cũng hơi chùng xuống.
– Không sai! Cậu quả đúng là người tôi chờ đợi. Thực ra ngay từ đầu tôi đã không hề nói dối, tôi thực sự không biết mình có phải là đệ tử Ban môn hay không. Sư phụ chưa từng nói cho tôi biết, chỉ căn dặn tôi ở yên nơi này đợi người mang tín vật Lộng phủ tới, hơn nữa, người này phải nhận ra được bí ẩn giấu trong bức tranh, hoặc có thể nói ra sự tích về tổ sư của tôi. Ban đầu, cậu không phát hiện ra bí mật trong tranh, cũng không kể gì về tổ sư gia, nên tôi đã nghi ngờ cậu. Song từ khi gặp cậu, tôi đã thấy cậu bản lĩnh phi phàm, nên muốn nhập bọn đi theo, tìm kiếm bảo cấu hung huyệt, khai quật bảo bối, hoàn thành di nguyện của tổ tiên.
– Cho nên ngay từ đầu ngươi đã giả ngây giả ngô, tới khi chúng ta thay đổi đường lối, đi về phía đường mòn Sam Đỏ, ngươi mới cảm thấy hào hứng, bắt đầu thể hiện bản thân? – Lời Nhậm Hoả Cuồng hệt như búa thợ rèn, nhát nào cũng trúng.
Khuôn mặt méo xệch của Phó Lợi Khai giật lên một cái, không biết là muốn bày tỏ sự hối lỗi hay hổ thẹn:
– Khu vực này thực sự tôi chưa từng tới, khảm diện lại càng mù tịt, có điều sư phụ trước đây đã từng nhiều lần dẫn tôi tới đường mòn Sam Đỏ, bởi vậy tôi khá thông thạo con đường dẫn đến nơi này. Sư phụ còn dặn rằng, các vị tổ tiên năm xưa khi đến đây xây dựng ám cấu đã không ngờ rằng phương đông bắc giá rét không có nhiều gỗ lạt như lời đồn đại, nên đành phải căn cứ theo địa hình địa thế tự nhiên để tiến hành cải tạo, việc đó đòi hỏi một khoảng thời gian rất dài, trước sau đã tiêu hao tinh lực của vài thế hệ. Hơn nữa, do môi trường biến hoá, cây cối sinh trưởng, nên phải liên tục tu sửa chỉnh đốn. Song trước khi về chầu trời, sư phụ bảo tôi không cần phải làm những việc này nữa, vì người dự đoán rằng chỉ qua vài năm, người tìm bảo bối sẽ tới.
Phó Lợi Khai không còn phải giả bộ ngây ngô thô vụng để che giấu bản thân, nên nói năng cũng thoải mái hơn, thi thoảng lại chêm vào một vài thuật ngữ của kẻ đi rừng.
– Sao cơ? Ban môn làm nhiệm vụ bảo vệ báu vật ở đây, lại chỉ lưu lại có một mình ngươi? – Lão mù ngạc nhiên hỏi.
Phó Lợi Khai cười nhăn nhó mà nói:
– Nơi đây dân cư thưa thớt, xây dựng nhà cửa cũng đại khái qua loa, không cần đến thợ khéo. Bởi vậy, ở đây không thể kiếm sống nhờ kỹ nghệ, nên tôi mới phải chuyển sang buôn bán gỗ rừng. Thu nạp đồ đệ lại càng khó khăn. Hơn nữa từ đời sư phụ tôi trở về trước còn phải liên tục sửa sang giữ gìn khảm diện, làm những công việc tiêu tốn sức lực mà chẳng được lợi lộc gì. Ngoài những người chịu ơn sư phụ giữ hồn (cứu mạng) như tôi đây, không có kẻ nào muốn theo nghề cả.
– Bức tranh Lộng phủ của anh tuy dùng màu vẽ cổ xưa, song độ tuổi giấy vẽ lại chưa đầy trăm năm, tức là thời gian vẽ chưa lâu, phải chăng do sư phụ của anh vẽ ra rồi lưu lại? – Lỗ Nhất Khí vẫn rất tò mò với bức tranh đang cầm trên tay.
– Đúng vậy! Sư phụ tôi nói rằng, những bậc tổ tiên bảo vệ bảo bối vốn không để lại bất kỳ hình vẽ nào, song vì thợ rừng qua lại ngày một đông đúc, bảo cấu đã nhiều lần bị người ta phát giác, song may là các bậc tổ tiên đã thiết kế nên khảm diện thần kỳ, nhờ vậy mà chưa ai phá được ám cấu. Song cũng có hai cao nhân từng lần được vào bên trong, nên các bậc tổ tiên đã phải liều mạng mới tiêu diệt được họ. Không ai dám đảm bảo ngày sau lại có cao nhân bản lĩnh cao siêu đột nhập, phát hiện ra bảo bối. Thế là khoảng trăm năm trước, các vị sư gia, tằng sư gia đã quyết định trồng cây bụi theo cách cục “rào trúc cắm nghiêng” tại lối vào, bít chặt đường đi, lại trồng cây bụi dày đặc bên rìa khảm diện, biến rìa khảm thành tường khảm.
– Nói như vậy thì anh đã biết rõ đường đi từ trước, hoá ra suốt dọc đường anh coi chúng tôi là trò hề à? – Thuỷ Băng Hoa có phần tức tối.
– Không phải không phải! Tôi biết cách xem bức tranh, song lại không thể nhìn ra con đường này. Cô nhìn tôi mà xem, tôi luyện chiêu “ngược sáng tìm gai”, luyện đến mặt mũi méo xệch đến thế này đây!
Nghe Phó Lợi Khai nói vậy, lại nhìn vào bộ mặt của gã, Thuỷ Băng Hoa không nhịn được phải phì cười.
– Nói mãi từ nãy đến giờ, vậy rốt cuộc đây là khảm diện gì? – Tùng Đắc Kim đứng cạnh đã bắt đầu sốt ruột.
Bầu không khí bỗng trở nên lặng phắc, một hồi lâu sau, vẫn là Lỗ Nhất Khí lên tiếng trước:
– Khảm diện này chưa từng có sách nào nhắc tới bởi vậy không biết gọi tên là gì. Nó dựa vào địa hình địa thế tự nhiên vốn có rồi tu sửa, cải tạo thêm mà thành. Mọi người hãy nhìn mấy gốc cây to lớn trên sườn dốc xem, có phát hiện ra điều gì bất thường không? Chúng chính là một trong những vật che mắt, là mồi nhử!
– Có thấy gì đâu! – Tùng Đắc Kim không biết là mắt mờ hay đầu đất mà không nhận ra có điểm gì khác thường.
– Hãy nhìn kỹ mà xem! Có phải tỷ lệ giữa tán cây và thân cây có sự khác biệt hay không? Anh đừng so sánh hai cây ở gần nhau, vì độ chênh lệnh quá nhỏ. Anh hãy so sánh cây đầu tiên với cây cuối cùng sẽ thấy rõ. Chúng tuy cao lớn, song tuổi cây lại chưa lâu, có lẽ do người ta bứng đến trồng ở đây! – Lỗ Nhất Khí giải thích.
– Cái này có thể nhìn ra, song vẫn có thứ không thể nhìn ra được. Ví dụ những ngọn núi mà đứng từ đây có thể nhìn thấy, do bị rừng rậm chạy dài che phủ nên không thể nhìn rõ phần chân núi. Bởi vậy, không còn thứ gì để đối chiếu, nên chúng ta không thể nhận ra rằng những ngọn núi kia vì bị ăn mòn phong hoá nên biến dạng cùng nghiêng về một phía. Tập hợp tất cả những yếu tố này lại sẽ gây ra sai lệch về thị giác, dốc xuống lại ngỡ là dốc lên. Nên đỉnh dốc kỳ thực là một chỗ ngoặt đột ngột chuyển sang con dốc dựng đứng. Trên suốt đường đi, chúng ta vô thức lầm tưởng xuống dốc là lên dốc, sau ba lần gấp khúc liên tiếp, bước chân đã tích tụ dược một sức mạnh tiềm tàng rất lớn. Khi đến chỗ chuyển ngoặt cuối cùng, người trong khảm diện sẽ chẳng khác nào lao chân xuống vực, tự quăng mình xuống dốc núi thẳng đứng.
Lỗ Nhất Khí nhìn lướt qua một lượt những khuôn mặt chăm chú lắng nghe, rồi nói tiếp:
– Lần này may mà có chú Hạ! Chú đã dựa vào cảm giác của bước chân để phân biệt độ dốc, nếu không chúng ta đều đã bỏ mạng trong chính khảm diện bảo vệ bảo bối của nhà mình. Kỳ thực, chúng ta đều ít nhiều cảm thấy bước chân có chỗ bất thường, song lại quá tin tưởng vào cặp mắt.
Nguyên lý của khảm diện đã sáng tỏ, nhưng vẫn phải tìm cách để vượt qua khảm diện. Thuỷ Băng Hoa đã đưa ra một phương pháp chuẩn xác đáng tin: đi theo khảm diên, tức rìa khảm.
Rìa khảm đã biến thành một bức tường cây ken dày rậm rạp, nhưng Tùng Đắc Kim và Quỷ Nhãn Tam kẻ chém người phạt một hồi, bên rìa rừng cây bụi đã mau chóng xuất hiện một lối đi rộng chừng một thước. Đi lại trên con đường hẹp này vài bước, lập tức cảm thấy độ lên xuống của dốc núi đảo ngược trở lại. Họ cứ phạt cây mà đi, cuối cùng đã thuận lợi vượt qua “đỉnh dốc”.
Tình hình dưới dốc giống hệt như Phó Lợi Khai đã miêu tả, đầy rẫy xác chết. Cảnh tượng vô cùng thảm khốc, sặc mùi máu tanh, khiến Thuỷ Băng Hoa phải quay đi nôn thốc nôn tháo.
Băng phủ kín trên dốc xuống, dưới chân dốc là nguyên một khối băng dày. Trên vách đá gần chân dốc là tầng tầng lớp lớp nhũ băng. Bên dưới còn có rất nhiều hài cốt, phần lớn đã bị chôn vùi dưới lớp băng, chỉ có rải rác vài cỗ thi hài dựng đứng trên mặt băng, chĩa thẳng lên bầu trời xám xịt.
Trên bề mặt khối băng dưới chân dốc đã đóng cứng một lớp băng đỏ sẫm, là do máu người đông kết mà thành. Những người này trông như mới chết chưa lâu, bị ướp trong băng giá bên ngoài và nhũ băng trong cơ thể, cảnh tượng sống động đến kinh hoàng.
Đây mới là nút lẫy chết cuối cùng của khảm diện dốc ba đoạn, từ đỉnh dốc trượt chân lao xuống theo vách băng trơn trượt, càng trượt càng nhanh, cho tới khi đâm vào tảng đá phủ kín nhũ băng. Cú va đập rất mạnh sẽ khiến cho nhũ băng gãy rời, ào ào lao xuống, xuyên suốt cơ thể. Có thể thấy khi trời ấm băng tan, nơi đây là một thác nước, nếu trượt chân sẽ ngã xuống đầm sâu bên dưới thác nước, kết cục sẽ là bị vòng xoáy trong đầm nhận xuống đáy sâu hun hút.
Trong những xác chết còn mới, có sát thủ áo đen của hội Minh tử tiêm đao, có đao thủ trong khảm diện Công tập vi. Nhưng chỉ có thể phân biệt dựa vào trang phục và vũ khí bên người, vì cơ thể mặt mày đều đã giập nát đến không thể nhận ra. Tư thế tử vong đã đóng băng nỗi đau đớn tuyệt vọng của họ trong cơn giãy giụa cuối cùng, mặt băng phía trước bị cào bới thành nhiều rãnh sâu hoắm, và những đầu ngón tay đều trơ xương trắng nhởn.
Người của đối thủ đã vượt qua đây khá lâu, cũng có nghĩa là họ phải hành động thật cấp tốc. Mọi người vô cùng thận trọng giẫm lên mặt băng dày vượt qua vách núi, không phải vì sợ mặt băng rạn nứt, mà e ngại bên dưới lớp băng có bố trí khảm diện.
Nhưng những bậc tiền bối của Lỗ gia xem ra đều là những người trung hậu, từ lúc vượt qua đầm băng cho tới khi đến trước khe núi Hai Gối, bọn họ không còn gặp thêm khảm diện nào nữa. Kỳ thực “bố trí theo hình, theo hình mà biến” nói thì dễ, song bắt tay vào thực hiện không những vô cùng gian khổ, phức tạp, mà còn phải chịu sự hạn chế của rất nhiều nhân tố khác như địa hình, địa thế, cục diện rất đồ sộ đến khó tưởng tượng.
Nhìn từ xa lại, lối vào khe núi Hai Gối khói sương vấn vít như chốn thần tiên. Song khi tới gần, mới biết bên trong sương mù cuồn cuộn, chỉ cách vài bước đã không nhìn rõ mặt người, khác gì động yêu hang quỷ. Lại thêm hơi nóng dồn dập phả ra, khiến dám sương mù hệt như hơi nước đang ngùn ngụt bốc lên từ một chảo nước sôi khổng lồ.
Cả đám đều sững sờ khựng lại, không ai dám phán đoán trước mặt họ là một thế giới quái dị ra sao. Chỉ nhìn vào hơi sương mù mịt, chí ít có thể đoán rằng nhiệt độ trước khe núi rất cao, chưa biết chừng bên trong còn cao hơn nữa. Lẽ nào họ sắp phải bước vào quỷ vực băng hoả giao tranh?
Trời đã xế chiều, ánh tịch dương trải dài trên rừng núi, nhuốm sắc vàng kim lên những ngọn cao. Từ lưng núi trở xuống sắc ngả âm trầm, đặc biệt là những sườn dốc sấp bóng mặt trời lại càng thẫm đen u ám, tựa như trời đất sắp đến hồi tàn, khiến lòng người cũng ngột ngạt nặng trĩu.
Bước vào trong khe núi, sương mù càng dày đặc, trong hoàn cảnh này, con mắt nhìn thấu đêm đen của Quỷ Nhãn Tam cũng trở nên vô dụng. Lối vào tuy không rộng, song bước vào trong lại phân thành mấy ngả đường, không biết được đâu mới là lối đi chính xác.
Cảm giác của Lỗ Nhất Khí bắt đầu trở nên rối loạn, không phải do sương mù dày đặc, cũng không phải do đường đi phức tạp, mà do bên trong có một làn khí lớp lớp lan toả, đợt đợt tràn trề, xuyên qua sương mù mà tới. Trong làn khí hỗn độn rất nhiều thứ, may mắn có, nguy hiểm có, trong trẻo có, tanh tưởi có, khiến Lỗ Nhất Khí tâm tư xáo trộn dữ dội, trong lòng dấy lên một nỗi bồn chồn giận dữ khó mà kiểm soát nổi. Cậu hiểu rằng, đây là nơi giao thoa tụ hội của những thứ tốt đẹp nhất và hung dữ nhất, nếu muốn hoàn thành đại sự, trước hết phải trấn tĩnh tư duy, điều hoà tâm thái.
– Hãy dừng lại đây nghỉ ngơi một lát! Mọi người đã đi hơn một ngày trời mà chưa ăn uống gì! – Lỗ Nhất Khí nói xong câu này, cũng cảm thấy lấy làm lạ. Lao lực suốt một ngày đêm, tại sao không ai cảm thấy mệt mỏi hay đói khát? Sức hấp dẫn của bảo bối quả thực đáng sợ.
– Đây là lối ra vào thung lũng, phía trước lại có sương mù dày đặc che mắt. Dừng chân ở đây, nếu đối thủ lén lút tiếp cận, bất ngờ đánh lén, chúng ta sẽ trở tay không kịp. Cho dù đối thủ không có ý định tập kích, song nơi đây cũng là con đường tất yếu phải đi qua, chẳng may đụng đầu, khó tránh một trường kịch chiến. Lại thêm hai bên đều là vách núi dựng đứng, kiểu gì cũng là chỗ nguy hiểm cần phải tránh xa! – Lão mù nói rất có lý, hơn nữa câu cuối cùng không chỉ là kinh nghiệm giang hồ mà còn là thường thức trong quân sự.
Quỷ Nhãn Tam chọn lấy một con đường, và mọi người lại tiếp tục đi về phía trước. Nhìn vào hướng nghiêng của cây cỏ và đá vụn hai bên đường để phán đoán, có vẻ như con dường chạy dốc lên trên. Đi lên trên cao sẽ thoát khỏi đám sương mù, nguy hiểm sẽ giảm bớt, khả năng đụng đầu đối thủ cũng thấp hơn.
Đoàn người cứ đi cho đến tận khi nhìn thấy ánh tà dương mới dừng lại. Núi Hai Gối không cao, lên tới đoạn này, lớp sương mù đã ở dưới chân họ.
Họ chia nhau chỗ lương khô cuối cùng còn sót lại, rồi đổ đầy tuyết vào trong những vật đựng mang theo. Bởi vì sau khi tiếp tục hành trình, không ai biết trước liệu mình có còn sống sót để ăn bữa tiếp hay không.
Nhân lúc trời còn chưa tối hẳn, Lỗ Nhất Khí và mọi người đứng ở trên cao quan sát kỹ lưỡng địa hình trong thung lũng.
Địa thế dưới lòng thung lũng không thực bằng phẳng, có hình chữ nhật hẹp dài, song chính giữa có môt vùng hơi nhô cao so với xung quanh. Trong thung lũng không có cây cối, chỉ có một lớp cỏ khô rất dày che phủ
– Ồ, hình như đây chính là “Thần ngao phụ đỉnh”*! – Nhậm Hoả Cuồng kêu lên.
– Không phải! Có lẽ là “Long bàn ngao đỉnh”**. Lão Nhậm mới chỉ thấy bên dưới thung lũng địa thế bằng phẳng, ở giữa nhô lên, xung quanh lõm xuống, hình giống mai rùa; bốn xung quanh là vách núi, bốn góc là đỉnh núi, toàn bộ hình thành cách cục Ngao đỉnh. Nhưng mọi người hãy chú ý quan sát mà xem, thế núi xung quanh thung lũng lên xuống nhấp nhô, trập trùng không dứt, nổi lên từ cửa thung lũng, rồi lại quay về cửa thung lũng, giống hệt con rồng lớn cuộn tròn, rõ ràng là cách cục Bàn long. Hai cách cục này kết hợp với nhau, hẳn là cục tướng Long bàn ngao đỉnh! – Phó Lợi Khai phóng tay chỉ trỏ, nói thao thao đến mức nước bọt toé tung, bộ dạng vô cùng đắc ý.
* Có nghĩa là rùa thần cõng vạc. (Nd)
** Có nghĩa là rồng cuộn vạc rùa. (Nd)
– Thần ngao phụ đỉnh là bảo địa phong thuỷ thuộc hàng công hầu khanh tướng, tìm được bảo địa như vậy đã là hiếm có. Nếu đặt mộ tổ phía dưới đầu ngao, có thể đời đời quyền cao chức trọng. Còn Long bàn ngao đỉnh lại càng thần kỳ, đó là cục tướng nắm giữ thiên hạ. Không biết con cháu nhà ai có được phúc phận này? – Lão mù nghe Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai bàn luận, bất giác cũng thốt lên đầy cảm khái.
– Nghe nói gần đây có vùng đất cư trú và cúng tế của tổ tiên người Mãn. Tộc Mãn năm xưa mẹ goá con côi nhập quan mà giành được thiên hạ, không chừng là nhờ phúc của phong thuỷ chôn này! – Lỗ Nhất Khí đã có dự cảm này từ trước. Hốt Tất Liệt nhờ Thổ bảo đoạt thiên hạ, Chu Nguyên Chương nhờ Hoả bảo nắm cực quyền, người Mãn giành được Trung Nguyên, chưa biết chừng cũng có liên quan tới Kim bảo vùng đông bắc.
Bình luận facebook