Hồi 8 - Thưởng cô lệnh
Lại nói về trận ác chiến giữa Nhạn doanh và quân Thái Bình trong Hoàng Thiên Đăng, chém giết tới mức "Đầu lăn lông lốc như dưa rụng; Thây chất tầng tầng tựa núi cao". Trong đám hỗn loạn, Nhạn Bài Lý Tứ đinh xông thẳng tới lấy đầu Chiếm Thiên hầu, chẳng ngờ bị trúng một viên đạn, may mà gã nhanh nhẹn hơn người, tránh qua cực nhanh, nhưng cự ly quá gần nên cũng bị viên đạn chì bắn trúng một con mắt, lệch một chút nữa thì chỉ e đã bắn suốt óc rồi.
Nhạn Bài Lý Tứ hết sức dũng mãnh, không để ý đến một bên mắt bầy nhầy máu thịt, chồm dậy như phát cuồng, cả người lẫn đao chồm xuống, một tay chộp cứng mớ tóc rối bời của Chiếm Thiên hầu, giật hắn từ dưới đất lên, kẹp vào bụng, nắm cứng cần cổ, bắt sống giữa trận tiền.
Quân Thái Bình thấy đại thế đã mất, lập tức tan vỡ tứ tung, quẳng mũ bỏ giáp, tranh nhau chạy trốn, những tên không chạy kịp thì vứt vũ khí đầu hàng. Lính dõng Nhạn doanh chém giết hăng máu không thiết đến việc bắt tù binh, cứ thế vung đao đuổi giết, thấy kẻ sống là chém, thấy còn chạy trốn là giết. Trận ác chiến kéo dàì tới gần tối mới kết dừng, mặt nước trong đầm đều nhuộm đỏ máu tươi.
Nhạn doanh sai người về gấp Linh Châu báo tiệp, còn đại đội người ngựa đều ở lại để chạy chữa người bị thương, chôn cất người chết. từ xưa tới nay, chuyện binh đao hung hiểm, thường có câu rằng: "Giết địch một nghìn, mình cũng tổn thất tám trăm", tuy một trận phá tan đạo quân lớn của Việt khấu, bắt sống thủ lĩnh Chiếm Thiên hầu nhưng khi điểm lại số quân thì lính dõng, thợ săn nhạn và cánh mãi lộ cũng tử thương hơn hai nghìn người.
Nhạn Bài Lý Tứ hỏng một mắt, mặt đầm đìa máu tươi, may mà viên đạn không xuyên vào não. Viên lang trung trong quân đội vội chạy đến phải dùng thủy ngân làm tiêu tan viên đạn chì đang khảm trong hốc mắt mới giữ được tính mạng của gã.
Trương Tiểu Biện đứng bên canh, trông thấy Nhạn Bài Lý Tứ bị thương bặng và thi thể sõng soài của Tôn Đại Ma tử, hắn muốn khóc rống lên nhưng không thể nào rơi được nước mắt, trái lại trong lòng hắn ớn lạnh, hối hận khôn nguôi: "Nếu sớm biết trường vinh hoa phú quý mà Lâm Trung Lão Quỷ mách bảo được đáp bằng tính mạng của an hem thủ túc thì Tam gia ta thà rằng không cần đến nó cho xong. Tôn Đại Ma Tử và ta đã kết nghĩa sống chết, hồi trước hai người cùng chạy nạn khỏi làng Kim Quan, trước nay luôn đỡ đần bên nhau, gắn bó keo sơn, sau này, cả bọn kết bái thành huynh đệ sống chết có nhau, chỉ mong có một ngày được cùng hưởng vinh hoa phú quý, thế mà ngờ đâu tới hôm nay thì âm dương cách biệt rồi.
Trước nay, Trương Tiểu Biện thấy chuyện chết chóc không ít lần nhưng đều không liên can gì tới mình, nhìn nhiều thì tronmg lòng cảm thấy cũng bình thường, nhưng tới giờ phút này, mất đi một huynh đệ thủ túc mới hiểu rõ thế nào là nỗi đau khổ của cảnh sinh li tử biệt. Sau trận đánh, kẻ hảo hán đường đường nọ đã không còn nữa rồi, reong lòng Trương Tiểu Biện làm sao vui cho được? Hắn định từ bỏ chức doanh quan của Nhạn doanh, tính các cao chạy xa bay là thượng sách, nhưng nghĩ ở một góc độ khác, lúc này thiên hạ đang đại loạn, trên đời làm gì còn nơi trú ngụ bình an? Tới giờ thì đã không còn đường nào quay lại nữa, nếu trước đây không cắm đầu cám cổ đi theo đường này, thì Tôn Đại Ma Tử sao phải chết oan uổng? Trong đầu hắn nghĩ ngợi miên man, một lúc lâu cũng không định đoạt được chủ ý nào.
Nhạn Linh NHi đắp xong vết thương cho huynh trưởng rồi cả hai cùng khuyên giải Trương Tiểu Biện, đánh trận thì sao tránh khỏi chết người, hơn nữa chúng ta không làm lễ dâng tù báo công nữa mà đem tên đầu sỏ của giặc ra, mổ bụng moi tim để tế vong hồn các anh em đã chết trận. Trương Tiểu Biện trong lòng bấn loạn, gật đầu nói: "Mọi việc xin Tứ ca cứ làm chủ cho"
Lúc ấy trời đã sụp tối hẳn, trong Hoàng Thiên Đăng lạnh lẽo, thê lương đang bao phủ một bầu mây đen thảm đạm, lính dõng của Nhạn doanh đã thu niệm, chôn cát các tử thi đâu đấy thiết lập một cái bài vị và bàn thờ sơ sài trước phần mộ. Nhạn Bài Lý Tứ sai thủ hạ trói giật cánh khuỷu của Chiếm Thiên hầu giải ra trước linh vị.
Chiếm Thiên hầu nọ bị trúng một mũi tên vào cai còn chưa được nhổ ra. Từ miệng vết thương, máu tươi nhỏ thành từng giọt, quỳ sụp xuống trước mặt Nhạn Bài Lý Tứ, va vi rằng: "Xin tráng sĩ tha mạng cho tôi... "
Nhạn Bái Lý Tứ rút phắt cương đao ra tay, lạnh lão chỉ vào từng hàng linh vị mà rằng: "Tha cho tính mạng của nhà ngươi không khó, choir cần các anh em đang nằm đây gật đầu đồng ý thì tat ha". Nói đoạn, vung tay chém xuống, một làn gió mát thổi qua, cái đầu của Chiếm Thiên hầu lăn xuống, máu tươi từ cổ họng phun lên trời. Nhạn Bài Lý Tứ lại sai hai tên đao phủ đứng chờ lệnh ở bên cạnh, tiến lên moi tim của hắn ra, đặt trước bàn thờ tế lễ.
Những người chết trận cảu Nhạn doanh phần lớn là con em của cánh nhạn dân trong Hoàng Thiên Đăng. KHi bàn thờ vừa lập thì tiếng khóc than đã nổi lên ầm ĩ, nào là vợ khóc chồng, nào là mẹ khóc con, cũng có nhiều người khóc thương cho anh em thủ túc tử nạn. Theo lệ của cánh lục lâm, một viên tiêu quan vừa tung tiền giấy, vàng mã, vừa tụng bài " Thưởng cô lệnh". Bài lệnh rằng:
"Non xa nước xa xa;
Hai bầu trời dắp một tòa cầu ngang.
Bày rõ ràng cơm phần cúng tế;
Thắp hương lên thêm lễ tiền vàng.
Gọi hòn hào kiệt hãy khoan;
Trên đường về tới suối vàng dừng chân.
Nghe lời ngâm Thưởng cô một lát,
Ngày trước từng đối awmtj kết giao;
Ân tình nhật nguyệt khác nào;
Đã sâu tựa bể lại cao tột cùng.
Đồng một lòng làm quân ứng mộ.
Liễu sa trường amsu đỏ chiến bào.
Nay anh em, đã về đâu;
Âm dương cách trở khi nào thấy đây.
Tiền giấy này tuy rằng chẳng mấy;
Mông linh hồn nhận lấy làm vui.
Cầu cho hồn sớm lên trời;
Phù hộ may mắn cho người còn đây.
Ở kiếp này thôi đành chia cắt;
Nguyện kiếp sau gặp mặt anh em"
Lời chú lệnh niệm xong, mội người cùng rúc còi nhạn mộ tràng dài rồi đốt vàng mã trước linh vị. Đêm ấy, Nhạn doanh ở lại trong đầm, tới tờ mờ sáng nhận được quân lệnh trở về Linh Châu. Những lộ săn nhạn và các lộ cướp cạn tới trợ chiến đều cướp đoạt được các chiến lợi phẩm từ xác chết, có người lấy được tiền bạc thì từ biệt trở về con đường làm ăn cũ, nhưng cũng có không ít tên thảo khấ, mãi lộ có dã tâm, không quản sinh tửu để kiếm của cải trong thời loạn thì gia nhập đoàn lính dõng của Nhạn doanh.
Cứ như thế, khi Nhạn doanh rời khỏi thành thì chưa đầy nghìn người, sau trận chiến ở Hoàng Thiên Đăng lại tổn thất rất nhiều anh em, nhưng khi thu quân trở về lại tăng quân số lên hơn gấp hai lần. CHính vì vậy, ở giữa đường, Nhạn doanh lại tổ chức chỉnh đốn, yêu cầu những người mới kết nạp phải thắp hương ăn thề. Đó là tục lệ rất phổ biến trong các cánh dân quân. Chỉ khi nào kết thành huynh đệ thì mọi người mới đem tính mệnh giao phó cho nhau. Muốn như thế phải lập bàn thờ, bày Khai sơn lệnh ra.
Lần lượt, doanh quan Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ đứng đầu, phía dưới là các viên tiêu quan và lính dõng, thứ tự xếp hàng, đọc lời lệnh như sau:
"Hảo hán núi Đông đến núi Tây.
Đều vì của cải mới về đây.
Bươm bướm tham hoa nên mất mạng,
Tiếc tiền lão Triệu chết không sai.
Huynh đệ có duyên đã đến núi,
Dẫu cho ở dưới hay trên đài.
Trước đặt ba mươi sáu ghế lớn,
Sau là ghế bạc bảy mươi hai.
Rồng hổ chỗ nào ra chỗ ấy,
Lính trơn thì đứng xếp hàng dài"
Cánh cướp cạn, mãi lộ trong thiên hạ, tuy phân bố khắp nơi nhưng từ thời quân lục lâm Xích Mỹ đời Hán tạp phản đến nay thì đã kết thành bè đảng, liên lạc, hỗ trợ lẫn nhau giữa các địa phương. Trải qua các triều đại, cánh đạo tặc đều có một đầu lĩnh được gọi là :Tổng biều bà tử" chiếm cứ vùng hồ Động Đình tám trăm dặm. hồ Động Đình có muôn ngọn búi bao quanh, liền với ba sông, là nơi có hình thế hiểm yếu trong thiên hạ, xưa này vẫn là sào huyệt của đạo tặc. Đám thợ săn nhạn mãi lọ trong Hoàng Thiên Đăng cũng chỉ là một phái tỏng đó mà thôi.
Cũng bởi những kẻ mới gia nhập Nhạn doanh phần lớn là người ngoài nên Nhạn Bái Lý Tứ phải đích thân đọc bài vè chất vấn những tân binh rằng:
Sơn môn giờ ngọ mở rồi,
Huynh đệ đâu đấy nghe lời truyền đây,
Chín đường sống chết đã bày,
Đâu nào những kẻ núi này dám lên?
Người tài hèn chớ nên bén mảng,
Kẻ mạnh tâm đừng lảng vảng vào.
Nhân thân mờ ám đi mau;
Tính toán chưa chín thôi nào bề nhanh,
Mạo xưng danh cũng chuồn luoonc ho lẹ;
Kẻo tra ra là sẽ mất đâu.
Những phường abcj nghãi lau nhua;
Hôm nay la flcus lạc sâu hang hùm.
Kẻ trùm sỏ mà vi phạm lệnh;
Cũng cầm bằng tính mệnh vứt đi.
Anh em cấp dưới không nghe,
Ba đao khoét mắt chẳng nề hà đâu"
Mọi người đã nghe rõ quy củ, liền tự động khai báo thân phận lai lịch, đồng thời cũng làm bài vè để đáp lại, ví dụ như:
Nghe lời huynh trưởng bảo ban;
Chúng tôi chỉnh đốn y quan vào hầu.
Hôm nay may gặp được nhau,
Đúng alf duyên tự thuở nào đến nay.
Chúng tôi đây có tài cso dũng,
Ai nấy danh cũng nổi như cồn.
Xin trên tỏ chút đoái thương;
Nếu có sơ suất trăm đường xá cho.
Tôi đến từ kia kia đó nọ;
Thôn làng nào là chỗ gia cư.
Vào hồi năm, tháng, ngày giờ;
Mẹ tôi trở dạ sinh cho làm người.
Từng wor núi này trại ấ,
Hôm nay xin bái nhập Nhạn doanh.
Lệnh ban ắt phải thi hành;
Ăn thề uống amus lòng thành dâng lên.
Không kính trên nguyện dâng thủ cấp;
Dưới chẳng nhường cứ mặc moi tim.
Nếu không nhường dưới kính trên;
Tôi xin nộp mạng để đền nợ thân.
Doanh quan còn phải hỏi:"Có gì làm bằng chứng?" Kẻ được hỏi sẽ dáp: "Bẻ hương làm bằng" Người đó sẽ bẻ đôi cây hương trong tay, biểu thị ý là nếu cò gì gian dối thì sẽ giống như cây hương này, sẽ bị chém chết dưới lưỡi đao.
Nhạn Bài Lý Tứ giữ lại những người có thể đi theo, còn những kẻ thân phận không rõ ràng đều trả về, đó kiểm điểm lại lính dõng trong doanh được hai nghìn hai trăm người, khiến cho thực lực của Nhạn doanh tăng hơn gấp bội. Gã rất mừng, chỉ riêng Trương Tiểu Biện thì hết sức lo âu. Thấy binh mà càng tăng nhiều thì báo hiệu các trận đánh càng lúc càng ác liệt và người chết chắc chắn sẽ càng nhiều hơn. Cứ như trận vừa rồi mà xét thì còn phải hi sinh tính mạng không biết bao nhiêu huynh đệ tay chân nữa. Con đường mà Trương Tam gia này đi, không biết đến bao giờ mới kết thúc đây? Liệu chừng, cứ suy nghĩ mãi cũng chẳng giải quyết được gì, hắn đành chỉ biết vâng theo mệnh lệnh trời xui khiến, đoạn liền cho chỉnh đốn đội ngũ về thành nghe lệnh.
Chuyện Nhạn doanh đại phá Việt khấu tại Hoàng Thiên Đăng quả nhiên làm chấn động thiên hạ, đến Hoàng thượng ở trong kinh thành cũng nhận được báo tiệp. Long nhan vui mừng, bảo rằng cơ hội trung hưng của triều ta đã sáng sủa, lập tức chính tay ban cho ngự bút bốn chữ" Trung dũng Nhạn doanh", đồng thời sai bộ Binh phá lệ phong Trương Tiểu Biện Trương Tiểu Biện làm chức tham tướng, hàm võ quan chánh tam phẩm, nhận bổng lộc của triều đình. Kỳ thực ra đó cũng chỉ là một chức quan hư hàm, hữu danh vô thực, rốt cuộc hắn vẫn chỉ là một doanh quan. Ngoài ra triều đình cũng phong thưởng gấp đôi tiền lương cho lính dõng Nhạn doanh cả cũ lẫn mới.
Đề đốc Đồ Hải vốn định mượn dao của quân Thái Bình để xóa sổ Nhạn doanh, nhưng ai ngờ nổi lại có kết cục như vậy, thành ra nối giáo cho giặc. Lão càng cảm thấy tài nghệ cao cường của Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ, lại thêm bè đảng trong thành của họ quá nhiều sẽ trở thành mối uy hiếp, chỉ e về sau phát sinh ra đại loạn. Song, tạm thời lão nuốt giận nín nhịn, vả lại việc điều động Nhạn doanh phục kích Việt khấu lần này lại đúng là chủ ý của lão nên đường nhiên lão cũng lập tức tấu báo công lao với triều đình để nhận thưởng. Những chuyện đó không bàn tiếp nữa.
Chỉ nói về thời gian thấm thoát qua mau, đông qua hạ tới, chẳng mấy chốc mùa thu, mùa đông qua đi, đã đến cuối xuân đầu hè, Trương Tiểu Biện được Tuần phủ đại nhân tin tưởng, làm doanh quan của Nhạn doanh, tuy không hiểu phép hành quân, bày trận, chém giết, nhưng thủ hạ của hắn có bọn Nhạn Bái Lý Tứ đều là những tướng tài kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa, họ đều nghe theo mệnh lệnh của hắn. Dưới sự thống lĩnh đó, Nhạn doanh liên tiếp giao chiến với Việt khấu. công thành bạt trịa khắp nơi, thu phục được mấy chỗ trọng trấn xung quanh thành Linh Châu.
Một hôm nọ, Nhạn doanh được trở về thành dưỡng sức quân, Trương Tiểu Biện nhân lúc nhàn rỗi, một mình đi đến Miêu Tiên từ. Lũ mèo hoang gặp lại người quen, liền nhao vào trong đền quấn quít lấy hắn.
Trương Tiểu Biện cho mèo hoang ăn vài thứ thức ăn rồi vắt chân chữ ngũ, dựa ngả ngốn lên bệ thờ. Hơn nửa năm nay, hắn phải trải qua vô số chuyện chém giết, trong lúc này chợt dấy lên niềm cảm khái, hồi trước đến nằm mơ cũng mơ đến cảnh vinh hoa, phú quý, nhưng dưới gầm trời khắp nơi đều nổi lên đao binh, chẳng biết Trương Tam gia này ngày nào tháng nào mới được ăn bữa yên ổn đây? Nếu sớm biết làm người khổ cực như vậy thì hồi đầu thai đã khẩn cầu Luân hồi Diêm vương cho Tam gia ta làm một con mèo hoang Linh CHâu có khi còn được sung sướng rong chơi, chứ cứ vào sinh ra tử thế nào thì biết bao giờ mới ngừng được.
Chính đương lúc phiền não, bỗng nghe có tiếng nói lạnh lẽo như củi khô vang lên: "Hay đây! Cố nhân lâu nay vẫn khỏe chứ?" Trương Tiểu Biện giật mình, vội vã bật dậy khỏi bệ thờ, đưa mắt nhìn thì thấy trong Miêu Tiên từu đã xuất hiện thêm một người nữa. Người này mình mặc áo bào màu tro lam lũ, tựa như xác chết mặc đồ thời cổ vừa sống dậy từ trong mộ, trên mặt bịt kín, chỉ lộ ra đôi mắt vô hồn, không sức sống. Kẻ đó không phải ai khác, chính là Lâm Trung Lão Quỷ hay mách bảo họa phúc, lành dữ cho Trương Tiểu Biện.
Nửa nam nay, Trương Tiểu Biện không thấy người này, chẳng ngờ hôm nay lão lại tự tìm đến. hắn đang có mấy điều quan trọng muốn hỏi, liền vội vã chào to. Nào ngờ chưa kịp nói năng gì nhiều, Lâm Trung Lão Quỷ đã đột nhiên cất tiếng: "Truong Tam gia, đại họa của nhà người sắp đến rồi, đến tính mạng cũng không thể giữ được, thế mà nhà ngươi vẫn còn thời gian để đùa giỡ nữa ư?" Thật đúng là: "Ở nhà chơi suốt cả ngày; Biêt đâu họa lớn đổ ngay lên đầu"
Lại nói về trận ác chiến giữa Nhạn doanh và quân Thái Bình trong Hoàng Thiên Đăng, chém giết tới mức "Đầu lăn lông lốc như dưa rụng; Thây chất tầng tầng tựa núi cao". Trong đám hỗn loạn, Nhạn Bài Lý Tứ đinh xông thẳng tới lấy đầu Chiếm Thiên hầu, chẳng ngờ bị trúng một viên đạn, may mà gã nhanh nhẹn hơn người, tránh qua cực nhanh, nhưng cự ly quá gần nên cũng bị viên đạn chì bắn trúng một con mắt, lệch một chút nữa thì chỉ e đã bắn suốt óc rồi.
Nhạn Bài Lý Tứ hết sức dũng mãnh, không để ý đến một bên mắt bầy nhầy máu thịt, chồm dậy như phát cuồng, cả người lẫn đao chồm xuống, một tay chộp cứng mớ tóc rối bời của Chiếm Thiên hầu, giật hắn từ dưới đất lên, kẹp vào bụng, nắm cứng cần cổ, bắt sống giữa trận tiền.
Quân Thái Bình thấy đại thế đã mất, lập tức tan vỡ tứ tung, quẳng mũ bỏ giáp, tranh nhau chạy trốn, những tên không chạy kịp thì vứt vũ khí đầu hàng. Lính dõng Nhạn doanh chém giết hăng máu không thiết đến việc bắt tù binh, cứ thế vung đao đuổi giết, thấy kẻ sống là chém, thấy còn chạy trốn là giết. Trận ác chiến kéo dàì tới gần tối mới kết dừng, mặt nước trong đầm đều nhuộm đỏ máu tươi.
Nhạn doanh sai người về gấp Linh Châu báo tiệp, còn đại đội người ngựa đều ở lại để chạy chữa người bị thương, chôn cất người chết. từ xưa tới nay, chuyện binh đao hung hiểm, thường có câu rằng: "Giết địch một nghìn, mình cũng tổn thất tám trăm", tuy một trận phá tan đạo quân lớn của Việt khấu, bắt sống thủ lĩnh Chiếm Thiên hầu nhưng khi điểm lại số quân thì lính dõng, thợ săn nhạn và cánh mãi lộ cũng tử thương hơn hai nghìn người.
Nhạn Bài Lý Tứ hỏng một mắt, mặt đầm đìa máu tươi, may mà viên đạn không xuyên vào não. Viên lang trung trong quân đội vội chạy đến phải dùng thủy ngân làm tiêu tan viên đạn chì đang khảm trong hốc mắt mới giữ được tính mạng của gã.
Trương Tiểu Biện đứng bên canh, trông thấy Nhạn Bài Lý Tứ bị thương bặng và thi thể sõng soài của Tôn Đại Ma tử, hắn muốn khóc rống lên nhưng không thể nào rơi được nước mắt, trái lại trong lòng hắn ớn lạnh, hối hận khôn nguôi: "Nếu sớm biết trường vinh hoa phú quý mà Lâm Trung Lão Quỷ mách bảo được đáp bằng tính mạng của an hem thủ túc thì Tam gia ta thà rằng không cần đến nó cho xong. Tôn Đại Ma Tử và ta đã kết nghĩa sống chết, hồi trước hai người cùng chạy nạn khỏi làng Kim Quan, trước nay luôn đỡ đần bên nhau, gắn bó keo sơn, sau này, cả bọn kết bái thành huynh đệ sống chết có nhau, chỉ mong có một ngày được cùng hưởng vinh hoa phú quý, thế mà ngờ đâu tới hôm nay thì âm dương cách biệt rồi.
Trước nay, Trương Tiểu Biện thấy chuyện chết chóc không ít lần nhưng đều không liên can gì tới mình, nhìn nhiều thì tronmg lòng cảm thấy cũng bình thường, nhưng tới giờ phút này, mất đi một huynh đệ thủ túc mới hiểu rõ thế nào là nỗi đau khổ của cảnh sinh li tử biệt. Sau trận đánh, kẻ hảo hán đường đường nọ đã không còn nữa rồi, reong lòng Trương Tiểu Biện làm sao vui cho được? Hắn định từ bỏ chức doanh quan của Nhạn doanh, tính các cao chạy xa bay là thượng sách, nhưng nghĩ ở một góc độ khác, lúc này thiên hạ đang đại loạn, trên đời làm gì còn nơi trú ngụ bình an? Tới giờ thì đã không còn đường nào quay lại nữa, nếu trước đây không cắm đầu cám cổ đi theo đường này, thì Tôn Đại Ma Tử sao phải chết oan uổng? Trong đầu hắn nghĩ ngợi miên man, một lúc lâu cũng không định đoạt được chủ ý nào.
Nhạn Linh NHi đắp xong vết thương cho huynh trưởng rồi cả hai cùng khuyên giải Trương Tiểu Biện, đánh trận thì sao tránh khỏi chết người, hơn nữa chúng ta không làm lễ dâng tù báo công nữa mà đem tên đầu sỏ của giặc ra, mổ bụng moi tim để tế vong hồn các anh em đã chết trận. Trương Tiểu Biện trong lòng bấn loạn, gật đầu nói: "Mọi việc xin Tứ ca cứ làm chủ cho"
Lúc ấy trời đã sụp tối hẳn, trong Hoàng Thiên Đăng lạnh lẽo, thê lương đang bao phủ một bầu mây đen thảm đạm, lính dõng của Nhạn doanh đã thu niệm, chôn cát các tử thi đâu đấy thiết lập một cái bài vị và bàn thờ sơ sài trước phần mộ. Nhạn Bài Lý Tứ sai thủ hạ trói giật cánh khuỷu của Chiếm Thiên hầu giải ra trước linh vị.
Chiếm Thiên hầu nọ bị trúng một mũi tên vào cai còn chưa được nhổ ra. Từ miệng vết thương, máu tươi nhỏ thành từng giọt, quỳ sụp xuống trước mặt Nhạn Bài Lý Tứ, va vi rằng: "Xin tráng sĩ tha mạng cho tôi... "
Nhạn Bái Lý Tứ rút phắt cương đao ra tay, lạnh lão chỉ vào từng hàng linh vị mà rằng: "Tha cho tính mạng của nhà ngươi không khó, choir cần các anh em đang nằm đây gật đầu đồng ý thì tat ha". Nói đoạn, vung tay chém xuống, một làn gió mát thổi qua, cái đầu của Chiếm Thiên hầu lăn xuống, máu tươi từ cổ họng phun lên trời. Nhạn Bài Lý Tứ lại sai hai tên đao phủ đứng chờ lệnh ở bên cạnh, tiến lên moi tim của hắn ra, đặt trước bàn thờ tế lễ.
Những người chết trận cảu Nhạn doanh phần lớn là con em của cánh nhạn dân trong Hoàng Thiên Đăng. KHi bàn thờ vừa lập thì tiếng khóc than đã nổi lên ầm ĩ, nào là vợ khóc chồng, nào là mẹ khóc con, cũng có nhiều người khóc thương cho anh em thủ túc tử nạn. Theo lệ của cánh lục lâm, một viên tiêu quan vừa tung tiền giấy, vàng mã, vừa tụng bài " Thưởng cô lệnh". Bài lệnh rằng:
"Non xa nước xa xa;
Hai bầu trời dắp một tòa cầu ngang.
Bày rõ ràng cơm phần cúng tế;
Thắp hương lên thêm lễ tiền vàng.
Gọi hòn hào kiệt hãy khoan;
Trên đường về tới suối vàng dừng chân.
Nghe lời ngâm Thưởng cô một lát,
Ngày trước từng đối awmtj kết giao;
Ân tình nhật nguyệt khác nào;
Đã sâu tựa bể lại cao tột cùng.
Đồng một lòng làm quân ứng mộ.
Liễu sa trường amsu đỏ chiến bào.
Nay anh em, đã về đâu;
Âm dương cách trở khi nào thấy đây.
Tiền giấy này tuy rằng chẳng mấy;
Mông linh hồn nhận lấy làm vui.
Cầu cho hồn sớm lên trời;
Phù hộ may mắn cho người còn đây.
Ở kiếp này thôi đành chia cắt;
Nguyện kiếp sau gặp mặt anh em"
Lời chú lệnh niệm xong, mội người cùng rúc còi nhạn mộ tràng dài rồi đốt vàng mã trước linh vị. Đêm ấy, Nhạn doanh ở lại trong đầm, tới tờ mờ sáng nhận được quân lệnh trở về Linh Châu. Những lộ săn nhạn và các lộ cướp cạn tới trợ chiến đều cướp đoạt được các chiến lợi phẩm từ xác chết, có người lấy được tiền bạc thì từ biệt trở về con đường làm ăn cũ, nhưng cũng có không ít tên thảo khấ, mãi lộ có dã tâm, không quản sinh tửu để kiếm của cải trong thời loạn thì gia nhập đoàn lính dõng của Nhạn doanh.
Cứ như thế, khi Nhạn doanh rời khỏi thành thì chưa đầy nghìn người, sau trận chiến ở Hoàng Thiên Đăng lại tổn thất rất nhiều anh em, nhưng khi thu quân trở về lại tăng quân số lên hơn gấp hai lần. CHính vì vậy, ở giữa đường, Nhạn doanh lại tổ chức chỉnh đốn, yêu cầu những người mới kết nạp phải thắp hương ăn thề. Đó là tục lệ rất phổ biến trong các cánh dân quân. Chỉ khi nào kết thành huynh đệ thì mọi người mới đem tính mệnh giao phó cho nhau. Muốn như thế phải lập bàn thờ, bày Khai sơn lệnh ra.
Lần lượt, doanh quan Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ đứng đầu, phía dưới là các viên tiêu quan và lính dõng, thứ tự xếp hàng, đọc lời lệnh như sau:
"Hảo hán núi Đông đến núi Tây.
Đều vì của cải mới về đây.
Bươm bướm tham hoa nên mất mạng,
Tiếc tiền lão Triệu chết không sai.
Huynh đệ có duyên đã đến núi,
Dẫu cho ở dưới hay trên đài.
Trước đặt ba mươi sáu ghế lớn,
Sau là ghế bạc bảy mươi hai.
Rồng hổ chỗ nào ra chỗ ấy,
Lính trơn thì đứng xếp hàng dài"
Cánh cướp cạn, mãi lộ trong thiên hạ, tuy phân bố khắp nơi nhưng từ thời quân lục lâm Xích Mỹ đời Hán tạp phản đến nay thì đã kết thành bè đảng, liên lạc, hỗ trợ lẫn nhau giữa các địa phương. Trải qua các triều đại, cánh đạo tặc đều có một đầu lĩnh được gọi là :Tổng biều bà tử" chiếm cứ vùng hồ Động Đình tám trăm dặm. hồ Động Đình có muôn ngọn búi bao quanh, liền với ba sông, là nơi có hình thế hiểm yếu trong thiên hạ, xưa này vẫn là sào huyệt của đạo tặc. Đám thợ săn nhạn mãi lọ trong Hoàng Thiên Đăng cũng chỉ là một phái tỏng đó mà thôi.
Cũng bởi những kẻ mới gia nhập Nhạn doanh phần lớn là người ngoài nên Nhạn Bái Lý Tứ phải đích thân đọc bài vè chất vấn những tân binh rằng:
Sơn môn giờ ngọ mở rồi,
Huynh đệ đâu đấy nghe lời truyền đây,
Chín đường sống chết đã bày,
Đâu nào những kẻ núi này dám lên?
Người tài hèn chớ nên bén mảng,
Kẻ mạnh tâm đừng lảng vảng vào.
Nhân thân mờ ám đi mau;
Tính toán chưa chín thôi nào bề nhanh,
Mạo xưng danh cũng chuồn luoonc ho lẹ;
Kẻo tra ra là sẽ mất đâu.
Những phường abcj nghãi lau nhua;
Hôm nay la flcus lạc sâu hang hùm.
Kẻ trùm sỏ mà vi phạm lệnh;
Cũng cầm bằng tính mệnh vứt đi.
Anh em cấp dưới không nghe,
Ba đao khoét mắt chẳng nề hà đâu"
Mọi người đã nghe rõ quy củ, liền tự động khai báo thân phận lai lịch, đồng thời cũng làm bài vè để đáp lại, ví dụ như:
Nghe lời huynh trưởng bảo ban;
Chúng tôi chỉnh đốn y quan vào hầu.
Hôm nay may gặp được nhau,
Đúng alf duyên tự thuở nào đến nay.
Chúng tôi đây có tài cso dũng,
Ai nấy danh cũng nổi như cồn.
Xin trên tỏ chút đoái thương;
Nếu có sơ suất trăm đường xá cho.
Tôi đến từ kia kia đó nọ;
Thôn làng nào là chỗ gia cư.
Vào hồi năm, tháng, ngày giờ;
Mẹ tôi trở dạ sinh cho làm người.
Từng wor núi này trại ấ,
Hôm nay xin bái nhập Nhạn doanh.
Lệnh ban ắt phải thi hành;
Ăn thề uống amus lòng thành dâng lên.
Không kính trên nguyện dâng thủ cấp;
Dưới chẳng nhường cứ mặc moi tim.
Nếu không nhường dưới kính trên;
Tôi xin nộp mạng để đền nợ thân.
Doanh quan còn phải hỏi:"Có gì làm bằng chứng?" Kẻ được hỏi sẽ dáp: "Bẻ hương làm bằng" Người đó sẽ bẻ đôi cây hương trong tay, biểu thị ý là nếu cò gì gian dối thì sẽ giống như cây hương này, sẽ bị chém chết dưới lưỡi đao.
Nhạn Bài Lý Tứ giữ lại những người có thể đi theo, còn những kẻ thân phận không rõ ràng đều trả về, đó kiểm điểm lại lính dõng trong doanh được hai nghìn hai trăm người, khiến cho thực lực của Nhạn doanh tăng hơn gấp bội. Gã rất mừng, chỉ riêng Trương Tiểu Biện thì hết sức lo âu. Thấy binh mà càng tăng nhiều thì báo hiệu các trận đánh càng lúc càng ác liệt và người chết chắc chắn sẽ càng nhiều hơn. Cứ như trận vừa rồi mà xét thì còn phải hi sinh tính mạng không biết bao nhiêu huynh đệ tay chân nữa. Con đường mà Trương Tam gia này đi, không biết đến bao giờ mới kết thúc đây? Liệu chừng, cứ suy nghĩ mãi cũng chẳng giải quyết được gì, hắn đành chỉ biết vâng theo mệnh lệnh trời xui khiến, đoạn liền cho chỉnh đốn đội ngũ về thành nghe lệnh.
Chuyện Nhạn doanh đại phá Việt khấu tại Hoàng Thiên Đăng quả nhiên làm chấn động thiên hạ, đến Hoàng thượng ở trong kinh thành cũng nhận được báo tiệp. Long nhan vui mừng, bảo rằng cơ hội trung hưng của triều ta đã sáng sủa, lập tức chính tay ban cho ngự bút bốn chữ" Trung dũng Nhạn doanh", đồng thời sai bộ Binh phá lệ phong Trương Tiểu Biện Trương Tiểu Biện làm chức tham tướng, hàm võ quan chánh tam phẩm, nhận bổng lộc của triều đình. Kỳ thực ra đó cũng chỉ là một chức quan hư hàm, hữu danh vô thực, rốt cuộc hắn vẫn chỉ là một doanh quan. Ngoài ra triều đình cũng phong thưởng gấp đôi tiền lương cho lính dõng Nhạn doanh cả cũ lẫn mới.
Đề đốc Đồ Hải vốn định mượn dao của quân Thái Bình để xóa sổ Nhạn doanh, nhưng ai ngờ nổi lại có kết cục như vậy, thành ra nối giáo cho giặc. Lão càng cảm thấy tài nghệ cao cường của Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ, lại thêm bè đảng trong thành của họ quá nhiều sẽ trở thành mối uy hiếp, chỉ e về sau phát sinh ra đại loạn. Song, tạm thời lão nuốt giận nín nhịn, vả lại việc điều động Nhạn doanh phục kích Việt khấu lần này lại đúng là chủ ý của lão nên đường nhiên lão cũng lập tức tấu báo công lao với triều đình để nhận thưởng. Những chuyện đó không bàn tiếp nữa.
Chỉ nói về thời gian thấm thoát qua mau, đông qua hạ tới, chẳng mấy chốc mùa thu, mùa đông qua đi, đã đến cuối xuân đầu hè, Trương Tiểu Biện được Tuần phủ đại nhân tin tưởng, làm doanh quan của Nhạn doanh, tuy không hiểu phép hành quân, bày trận, chém giết, nhưng thủ hạ của hắn có bọn Nhạn Bái Lý Tứ đều là những tướng tài kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa, họ đều nghe theo mệnh lệnh của hắn. Dưới sự thống lĩnh đó, Nhạn doanh liên tiếp giao chiến với Việt khấu. công thành bạt trịa khắp nơi, thu phục được mấy chỗ trọng trấn xung quanh thành Linh Châu.
Một hôm nọ, Nhạn doanh được trở về thành dưỡng sức quân, Trương Tiểu Biện nhân lúc nhàn rỗi, một mình đi đến Miêu Tiên từ. Lũ mèo hoang gặp lại người quen, liền nhao vào trong đền quấn quít lấy hắn.
Trương Tiểu Biện cho mèo hoang ăn vài thứ thức ăn rồi vắt chân chữ ngũ, dựa ngả ngốn lên bệ thờ. Hơn nửa năm nay, hắn phải trải qua vô số chuyện chém giết, trong lúc này chợt dấy lên niềm cảm khái, hồi trước đến nằm mơ cũng mơ đến cảnh vinh hoa, phú quý, nhưng dưới gầm trời khắp nơi đều nổi lên đao binh, chẳng biết Trương Tam gia này ngày nào tháng nào mới được ăn bữa yên ổn đây? Nếu sớm biết làm người khổ cực như vậy thì hồi đầu thai đã khẩn cầu Luân hồi Diêm vương cho Tam gia ta làm một con mèo hoang Linh CHâu có khi còn được sung sướng rong chơi, chứ cứ vào sinh ra tử thế nào thì biết bao giờ mới ngừng được.
Chính đương lúc phiền não, bỗng nghe có tiếng nói lạnh lẽo như củi khô vang lên: "Hay đây! Cố nhân lâu nay vẫn khỏe chứ?" Trương Tiểu Biện giật mình, vội vã bật dậy khỏi bệ thờ, đưa mắt nhìn thì thấy trong Miêu Tiên từu đã xuất hiện thêm một người nữa. Người này mình mặc áo bào màu tro lam lũ, tựa như xác chết mặc đồ thời cổ vừa sống dậy từ trong mộ, trên mặt bịt kín, chỉ lộ ra đôi mắt vô hồn, không sức sống. Kẻ đó không phải ai khác, chính là Lâm Trung Lão Quỷ hay mách bảo họa phúc, lành dữ cho Trương Tiểu Biện.
Nửa nam nay, Trương Tiểu Biện không thấy người này, chẳng ngờ hôm nay lão lại tự tìm đến. hắn đang có mấy điều quan trọng muốn hỏi, liền vội vã chào to. Nào ngờ chưa kịp nói năng gì nhiều, Lâm Trung Lão Quỷ đã đột nhiên cất tiếng: "Truong Tam gia, đại họa của nhà người sắp đến rồi, đến tính mạng cũng không thể giữ được, thế mà nhà ngươi vẫn còn thời gian để đùa giỡ nữa ư?" Thật đúng là: "Ở nhà chơi suốt cả ngày; Biêt đâu họa lớn đổ ngay lên đầu"
Bình luận facebook