-
Chương 8
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Cửa mở ra, ngọn đèn bên trong sáng màu vàng quýt ấm áp, liếc mắt nhìn qua, là một căn phòng khách xinh xắn. Giữa phòng trải một tấm thảm lông, chung quanh là vài cái sofa thấp lùn, bên cạnh là giá sách và bàn, còn có cả vài chậu cây cảnh xanh um. Trên tường treo một số bức tranh nghệ thuật.
Hơi ấm phả vào mặt. Dư Phi rất quen với thứ mùi này, là mùi tùng bách thoang thoảng trên người anh. Sau khi trở lại Bắc Kinh, có một lần cô đến Văn Thù Viện tìm Thứ Cơ, phương trượng đại sư đã tặng cô một tràng hạt đeo tay bằng gỗ nhai bách. Cô ngửi thử mới biết mùi đó tên gì.
Căn nhà này không có cảm giác cao cao tại thượng mà ngược lại, khiến người ta cảm thấy gần gũi. Lồng sắt trong tay Dư Phi đung đưa mãnh liệt, Cọp Cái đang vô cùng bức thiết muốn ra ngoài.
Dư Phi cắn răng, cúi đầu nhìn ngưỡng cửa trên mặt đất. Cô biết ý nghĩa của việc bước qua ngưỡng cửa này là gì – cô sẽ gần Bạch Phỉ Lệ thêm một bước.
Một trận gió rét thấu xương cuốn theo tuyết ào tới, Dư Phi cảm giác trên mặt như bị một lưỡi dao bằng băng cắt qua. Bạch Phỉ Lệ bên cạnh lại hắt hơi một cái, lấy khăn giấy bịt mũi.
Anh mặc một chiếc áo phao lông vũ mỏng, bên trong là áo len, không quàng khăn. Đẹp thì đẹp, nhưng cũng khó mà chống chọi được với cái lạnh thế này.
Khoé miệng đuôi mắt anh nhu hòa đẹp đẽ, đến cả dáng vẻ hai bàn tay bịt khăn lau nước mũi cũng khả ái vô cùng. Dư Phi lúc này làm thế nào cũng không thể oán hận anh cho nổi, lại đi hận chính mình, khinh bỉ chính mình, theo cái lồng bị con mèo lớn xô về phía trước mà bước vào ngưỡng cửa.
Căn nhà này không lớn, sàn gỗ màu đen dày dặn bị bước chân qua lại quanh năm mài đến độ trơn tuột. Hai người cởi áo khoác và giày để ngoài cửa, Bạch Phỉ Lệ nhận lấy lồng mèo, ôm Cọp Cái ra, xích nó vào một đầu sợi dây quàng vai (*).
(*) Tiếng Anh là shoulder strap, hiểu nôm na thì nó giống như sợi quai đeo cặp ấy, nhưng shoulder strap thì không chỉ dùng để làm quai đeo cặp mà còn có nhiều công dụng khác, chủ yếu là để giữ, đeo, mang cái gì đó theo người.
Dư Phi hỏi: "Làm gì có ai buộc mèo bằng dây này chứ?"
Bạch Phỉ Lệ ôm Cọp Cái như ôm một đứa nhỏ, điều chỉnh độ căng trùng của sợi dây, đáp: "Sợ nó cắn cô."
Dư Phi cứ thấy mèo là thích mê, cô xoa xoa cái đầu lớn bông xù của Cọp Cái trên vai Bạch Phỉ Lệ, cười hì hì nói: "Đáng yêu vậy sao cắn người được?"
Cọp Cái nhìn Dư Phi chằm chằm, hai móng vuốt cứng cáp quặp thật sâu vào vai Bạch Phỉ Lệ.
Căn nhà có hai tầng. Tầng một là phòng khách, phòng bếp, phòng chứa đồ và phòng ngủ của ông bà ngoại anh, tầng hai là phòng ngủ của Bạch Phỉ Lệ, ngoài ra còn có hai phòng làm việc một lớn một bé, phòng sách nhỏ có một cái thang gỗ đi lên gác xép trên nóc.
Gác xép rất rộng, đặt một cái giường lớn, có điều nóc nhà vừa thấp vừa nghiêng, Bạch Phỉ Lệ phải khom người mới đi lại trong đó được. Trong gác xép ngoài giường ra thì cũng chỉ có một cái đèn hình cầu bằng lụa trắng đặt trên sàn bên cạnh giường, đường kính chừng một mét, giống như một mặt trăng, tỏa ra ánh sáng dìu dịu. Bạch Phỉ Lệ lấy từ ngăn kéo bên cạnh ra cái đệm lót lên giường cho Dư Phi, lại ôm thêm một cái chăn bông lớn ra. "Tất cả đều còn mới." anh nói, "Nhà chúng tôi chưa từng có khách ở lại qua đêm."
Dư Phi lẳng lặng nhìn anh đi tới đi lui bên giường. Áo khoác đã cởi ra, anh mặc áo len trắng, đôi tất cũng trắng nốt, khiến cả người anh nhìn có vẻ gọn gàng cao ráo. Hai con cá nhỏ trên tai lắc lư, phát ra những tiếng động khe khẽ tinh tế.
Anh dẫn cô xuống dưới nhà, cầu thang gỗ kêu cọt kẹt, khiến cô nhớ đến những căn nhà cũ kỹ ở thành phố Y. Căn nhà này nhỏ hơn những căn nhà đó rất nhiều, nhưng cảm giác lại hoàn toàn khác biệt.
Nó cho cô cảm giác an toàn.
Anh dẫn cô vào phòng ông bà ngoại, cầm một chiếc khăn mặt và bộ đồ rửa mặt duy nhất đưa cho cô. Thoáng lưỡng lự, lại hỏi: "Cô có phải thay nội y không?"
Dư Phi cũng hơi mắc bệnh sạch sẽ, cô có thói quen mỗi ngày tắm hai lần, đổi toàn bộ quần áo, nghe vậy thì vô thức gật đầu.
Bạch Phỉ Lệ nói: "Nhà tôi không có nội y thích hợp với cô. Nếu cô không ngại, bà ngoại tôi còn có một bộ mới mua chưa dùng đến. Quần áo của cô giặt sạch phơi một đêm là khô thôi." Anh lục một hồi, lấy một bộ ra. Dư Phi nhìn qua, đều là quần lót kiểu góc bẹt của người già. Cô liếc ảnh chụp chung của ông bà ngoại anh treo trên bức tường đầu giường, quả nhiên, bà ngoại anh dáng người mập mạp, cười rộ lên trông giống một cụ bà có dáng dấp Phật Di Lặc, cái quần này hai người cỡ cô chui vào cũng vừa.
Dư Phi quả quyết nói: "Vậy thì anh cho tôi mượn một bộ quần áo đi."
Thế là, hai người lại lên nhà.
Tủ quần áo của Bạch Phỉ Lệ lớn hơn. Trong phòng ngủ thậm chí còn mắc mành ngăn ra thành một góc riêng làm phòng thay quần áo. Chỉ là bị che mất một nửa, không biết bên trong treo cái gì.
Dư Phi nói: "Cho tôi cái nào lớn vào..." cô khoa tay một cái, "Áo phông ấy."
Bạch Phỉ Lệ thực sự tìm cho cô một cái áo phông mềm mại thùng thình cực kỳ rộng. Trước ngực áo in một ký hiệu màu vàng, nhìn giống như hai cái ngòi bút cứng của bút máy đan chéo vào nhau. Dư Phi không biết nó có ý nghĩa gì, nhưng cô đã quen với việc phong cách ăn mặc của Bạch Phỉ Lệ luôn mang màu sắc chủ nghĩa thần bí, chẳng lấy gì làm lạ lẫm nữa. Cô nhớ tới series áo phông mỗi ngày tăng một đôi mắt kia, không nhịn được đảo mắt vào trong tủ quần áo thêm hai lần.
Bạch Phỉ Lệ hỏi: "Nhìn gì thế?"
Dư Phi thành thật trả lời. "Tổng cộng có bao nhiêu cái?" cô không kìm được tò mò.
Bạch Phỉ Lệ liền kéo ngăn kéo phía dưới ra lục tìm một hồi, lôi bộ áo phông kia ra, tổng cộng có bảy cái, trong đó cái cuối cùng ngang ngang dọc dọc đều toàn những mắt là mắt.
Thỏa mãn xong lòng hiếu kỳ của Dư Phi, anh lại bỏ áo về tủ. Anh không kéo hết ngăn kéo ra ngoài, nhưng ngồi xổm phía sau Bạch Phỉ Lệ, Dư Phi đã nhìn được thoáng qua ngăn kéo đó, bất ngờ bắt gặp tận cùng trong góc tựa hồ chồng một cái khăn quàng cổ ngay ngắn chỉnh tề.
Trong lòng Dư Phi chợt phát hoảng.
Tuy chỉ là một cái liếc mắt, nhưng cô vô cùng chắc chắn đây chính là cái khăn quàng cổ của cô. Trong bóng tối của ngăn kéo, cô thấy rõ một cái lỗ nhỏ bị móc hỏng trên cái khăn mỏng, hình dạng cái lỗ đó cô nhớ rất rõ ràng, chuẩn xác không lầm được.
Ngày đó cô ném khăn xuống đất xong bỏ chạy, không ngờ anh lại nhặt về.
Nhưng Bạch Phỉ Lệ không nhận ra là cô đã thấy, rất nhanh sau đó lại đóng ngăn kéo vào.
Bên cạnh phòng ngủ của Bạch Phỉ Lệ là phòng tắm. Trong phòng tắm có một vách tắm đứng, một bồn rửa mặt, bồn cầu và còn có cả một cái máy giặt trục lăn loại nhỏ chuyên để giặt đồ lót. Dư Phi tắm ở đây, Bạch Phỉ Lệ thì xuống phòng tắm của ông bà ngoại dưới tầng một tắm.
Dư Phi tắm rửa xong, bỏ đồ lót vào máy giặt để giặt. Cô mặc cái áo phông rộng lớn đó của Bạch Phỉ Lệ, vừa nghiêng đầu sấy tóc, vừa dùng chiếc điện thoại cũ mà Bạch Phỉ Lệ đưa cho để nhắn tin với Thứ Cơ, báo cho hắn biết cô bị mất ví, điện thoại và chìa khóa nhà.
Thứ Cơ chọc trúng trọng điểm: Vậy giờ cô ở đâu?
Dư Phi do dự một chút, nhắn lại: Cậu đoán xem.
Thư Cơ nói: Chờ chút, để tôi thử tay nghề bói toán phát.
Một lát sau, hắn gửi hình một bức tranh bói qua, phía trên của tranh là một cái phướn rực rỡ tung bay, phía dưới thì có hai câu thơ:
"Nhìn gần rõ ràng tựa nghiêm mật, trông xa tự tại như phi tiên."
Dư Phi hỏi hắn có nghĩa là gì, Thứ Cơ không chịu hé răng thêm câu nào. Dư Phi tức mình gõ chữ: Đồ gà chay thối tha, treo ngang lòng người là thái giám.
Thứ Cơ: Ha ha ha, sợ tôi rồi?
Dư Phi: Cậu chỉ là đoán không được thôi.
Thứ Cơ: Không phải gió động, cũng không phải phướn động nữ thí chủ, là cô động lòng. (*)
(*) Câu này lấy ý từ một câu chuyện Phật giáo về Huệ Năng, vị Tổ thứ sáu của Thiền tông: Một hôm nọ, chùa Pháp Tính, Quảng Châu mở hội thuyết pháp về bộ kinh Niết Bàn. Khi ấy, có hai nhà sư đã tranh luận với nhau khi nhìn thấy cái phướn bay trong gió, là do phướn động hay do gió động. Một người cho rằng nếu phướn lặng như đá thì gió to đến đâu cũng không lay động được nó, người còn lại thì cãi rằng nếu không có gió thì phướn làm sao mà động được. Giữa lúc ấy, chợt có người từ hàng sau hô rằng: "Không phải phướn động, cũng không phải gió động, mà là lòng người động!" Mọi người quay lại thì thấy đó là Lục Tổ Huệ Năng, nhất loạt lễ bái và thỉnh ngài lên thuyết pháp.
Dư Phi "bộp" một tiếng đóng điện thoại lại.
Xử lý xong mọi chuyện thì đã gần mười hai giờ. Dư Phi ngửa mặt nằm trên giường, nhìn ô cửa sổ áp mái trên nóc gác xép.
Thiết kế kiểu này kỳ thực đẹp vô cùng, ô cửa sổ xiên xiên to lớn, nếu thời tiết tốt, có thể từ giường ngắm được một cả một bầu trời sao rộng lớn, thậm chí là cả dải ngân hà tráng lệ. Hẳn là ngoài cửa sổ có treo một ngọn đèn, mặt kính kết một lớp băng. Cô tắt cái đèn đầu giường đặt dưới sàn đi, lập tức thấy ánh sáng bàng bạc từ ngoài cửa sổ xuyên qua lớp băng vẩy ra khắp giường, trong ngần mà lạnh lùng tựa ánh trăng.
Cô nghĩ thế này lãng mạn quá rồi, không biết là ai thiết kế nữa, cứ như trong truyện cổ tích vậy. Nếu như đang nằm mơ, hẳn đây là đang hóa thân thành tiên nữ hay Alice, có khổ sở nhiều hơn nữa, cũng sẽ được chiếc giường ngập ánh trăng này chữa khỏi.
Cô nghe thấy tiếng Bạch Phỉ Lệ đứng dưới gác xép hỏi cô: "Ngủ được chứ?"
Dư Phi vùi cả người vào chăn đệm bông xốp ấm áp, cảm giác như đang ngủ trong mây vậy. Từ nhỏ đến lớn, cô chưa từng ngủ trên một cái giường nào thoải mái như thế. Cô thực sự lo rằng ngủ ở đây rồi lúc về sẽ không thể ngủ nổi trên cái phản nhỏ hẹp của mình nữa.
Cô đáp lời: "Được."
Bạch Phỉ Lệ không nói gì thêm, tắt đèn phòng sách rồi ra ngoài.
Căn nhà đã hoàn toàn chìm vào yên lặng. Dư Phi nhắm mắt lại, loáng thoáng nghe thấy tiếng tuyết rơi ngoài khung cửa sổ trên mái nhà. Cũng không biết bao lâu sau, lúc cô mơ màng sắp chìm vào giấc ngủ, chợt có tiếng "xoạt xoạt xoạt", như có cành cây thô cứng nào đang cọ lên mặt kính.
Cô mở mắt, thấy trên cửa sổ áp mái có gì đó nhích tới nhích lui, nhìn kỹ, là vài cái móng bé xíu, hình lá trúc, hóa ra là một con chim mất ngủ đi qua đi lại.
Cô nghĩ, cái gác xép này thú vị thật.
Cô không sao ngủ nổi nữa, hai mắt mở thao láo, ánh mắt di chuyển tới tới lui lui theo cái móng lá trúc của con chim kia, trong đầu vừa như ngơ ngẩn lại vừa như đang tỉnh táo hơn bao giờ hết. Cô nghĩ đến rất nhiều chuyện, nghĩ đến Thiện Đăng Đĩnh, nghĩ đến sư phụ, đến từng động tác giơ tay nhấc chân trên sân khấu, nghĩ đến câu "Xoa xoa nắn nắn tuấn nhã mười phần, phong lưu đều đọng đóa hải đường đây" hát với Nghê Lân; cô nghĩ đến mẹ, đến bố, đến bản Đế nữ hoa trong máy ghi âm trong căn nhà cũ ở thành phố Y, nghĩ đến lần duy nhất mẹ cô đi Thái Lan chơi, mang về tặng cô cái khăn quàng màu lam...
Cô ngồi bật dậy.
Căn nhà này dù có tốt đến đâu, rốt lại vẫn không phải nhà cô. Qua đêm nay, cô vẫn phải rời đi.
Cô phải cầm cái khăn kia về.
Đêm đó Bạch Phỉ Lệ trả khăn lại cho cô, cô đã ném nó xuống đất ngay trước mặt anh, chẳng còn mặt mũi nào mà mở miệng đòi lại anh nữa.
Ngồi yên trên giường hồi lâu, cuối cùng cô hạ quyết tâm, đứng dậy xuống dưới.
Cô đi chân trần, bám chặt vào lan can cầu thang, từng bước từng bước đi xuống, không tạo ra một chút âm thanh nào. Sàn nhà và lan can bằng gỗ có chung một nhiệt độ tự nhiên, hệ thống sưởi trong phòng cũng vừa đủ nên cô không cảm thấy lạnh.
Rón ra rón rén đi xuống tầng hai, ra khỏi phòng sách, lại nhẹ tay nhẹ chân đi tới cửa phòng ngủ của Bạch Phỉ Lệ – cô có cảm giác mình như đang làm trộm vậy... Mà đúng là đang làm trộm còn gì, nhưng, trộm đồ của chính mình thì có tính là trộm không?
Cửa phòng Bạch Phỉ Lệ khép hờ. Trong phòng không bật đèn, nhưng vẫn có ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn bên ngoài hắt vào qua cửa sổ nên cũng không quá tối.
Anh ngủ không phát ra tiếng động nào, nhưng thỉnh thoảng lại ho khụ một cái, chắc là đêm nay bị cảm lạnh rồi. Dư Phi đứng cạnh cửa nhìn trộm hồi lâu, xác định là anh ngủ rồi, bèn lẳng lặng không tiếng động đi vào.
Anh xoay mặt vào trong ngủ, cánh tay thò ra ngoài ôm chăn, cơ thể hơi cuộn lại. Mái tóc dài mềm mại phủ lên gối, nhìn như dòng nước, dưới ánh đèn xuyên qua cửa sổ, phản xạ ánh sáng bóng lên nhàn nhạt. Nửa khuôn mặt vùi trong gối, hàng mi trên đôi mắt đang nhắm dài đến khó tin, nửa bên mặt còn lại thanh sạch vô cùng.
Dư Phi buộc mình dời mắt đi, đến trước tủ quần áo, nhẹ nhàng chậm rãi mở cửa tủ ra, từng chút từng chút kéo ngăn kéo thành một khe hở đủ để luồn tay vào.
Cô dựa theo ký ức, thò tay vào sờ soạng, nhanh chóng mò được cái khăn quàng của mình, lại nhẹ nhàng kéo ra.
Chất khăn sờ lên mềm nhẹ, hiển nhiên đã được anh đem giặt.
Cầm cái khăn quàng cổ xa cách đã lâu, đáy lòng Dư Phi dậy lên một cảm xúc có chút khó thành lời – cắt không đứt, loạn không thôi.
Dư Phi khép lại ngăn kéo và cửa tủ, lại đi ra đứng bên giường Bạch Phỉ Lệ.
Đây có lẽ là một người cô không nên đụng vào. Nhưng nhìn cánh tay để ngoài chăn của anh, trên mu bàn tay là mấy vết cào do cô gây ra, cô lại nhịn không được mà vươn ngón tay dò tới, khẽ khàng hết sức chạm một cái...
Chỉ một cái nhẹ bẫng như vậy, cô còn chưa thực sự có cảm giác gì, đã thấy mu bàn tay Bạch Phỉ Lệ rụt lại.
Da đầu Dư Phi căng lên, nghĩ xong đời rồi. Cô quay phắt người tông cửa xông ra ngoài, quả nhiên lúc rút vào thư phòng liền nghe thấy giọng Bạch Phỉ Lệ cảnh giác hô một tiếng:
"Ai?!"
Bạch Phỉ Lệ đuổi theo bóng người chớp lóe vào phòng sách nhỏ, lại thấy bóng đen nọ biến mất trong bóng tối nơi gác xép. Anh nhặt cái đèn pin đồ chơi trên bàn trong phòng sách nhỏ, cũng đuổi theo lên gác xép.
Trong gác xép, ngoài ánh sáng từ bầu trời rải xuống thì hoàn toàn yên ắng, không có chút động tĩnh gì.
Bạch Phỉ Lệ nín thở. Anh sợ có người xông ra, bật đèn pin lên, chiếu về phía hai góc tối cạnh giường.
Không có gì cả.
Giường là kiểu giường thấp, dưới gầm giường tất nhiên là không thể giấu được người. Anh kéo ngăn tủ ra kiểm tra một lượt, nhưng chẳng có gì hết.
Ánh mắt anh rơi xuống giường.
Người kia đang vùi cả người làm ổ ngủ trong chăn, bên ngoài chăn chỉ để lộ ra mái tóc dày.
Anh nhìn ổ chăn cuộn lại như một con cá lớn này, chậm rãi ngồi xuống bên mép giường cô, vươn tay qua gỡ chăn cô.
Anh bới đầu cô ra – hai mắt cô nhắm chặt, hệt như đang ngủ say. Bên khóe đôi mắt phượng xếch lên đầy nguy hiểm, mặt và cổ đều trắng tinh như ánh tuyết.
Chăn đệm và áo cô mặc cũng trắng như tuyết, anh lại thấy dưới vai cô lộ ra chút sắc lam nhạt.
Hai ngón tay anh kẹp lấy màu lam kia, từng chút từng chút kéo ra ngoài. Rút được một đoạn thì không rút ra nổi nữa, anh liền tăng thêm lực rút.
Dư Phi rốt cuộc không giả vờ tiếp được, mở bừng mắt ra, hai bàn tay tóm chặt lấy khăn quàng cổ, la lên: "Nó là của tôi! Của tôi!"
Mái tóc dài của cô xõa tung, hai con mắt tròn xoe trừng lớn nhìn chòng chọc vào anh, hung hãn y hệt một chú cọp nhỏ. Những sợi tóc vừa dài vừa dày tán loạn vương trên khuôn mặt trắng bóc, nói không rõ được là ngây thơ hay phong tình.
Bạch Phỉ Lệ bình tĩnh nhìn cô một lúc, bỗng dưng cúi đầu, hôn một cái lên má cô.
Trong đầu Dư Phi nổ "đoàng" một tiếng.
Anh dịch vị trí, nhẹ nhàng hôn thêm cái nữa lên quai hàm trắng như tuyết của cô, sau đó mất tự nhiên ngẩng đầu lên, ánh mắt không dám nhìn thẳng vào Dư Phi, trên mặt hốt nhiên nổi lên một màu đỏ ngường ngượng.
Dư Phi nhìn anh chằm chằm.
Anh ngại ngùng, cúi đầu, tay phải có vết cào lại nắm chặt lấy khăn quàng. Nhưng anh đang do dự, đang đấu tranh, đang không chắc chắn. Ngón tay anh nắm khăn quàng, căng lên, rồi buông lỏng, nhưng từ đầu đến cuối vẫn bướng bỉnh nắm lấy, không chịu buông ra.
Anh chợt quay đầu sang một bên, hắt hơi một cái.
Dư Phi bỗng cầm lấy bàn tay phải lành lạnh của anh, áp lên ngực mình. Nhiệt độ cơ thể dồi dào đầy sinh lực của cô xuyên qua chất liệu may mặc mỏng manh truyền tới, kèm theo đó là xúc cảm mang đến từ những đường cong dịu dàng vi diệu của một người con gái trẻ tuổi.
Hô hấp của anh như ngừng lại, cuối cùng cúi rạp cả người xuống, tay trái chống lên cạnh gối cô, hôn lên cổ cô.
Khoảnh khắc đó, Dư Phi đột nhiên thông tỏ lời Thứ Cơ, lúc động lòng, phướn sẽ không đáp xuống, làm sao giữ yên được nó? Có lẽ cô đã nghĩ quá nhiều về quá khứ. Buổi tối ấy khi ở "Chiếc bè" là đúng đắn nhất, cô thích anh, không hỏi quá khứ, không nói tương lai, chỉ tính hiện tại.
Cô mạnh mẽ lật người, đè Bạch Phỉ Lệ xuống dưới. Cô vuốt ve đôi mắt đẹp như được trút xuân thủy, môi kề sát lên môi anh, du dương trầm khàn nhỏ giọng nói: "Sao anh lạnh vậy, có phải bị cảm rồi không? Tôi sưởi ấm cho anh nhé."
Ngón chân cô luồn vào ống quần anh, da thịt cô rất nhanh dán lên người anh. Có vẻ như anh không cam lòng nằm ở vị trí bị động, nhanh chóng lật người đè lên cô. Anh hôn lên môi cô, hôn lên cần cổ tựa thiên nga của cô, hôn lồng ngực trắng nõn của cô, hôn lên hai ngọn đồi nhẵn mịn như lông vũ.
Cả người anh nhanh chóng nóng lên. Lưng Dư Phi đè trên cái gối cao, cổ ngửa xuống phía dưới. Cô nhắm chặt hai mắt, hai tay bấu vào cơ thể căng chặt của anh, cảm nhận sức lực trên hai vai anh.
Hơi thở của anh phả lên bụng cô, anh cọ xát vào cô. Đau thật đấy, cô chợt ngửa đầu "ư" một tiếng. Anh như bị dọa, thu về, đỡ lấy cổ cô mà hôn. Mùi xạ hương trên người anh thấm vào lòng người ngây ngất, cô thất thần bấu chặt vào bắp thịt trên gáy anh, anh bèn thử lại. Dư Phi rốt cuộc mới là lần thứ hai, chỉ biết ôm chặt lấy anh kêu nho nhỏ, anh lại không nghe ra hàm ý nũng nịu trong đó, lại lần nữa căng thẳng rút lui ra ngoài.
Dư Phi oán trách nhìn anh, "Anh làm gì vậy?" cô ưỡn người áp lên thân thể anh. Anh nhịn không nổi, cơ thể trong chăn rịn ra từng hạt mồ hôi lớn lăn xuống. Dư Phi cầm lấy anh, anh lập tức càng cứng hơn, cô dẫn anh vào bên trong, vẫn bị đau đến hừ nhẹ, nhưng không chịu cho anh lui ra sau. Cô khiến toàn thân anh gồng lên cứng ngắc, hệt như đá. Anh càng vào sâu, cô càng rên lớn hơn. Anh rốt cuộc cũng hiểu được ý tứ trong đó, kéo lấy chân cô, nhào nặn hông cô, cùng cô làm, cô càng ư ư a a kêu khóc, anh càng mạnh hơn.
Đó là cảm giác thế nào? Một cô gái thoạt nhìn phản nghịch cùng cực như thế, thân thể lại mềm đến vậy nóng đến vậy, như muốn hòa tan anh. Anh vào đến tận cùng trong cô, nhưng cảm thấy vẫn chưa đủ, lại xốc cô lên muốn vào thêm chút nữa, như muốn đâm thẳng vào tim cô. Khóe mắt cô chảy lệ, anh liền cắn lên mắt cô. Trước nay anh chưa từng nghĩ lại có sự mâu thuẫn đặc biệt đến vậy ở một người con gái, ánh mắt cô rõ ràng là đang oán giận, cắn môi, nhưng mặt lại toát lên vẻ ướt át động lòng người, nhuốm màu sắc như ăn mòn xương cốt. Cô rõ ràng là rất ương ngạnh, thậm chí ương ngạnh đến mức không chịu dung chứa sự nhượng bộ, vậy nhưng lại có thể vùi đầu trong ngực anh rên rỉ vừa vì đau lại vừa nũng nịu vì động tình. Anh chợt áp chặt cô vào lồng ngực mình, xông tới như một cơn mưa nặng hạt. Hai tay cô quấn quít quấn lấy cổ anh, bầu ngực áp sát lên lồng ngực anh, hàm răng cắn chặt, cần cổ thon dài ngửa ra sau. Anh nhìn đôi mắt nhắm chặt của cô, bỗng nhiên cắn mạnh lên vai cô một cái, lập tức lên đỉnh.
Cô run lẩy bẩy.
Anh nghiêng người ôm cô ngã xuống giường. Anh hơi chút di chuyển, cô liền ôm anh run lên. Anh đành bất động, vùi đầu vào mái tóc dài đẫm hơi nước của cô, ngửi lấy mùi hương đặc thù của cô vì cuộc vận động này mà tản ra.
Trầm nặng thở dốc hồi lâu, cảm giác được cuối cùng cô cũng thả lỏng, anh cẩn thận rút ra, lấy từ trong ngăn kéo ra hai tờ khăn giấy, tháo cái áo mưa ướt sũng xuống.
Nơi đó vừa vi diệu vừa mẫn cảm, tay cô mềm nhũn sờ lên, anh hít mạnh một hơi, chợt thấy cô mở hờ mắt, mê ly mơ màng giơ tay lên trước mũi ngửi một cái, rồi lại rất vô lại quệt sạch lên môi anh.
Bạch Phỉ Lệ đang định nổi giận, chợt nghe cô nửa tỉnh nửa mê lẩm bẩm: "A Phỉ... Kỹ thuật của anh sao lại có vẻ thụt lùi vậy..."
...
Trong phòng khách, Cọp Cái đang cuộn thân mình dài gần hai thước ngủ trong đống dép lê bông xù bỗng đột nhiên xòe hai móng vuốt nhỏ bé ra, ngáp một cái, kêu "meooo" một tiếng.
Bên trên gác xép, tuyết lớn đè cong cành tùng. Cành tùng rào rào rung lên, một đống tuyết lớn rơi xuống, vùi mất ngọn đèn nhỏ ngoài gác xép. Con chim đơn côi mất ngủ kia bị kinh sợ, đập cánh phành phạch bay đi, ánh đèn rọi vào từ cửa sổ nhất thời yếu đi phân nửa.
...
Dư Phi cảm giác như bị lấy khăn che lại mắt, cô tưởng Bạch Phỉ Lệ đang đùa với cô, cười hì hì đưa tay định kéo xuống, nhưng hai cổ tay cũng đã bị khăn quàng cổ trói lại trên đỉnh đầu, buộc vào cái trụ đơn trên đầu giường. Cô kinh ngạc, giãy người kêu lên: "A Phỉ!"
Lại cảm giác được cả người anh đè lên mình, môi cũng bị chặn lại, một chút âm thanh cũng không phát ra được. Anh dùng đầu lưỡi quấn lấy lưỡi cô, cô chỉ cảm thấy một vị ngọt tanh loáng thoáng tản mát trong vị giác. Trước mắt đen kịt một màu, cảm giác này lại càng thêm rõ ràng tinh tế.
Trong đầu cô ong ong mê muội, chỉ nhớ ra vừa nãy đã bôi gì đó lên miệng anh, sao bỗng chốc lại thành ra đút vào miệng cô rồi.
Cô đang muốn kháng cự, chợt cảm giác tay trái anh từ từ sờ một đường từ cánh tay cô xuống, tốc độ và lực đạo nhẹ tênh, lướt từ cánh tay xuống dưới gốc nách, rồi sang sườn ngực, mò mẫm mân mê khoảng da thịt mềm mại mẫn cảm ít khi lộ ra ngoài nhất của cô. Cuối cùng rơi xuống trước ngực cô, không nặng không nhẹ nhào nặn cô, vân vê đến độ cả người cô rối loạn, hai chân kẹp chặt không tự chủ được mà ma sát lên xuống.
Cô cảm thấy anh như biến thành một người khác, hoàn toàn không hề cẩn thận khống chế như vừa rồi nữa. Cô không rõ vì sao, lại không rảnh để mà nghĩ, chỉ biết cắn chặt môi kìm bản thân không lên tiếng, điều chỉnh hơi thở không để mình thua quá thảm.
Bên sườn ngực vất vả mãi mới thích ứng được, cô thở hổn hển, cứ như vừa chui ra khỏi nước, tay trái anh lại đổi bên, xoa nắn cô, vừa nhẹ nhàng vừa nặng nề nhào nặn. Cô chưa từng bị ai đụng vào như vậy, suýt nữa bật khóc. Phát rồ nhất là khoảng da thịt mẫn cảm giữa hai đùi, vẫn còn kẹp vào nhau, xúc cảm này thật kỳ dị, vừa nóng vừa lạnh, vừa mềm vừa cứng. Cảm giác trống rỗng mãnh liệt dâng lên, cô thở hổn hển, ướt sũng kẹp chân khóa lấy anh, lại bị anh tránh ra, đẩy xuống dưới. Anh ôm lấy eo cô để cô trở mình, nửa người ghé lên đầu giường. Anh rất thích vòng eo vừa mảnh dẻ vừa mềm dẻo của cô, hai tay bóp hai bên eo cô, hôn lên hốc lõm trên thắt lưng cô.
Cô uốn éo thắt lưng, nhỏ giọng mơ màng kêu "A Phỉ, tôi muốn", rên được hai tiếng, liền cảm giác hai ngón tay trái của anh đâm vào. Thế này cũng tạm coi như thoải mái được chút xíu, cô ưm ưm rên rỉ, lắc mông cọ lấy ngón tay anh. Anh từ phía sau cúi người ôm lấy cô, tay phải nhào nặn ngực cô, nhô đầu ra phía trước hôn môi cô thật sâu. Hôn đến lúc cô không thở nổi nữa thì cảm nhận được anh không khách khí chút nào đâm vào, vừa tiến vào đã hung hãn va chạm, đụng khiến cô phải bật thốt một tiếng sợ hãi, nhào vào đầu giường.
Toàn bộ thân dưới của cô đều bị chống lên trướng đau, hai bên xương cốt đều như bị chống đỡ cứng đờ. Nhưng đó không phải cảm giác đau đớn ngắt quãng như lúc trước nữa mà là cả người đều bị mở ra, tuy cũng đau nhưng cảm giác vui thích thì lại giống như hồng thủy mà cuộn trào mãnh liệt.
Cô lớn tiếng gọi: "A Phỉ! A Phỉ!", anh càng thêm mặc sức phóng túng hơn. Rốt cuộc anh cũng tháo cái khăn buộc cổ tay trên đỉnh đầu cô xuống, cô lấy lại được tự do, lại phát hiện ra không nhìn thấy gì cả, hóa ra anh đã kéo mành che cửa sổ áp mái xuống.
Trong bóng tối đen đặc, cô rốt cuộc cũng thôi rụt rè. Dưới bàn tay cô là da thịt của anh, là mái tóc dài mềm mại của anh, thân thể họ bao kín bởi mồ hôi và dịch nhờn. Hai cơ thể trẻ trung thăm dò lẫn nhau thật sâu, cùng nhau chia sẻ vui sướng, cùng nhau đánh mất thần trí. Cô gọi loạn "A Phỉ, A Phỉ!", anh lăn lộn thân thể mềm mại của cô thành đủ loại hình dạng, trong bóng đêm dùng đủ loại tư thế giao hợp với cô. Cô bị anh làm đau, liền kêu: "A Phỉ A Phỉ, như Ma Phỉ ấy. (*)". Có đôi khi cô buông thả phóng túng, có đôi khi lại hệt như một đứa trẻ. Anh từ đầu đến cuối đều không nói lời nào, nhưng khi cô kêu câu kia lại mơ hồ nghe thấy tiếng anh cười trong trẻo, anh chuẩn xác bắt được môi cô, hôn cô không ngừng.
(*) Trong Ma Phỉ, Ma (麻) là nhám ráp, Phỉ (匪) là kẻ cướp, khá gần âm với A Phỉ của Bạch Phỉ Lệ.
***
Dư Phi tỉnh dậy rất sớm. Lúc cô tỉnh dậy, ánh sáng bàng bạc của ngọn đèn treo trên cửa sổ áp mái đang khó nhọc xuyên qua tầng tuyết nặng, rọi vào.
Cô mất hơn mười giây để nhớ lại cũng nhớ không nổi cái mành che này Bạch Phỉ Lệ rốt cuộc đã kéo ra từ khi nào. Nhưng lúc ba chữ Bạch Phỉ Lệ này xuất hiện trong đầu cô một cách đầy tự nhiên như vậy thì chính cô đã phải kinh hãi.
Trong chăn rất mềm rất ấm, có mùi xạ hương lẫn với chút ít thứ mùi vi diệu khác. Ngón tay cô trong chớp mắt ấy không dám di chuyển, bởi cô có thể cảm giác được cơ thể Bạch Phỉ Lệ đang cách ngón tay cô rất gần. Nên tới gần anh hay nên cách xa anh, nhất thời cô cảm thấy đầu óc mình hỗn loạn vô cùng.
Có lẽ tới gần anh cuộc sống hẳn sẽ tốt hơn. Dù sao tối qua khi anh hôn cô, cô gần như đã muốn tự thuyết phục rằng Bạch Phỉ Lệ thực sự yêu cô.
Là chữ "yêu" này.
Nhưng giờ khi tỉnh lại, cô lại cảm thấy chữ này thật xa xỉ, đến độ cô không thể cầm nổi.
Cô lăn mạnh một vòng về phía bên trái trong ý niệm hỗn độn ấy, lăn ra khỏi chăn, lăn xuống sàn nhà lạnh lẽo. Hệ thống sưởi của căn nhà này tuy dồi dào, nhưng qua một đêm tuyết lớn như vậy, trên nóc nhà vẫn áp xuống chút khí lạnh, đọng lại nơi mặt sàn gác xép.
Lăn xuống giường kiểu này là biện pháp cô làm suốt nhiều năm qua để chống lại sự mê hoặc của giường, ép buộc mình phải dậy sớm. Từ lúc trở lại Bắc Kinh, quyết định đăng ký làm nghiên cứu sinh ở học viện hí khúc, quyết đi con đường hí khúc này tới cùng, cô đã khôi phục lại việc dậy sớm.
Rất nhiều việc không thể ngừng lại, dù chỉ ngừng một ngày thôi cũng sẽ khiến lòng người sinh ra biếng nhác. Ban nãy khi cô phát hiện ra mình lại có ý muốn ở bên Bạch Phỉ Lệ, cũng đã sinh lòng sợ hãi.
Cái lạnh dưới sàn khiến cô tỉnh táo lại, phát hiện ra mình cả người không mảnh vải. Vịn tường đứng dậy, có cảm giác như eo không còn là của mình nữa, giống như bị gãy mất vậy. Cô nhớ mang máng thời điểm luyện tập khổ nhất cũng chưa từng có cảm giác này.
Run chân.
Cô xoa bóp cơ thịt mỏi nhừ bên trong bắp đùi, lại cảm thấy đó không phải là đau nhức của cơ thịt mà là sự tê dại đến từ xương tủy. Lần trước khi đi ra khỏi "Chiếc bè" cũng không như thế này. Cô cảm thấy tối qua không phải là ngủ cùng một người hai lần, mà là bị hai người ngủ thì đúng hơn.
Việc này đúng là lao động chân tay mà, so với một buổi biểu diễn nghiêm chỉnh của cô còn mệt hơn. Hát hí khúc trên sân khấu, dù sao cũng là luân phiên lúc thì anh diễn lúc là tôi lên đài, luôn luôn có thời gian tạm nghỉ lấy hơi. Nhưng tối qua, từ đầu tới cuối, cô chẳng có giây phút nào được nghỉ ngơi cả.
Cô nhào tới giường há miệng ra muốn cắn Bạch Phỉ Lệ, mở miệng ướm mấy lần, rốt cuộc vẫn không ngoạm xuống được, bèn hậm hực lấy mớ tóc dày lộ ra bên ngoài của anh gặm vào miệng, nhai nhai vài cái. Tóc anh mềm mượt, vừa lạnh vừa trơn, khiến cô có cảm giác trơn trơn ướt ướt như bị nước thấm. Cô nhai tóc anh loạn lên như trâu nhai cỏ rồi lại nhả ra. Anh ôm đầu ngủ, chỉ để lộ ra một bên tai. Cô nhìn vành tai tháo khuyên khi đi ngủ của anh, đầy đặn trắng trẻo, bên trên bấm ba cái lỗ, trông vừa sạch sẽ vừa mềm mại. Cô chưa từng thấy con trai bấm lỗ tai, rất muốn thò tay ra sờ thử, nhưng cuối cùng vẫn không đụng vào. Trải nghiệm tối qua khi chạm vào vết thương trên mu bàn tay anh, đánh thức anh dậy vẫn còn khiến cô sợ hãi.
Tay cô chạm vào tóc anh một lần nữa, thấp giọng mắng khẽ một tiếng: "Đồ đáng ghét Bạch Phỉ Lệ."
Cô nghĩ, không biết cái tên Bạch Phỉ Lệ này là do ai đặt cho anh nữa, đọc lên bằng tiếng địa phương thật sự rất khó nghe.
Cô đứng dậy khỏi giường, nhặt cái khăn quàng trên đầu giường lên, đi tới cái giá treo quần áo dạng gấp ở đầu giường lấy quần áo.
Mùa đông ở Bắc Kinh rất khô, quần áo vừa giặt xong, đến nửa đêm đã khô rồi. Cô mặc áo lót vào, đột nhiên cảm thấy trên vai bị dây áo siết vào làm đau, cúi đầu nhìn thì thấy hai dấu răng sâu hoắm, ngay ngắn, cắn rách cả da, vết máu đã đông lại.
Cô dành hẳn một giây để suy tính xem có nên đi tiêm vắc-xin phòng dại không.
Đàn ông đều thế này hết à? Lúc thoải mái sung sướng thì lại cắn cô một cái rõ ác ôn.
Trong đầu xẹt qua một vài cảnh tượng tối qua, trong lòng cô run lên, cột sống tê dại, cũng không dám suy nghĩ nhiều nữa, cầm cặp sách lên vội vã xuống nhà.
Lúc xuống tầng, cô gắng nhẹ tay nhẹ chân, sợ đánh thức anh dậy.
Cô quay đầu nhìn lại – Nếu quả thật là có duyên, có lẽ sẽ gặp lại.
Hiện giờ cô không nên dính vào mấy chuyện phong hoa tuyết nguyệt này, bắt đầu từ mai, cô sẽ phải liên tục thi trong ba ngày, từ kỳ sát hạch văn hóa cả nước đến vòng sơ khảo chuyên nghiệp của học viện hí khúc. Cô không còn thời gian nào rảnh để mà lãng phí nữa, cũng không có bao nhiêu cơ hội để lựa chọn, cô không thích cho mình cơ hội làm lại, giống như khi lên đài biểu diễn vậy, không có chỗ cho sai lầm.
Hôm nay cô phải đi làm lại thẻ căn cước, mà không, thẻ căn cước chắc chắn là không làm lại ngay được rồi, nhưng ít nhất cũng phải đi làm một tờ giấy báo đánh mất thẻ căn cước, rồi làm một cái thẻ tạm thời, nếu không ngày mai sẽ không thể vào thi. Cô còn phải đi làm lại thẻ ngân hàng, tìm người mở khóa, mua điện thoại di động mới... Một đống việc linh tinh, cô hít sâu một hơi, lên dây cót tinh thần chuẩn bị giải quyết.
Xuống tầng dưới, cô ra cửa, lấy áo phao treo trên giá áo cạnh đó mặc vào rồi quấn khăn quàng lên cổ. Đương lúc cúi người xuống đi giày, cô chợt nghe thấy bên ngoài như có tiếng đỗ xe. Dưới mái hiên có đèn, cô nhìn xuyên qua lớp kính trong mờ của ô cửa sổ cạnh cửa ra vào, chỉ thấy một chiếc SUV đỗ lại bên cạnh xe Bạch Phỉ Lệ, một cặp vợ chồng già tóc trắng xóa xuống xe dưới sự trợ giúp của hai thanh niên.
Cặp vợ chồng già này mặc áo phao lông vũ rất dày, trên mặt quấn kín khăn quàng bằng len lông cừu, dù không thấy rõ tướng mạo, nhưng xem chừng họ đang đi về phía cổng căn nhà, chẳng cần phải đoán nữa, chắc chắn là ông bà ngoại của Bạch Phỉ Lệ.
Ông bà ngoại của Bạch Phỉ Lệ!
Không phải Bạch Phỉ Lệ nói họ không có nhà sao? Sao đột nhiên lại trở lại vào sáng sớm thế này?!
Trong đầu Dư Phi nổ "đoàng" một tiếng lớn, nhất thời đờ người núp sau cửa, không biết phải làm sao.
Trước đó Bạch Phỉ Lệ từng nhắc tới, ông bà ngoại anh đều là giáo sư đã về hưu khoa Ngôn ngữ Trung của đại học S. Khắp căn nhà này đều đậm mùi thư hương, ngăn nắp đến không nhiễm một hạt bụi, lại nhìn cách đối nhân xử thế vô cùng có giáo dưỡng của Bạch Phỉ Lệ, có thể thấy rõ được đôi vợ chồng già này có học vấn có đức hạnh đến bậc nào.
Lại nghĩ đến vị trí phòng Bạch Phỉ Lệ, bài trí trong phòng, nhớ lại dáng vẻ được nâng niu từ nhỏ của anh, không nghi ngờ gì nữa, Bạch Phỉ Lệ chính là đứa cháu ngoại bảo bối nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa của cặp vợ chồng này.
Họ có thể chấp nhận một người lai lịch bất minh, chỉ có bằng cao đẳng như cô giao du với đứa cháu độc nhất của họ sao?
Huống hồ cô và Bạch Phỉ Lệ cũng chưa được tính là có giao du. Họ cùng lắm chỉ quen nhau được năm ngày, không hề có hiểu biết cặn kẽ gì về nhau, vậy mà đã lên giường với nhau hai lần một cách chẳng hiểu ra sao. Anh chưa từng thổ lộ gì với cô, cô thì đến cả tên thật cũng không muốn cho anh biết. Vậy thì tính sao được chứ?
Nói theo cách nói của cha ông thì cô chính là điển hình của loại đàn bà dễ thay dễ đổi, ngả ngớn không biết tự trọng.
Những điều này lướt nhanh qua đầu, trong lòng Dư Phi không khỏi sợ hãi, càng không dám ra khỏi cửa đối mặt với họ. Quay đầu lại xem xét, chợt nhớ ra tối qua Bạch Phỉ Lệ đã nói với cô, trong nhà, phía sau phòng bếp và phòng chứa đồ có một cửa sau, dùng để đổ rác.
Mắt thấy ông bà anh đã đi tới cửa, bắt đầu lấy chìa khóa ra mở cửa, trong lồng ngực cô đập loạn, hốt hoảng chạy hướng ra sau phòng bếp. Vậy nhưng không được hai bước thì con mèo lớn kia không biết từ góc nào nhảy ra, giương nanh múa vuốt nhào về phía cô!
Con mèo này tên là Cọp Cái, thật sự là hệt như một con hổ nhỡ! Hung thần ác sát như vậy, Dư Phi gấp gáp còn chưa kịp chuẩn bị đã bị nó đụng cho một cái phải lùi lại hai bước! Dây buộc trên người Cọp Cái căng chặt, nó không thể với tới Dư Phi được nữa, nhưng lại lôi được khăn quàng cổ của Dư Phi xuống một nửa.
Dư Phi bị khăn siết lấy cổ, suýt nữa không thở được, chỉ thấy móng vuốt của nó quặp chặt lấy khăn cô, móng nó tuy đã được cắt tỉa nhưng vẫn đâm xuyên qua lớp khăn. Trong mắt nó mang theo vẻ thù hằn rõ ràng, cứ như đã chất chứa oán hận với cô từ rất lâu rồi vậy, còn thấp giọng gầm gừ, như đang uy hiếp cô.
Cô nghĩ thầm, con mèo này đẻ đâu ra thù oán gì với cô chứ? Sao lại sống chết giữ cô không chịu thả thế này? Khăn quàng vốn mỏng, nếu tiếp tục giằng co với con mèo này, chắc chắn sẽ bị xé cho tan tành. Tai nghe thấy tiếng ổ khóa bị chìa khóa cắm vào chuyển động, lưỡi khóa văng ra, Dư Phi không còn đường lui nữa, đến đầu cũng không dám quay lại, giật khăn quàng ra ném cho con mèo, bất chấp hai chân vẫn còn mềm nhũn, đeo cặp phi nhanh như chớp tháo chạy ra cửa sau.
***
Từ Tokyo đến Bắc Kinh bay mất ba giờ. Một ngày trước ngày trở về đã định sẵn trước đó, bệnh gai đốt sống thắt lưng của ông Thượng đột nhiên phát tác. Khoa Văn học đại học bên kia ban đầu đã sắp xếp chuyên gia khám chữa bệnh cho ông nhưng ông Thượng lại khăng khăng đòi về Bắc Kinh, nói là căn bệnh này của ông đã ngót nghét hai mươi năm rồi, trước nay vẫn do cùng một bác sĩ khám chữa, quen cửa quen nẻo, ngoài việc yên tâm ra thì hiệu quả cũng thật sự tốt, ở Nhật Bản ngôn ngữ không thông, mà cái chuyện bệnh tật này, phiên dịch cũng không nói rõ ràng được nên ông thấy không yên lòng.
Vì lẽ đó, hai ông bà đổi vé máy bay, dưới sự tháp tùng của hai học trò, bay suốt đêm về Bắc Kinh.
Nhưng khi hai ông bà về tới căn nhà ở Chiêm Viên vào sáng sớm, vừa mở cửa đã thấy một cô gái tóc dài chạy trối chết, còn bị Cọp Cái tháo mất một cái khăn quàng.
Hai ông bà đã sống đến tuổi thất thập, bao nhiêu mưa gió của thời đại đều đã trải qua, chỉ duy tình cảnh này là chưa từng lường được.
Họ đã thấy được rõ ràng một bên gò má của cô gái nọ, trắng trẻo mịn màng, mắt mũi miệng đều nhìn rất được, răng như tạc bằng ngà voi, chỉ là mái tóc dài thô dày xõa tung, lộ ra vẻ phản nghịch bất kham. Cô đeo một cặp sách rõ nặng, vậy mà lúc vọt chạy lại hết sức mạnh mẽ, mái tóc dài tung bay tựa bạch dương trong gió.
Hai ông bà sững sờ đứng ở cửa, hai học trò thì nhìn đến trợn mắt há mồm, lát sau mới hỏi: "Thầy Thượng, trong nhà...bị trộm ghé thăm sao?"
"Để em đuổi theo!" Cậu học trò kéo hành lý vào nhà xong liền buông vali ra, chạy về phía phòng bếp.
"Ấy! Em đứng lại!" Thầy Thượng vội gọi cậu ta lại, cậu học trò sửng sốt nhưng vẫn dừng lại.
Ông Thượng quay đầu, xác nhận lại chiếc xe đỗ trước cửa nhà đúng là của Bạch Phỉ Lệ, lại ngẩng đầu lên nhìn về phía tầng hai, chỉ thấy cửa phòng ngủ Bạch Phỉ Lệ mở toang, không khỏi nhíu chặt mày một cái, nói với hai học trò:
"Không sao, hai đứa về ký túc xá đi."
Hai học trò vẫn còn đang lo lắng lỡ xảy ra chuyện gì, hai ông bà lớn tuổi rồi sẽ không ứng phó được, bà Thiện lại hiền lành nói: "Ra vào Chiêm Viên đều có bảo vệ giám sát, chim chóc bay vào còn có người báo cáo nữa là, lấy đâu ra trộm được? Tôi ở đây mấy chục năm rồi cũng chưa từng nghe nói có vụ nào như thế. Hai người các cậu đi theo hai ông già bà cả chúng tôi, dọc đường bận trước bận sau cũng đã mệt muốn chết rồi, mau về nghỉ đi. Có thằng cháu Tiểu Bạch Tử nhà tôi ở đây coi sóc, các cậu khỏi lo."
Hai cậu học trò nửa tin nửa ngờ, một người ra phía sau phòng bếp và phòng chứa đồ kiểm tra một lượt, xác nhận không có ai, người còn lại mang hành lý của hai ông bà vào tháo dỡ, giúp họ cởi áo khoác dày sụ và khăn quàng ra, hai người dặn dò đủ thứ rồi mới rời đi.
Hai ông bà đóng cửa lại, nhìn nhau.
Cọp Cái "meo" một tiếng, đầy tủi thân mà ngồi chồm hổm trên ghế salon, bà Thiện vội đi qua, cởi dây cho nó. Bà vừa cởi vừa thắc mắc:
"Tiểu Bạch Tử đã bao giờ buộc dây cho Cọp Cái đâu? Chỉ e là do sợ Cọp Cái cào người. Nhưng Cọp Cái nhà mình đâu phải gặp ai cũng cào đâu? Có cào cũng chỉ cào những ai tới gần Tiểu Bạch Tử thôi."
Cọp Cái ư ử kêu, ra sức cọ cái đầu lớn đùng vào người bà Thiện.
"Cửa phòng mở tung ra thế kia." Ông Thượng nói, "Tiểu Bạch Tử nhát gan, lúc ngủ thường để hé một khe cửa, nhưng đã khi nào mở toang ra thế đâu?"
"Chẳng lẽ là..."
Hai ông bà nhìn nhau, vẻ mặt kỳ quái.
Ông Thượng được bà Thiện đỡ, chậm rãi lên tầng. Vào phòng ngủ Bạch Phỉ Lệ, chỉ thấy chăn trên giường bị xốc lên, nhưng không có ai. Ông Thượng liếc bà Thiện: "Hôm qua tôi gọi điện cho Tiểu Bạch Tử, không phải là nó nói nó không có bạn gái sao?"
Bà Thiện cũng nghĩ không ra, vẻ mặt hoang mang gật đầu: "Đúng vậy, có lần nào mà chúng ta không hỏi đâu? Lần nào nó cũng nói là không có."
Sắc mặt ông Thượng nhất thời sạm lại. "Trước đây cặp với một cô bạn gái, cũng chưa từng cho chúng ta gặp mặt. Hiện giờ còn giỏi hơn kìa, dẫn về nhà qua đêm cũng không thèm nói cho chúng ta biết, còn coi chúng ta là ông bà ngoại sao?"
Ông gạt tay bà Thiện ra, tự trở tay đỡ lấy lưng, loạng choạng đi vào phòng sách lớn, lấy quải trượng bằng gỗ hoàng hoa lê ra.
Bà Thiện vừa nhìn đã hoảng lên, giữ lấy tay ông nói: "Ấy ấy lão Thượng, đánh Tiểu Bạch Tử sao được chứ? Da dẻ nó mỏng manh thế, vừa đụng cái đã bầm tím, ông đánh một gậy nó lại chẳng không ngất mất à!"
Ông Thượng vùng khỏi tay bà, nghiêm khắc trừng bà: "Tại bà chiều nó quá nên thế đấy! Chiều hư luôn rồi!"
Bà Thiện cũng xuất thân từ dòng dõi thư hương thế gia, là đại tiểu thư được nuông chiều từ bé, suốt bao năm qua nào đã từng chịu nghe ông Thượng trách mắng, sau khi đóng cửa phòng sách lại thì gào lên với ông:
"Nói cứ như ông thì không chiều nó ấy! Nhìn xem ba tháng nay ông muốn nó ra làm sao hả? Đổi cách mới kiếm việc ra cho nó làm để nó phải nói chuyện với ông. Tiểu Bạch Tử cũng ngoan, ông bảo nó làm gì nó đều làm đến nơi đến chốn cả. Bây giờ trường học người ta đã sắp xếp bác sĩ ổn thỏa cho ông để ông an tâm chữa bệnh rồi trở về sau rồi, ông chẳng những không muốn lại còn đòi về trước một ngày, nói muốn cho nó niềm vui bất ngờ. Ái chà! Ông nhìn thử xem! Niềm vui này đúng là bất ngờ gớm ra nhỉ!"
Ông Thượng tức phồng mang, giống như con cá nóc, ông chống gậy mở cửa ra đi được hai bước, đột nhiên "ối" một tiếng, nắm tay đỡ lấy lưng. Bà Thái ban đầu còn nổi cơn với ông nên không chịu dìu ông, giờ lại đuổi sát theo đỡ lấy ông, nhắc nhở: "Còn muốn đánh nữa à, lớn tuổi thế rồi còn đòi đánh!"
Ông Thượng ấn ấn thắt lưng: "Aiz aiz, Tiểu Thiện, dìu tôi lên tầng đi... Thằng nhóc thối, thế nào tôi cũng phải mắng cho nó một trận."
Bạch Phỉ Lệ trước nay vẫn hay dậy muộn, nhất là sau khi đi du học về, bất kể ngủ lúc mấy giờ cũng đều thẳng một mạch đến mười một, mười hai giờ mới dậy. Hai ông bà thuộc thế hệ trước đều từng sống trong trường, làm việc và nghỉ ngơi đều cực kỳ có quy luật, giờ giấc luôn nghiêm ngặt dựa theo thời gian biểu của trường.
Họ lúc đầu vô cùng không vừa mắt Bạch Phỉ Lệ như vậy, mỗi ngày đúng bảy giờ là lôi anh từ trên giường xuống. Nhưng nhìn anh sau khi thức dậy, đến tận lúc ngồi vào bàn ăn sáng rồi mà vẫn đầy mặt ngơ ngác hồn phi phách tán, kết quả là giờ không nhịn được mềm lòng, cuối cùng cũng chỉ có thể để tùy anh.
Nhưng hôm nay, ông Thượng mặc kệ tất cả, nhất định phải đòi bằng được Bạch Phỉ Lệ một lời giải thích ngay lúc này.
Ông Thượng đắng cay muôn phần leo lên gác xép, chỉ thấy Bạch Phỉ Lệ vẫn còn đang ngủ vùi trong chăn, lộ mỗi tóc ra ngoài, mái tóc rối bời thành một nùi, cứ như bị chó gặm, phía dưới còn có mấy lọn nhuộm màu trắng nhạt. Ông Thượng nhất thời giận mà không có chỗ trút, giật chăn của anh ra, vừa định mắng thì mắt chợt trợn tròn, lập tức đắp lại chăn cho anh.
Bà Thiện vẫn còn đứng ở cuối giường, thấy thế vội hỏi: "Sao thế lão Thượng?" bà cũng đuổi tới định vén chăn Bạch Phỉ Lệ lên. Lão Thượng vội vàng cản lại: "Đừng nhìn kẻo lại đau lòng... Hây dà cái thằng này, làm gì thế không biết!" ông đau lòng muốn chết, nhất thời quên mất là chính mình đã cầm quải trượng xông vào.
Bà Thiện vừa nghe thế, còn tưởng xảy ra chuyện lớn gì, "hả" một tiếng, khăng khăng muốn tự mình vén chăn lên xem. Hai ông bà còn đang giằng co với nhau, Bạch Phỉ Lệ đã tỉnh lại, thò đầu ra khỏi chăn vừa nhìn, hai khuôn mặt quen thuộc chợt đập vào mắt, nhất thời giật nảy mình tỉnh táo lại, ở trong chăn dịch người về phía bên kia, ôm chặt chăn gọi: "Ngoại?"
Anh còn ngờ rằng mình đang mơ, cắn chăn một cái mới tin được mình đã tỉnh, hoảng sợ hỏi: "Không phải ngoại nói là mai mới về sao? Sao giờ đã về rồi?"
Ông Thượng nghe câu này, cười nhạt hai tiếng "ha ha", trách cứ: "Còn ngại ngoại mày về sớm quá phỏng?"
Bạch Phỉ Lệ vội đáp: "Dạ không..."
Ông Thượng ngắt lời anh: "Nhìn lại cái dáng vẻ của mày bây giờ đi! Ông bà mày ba tháng không về, tóc mày dài quá nhỉ, còn nhuộm tóc nữa, bảo sao giữa chừng không chịu gọi video cho chúng ta! Mới nãy vào phòng mày, trên lịch mày còn viết "23 tháng 12, cắt tóc" nữa cơ đấy, chúng ta mà không về sớm, còn được chiêm ngưỡng cái vẻ diêm dúa này của mày sao?"
Bạch Phỉ Lệ vừa tỉnh lại đã bị mắng cho tơi tả, một câu cũng không dám hó hé, ôm chăn ngồi nửa ngày mới đáp lại, đàng hoàng nhận sai: "Con dậy rồi đi cắt ngay đây."
"Được rồi!" Ông Thượng tức giận nói, "Thấy cũng thấy rồi! Ngoại trừ rối mắt ra cũng không phải là quá xấu!"
Bạch Phỉ Lệ còn đang "???" hoang mang, ông Thượng đã lại quở thêm trận nữa: "Trên người mày xanh xanh tím tím thế là sao? Bị ai đánh thành vậy hả? Người khác đánh mày mày không biết đánh lại sao? Cho mày luyện Taekwondo nhiều năm thế thành công cốc hết hả?! Làm sao mà vẫn cái dáng vẻ Lâm muội muội thế chứ?!"
Bạch Phỉ Lệ: "..."
Lúc này anh mới chợt nhận ra là không thấy Dư Phi đâu! Hai ông bà trở về quá đột ngột, nhất thời làm anh không nghĩ ngợi được gì, lúc này chợt tỉnh táo lại, có chút hốt hoảng tìm kiếm xung quanh, nhưng làm sao còn bóng dáng Dư Phi? Quần áo cô treo trên cái giá đối diện cũng không thấy đâu nữa, khăn quàng cổ trên giường cũng biến mất, cả căn phòng đều không còn lưu lại bất kỳ dấu vết nào của cô.
Cô lại đi đâu mất rồi? Cô đi từ lúc nào? Sao cô lại muốn đi? Lẽ nào tối qua cô không vui sao? Lúc thân mật cô còn gọi anh là "A Phỉ", tiếng cô gọi không giống với bất kỳ ai khác, nhưng rốt cuộc tình cảm cô dành cho anh là như thế nào?
Anh nhớ tới buổi sáng lần đầu tiên đó khi cô tỉnh lại đã đè chăn xuống nói với anh: "Chúng ta bèo nước gặp nhau, đường ai người nấy đi, đừng gặp lại nhau nữa."
Anh nhớ tới lần thứ hai trong con ngõ cũ kỹ, cô rơi lệ xoay người bỏ đi, đi một cái là tám tháng mất tăm như đá chìm đáy biển, không thể tìm được cô nữa.
Căn nhà ở Chiêm Viên này, ngoại trừ Quan Cửu tìm tới một lần lúc anh đổ bệnh, anh chưa từng nhắc tới với bất kỳ ai khác, đến cả Lăng Tửu cũng không biết nhà anh ở đâu. Mà Quan Cửu cũng chưa từng bước lên tầng hai nơi thế giới của anh ngự trị. Tối qua, tấm lòng anh muốn giữ cô lại, chẳng lẽ còn chưa đủ rõ ràng? Vì sao cô vẫn biến mất như vậy?
Nghĩ đến những điều này, trong lòng Bạch Phỉ Lệ chợt lạnh toát, ánh mắt nhàn nhạt nhìn về một phía, tăng thêm vài phần tức giận.
Ông Thượng thấy đôi mắt đẹp của anh dừng hồi lâu nơi kia, cũng nhìn theo, lại chẳng thấy gì cả, không khỏi bực mình nói: "Hỏi mày đấy! Tính sổ từng cái một, trước tiên nói về chuyện trên người mày bị sao đi!"
Bạch Phỉ Lệ thoáng sửng sốt, cúi đầu, vén chăn lên nhìn vào trong, quả nhiên thấy bên trong xanh xanh đỏ đỏ kín người, cứ như mở phường nhuộm, cái thì là dấu tay, cái thì hằn thành hình hoa văn của chăn đệm, trong đầu ùng ục nảy ra hai chữ thô tục, bụm mặt hàm hồ kêu nhỏ một tiếng: "A Thuỷ ơi...", mặt đỏ đến tận cổ.
Rõ ràng lần trước không nghiêm trọng như vậy.
Anh trời sinh da vừa trắng vừa mỏng, chỉ lỡ đụng chút cũng sẽ bị bầm máu. Khi còn bé ông bà ngoại còn tưởng anh có bệnh gì về máu, mấy lần dẫn anh đến bệnh viện kiểm tra sơ đồ cấu tạo máu, nhưng kiểm tới tra lui cũng không ra bất cứ vấn đề gì, bác sĩ bảo anh cố gắng không để bị va chạm và bị thương. Cho nên đến tận khi anh mười mấy tuổi rồi, đồ dùng trong nhà vẫn bịt góc.
Bà Thiện tưởng là anh thực sự có vấn đề gì, sốt ruột tới cạnh giường kéo chăn Bạch Phỉ Lệ: "Rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra? Tiểu Bạch Tử, để ngoại xem chút xem nào, bị thương ở đâu rồi?"
Bạch Phỉ Lệ vội giữ chăn lại, ho khan hai tiếng, nói: "Tối qua hình như con bị mộng du, ngã từ trên thang xuống... Thật sự không phải do đánh nhau đâu mà."
Ông Thượng nghi ngờ: "Vậy sao lại nghiêm trọng vậy hả?"
"Không nghiêm trọng đâu ạ." Bạch Phỉ Lệ khép hai tay trước mũi, nghĩ liều: Dù sao ngoại cũng không nghĩ tới chuyện kia.
Nhưng ông Thượng lại hỏi: "Hôm qua gọi điện cho mày, mày còn bảo không có bạn gái đúng không?"
Bạch Phỉ Lệ: "..."
Bạch Phỉ Lệ: "Đúng ạ."
Ông Thượng lấy khăn quàng cổ ra ném xuống trước mặt anh: "Vậy cái này từ đâu ra?"
Bạch Phỉ Lệ nhìn vết mèo cào đâm thủng lỗ chỗ trên cái khăn, trong lòng nghi hoặc sao cái khăn lại vào tay ngoại thế này, ngoài miệng vẫn ứng phó: "Cọp Cái nhặt từ bên ngoài về?"
Trên mình Cọp Cái còn bị buộc dây cơ đấy, nhặt từ ngoài về bằng niềm tin à! Thằng nhóc nói hươu nói vượn! Ông Thượng rốt cuộc cũng triệt để nổi cáu: "Lấy một con mèo ra để đổ lỗi, mày có biết xấu hổ không hả? Ông bà mày đều thấy hết cả rồi! Cái cô kia đó!"
Bạch Phỉ Lệ có cảm giác như vừa bị đá lại vừa phải chịu bị ngoại truy hỏi, nghĩ bụng chuyện này không thể nói rõ ràng được, chỉ đành giả ngu đến cùng: "Ở đâu ra cô nào vậy ạ?"
Ông Thượng tức giận ngập trời, giơ tay ra muốn mở ngăn kéo bên cạnh. Chứng cứ sau khi hành sự đều ở hết trong đấy, sao có thể để ngoại thấy được? Bạch Phỉ Lệ nhào qua đè lại, ông Thượng tức giận đến độ rống lên: "Nhìn tay mày xem! Bị ai cào hả!"
"Mèo..."
"Tào lao!"
Đúng lúc này di động bên gối Bạch Phỉ Lệ chợt có một cuộc gọi đến, Bạch Phỉ Lệ quay đầu lại nhìn, là "Bạch Cư Uyên", giờ mới chỉ là sáu rưỡi sáng.
Mới sáng sớm đã thi nhau kéo loạn vậy sao? Bạch Phỉ Lệ cúp máy.
Anh lăn một cái xoay người, kéo chăn quỳ trên giường, cúi người xin lỗi ông Thượng:
"Xin lỗi ngoại, con không nên có hành vi ăn cơm trước kẻng."
"Ngoại mày bảo không được lúc nào hả!" Ông Thượng suýt nữa thì bị anh chọc tức đến tắt thở, "Ngoại bảo là không được hả?" ông thực sự chỉ hận rèn sắt không thành thép, "Hăm bốn rồi, cháu ngoại mày tinh lực bừng bừng, đưa một cô gái về ngủ thì có làm sao?! Chuyện đương nhiên thế còn gì! Ngoại hỏi mày, sao hôm qua lại nói là không có bạn gái hả! Sao ngủ một buổi đến sáng sớm con gái nhà người ta đã chạy mất rồi? Có phải mày không muốn chịu trách nhiệm không?!"
Tâm tình Bạch Phỉ Lệ trầm xuống, chuyện này té ra lại thành bị nói ngược, là con gái nhà người ta không muốn chịu trách nhiệm với cháu ngoại đó.
Bà Thiện cũng thành khẩn khuyên nhủ: "Cô gái đó hình như rất sợ gặp phải ông bà thì phải, ông bà còn chưa thấy con bé ra sao, nó đã chạy mất ra cửa sau rồi. Con đã đưa người ta về nhà rồi, chung quy không phải là chỉ để vui đùa một chút đấy chứ? Ngoại thấy cô bé ăn mặc rõ ràng là một đứa bé ngoan. Con gái nhà người ta tâm tư dễ vỡ, con đừng có làm tổn thương lòng người ta."
Bạch Phỉ Lệ cúi đầu không nói gì. Bạch Cư Uyên lại gọi điện tới, anh lại tắt đi.
Ông Thượng trông thấy, hỏi: "Ba mày tìm mày làm gì?"
Bạch Phỉ Lệ ngẩng đầu nhìn ông ngoại, nói: "Ông ấy muốn hợp tác với một tập đoàn tài chính lớn của Nhật Bản, làm một dự án sở hữu đất đai thương mại gì đó... Cụ thể con cũng không rõ lắm."
"Đầu cơ với chả đầu keo, làm ăn tử tế thì không làm, cả ngày chỉ biết nghĩ đến đầu cơ." ông Thượng rất không vui, "Còn muốn lôi mày xuống nước theo nữa."
"Đúng là dân cờ bạc." Bà Thiện bình luận, "Tiểu Bạch Tử, ba con vẫn còn chịu nghe lời con, con chịu khó lôi kéo khuyên ngăn nó lại chút."
Bạch Phỉ Lệ cúi đầu đáp lời.
"Không nói đến nó nữa." ông Thượng thở dài, "Cho mày ba ngày, dẫn cô gái kia về đây cho ngoại mày xem một cái."
Hai tay Bạch Phỉ Lệ bóp bóp đầu, lát sau mới nói: "Năm ngày được không ngoại?"
"Mày còn cò kè mặc cả với ngoại mày nữa à!" Ông Thượng lại lần nữa nổi nóng, giơ quải trượng lên, bà Thiện vội kéo ông lại:
"Có hai ngày mà ông cháu hai người cũng phải tranh nhau, một già một nhỏ, rõ là kỳ cục! Lão già xuống nhà nằm đi! Thằng nhỏ mau tới đây giúp ngoại thu xếp lại hành lý!"
***
Dư Phi ngựa không dừng vó chạy khắp cả ngày, rốt cuộc đến trước bốn giờ chiều cũng xong được hết chuyện.
Cô chẳng còn lòng dạ nào để mà tiếp tục ôn tập nữa, nhớ tới có một câu hát Mân Nam thế này: Bảy phần dốc sức mà làm, ba phần còn lại trông trời giúp cho.
Hiện giờ, cô đã dốc sức làm xong bảy phần, chuẩn bị rất đầy đủ, cũng không có gì để nước đến chân mới nhảy. Còn ba phần còn lại thì phải xem trời thôi.
Cô chuẩn bị tinh thần, đến Văn Thù Viện.
Văn Thù Viện thường mở cửa cho khách hành hương đến năm giờ chiều, cô đến nơi lúc bốn rưỡi, lấy hương từ chỗ lĩnh hương, sau đó bắt đầu từ cửa chùa, lần lượt đi qua từng Phật đường tế bái.
Cô gắng dằn lòng lại, đến tận cuối cùng đi hết nhà chính rồi mới gặp Thứ Cơ.
Thứ Cơ hôm nay mặc một chiếc áo cà sa thuần sắc trắng, cầm một cái dẫn khánh, đầu mới cạo lại, lấm chấm điểm xanh. Dư Phi đứng ở thềm đá, thấy bốn phía không có ai mới đưa tay ra sờ cái đầu trọc lốc của hắn một cái, tủm tỉm cười nói: "Chà chà, Gà Chay đại ca ca thăng chức tăng lương rồi, chúc mừng chúc mừng."
Thứ Cơ nghiêm chỉnh chắp hai tay: "Bà chằn, đừng táy máy chân tay với bần tăng, bần tăng cũng không phải sư tử nhà cô, lòng bần tăng lặng như đáy nước."
Dư Phi cười đến rạng rỡ, nhưng là ngoài cười mà trong không cười, cười xong "hừ" một tiếng, làm bộ tức giận muốn bỏ đi. Thứ Cơ gọi cô lại: "Dư Phi muội muội, anh thấy em sắc mặt hồng hào, tươi như hoa đào, âm dương điều hòa..." Dư Phi nhảy dựng lên tẩn cho hắn một trận tơi bời.
Thứ Cơ la lên: "Phương trượng ở bên trong phương trượng ở bên trong!" thấy Dư Phi dừng tay, Thứ Cơ lại bồi thêm một câu: "Sư tử uy vũ đầy mình, ta đây anh danh không đổ..." Dư Phi liền tháo cặp sách xuống, Thứ Cơ phải giơ tay bám chặt lấy cánh cửa gỗ của sảnh giảng kinh, Dư Phi mới không dám đập hắn.
"Cô nói tối qua gặp anh ta bên Phật Hải?"
Đầu ngón chân Dư Phi chọt chọt xuống vũng nước bên mái hiên, gật đầu.
"Muộn vậy mà cô còn đến Phật Hải tản bộ à? Tới tìm tôi hả?"
"Tôi về khuya đi ngang qua thôi."
"Thật sự là đi ngang qua?"
Dư Phi cúi đầu, không nói gì.
Thứ Cơ hiểu ra, "Tối qua Nghê Lân diễn, cô đến đó đuổi tên biến thái kia đi?"
Dư Phi không hé răng, đầu ngón chân tiếp tục khua khua trong vũng nước, gạt đống cỏ xanh ra khỏi đó.
Thứ Cơ dùng cái dẫn khánh nhỏ bằng sắt gõ một cái thật mạnh lên đầu Dư Phi.
"Ôi, cô đúng là đồ ngốc!"
Kẻ Dư Phi đánh đêm qua ở Phật Hải, cô có biết. Chẳng những có biết mà còn là đã biết rất nhiều năm.
Kẻ đó là hí mê của Nghê Lân, hoặc có lẽ không nên gọi là hí mê (*), bởi gã khác hí mê ở chỗ, gã không chỉ mê Nghê Lân diễn hí mà còn điên cuồng mê cả con người Nghê Lân, đối với Nghê Lân có một tình cảm cuồng nhiệt đến độ méo mó đầy biến thái.
(*) Nguyên văn là 戏迷, chỉ người mê xem hát, lý ra có thể dịch được ra tiếng Việt nhưng ở đây sẽ giữ nguyên Hán Việt như một tên riêng để gọi "fan" của hí kịch.
Hiện giờ trong giới Lê viên, càn đán không có nhiều lắm, càn đán diễn hát tốt chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Nghê Khả sáng lập "Nghê phái", am hiểu nhất chính là vai đán. Hoa đán, thanh y, đao mã đán (*) Nghê Lân đều hát được, mà việc kết hợp các ngón xướng, niệm, tố, đả đều rất xem trọng "hoa sam (**)", y mà biểu diễn thì chỉ có thể gọi là đệ nhất kinh kỳ.
(*) Nguyên văn là 刀马旦, tên gọi các vai nữ biết võ trong hí kịch.
(**) Nguyên văn là 花衫, ý chỉ các vai nữ trong kịch truyền thống Trung Quốc.
Chính vì vậy, Nghê Lân luôn rất được lòng những hí mê cứng (*). Nhưng rừng vốn rộng mà chim nào cũng có, trong số những hí mê cứng, luôn luôn có một vài người kỳ quái đến đáng sợ như vậy.
(*) Đọc lên thấy cũng không ổn lắm nhưng ý giống như "fan cứng" vậy đó, chưa biết thay từ gì khác nghe trơn tru hơn.
Kẻ đó tự xưng là "Lưu Quân", đại khái phát âm là vậy, đó là do một lần nọ nhóm sư phụ Thiện Đăng Đĩnh bắt được gã, đem đến đồn cảnh sát, dưới sự truy hỏi của cảnh sát, gã xoắn xuýt mãi mới khai ra tên đó.
Cảnh sát không tìm được thẻ căn cước của gã, cũng không tra ra chỗ ở và thân phận thật của gã, chỉ có thể coi gã là một kẻ lang thang vô gia cư có chướng ngại về mặt nhận thức để tiến hành xử lý. Không lâu sau, gã lại trở lại.
Kẻ này là một tên cuồng theo dõi, Nghê Lân đi đâu gã theo tới đó, còn cực kỳ thích chụp lén Nghê Lân. Gã từng có một cái blog, chuyên đăng ảnh chụp Nghê Lân. Mọi ghi chép trên blog này đều là nhật ký của gã, nhưng mỗi một bài trong nhật ký của gã đều nhắc đến Nghê Lân. Gã điên cuồng ảo tưởng ra chuyện sống cùng Nghê Lân hằng ngày, thậm chí còn sinh con dưỡng cái. Qua những dòng chữ đó, có thể thấy được gã có khát vọng độc chiếm Nghê Lân cực kỳ mãnh liệt, gã thậm chí từng viết, "Nghê Lân mà lấy ai, tôi sẽ giết kẻ đó!".
Dư Phi khi đọc xong blog của gã, sợ đến sởn hết cả da gà. Nhưng bởi gã chưa từng gây ra bất kỳ chuyện gì đáng để vào đồn nên Thiện Đăng Đĩnh cũng không thể làm gì được gã.
Năm mười hai tuổi, sau khi đoạt được giải vàng ở cuộc thi kinh kịch dành cho thiếu nhi, Dư Phi cũng trổ mã lớn lên. Sư phụ yêu thích tài năng của cô, liền để cô mới còn nhỏ đã bắt đầu diễn hí cùng Nghê Lân. Khi đó Nghê Lân vẫn còn đang luyện vở "Tỏa lân nang (*)", đóng vai đại tiểu thư Tiết Tương Linh. Độ khó của vai diễn này rất lớn, Nghê Lân phải khổ luyện mất mấy năm mới bắt đầu lên sân khấu diễn. Dư Phi diễn phụ một vai lão sinh trong vở đó, có một đoạn diễn đối với Nghê Lân. Năm đó lên đài, Dư Phi mới mười bốn tuổi, tuy vai không có nhiều đất diễn lắm nhưng diễn xuất đã manh nha bộc lộ tài năng.
(*) Là một vở kinh kịch do Ông Ngẫu Hồng và Trình Nghiễn Thu cùng hẹn nhau sáng tác vào năm 1940. Nội dung kể về chuyện khi con gái phú hộ Tiết Tương Linh ở Đăng Châu xuất giá, kiệu hoa đi được nửa đường thì gặp mưa, vào đình Xuân Thu tạm lánh, cùng lúc đó kiệu hoa chở một cô gái nghèo tên Triệu Thủ Trinh cũng vào đó trú mưa. Triệu Thủ Trinh cảm thán giàu nghèo gặp nhau, lòng người dễ đổi nên than khóc. Tương Linh có tấm lòng trượng nghĩa thấy thương, bèn lấy từ trong hòm châu báu hồi môn ra một chiếc tỏa lân nang (túi nhốt kỳ lân – thực ra tớ chưa rõ nó là cái gì lắm nhưng có vẻ là một vật tượng trưng mang ý cát tường cầu may) tặng cho. Mưa ngớt, hai người rời đi.
Sáu năm sau, Đăng Châu gặp nạn hồng thủy, Tương Linh thất lạc người nhà, chạy nạn đến Lai Châu, vì kế sinh nhai mà phải vào nhà sĩ phu họ Lư làm nô tỳ. Một ngày nọ phải theo tiểu công tử Thiên Lân, đứng dưới lầu, công tử ném bóng ở bên trên, bắt Tương Linh phải nhặt bóng, Tương Linh bất đắc dĩ vô cùng, lại trông thấy chiếc tỏa lân nang tặng Triệu Thu Trinh ở trên lầu, rơi lệ lúc nào không hay. Thì ra Lư phu nhân chính là Triệu Thủ Trinh. Bấy giờ, biết Tương Linh là người tặng túi, Thu Trinh lấy làm thân thiết, kính như thượng khách, giúp cô tìm lại mẹ và chồng con, rốt cuộc cả nhà được đoàn tụ.
Cũng chính bắt đầu từ đó, cô lần đầu tiên bị Lưu Quân công kích. Lần thứ ba lên diễn, cô còn bị Lưu Quân ném một túi phân và nước tiểu lớn vào người.
Có lẽ là bởi Lưu Quân phát hiện ra cô là con gái.
Nghê Lân diễn vai đán, người diễn đối với y về cơ bản đều là nam, những nam diễn viên này đều chưa từng bị Lưu Quân tập kích.
Nhưng cô thì lại chính là khôn sinh duy nhất trong Thiện Đăng Đĩnh.
Dư Phi chẳng phải loại người hiền lành biết điều gì cho cam. Ai ức hiếp cô, chỉ cần cô cảm thấy không thẹn với lương tâm, nhất định sẽ không nín nhịn, huống chi là một tên biến thái như Lưu Quân?
Lưu Quân bị cấm vào Thiện Đăng Đĩnh, nhưng chỉ cần là buổi diễn của Nghê Lân, gã sẽ thập thò xớ rớ bên ngoài.
Kể từ lúc đó, Dư Phi đã bí mật triển khai hành động "đánh chó đêm". Cô tụ tập những đệ tử nhỏ tuổi trong Thiện Đăng Đĩnh lại, mỗi lần trước khi Nghê Lân diễn xong đều đi tìm Lưu Quân, tìm được rồi thì dồn gã vào một góc phố nhỏ đánh cho một trận.
Chiêu này quả thực có hiệu quả, số lần Lưu Quân xuất hiện trong phạm vi Thiện Đăng Đĩnh giảm hẳn. Nhưng cũng vì vậy mà Dư Phi bị chủ thuyền phạt nặng, chỉ là cô cũng chẳng thấm thía mấy hơn mười cái roi da này, có mỗi Thứ Cơ là thấy xót hộ.
Sau khi trở lại Bắc Kinh, Dư Phi nghe Lan Đình nói, không có cô ở đây, Lưu Quân lại chứng nào tật nấy quay lại.
Cô chưa từng có ý muốn quay lại Thiện Đăng Đĩnh gặp Nghê Lân, thậm chí cô còn từng thề sẽ không gặp lại Nghê Lân nữa. Nhưng có lẽ là do tính phản nghịch ương bướng của cô lại trỗi dậy, cũng có thể là do trong lòng có chút cảm giác không cam và chịu thua, cô muốn làm tới cùng việc "bảo vệ" này.
Mỗi buổi tối cô đều đến thư viện ôn tập cho kỳ thi nghiên cứu sinh. Từ thư viện đến Phật Hải đi bộ mất mười phút. Mỗi đêm sau khi thư viện đóng cửa, cô lại đến Phật Hải, thường thì cũng vừa lúc Thiện Đăng Đĩnh vừa diễn xong. Nếu là buổi diễn có Nghê Lân, cô sẽ chú ý tìm xem có Lưu Quân núp gần đó không, nếu có, cô sẽ đuổi gã chạy bằng được mới thôi. Sau đó, cô sẽ lên chuyến xe đêm về nhà.
Có đôi lúc, cô cảm thấy, tình yêu cay đắng cô dành cho Nghê Lân suốt mười năm, cũng chính là đối đầu với Lưu Quân bất phân thắng bại suốt mười năm. Cô và Lưu Quân, thậm chí còn không nói rõ được là ai cố chấp hơn ai. Cũng không biết trong lòng Nghê Lân, có phải cô cũng chẳng khác gì tên biến thái Lưu Quân kia không, dây dưa mập mờ, khiến y phát phiền.
Cái dẫn khánh Thứ Cơ cầm chính là tai rồng mắt trời nơi tu viện Phật gia, gõ trong lúc tụng kinh lễ Phật, dùng để cảnh tỉnh chúng sinh giác ngộ. Chỉ là, Dư Phi trúng một dùi sắt xong, trong lòng lại xổ ra chín chữ:
Hòa thượng thối, bây làm sao mà hiểu được!
***
Hôm nay, Văn Thù Viện đón một xí nghiệp đến cầu pháp, trong đó có mấy người có quan hệ rất tốt với phương trượng đại sư của Văn Thù Viện, phương trượng liền đặc biệt mở một khóa giảng riêng ở sảnh giảng kinh cho họ. Thứ Cơ phải vào sảnh duy trì trật tự, không thể cùng Dư Phi đi ăn đồ chay. Dư Phi một mình về nhà, lúc ra đến Đại Hùng bảo điện, chợt nghe phía sau có người gọi:
"Dư Phi."
Ngoài Thứ Cơ thỉnh thoảng sẽ gọi đùa cô một tiếng "Dư Phi muội muội" ra, đã rất lâu rồi cô chưa từng nghe ai gọi cô bằng cái tên này.
Cô quay đầu lại, nhìn thấy một người quen.
Người này hơn bốn mươi tuổi, mặc một bộ tây trang vừa vặn, vóc người được bảo dưỡng vô cùng tốt, rất có phong độ. Viền mắt y rất thâm, môi trên rất mỏng, tướng mạo có chút hơi giống người Tây. Kéo theo sau lưng một cái vali bằng hợp kim nhôm, có vẻ là đi công tác rồi tới đây.
Người này họ Lâu, mọi người đều gọi y là ngài Lâu. Dư Phi nhận ra y là bởi y từng quyên cho Thiện Đăng Đĩnh một khoản tiền không nhỏ.
Sau chuyện của Lưu Quân, Dư Phi không xuất hiện bằng dáng vẻ thật sau khi tháo phục trang xuống nữa, cũng ít khi giao lưu với hí mê. Hí mê nhận ra Dư Phi chỉ đếm trên đầu ngón tay, ngài Lâu coi như là một trong số những người đó.
Ấn tượng của cô đối với ngài Lâu không tệ. Cô không rõ lắm về thân phận thật của ngài Lâu nhưng cũng biết y là một người rất có bối cảnh, kiến thức uyên thâm, giao du rộng rãi. Ngài Lâu thực ra có một nửa dòng máu là người Lĩnh Nam, khi nói chuyện với Dư Phi thường dùng tiếng địa phương, khiến Dư Phi cảm thấy rất thân thiết.
Ngài Lâu là người thân thiện, thích nghe hí kịch, sưu tầm. Mỗi lần tới Bắc Kinh đều sẽ ghé qua Thiện Đăng Đĩnh xem Dư Phi diễn một vở. Vở diễn kết thúc rồi sẽ đến hậu trường xem Dư Phi tháo phục trang, tâm sự cùng cô về vở hí hôm đó. Đôi lúc nhìn ra tâm tình Dư Phi không tốt, sẽ nói vài câu an ủi, khích lệ cô.
Dư Phi cảm thấy, nếu hí mê ai cũng được như ngài Lâu, vậy cũng không tệ,
"Nghe nói em rời khỏi Thiện Đăng Đĩnh?" Ngài Lâu mời Dư Phi ăn cơm, cô đồng ý.
"Vâng, phạm phải nội quy của thuyền." Dư Phi vừa đi vừa trả lời đại khái.
"Trước đó có hỏi em qua WeChat mà không thấy em trả lời."
"Đợt đó tâm trạng không tốt nên em không trả lời ai cả." Dư Phi nói lời xin lỗi, ngài Lâu cũng không để bụng. Ngoài Phật Hải có một nhà hàng đồ chay, thanh nhã mộc mạc, hai người vào trong tìm một bàn ngồi xuống.
Món ăn được dọn lên, ngài Lâu hỏi qua về tình hình gần đây của Dư Phi, Dư Phi nói cho y biết ngày mai mình sẽ thi nghiên cứu sinh vào học viện hí kịch, ngài Lâu khen ngợi cô một hồi.
"Từ lần đầu tiên nghe em hát hí khúc lúc em mười sáu, tôi đã biết em sớm muộn sẽ trở thành tên tuổi lớn rồi." ngài Lâu nói, "Hiện giờ bị đuổi khỏi Thiện Đăng Đĩnh rồi mà em vẫn có thể đi tiếp, tôi quả nhiên không nhìn lầm người."
Dư Phi cười cười, rót cho ngài Lâu một chén rượu. Rượu là sake do chủ quán tự ủ, dùng than củi mảnh nhỏ để nấu, hương vị đậm đà ấm nóng, uống vào có thể xua tan giá lạnh. Hai người cụng chén, cùng uống cạn.
Ngài Lâu hỏi: "Dư Phi có thể uống được nhiêu?"
Dư Phi nghĩ, lần duy nhất cô uống rượu trước đó là ở "Chiếc bè", kết quả uống xong chẳng biết mình là ai đây là đâu nữa, bèn nói: "Tửu lượng không khá lắm ạ, uống nhiều là gục luôn."
Ngài Lâu cười: "Em thoạt nhìn cũng không giống người uống được rượu." Sau đó cũng không rót rượu cho cô nữa, bảo cô ăn nhiều hơn.
Ngài Lâu nói: "Em rời khỏi Thiện Đăng Đĩnh rồi thì coi như không phải người của Nghê phái nữa, tìm thử một sư phụ khác xem. Tôi có quen một số danh gia kinh kịch, sau này có thể giới thiệu cho em, bây giờ em không vào một đoàn kịch nào cũng không ổn, tôi sẽ đề cử em với họ, nhờ họ dành vài cơ hội diễn cho em."
Dư Phi ngập ngừng một chút, cuối cùng vẫn khai thật: "Lúc em rời khỏi Thiện Đăng Đĩnh đã thề, ba năm không được hóa trang lên sân khấu. Nếu có thể thi đậu nghiên cứu sinh, em sẽ luyện ở trường trước đã."
Ngài Lâu nhúng đầu đũa vào rượu, viết lên bàn mười hai chữ:
Mượn nhờ sức gió lớn, đưa ta lên mây xanh.
"Hiểu lời này không?"
"Kinh kịch cũng là một bộ môn nghệ thuật. Người làm nghệ thuật đều cần một bàn tay giúp đỡ, nếu không rượu có thơm cũng sợ ngõ hẹp sâu, em nói xem có đúng không? Trước đây em còn có Thiện Đăng Đĩnh, hiện giờ em không có gì hết, không có gió lớn để mượn lực, em sao lên được đây?"
Dư Phi mím môi, lặng thinh không nói.
Ngài Lâu lại cười, tự rót cho mình một chén rượu, tư thế lão luyện, mang theo một vẻ tao nhã riêng của lứa tuổi y. Chút hương rượu tinh khiết thơm lừng bốc lên từ chén rượu, thoang thoảng tản ra trong không khí."
"Tôi không ép em, em còn trẻ, nhưng hãy suy nghĩ những lời này trước đi đã."
Dư Phi giơ đũa, chậm rãi gắp một miếng thịt chay lên ăn.
Ngài Lâu tự mình uống cạn rượu trong chén, kéo cái vali bên cạnh qua. Y ngồi trên ghế, cúi người xuống, hai tay nhấn một cái, mở cặp khóa được thiết kế tinh vi trên vali ra.
Dư Phi tưởng y định lấy đồ, ai ngờ khung vali bằng nhôm mở ra, bên trong ấy thế mà lại không phải hành lý.
Trên lớp vải lót mềm màu vàng đặt một hộp gỗ tử đàn dáng dài, sơn bóng ấm nhuận, thiết kế tinh xảo, điêu khắc cảnh trong truyền thuyết về ông tổ Lê viên Đường Minh Hoàng giả gái diễn khúc "Trường mệnh tây hà nữ (*)", bản thân chiếc hộp này đã là một tác phẩm nghệ thuật.
(*) Nguyên văn là 长命西河女, là một khúc ca nổi tiếng của giáo phường thời Đường.
Ngài Lâu nói: "Tôi mới trở về từ buổi đấu giá mùa thu của Christie"s (*) ở Hồng Kông, thắng được một thứ. Tôi giữ lại cũng vô dụng, muốn tặng cho em."
(*) Là một nhà đấu giá của Anh do James Christie thành lập vào năm 1766, nổi tiếng vì đã bán được bức tranh Đấng cứu thế (Salvator Mundi) được cho là của Leonardo da Vinci với giá kỷ lục là 450 triệu dollars.
Y lấy từ trong hành lý ra một đôi găng tay cao su, mở hộp gỗ tử đàn ra. Trong hộp ngự một chiếc lông công đính trên mũ trong kinh kịch, lông công rất dài, đặt trong hộp gỗ uốn thành hình cung.
Chiếc lông công này nhìn có vẻ rất cũ, nhưng vẫn toàn vẹn như xưa, màu sắc mơ hồ vẫn còn sót lại vẻ rực rỡ năm nào.
"Phụ nữ hát vai lão sinh xuất sắc nhất, trăm năm qua không ai vượt được Mạnh Tiểu Đông (*). Năm 1949, đêm trước giải phóng, Mạnh Tiểu Đông đã theo Đỗ Nguyệt Sênh di cư đến Hồng Kông. Lúc Đỗ Nguyệt Sênh qua đời đã tự mình dặn dò bạn tốt, nhờ họ chăm sóc tử tế cho Mạnh Tiểu Đông, thế nào cũng không được để bà hát hí khúc nữa. Mọi người cho rằng, Mạnh Tiểu Đông đã nghe theo Đỗ Nguyệt Sênh, đến khi tuổi già cũng chỉ chơi đua ngựa, mạt chược chứ không còn đến bất kỳ phòng trà nào hát hí khúc nữa. Nhưng kỳ thực bà từng ngầm hát một lần, chiếc lông công này, chính là chiếc bà dùng vào lúc đó. Người bảo tồn chiếc lông công này chính là bạn thân của Mạnh Tiểu Đông khi về già ở Hồng Kông, người thừa kế của người bạn tốt đó vừa qua đời năm nay, chiếc lông công này rơi vào tay Christie"s. Christie"s dùng giá cao làm bảo đảm, tuyệt đối là hàng thật."
Ngài Lâu lấy lông công ra. Chiếc lông công này vừa thoát khỏi sự hạn chế của hộp đã bật thẳng dậy, rung rinh dựng lên, vừa có thần lại vừa có phong độ, khiến người ta như thể nhìn thấy được tinh thần sáng láng, chói lọi của Mạnh Tiểu Đông trên sân khấu năm đó.
Ngài Lâu đưa lông công cho Dư Phi:
"Em phải trở thành "Đông Hoàng"."
(*) Mạnh Tiểu Đông (1908 – 1977), còn có biệt danh là Mạnh Nhược Lan, Mạnh Lệnh Huy, sinh ra ở Thượng Hải, dòng dõi thế gia Lê viên, là nữ diễn viên kinh kịch đóng vai lão sinh nổi tiếng, rất có tiếng tăm với các vai lão sinh hoàng đế (bởi vậy mà còn được gọi là Đông Hoàng), là người kế nghiệp sư phụ Dư Thúc Nham, là nữ đệ tử duy nhất của Dư môn.
------
Cái này là cái dẫn khánh mà Thứ Cơ cầm:
Tớ nhớ không nhầm thì hình như Phật giáo Việt Nam không dùng cái này nên không có tên Việt cho nó, nếu bạn nào theo đạo Phật mà biết cái này gọi là gì thì bảo tớ nhé!
Cửa mở ra, ngọn đèn bên trong sáng màu vàng quýt ấm áp, liếc mắt nhìn qua, là một căn phòng khách xinh xắn. Giữa phòng trải một tấm thảm lông, chung quanh là vài cái sofa thấp lùn, bên cạnh là giá sách và bàn, còn có cả vài chậu cây cảnh xanh um. Trên tường treo một số bức tranh nghệ thuật.
Hơi ấm phả vào mặt. Dư Phi rất quen với thứ mùi này, là mùi tùng bách thoang thoảng trên người anh. Sau khi trở lại Bắc Kinh, có một lần cô đến Văn Thù Viện tìm Thứ Cơ, phương trượng đại sư đã tặng cô một tràng hạt đeo tay bằng gỗ nhai bách. Cô ngửi thử mới biết mùi đó tên gì.
Căn nhà này không có cảm giác cao cao tại thượng mà ngược lại, khiến người ta cảm thấy gần gũi. Lồng sắt trong tay Dư Phi đung đưa mãnh liệt, Cọp Cái đang vô cùng bức thiết muốn ra ngoài.
Dư Phi cắn răng, cúi đầu nhìn ngưỡng cửa trên mặt đất. Cô biết ý nghĩa của việc bước qua ngưỡng cửa này là gì – cô sẽ gần Bạch Phỉ Lệ thêm một bước.
Một trận gió rét thấu xương cuốn theo tuyết ào tới, Dư Phi cảm giác trên mặt như bị một lưỡi dao bằng băng cắt qua. Bạch Phỉ Lệ bên cạnh lại hắt hơi một cái, lấy khăn giấy bịt mũi.
Anh mặc một chiếc áo phao lông vũ mỏng, bên trong là áo len, không quàng khăn. Đẹp thì đẹp, nhưng cũng khó mà chống chọi được với cái lạnh thế này.
Khoé miệng đuôi mắt anh nhu hòa đẹp đẽ, đến cả dáng vẻ hai bàn tay bịt khăn lau nước mũi cũng khả ái vô cùng. Dư Phi lúc này làm thế nào cũng không thể oán hận anh cho nổi, lại đi hận chính mình, khinh bỉ chính mình, theo cái lồng bị con mèo lớn xô về phía trước mà bước vào ngưỡng cửa.
Căn nhà này không lớn, sàn gỗ màu đen dày dặn bị bước chân qua lại quanh năm mài đến độ trơn tuột. Hai người cởi áo khoác và giày để ngoài cửa, Bạch Phỉ Lệ nhận lấy lồng mèo, ôm Cọp Cái ra, xích nó vào một đầu sợi dây quàng vai (*).
(*) Tiếng Anh là shoulder strap, hiểu nôm na thì nó giống như sợi quai đeo cặp ấy, nhưng shoulder strap thì không chỉ dùng để làm quai đeo cặp mà còn có nhiều công dụng khác, chủ yếu là để giữ, đeo, mang cái gì đó theo người.
Dư Phi hỏi: "Làm gì có ai buộc mèo bằng dây này chứ?"
Bạch Phỉ Lệ ôm Cọp Cái như ôm một đứa nhỏ, điều chỉnh độ căng trùng của sợi dây, đáp: "Sợ nó cắn cô."
Dư Phi cứ thấy mèo là thích mê, cô xoa xoa cái đầu lớn bông xù của Cọp Cái trên vai Bạch Phỉ Lệ, cười hì hì nói: "Đáng yêu vậy sao cắn người được?"
Cọp Cái nhìn Dư Phi chằm chằm, hai móng vuốt cứng cáp quặp thật sâu vào vai Bạch Phỉ Lệ.
Căn nhà có hai tầng. Tầng một là phòng khách, phòng bếp, phòng chứa đồ và phòng ngủ của ông bà ngoại anh, tầng hai là phòng ngủ của Bạch Phỉ Lệ, ngoài ra còn có hai phòng làm việc một lớn một bé, phòng sách nhỏ có một cái thang gỗ đi lên gác xép trên nóc.
Gác xép rất rộng, đặt một cái giường lớn, có điều nóc nhà vừa thấp vừa nghiêng, Bạch Phỉ Lệ phải khom người mới đi lại trong đó được. Trong gác xép ngoài giường ra thì cũng chỉ có một cái đèn hình cầu bằng lụa trắng đặt trên sàn bên cạnh giường, đường kính chừng một mét, giống như một mặt trăng, tỏa ra ánh sáng dìu dịu. Bạch Phỉ Lệ lấy từ ngăn kéo bên cạnh ra cái đệm lót lên giường cho Dư Phi, lại ôm thêm một cái chăn bông lớn ra. "Tất cả đều còn mới." anh nói, "Nhà chúng tôi chưa từng có khách ở lại qua đêm."
Dư Phi lẳng lặng nhìn anh đi tới đi lui bên giường. Áo khoác đã cởi ra, anh mặc áo len trắng, đôi tất cũng trắng nốt, khiến cả người anh nhìn có vẻ gọn gàng cao ráo. Hai con cá nhỏ trên tai lắc lư, phát ra những tiếng động khe khẽ tinh tế.
Anh dẫn cô xuống dưới nhà, cầu thang gỗ kêu cọt kẹt, khiến cô nhớ đến những căn nhà cũ kỹ ở thành phố Y. Căn nhà này nhỏ hơn những căn nhà đó rất nhiều, nhưng cảm giác lại hoàn toàn khác biệt.
Nó cho cô cảm giác an toàn.
Anh dẫn cô vào phòng ông bà ngoại, cầm một chiếc khăn mặt và bộ đồ rửa mặt duy nhất đưa cho cô. Thoáng lưỡng lự, lại hỏi: "Cô có phải thay nội y không?"
Dư Phi cũng hơi mắc bệnh sạch sẽ, cô có thói quen mỗi ngày tắm hai lần, đổi toàn bộ quần áo, nghe vậy thì vô thức gật đầu.
Bạch Phỉ Lệ nói: "Nhà tôi không có nội y thích hợp với cô. Nếu cô không ngại, bà ngoại tôi còn có một bộ mới mua chưa dùng đến. Quần áo của cô giặt sạch phơi một đêm là khô thôi." Anh lục một hồi, lấy một bộ ra. Dư Phi nhìn qua, đều là quần lót kiểu góc bẹt của người già. Cô liếc ảnh chụp chung của ông bà ngoại anh treo trên bức tường đầu giường, quả nhiên, bà ngoại anh dáng người mập mạp, cười rộ lên trông giống một cụ bà có dáng dấp Phật Di Lặc, cái quần này hai người cỡ cô chui vào cũng vừa.
Dư Phi quả quyết nói: "Vậy thì anh cho tôi mượn một bộ quần áo đi."
Thế là, hai người lại lên nhà.
Tủ quần áo của Bạch Phỉ Lệ lớn hơn. Trong phòng ngủ thậm chí còn mắc mành ngăn ra thành một góc riêng làm phòng thay quần áo. Chỉ là bị che mất một nửa, không biết bên trong treo cái gì.
Dư Phi nói: "Cho tôi cái nào lớn vào..." cô khoa tay một cái, "Áo phông ấy."
Bạch Phỉ Lệ thực sự tìm cho cô một cái áo phông mềm mại thùng thình cực kỳ rộng. Trước ngực áo in một ký hiệu màu vàng, nhìn giống như hai cái ngòi bút cứng của bút máy đan chéo vào nhau. Dư Phi không biết nó có ý nghĩa gì, nhưng cô đã quen với việc phong cách ăn mặc của Bạch Phỉ Lệ luôn mang màu sắc chủ nghĩa thần bí, chẳng lấy gì làm lạ lẫm nữa. Cô nhớ tới series áo phông mỗi ngày tăng một đôi mắt kia, không nhịn được đảo mắt vào trong tủ quần áo thêm hai lần.
Bạch Phỉ Lệ hỏi: "Nhìn gì thế?"
Dư Phi thành thật trả lời. "Tổng cộng có bao nhiêu cái?" cô không kìm được tò mò.
Bạch Phỉ Lệ liền kéo ngăn kéo phía dưới ra lục tìm một hồi, lôi bộ áo phông kia ra, tổng cộng có bảy cái, trong đó cái cuối cùng ngang ngang dọc dọc đều toàn những mắt là mắt.
Thỏa mãn xong lòng hiếu kỳ của Dư Phi, anh lại bỏ áo về tủ. Anh không kéo hết ngăn kéo ra ngoài, nhưng ngồi xổm phía sau Bạch Phỉ Lệ, Dư Phi đã nhìn được thoáng qua ngăn kéo đó, bất ngờ bắt gặp tận cùng trong góc tựa hồ chồng một cái khăn quàng cổ ngay ngắn chỉnh tề.
Trong lòng Dư Phi chợt phát hoảng.
Tuy chỉ là một cái liếc mắt, nhưng cô vô cùng chắc chắn đây chính là cái khăn quàng cổ của cô. Trong bóng tối của ngăn kéo, cô thấy rõ một cái lỗ nhỏ bị móc hỏng trên cái khăn mỏng, hình dạng cái lỗ đó cô nhớ rất rõ ràng, chuẩn xác không lầm được.
Ngày đó cô ném khăn xuống đất xong bỏ chạy, không ngờ anh lại nhặt về.
Nhưng Bạch Phỉ Lệ không nhận ra là cô đã thấy, rất nhanh sau đó lại đóng ngăn kéo vào.
Bên cạnh phòng ngủ của Bạch Phỉ Lệ là phòng tắm. Trong phòng tắm có một vách tắm đứng, một bồn rửa mặt, bồn cầu và còn có cả một cái máy giặt trục lăn loại nhỏ chuyên để giặt đồ lót. Dư Phi tắm ở đây, Bạch Phỉ Lệ thì xuống phòng tắm của ông bà ngoại dưới tầng một tắm.
Dư Phi tắm rửa xong, bỏ đồ lót vào máy giặt để giặt. Cô mặc cái áo phông rộng lớn đó của Bạch Phỉ Lệ, vừa nghiêng đầu sấy tóc, vừa dùng chiếc điện thoại cũ mà Bạch Phỉ Lệ đưa cho để nhắn tin với Thứ Cơ, báo cho hắn biết cô bị mất ví, điện thoại và chìa khóa nhà.
Thứ Cơ chọc trúng trọng điểm: Vậy giờ cô ở đâu?
Dư Phi do dự một chút, nhắn lại: Cậu đoán xem.
Thư Cơ nói: Chờ chút, để tôi thử tay nghề bói toán phát.
Một lát sau, hắn gửi hình một bức tranh bói qua, phía trên của tranh là một cái phướn rực rỡ tung bay, phía dưới thì có hai câu thơ:
"Nhìn gần rõ ràng tựa nghiêm mật, trông xa tự tại như phi tiên."
Dư Phi hỏi hắn có nghĩa là gì, Thứ Cơ không chịu hé răng thêm câu nào. Dư Phi tức mình gõ chữ: Đồ gà chay thối tha, treo ngang lòng người là thái giám.
Thứ Cơ: Ha ha ha, sợ tôi rồi?
Dư Phi: Cậu chỉ là đoán không được thôi.
Thứ Cơ: Không phải gió động, cũng không phải phướn động nữ thí chủ, là cô động lòng. (*)
(*) Câu này lấy ý từ một câu chuyện Phật giáo về Huệ Năng, vị Tổ thứ sáu của Thiền tông: Một hôm nọ, chùa Pháp Tính, Quảng Châu mở hội thuyết pháp về bộ kinh Niết Bàn. Khi ấy, có hai nhà sư đã tranh luận với nhau khi nhìn thấy cái phướn bay trong gió, là do phướn động hay do gió động. Một người cho rằng nếu phướn lặng như đá thì gió to đến đâu cũng không lay động được nó, người còn lại thì cãi rằng nếu không có gió thì phướn làm sao mà động được. Giữa lúc ấy, chợt có người từ hàng sau hô rằng: "Không phải phướn động, cũng không phải gió động, mà là lòng người động!" Mọi người quay lại thì thấy đó là Lục Tổ Huệ Năng, nhất loạt lễ bái và thỉnh ngài lên thuyết pháp.
Dư Phi "bộp" một tiếng đóng điện thoại lại.
Xử lý xong mọi chuyện thì đã gần mười hai giờ. Dư Phi ngửa mặt nằm trên giường, nhìn ô cửa sổ áp mái trên nóc gác xép.
Thiết kế kiểu này kỳ thực đẹp vô cùng, ô cửa sổ xiên xiên to lớn, nếu thời tiết tốt, có thể từ giường ngắm được một cả một bầu trời sao rộng lớn, thậm chí là cả dải ngân hà tráng lệ. Hẳn là ngoài cửa sổ có treo một ngọn đèn, mặt kính kết một lớp băng. Cô tắt cái đèn đầu giường đặt dưới sàn đi, lập tức thấy ánh sáng bàng bạc từ ngoài cửa sổ xuyên qua lớp băng vẩy ra khắp giường, trong ngần mà lạnh lùng tựa ánh trăng.
Cô nghĩ thế này lãng mạn quá rồi, không biết là ai thiết kế nữa, cứ như trong truyện cổ tích vậy. Nếu như đang nằm mơ, hẳn đây là đang hóa thân thành tiên nữ hay Alice, có khổ sở nhiều hơn nữa, cũng sẽ được chiếc giường ngập ánh trăng này chữa khỏi.
Cô nghe thấy tiếng Bạch Phỉ Lệ đứng dưới gác xép hỏi cô: "Ngủ được chứ?"
Dư Phi vùi cả người vào chăn đệm bông xốp ấm áp, cảm giác như đang ngủ trong mây vậy. Từ nhỏ đến lớn, cô chưa từng ngủ trên một cái giường nào thoải mái như thế. Cô thực sự lo rằng ngủ ở đây rồi lúc về sẽ không thể ngủ nổi trên cái phản nhỏ hẹp của mình nữa.
Cô đáp lời: "Được."
Bạch Phỉ Lệ không nói gì thêm, tắt đèn phòng sách rồi ra ngoài.
Căn nhà đã hoàn toàn chìm vào yên lặng. Dư Phi nhắm mắt lại, loáng thoáng nghe thấy tiếng tuyết rơi ngoài khung cửa sổ trên mái nhà. Cũng không biết bao lâu sau, lúc cô mơ màng sắp chìm vào giấc ngủ, chợt có tiếng "xoạt xoạt xoạt", như có cành cây thô cứng nào đang cọ lên mặt kính.
Cô mở mắt, thấy trên cửa sổ áp mái có gì đó nhích tới nhích lui, nhìn kỹ, là vài cái móng bé xíu, hình lá trúc, hóa ra là một con chim mất ngủ đi qua đi lại.
Cô nghĩ, cái gác xép này thú vị thật.
Cô không sao ngủ nổi nữa, hai mắt mở thao láo, ánh mắt di chuyển tới tới lui lui theo cái móng lá trúc của con chim kia, trong đầu vừa như ngơ ngẩn lại vừa như đang tỉnh táo hơn bao giờ hết. Cô nghĩ đến rất nhiều chuyện, nghĩ đến Thiện Đăng Đĩnh, nghĩ đến sư phụ, đến từng động tác giơ tay nhấc chân trên sân khấu, nghĩ đến câu "Xoa xoa nắn nắn tuấn nhã mười phần, phong lưu đều đọng đóa hải đường đây" hát với Nghê Lân; cô nghĩ đến mẹ, đến bố, đến bản Đế nữ hoa trong máy ghi âm trong căn nhà cũ ở thành phố Y, nghĩ đến lần duy nhất mẹ cô đi Thái Lan chơi, mang về tặng cô cái khăn quàng màu lam...
Cô ngồi bật dậy.
Căn nhà này dù có tốt đến đâu, rốt lại vẫn không phải nhà cô. Qua đêm nay, cô vẫn phải rời đi.
Cô phải cầm cái khăn kia về.
Đêm đó Bạch Phỉ Lệ trả khăn lại cho cô, cô đã ném nó xuống đất ngay trước mặt anh, chẳng còn mặt mũi nào mà mở miệng đòi lại anh nữa.
Ngồi yên trên giường hồi lâu, cuối cùng cô hạ quyết tâm, đứng dậy xuống dưới.
Cô đi chân trần, bám chặt vào lan can cầu thang, từng bước từng bước đi xuống, không tạo ra một chút âm thanh nào. Sàn nhà và lan can bằng gỗ có chung một nhiệt độ tự nhiên, hệ thống sưởi trong phòng cũng vừa đủ nên cô không cảm thấy lạnh.
Rón ra rón rén đi xuống tầng hai, ra khỏi phòng sách, lại nhẹ tay nhẹ chân đi tới cửa phòng ngủ của Bạch Phỉ Lệ – cô có cảm giác mình như đang làm trộm vậy... Mà đúng là đang làm trộm còn gì, nhưng, trộm đồ của chính mình thì có tính là trộm không?
Cửa phòng Bạch Phỉ Lệ khép hờ. Trong phòng không bật đèn, nhưng vẫn có ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn bên ngoài hắt vào qua cửa sổ nên cũng không quá tối.
Anh ngủ không phát ra tiếng động nào, nhưng thỉnh thoảng lại ho khụ một cái, chắc là đêm nay bị cảm lạnh rồi. Dư Phi đứng cạnh cửa nhìn trộm hồi lâu, xác định là anh ngủ rồi, bèn lẳng lặng không tiếng động đi vào.
Anh xoay mặt vào trong ngủ, cánh tay thò ra ngoài ôm chăn, cơ thể hơi cuộn lại. Mái tóc dài mềm mại phủ lên gối, nhìn như dòng nước, dưới ánh đèn xuyên qua cửa sổ, phản xạ ánh sáng bóng lên nhàn nhạt. Nửa khuôn mặt vùi trong gối, hàng mi trên đôi mắt đang nhắm dài đến khó tin, nửa bên mặt còn lại thanh sạch vô cùng.
Dư Phi buộc mình dời mắt đi, đến trước tủ quần áo, nhẹ nhàng chậm rãi mở cửa tủ ra, từng chút từng chút kéo ngăn kéo thành một khe hở đủ để luồn tay vào.
Cô dựa theo ký ức, thò tay vào sờ soạng, nhanh chóng mò được cái khăn quàng của mình, lại nhẹ nhàng kéo ra.
Chất khăn sờ lên mềm nhẹ, hiển nhiên đã được anh đem giặt.
Cầm cái khăn quàng cổ xa cách đã lâu, đáy lòng Dư Phi dậy lên một cảm xúc có chút khó thành lời – cắt không đứt, loạn không thôi.
Dư Phi khép lại ngăn kéo và cửa tủ, lại đi ra đứng bên giường Bạch Phỉ Lệ.
Đây có lẽ là một người cô không nên đụng vào. Nhưng nhìn cánh tay để ngoài chăn của anh, trên mu bàn tay là mấy vết cào do cô gây ra, cô lại nhịn không được mà vươn ngón tay dò tới, khẽ khàng hết sức chạm một cái...
Chỉ một cái nhẹ bẫng như vậy, cô còn chưa thực sự có cảm giác gì, đã thấy mu bàn tay Bạch Phỉ Lệ rụt lại.
Da đầu Dư Phi căng lên, nghĩ xong đời rồi. Cô quay phắt người tông cửa xông ra ngoài, quả nhiên lúc rút vào thư phòng liền nghe thấy giọng Bạch Phỉ Lệ cảnh giác hô một tiếng:
"Ai?!"
Bạch Phỉ Lệ đuổi theo bóng người chớp lóe vào phòng sách nhỏ, lại thấy bóng đen nọ biến mất trong bóng tối nơi gác xép. Anh nhặt cái đèn pin đồ chơi trên bàn trong phòng sách nhỏ, cũng đuổi theo lên gác xép.
Trong gác xép, ngoài ánh sáng từ bầu trời rải xuống thì hoàn toàn yên ắng, không có chút động tĩnh gì.
Bạch Phỉ Lệ nín thở. Anh sợ có người xông ra, bật đèn pin lên, chiếu về phía hai góc tối cạnh giường.
Không có gì cả.
Giường là kiểu giường thấp, dưới gầm giường tất nhiên là không thể giấu được người. Anh kéo ngăn tủ ra kiểm tra một lượt, nhưng chẳng có gì hết.
Ánh mắt anh rơi xuống giường.
Người kia đang vùi cả người làm ổ ngủ trong chăn, bên ngoài chăn chỉ để lộ ra mái tóc dày.
Anh nhìn ổ chăn cuộn lại như một con cá lớn này, chậm rãi ngồi xuống bên mép giường cô, vươn tay qua gỡ chăn cô.
Anh bới đầu cô ra – hai mắt cô nhắm chặt, hệt như đang ngủ say. Bên khóe đôi mắt phượng xếch lên đầy nguy hiểm, mặt và cổ đều trắng tinh như ánh tuyết.
Chăn đệm và áo cô mặc cũng trắng như tuyết, anh lại thấy dưới vai cô lộ ra chút sắc lam nhạt.
Hai ngón tay anh kẹp lấy màu lam kia, từng chút từng chút kéo ra ngoài. Rút được một đoạn thì không rút ra nổi nữa, anh liền tăng thêm lực rút.
Dư Phi rốt cuộc không giả vờ tiếp được, mở bừng mắt ra, hai bàn tay tóm chặt lấy khăn quàng cổ, la lên: "Nó là của tôi! Của tôi!"
Mái tóc dài của cô xõa tung, hai con mắt tròn xoe trừng lớn nhìn chòng chọc vào anh, hung hãn y hệt một chú cọp nhỏ. Những sợi tóc vừa dài vừa dày tán loạn vương trên khuôn mặt trắng bóc, nói không rõ được là ngây thơ hay phong tình.
Bạch Phỉ Lệ bình tĩnh nhìn cô một lúc, bỗng dưng cúi đầu, hôn một cái lên má cô.
Trong đầu Dư Phi nổ "đoàng" một tiếng.
Anh dịch vị trí, nhẹ nhàng hôn thêm cái nữa lên quai hàm trắng như tuyết của cô, sau đó mất tự nhiên ngẩng đầu lên, ánh mắt không dám nhìn thẳng vào Dư Phi, trên mặt hốt nhiên nổi lên một màu đỏ ngường ngượng.
Dư Phi nhìn anh chằm chằm.
Anh ngại ngùng, cúi đầu, tay phải có vết cào lại nắm chặt lấy khăn quàng. Nhưng anh đang do dự, đang đấu tranh, đang không chắc chắn. Ngón tay anh nắm khăn quàng, căng lên, rồi buông lỏng, nhưng từ đầu đến cuối vẫn bướng bỉnh nắm lấy, không chịu buông ra.
Anh chợt quay đầu sang một bên, hắt hơi một cái.
Dư Phi bỗng cầm lấy bàn tay phải lành lạnh của anh, áp lên ngực mình. Nhiệt độ cơ thể dồi dào đầy sinh lực của cô xuyên qua chất liệu may mặc mỏng manh truyền tới, kèm theo đó là xúc cảm mang đến từ những đường cong dịu dàng vi diệu của một người con gái trẻ tuổi.
Hô hấp của anh như ngừng lại, cuối cùng cúi rạp cả người xuống, tay trái chống lên cạnh gối cô, hôn lên cổ cô.
Khoảnh khắc đó, Dư Phi đột nhiên thông tỏ lời Thứ Cơ, lúc động lòng, phướn sẽ không đáp xuống, làm sao giữ yên được nó? Có lẽ cô đã nghĩ quá nhiều về quá khứ. Buổi tối ấy khi ở "Chiếc bè" là đúng đắn nhất, cô thích anh, không hỏi quá khứ, không nói tương lai, chỉ tính hiện tại.
Cô mạnh mẽ lật người, đè Bạch Phỉ Lệ xuống dưới. Cô vuốt ve đôi mắt đẹp như được trút xuân thủy, môi kề sát lên môi anh, du dương trầm khàn nhỏ giọng nói: "Sao anh lạnh vậy, có phải bị cảm rồi không? Tôi sưởi ấm cho anh nhé."
Ngón chân cô luồn vào ống quần anh, da thịt cô rất nhanh dán lên người anh. Có vẻ như anh không cam lòng nằm ở vị trí bị động, nhanh chóng lật người đè lên cô. Anh hôn lên môi cô, hôn lên cần cổ tựa thiên nga của cô, hôn lồng ngực trắng nõn của cô, hôn lên hai ngọn đồi nhẵn mịn như lông vũ.
Cả người anh nhanh chóng nóng lên. Lưng Dư Phi đè trên cái gối cao, cổ ngửa xuống phía dưới. Cô nhắm chặt hai mắt, hai tay bấu vào cơ thể căng chặt của anh, cảm nhận sức lực trên hai vai anh.
Hơi thở của anh phả lên bụng cô, anh cọ xát vào cô. Đau thật đấy, cô chợt ngửa đầu "ư" một tiếng. Anh như bị dọa, thu về, đỡ lấy cổ cô mà hôn. Mùi xạ hương trên người anh thấm vào lòng người ngây ngất, cô thất thần bấu chặt vào bắp thịt trên gáy anh, anh bèn thử lại. Dư Phi rốt cuộc mới là lần thứ hai, chỉ biết ôm chặt lấy anh kêu nho nhỏ, anh lại không nghe ra hàm ý nũng nịu trong đó, lại lần nữa căng thẳng rút lui ra ngoài.
Dư Phi oán trách nhìn anh, "Anh làm gì vậy?" cô ưỡn người áp lên thân thể anh. Anh nhịn không nổi, cơ thể trong chăn rịn ra từng hạt mồ hôi lớn lăn xuống. Dư Phi cầm lấy anh, anh lập tức càng cứng hơn, cô dẫn anh vào bên trong, vẫn bị đau đến hừ nhẹ, nhưng không chịu cho anh lui ra sau. Cô khiến toàn thân anh gồng lên cứng ngắc, hệt như đá. Anh càng vào sâu, cô càng rên lớn hơn. Anh rốt cuộc cũng hiểu được ý tứ trong đó, kéo lấy chân cô, nhào nặn hông cô, cùng cô làm, cô càng ư ư a a kêu khóc, anh càng mạnh hơn.
Đó là cảm giác thế nào? Một cô gái thoạt nhìn phản nghịch cùng cực như thế, thân thể lại mềm đến vậy nóng đến vậy, như muốn hòa tan anh. Anh vào đến tận cùng trong cô, nhưng cảm thấy vẫn chưa đủ, lại xốc cô lên muốn vào thêm chút nữa, như muốn đâm thẳng vào tim cô. Khóe mắt cô chảy lệ, anh liền cắn lên mắt cô. Trước nay anh chưa từng nghĩ lại có sự mâu thuẫn đặc biệt đến vậy ở một người con gái, ánh mắt cô rõ ràng là đang oán giận, cắn môi, nhưng mặt lại toát lên vẻ ướt át động lòng người, nhuốm màu sắc như ăn mòn xương cốt. Cô rõ ràng là rất ương ngạnh, thậm chí ương ngạnh đến mức không chịu dung chứa sự nhượng bộ, vậy nhưng lại có thể vùi đầu trong ngực anh rên rỉ vừa vì đau lại vừa nũng nịu vì động tình. Anh chợt áp chặt cô vào lồng ngực mình, xông tới như một cơn mưa nặng hạt. Hai tay cô quấn quít quấn lấy cổ anh, bầu ngực áp sát lên lồng ngực anh, hàm răng cắn chặt, cần cổ thon dài ngửa ra sau. Anh nhìn đôi mắt nhắm chặt của cô, bỗng nhiên cắn mạnh lên vai cô một cái, lập tức lên đỉnh.
Cô run lẩy bẩy.
Anh nghiêng người ôm cô ngã xuống giường. Anh hơi chút di chuyển, cô liền ôm anh run lên. Anh đành bất động, vùi đầu vào mái tóc dài đẫm hơi nước của cô, ngửi lấy mùi hương đặc thù của cô vì cuộc vận động này mà tản ra.
Trầm nặng thở dốc hồi lâu, cảm giác được cuối cùng cô cũng thả lỏng, anh cẩn thận rút ra, lấy từ trong ngăn kéo ra hai tờ khăn giấy, tháo cái áo mưa ướt sũng xuống.
Nơi đó vừa vi diệu vừa mẫn cảm, tay cô mềm nhũn sờ lên, anh hít mạnh một hơi, chợt thấy cô mở hờ mắt, mê ly mơ màng giơ tay lên trước mũi ngửi một cái, rồi lại rất vô lại quệt sạch lên môi anh.
Bạch Phỉ Lệ đang định nổi giận, chợt nghe cô nửa tỉnh nửa mê lẩm bẩm: "A Phỉ... Kỹ thuật của anh sao lại có vẻ thụt lùi vậy..."
...
Trong phòng khách, Cọp Cái đang cuộn thân mình dài gần hai thước ngủ trong đống dép lê bông xù bỗng đột nhiên xòe hai móng vuốt nhỏ bé ra, ngáp một cái, kêu "meooo" một tiếng.
Bên trên gác xép, tuyết lớn đè cong cành tùng. Cành tùng rào rào rung lên, một đống tuyết lớn rơi xuống, vùi mất ngọn đèn nhỏ ngoài gác xép. Con chim đơn côi mất ngủ kia bị kinh sợ, đập cánh phành phạch bay đi, ánh đèn rọi vào từ cửa sổ nhất thời yếu đi phân nửa.
...
Dư Phi cảm giác như bị lấy khăn che lại mắt, cô tưởng Bạch Phỉ Lệ đang đùa với cô, cười hì hì đưa tay định kéo xuống, nhưng hai cổ tay cũng đã bị khăn quàng cổ trói lại trên đỉnh đầu, buộc vào cái trụ đơn trên đầu giường. Cô kinh ngạc, giãy người kêu lên: "A Phỉ!"
Lại cảm giác được cả người anh đè lên mình, môi cũng bị chặn lại, một chút âm thanh cũng không phát ra được. Anh dùng đầu lưỡi quấn lấy lưỡi cô, cô chỉ cảm thấy một vị ngọt tanh loáng thoáng tản mát trong vị giác. Trước mắt đen kịt một màu, cảm giác này lại càng thêm rõ ràng tinh tế.
Trong đầu cô ong ong mê muội, chỉ nhớ ra vừa nãy đã bôi gì đó lên miệng anh, sao bỗng chốc lại thành ra đút vào miệng cô rồi.
Cô đang muốn kháng cự, chợt cảm giác tay trái anh từ từ sờ một đường từ cánh tay cô xuống, tốc độ và lực đạo nhẹ tênh, lướt từ cánh tay xuống dưới gốc nách, rồi sang sườn ngực, mò mẫm mân mê khoảng da thịt mềm mại mẫn cảm ít khi lộ ra ngoài nhất của cô. Cuối cùng rơi xuống trước ngực cô, không nặng không nhẹ nhào nặn cô, vân vê đến độ cả người cô rối loạn, hai chân kẹp chặt không tự chủ được mà ma sát lên xuống.
Cô cảm thấy anh như biến thành một người khác, hoàn toàn không hề cẩn thận khống chế như vừa rồi nữa. Cô không rõ vì sao, lại không rảnh để mà nghĩ, chỉ biết cắn chặt môi kìm bản thân không lên tiếng, điều chỉnh hơi thở không để mình thua quá thảm.
Bên sườn ngực vất vả mãi mới thích ứng được, cô thở hổn hển, cứ như vừa chui ra khỏi nước, tay trái anh lại đổi bên, xoa nắn cô, vừa nhẹ nhàng vừa nặng nề nhào nặn. Cô chưa từng bị ai đụng vào như vậy, suýt nữa bật khóc. Phát rồ nhất là khoảng da thịt mẫn cảm giữa hai đùi, vẫn còn kẹp vào nhau, xúc cảm này thật kỳ dị, vừa nóng vừa lạnh, vừa mềm vừa cứng. Cảm giác trống rỗng mãnh liệt dâng lên, cô thở hổn hển, ướt sũng kẹp chân khóa lấy anh, lại bị anh tránh ra, đẩy xuống dưới. Anh ôm lấy eo cô để cô trở mình, nửa người ghé lên đầu giường. Anh rất thích vòng eo vừa mảnh dẻ vừa mềm dẻo của cô, hai tay bóp hai bên eo cô, hôn lên hốc lõm trên thắt lưng cô.
Cô uốn éo thắt lưng, nhỏ giọng mơ màng kêu "A Phỉ, tôi muốn", rên được hai tiếng, liền cảm giác hai ngón tay trái của anh đâm vào. Thế này cũng tạm coi như thoải mái được chút xíu, cô ưm ưm rên rỉ, lắc mông cọ lấy ngón tay anh. Anh từ phía sau cúi người ôm lấy cô, tay phải nhào nặn ngực cô, nhô đầu ra phía trước hôn môi cô thật sâu. Hôn đến lúc cô không thở nổi nữa thì cảm nhận được anh không khách khí chút nào đâm vào, vừa tiến vào đã hung hãn va chạm, đụng khiến cô phải bật thốt một tiếng sợ hãi, nhào vào đầu giường.
Toàn bộ thân dưới của cô đều bị chống lên trướng đau, hai bên xương cốt đều như bị chống đỡ cứng đờ. Nhưng đó không phải cảm giác đau đớn ngắt quãng như lúc trước nữa mà là cả người đều bị mở ra, tuy cũng đau nhưng cảm giác vui thích thì lại giống như hồng thủy mà cuộn trào mãnh liệt.
Cô lớn tiếng gọi: "A Phỉ! A Phỉ!", anh càng thêm mặc sức phóng túng hơn. Rốt cuộc anh cũng tháo cái khăn buộc cổ tay trên đỉnh đầu cô xuống, cô lấy lại được tự do, lại phát hiện ra không nhìn thấy gì cả, hóa ra anh đã kéo mành che cửa sổ áp mái xuống.
Trong bóng tối đen đặc, cô rốt cuộc cũng thôi rụt rè. Dưới bàn tay cô là da thịt của anh, là mái tóc dài mềm mại của anh, thân thể họ bao kín bởi mồ hôi và dịch nhờn. Hai cơ thể trẻ trung thăm dò lẫn nhau thật sâu, cùng nhau chia sẻ vui sướng, cùng nhau đánh mất thần trí. Cô gọi loạn "A Phỉ, A Phỉ!", anh lăn lộn thân thể mềm mại của cô thành đủ loại hình dạng, trong bóng đêm dùng đủ loại tư thế giao hợp với cô. Cô bị anh làm đau, liền kêu: "A Phỉ A Phỉ, như Ma Phỉ ấy. (*)". Có đôi khi cô buông thả phóng túng, có đôi khi lại hệt như một đứa trẻ. Anh từ đầu đến cuối đều không nói lời nào, nhưng khi cô kêu câu kia lại mơ hồ nghe thấy tiếng anh cười trong trẻo, anh chuẩn xác bắt được môi cô, hôn cô không ngừng.
(*) Trong Ma Phỉ, Ma (麻) là nhám ráp, Phỉ (匪) là kẻ cướp, khá gần âm với A Phỉ của Bạch Phỉ Lệ.
***
Dư Phi tỉnh dậy rất sớm. Lúc cô tỉnh dậy, ánh sáng bàng bạc của ngọn đèn treo trên cửa sổ áp mái đang khó nhọc xuyên qua tầng tuyết nặng, rọi vào.
Cô mất hơn mười giây để nhớ lại cũng nhớ không nổi cái mành che này Bạch Phỉ Lệ rốt cuộc đã kéo ra từ khi nào. Nhưng lúc ba chữ Bạch Phỉ Lệ này xuất hiện trong đầu cô một cách đầy tự nhiên như vậy thì chính cô đã phải kinh hãi.
Trong chăn rất mềm rất ấm, có mùi xạ hương lẫn với chút ít thứ mùi vi diệu khác. Ngón tay cô trong chớp mắt ấy không dám di chuyển, bởi cô có thể cảm giác được cơ thể Bạch Phỉ Lệ đang cách ngón tay cô rất gần. Nên tới gần anh hay nên cách xa anh, nhất thời cô cảm thấy đầu óc mình hỗn loạn vô cùng.
Có lẽ tới gần anh cuộc sống hẳn sẽ tốt hơn. Dù sao tối qua khi anh hôn cô, cô gần như đã muốn tự thuyết phục rằng Bạch Phỉ Lệ thực sự yêu cô.
Là chữ "yêu" này.
Nhưng giờ khi tỉnh lại, cô lại cảm thấy chữ này thật xa xỉ, đến độ cô không thể cầm nổi.
Cô lăn mạnh một vòng về phía bên trái trong ý niệm hỗn độn ấy, lăn ra khỏi chăn, lăn xuống sàn nhà lạnh lẽo. Hệ thống sưởi của căn nhà này tuy dồi dào, nhưng qua một đêm tuyết lớn như vậy, trên nóc nhà vẫn áp xuống chút khí lạnh, đọng lại nơi mặt sàn gác xép.
Lăn xuống giường kiểu này là biện pháp cô làm suốt nhiều năm qua để chống lại sự mê hoặc của giường, ép buộc mình phải dậy sớm. Từ lúc trở lại Bắc Kinh, quyết định đăng ký làm nghiên cứu sinh ở học viện hí khúc, quyết đi con đường hí khúc này tới cùng, cô đã khôi phục lại việc dậy sớm.
Rất nhiều việc không thể ngừng lại, dù chỉ ngừng một ngày thôi cũng sẽ khiến lòng người sinh ra biếng nhác. Ban nãy khi cô phát hiện ra mình lại có ý muốn ở bên Bạch Phỉ Lệ, cũng đã sinh lòng sợ hãi.
Cái lạnh dưới sàn khiến cô tỉnh táo lại, phát hiện ra mình cả người không mảnh vải. Vịn tường đứng dậy, có cảm giác như eo không còn là của mình nữa, giống như bị gãy mất vậy. Cô nhớ mang máng thời điểm luyện tập khổ nhất cũng chưa từng có cảm giác này.
Run chân.
Cô xoa bóp cơ thịt mỏi nhừ bên trong bắp đùi, lại cảm thấy đó không phải là đau nhức của cơ thịt mà là sự tê dại đến từ xương tủy. Lần trước khi đi ra khỏi "Chiếc bè" cũng không như thế này. Cô cảm thấy tối qua không phải là ngủ cùng một người hai lần, mà là bị hai người ngủ thì đúng hơn.
Việc này đúng là lao động chân tay mà, so với một buổi biểu diễn nghiêm chỉnh của cô còn mệt hơn. Hát hí khúc trên sân khấu, dù sao cũng là luân phiên lúc thì anh diễn lúc là tôi lên đài, luôn luôn có thời gian tạm nghỉ lấy hơi. Nhưng tối qua, từ đầu tới cuối, cô chẳng có giây phút nào được nghỉ ngơi cả.
Cô nhào tới giường há miệng ra muốn cắn Bạch Phỉ Lệ, mở miệng ướm mấy lần, rốt cuộc vẫn không ngoạm xuống được, bèn hậm hực lấy mớ tóc dày lộ ra bên ngoài của anh gặm vào miệng, nhai nhai vài cái. Tóc anh mềm mượt, vừa lạnh vừa trơn, khiến cô có cảm giác trơn trơn ướt ướt như bị nước thấm. Cô nhai tóc anh loạn lên như trâu nhai cỏ rồi lại nhả ra. Anh ôm đầu ngủ, chỉ để lộ ra một bên tai. Cô nhìn vành tai tháo khuyên khi đi ngủ của anh, đầy đặn trắng trẻo, bên trên bấm ba cái lỗ, trông vừa sạch sẽ vừa mềm mại. Cô chưa từng thấy con trai bấm lỗ tai, rất muốn thò tay ra sờ thử, nhưng cuối cùng vẫn không đụng vào. Trải nghiệm tối qua khi chạm vào vết thương trên mu bàn tay anh, đánh thức anh dậy vẫn còn khiến cô sợ hãi.
Tay cô chạm vào tóc anh một lần nữa, thấp giọng mắng khẽ một tiếng: "Đồ đáng ghét Bạch Phỉ Lệ."
Cô nghĩ, không biết cái tên Bạch Phỉ Lệ này là do ai đặt cho anh nữa, đọc lên bằng tiếng địa phương thật sự rất khó nghe.
Cô đứng dậy khỏi giường, nhặt cái khăn quàng trên đầu giường lên, đi tới cái giá treo quần áo dạng gấp ở đầu giường lấy quần áo.
Mùa đông ở Bắc Kinh rất khô, quần áo vừa giặt xong, đến nửa đêm đã khô rồi. Cô mặc áo lót vào, đột nhiên cảm thấy trên vai bị dây áo siết vào làm đau, cúi đầu nhìn thì thấy hai dấu răng sâu hoắm, ngay ngắn, cắn rách cả da, vết máu đã đông lại.
Cô dành hẳn một giây để suy tính xem có nên đi tiêm vắc-xin phòng dại không.
Đàn ông đều thế này hết à? Lúc thoải mái sung sướng thì lại cắn cô một cái rõ ác ôn.
Trong đầu xẹt qua một vài cảnh tượng tối qua, trong lòng cô run lên, cột sống tê dại, cũng không dám suy nghĩ nhiều nữa, cầm cặp sách lên vội vã xuống nhà.
Lúc xuống tầng, cô gắng nhẹ tay nhẹ chân, sợ đánh thức anh dậy.
Cô quay đầu nhìn lại – Nếu quả thật là có duyên, có lẽ sẽ gặp lại.
Hiện giờ cô không nên dính vào mấy chuyện phong hoa tuyết nguyệt này, bắt đầu từ mai, cô sẽ phải liên tục thi trong ba ngày, từ kỳ sát hạch văn hóa cả nước đến vòng sơ khảo chuyên nghiệp của học viện hí khúc. Cô không còn thời gian nào rảnh để mà lãng phí nữa, cũng không có bao nhiêu cơ hội để lựa chọn, cô không thích cho mình cơ hội làm lại, giống như khi lên đài biểu diễn vậy, không có chỗ cho sai lầm.
Hôm nay cô phải đi làm lại thẻ căn cước, mà không, thẻ căn cước chắc chắn là không làm lại ngay được rồi, nhưng ít nhất cũng phải đi làm một tờ giấy báo đánh mất thẻ căn cước, rồi làm một cái thẻ tạm thời, nếu không ngày mai sẽ không thể vào thi. Cô còn phải đi làm lại thẻ ngân hàng, tìm người mở khóa, mua điện thoại di động mới... Một đống việc linh tinh, cô hít sâu một hơi, lên dây cót tinh thần chuẩn bị giải quyết.
Xuống tầng dưới, cô ra cửa, lấy áo phao treo trên giá áo cạnh đó mặc vào rồi quấn khăn quàng lên cổ. Đương lúc cúi người xuống đi giày, cô chợt nghe thấy bên ngoài như có tiếng đỗ xe. Dưới mái hiên có đèn, cô nhìn xuyên qua lớp kính trong mờ của ô cửa sổ cạnh cửa ra vào, chỉ thấy một chiếc SUV đỗ lại bên cạnh xe Bạch Phỉ Lệ, một cặp vợ chồng già tóc trắng xóa xuống xe dưới sự trợ giúp của hai thanh niên.
Cặp vợ chồng già này mặc áo phao lông vũ rất dày, trên mặt quấn kín khăn quàng bằng len lông cừu, dù không thấy rõ tướng mạo, nhưng xem chừng họ đang đi về phía cổng căn nhà, chẳng cần phải đoán nữa, chắc chắn là ông bà ngoại của Bạch Phỉ Lệ.
Ông bà ngoại của Bạch Phỉ Lệ!
Không phải Bạch Phỉ Lệ nói họ không có nhà sao? Sao đột nhiên lại trở lại vào sáng sớm thế này?!
Trong đầu Dư Phi nổ "đoàng" một tiếng lớn, nhất thời đờ người núp sau cửa, không biết phải làm sao.
Trước đó Bạch Phỉ Lệ từng nhắc tới, ông bà ngoại anh đều là giáo sư đã về hưu khoa Ngôn ngữ Trung của đại học S. Khắp căn nhà này đều đậm mùi thư hương, ngăn nắp đến không nhiễm một hạt bụi, lại nhìn cách đối nhân xử thế vô cùng có giáo dưỡng của Bạch Phỉ Lệ, có thể thấy rõ được đôi vợ chồng già này có học vấn có đức hạnh đến bậc nào.
Lại nghĩ đến vị trí phòng Bạch Phỉ Lệ, bài trí trong phòng, nhớ lại dáng vẻ được nâng niu từ nhỏ của anh, không nghi ngờ gì nữa, Bạch Phỉ Lệ chính là đứa cháu ngoại bảo bối nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa của cặp vợ chồng này.
Họ có thể chấp nhận một người lai lịch bất minh, chỉ có bằng cao đẳng như cô giao du với đứa cháu độc nhất của họ sao?
Huống hồ cô và Bạch Phỉ Lệ cũng chưa được tính là có giao du. Họ cùng lắm chỉ quen nhau được năm ngày, không hề có hiểu biết cặn kẽ gì về nhau, vậy mà đã lên giường với nhau hai lần một cách chẳng hiểu ra sao. Anh chưa từng thổ lộ gì với cô, cô thì đến cả tên thật cũng không muốn cho anh biết. Vậy thì tính sao được chứ?
Nói theo cách nói của cha ông thì cô chính là điển hình của loại đàn bà dễ thay dễ đổi, ngả ngớn không biết tự trọng.
Những điều này lướt nhanh qua đầu, trong lòng Dư Phi không khỏi sợ hãi, càng không dám ra khỏi cửa đối mặt với họ. Quay đầu lại xem xét, chợt nhớ ra tối qua Bạch Phỉ Lệ đã nói với cô, trong nhà, phía sau phòng bếp và phòng chứa đồ có một cửa sau, dùng để đổ rác.
Mắt thấy ông bà anh đã đi tới cửa, bắt đầu lấy chìa khóa ra mở cửa, trong lồng ngực cô đập loạn, hốt hoảng chạy hướng ra sau phòng bếp. Vậy nhưng không được hai bước thì con mèo lớn kia không biết từ góc nào nhảy ra, giương nanh múa vuốt nhào về phía cô!
Con mèo này tên là Cọp Cái, thật sự là hệt như một con hổ nhỡ! Hung thần ác sát như vậy, Dư Phi gấp gáp còn chưa kịp chuẩn bị đã bị nó đụng cho một cái phải lùi lại hai bước! Dây buộc trên người Cọp Cái căng chặt, nó không thể với tới Dư Phi được nữa, nhưng lại lôi được khăn quàng cổ của Dư Phi xuống một nửa.
Dư Phi bị khăn siết lấy cổ, suýt nữa không thở được, chỉ thấy móng vuốt của nó quặp chặt lấy khăn cô, móng nó tuy đã được cắt tỉa nhưng vẫn đâm xuyên qua lớp khăn. Trong mắt nó mang theo vẻ thù hằn rõ ràng, cứ như đã chất chứa oán hận với cô từ rất lâu rồi vậy, còn thấp giọng gầm gừ, như đang uy hiếp cô.
Cô nghĩ thầm, con mèo này đẻ đâu ra thù oán gì với cô chứ? Sao lại sống chết giữ cô không chịu thả thế này? Khăn quàng vốn mỏng, nếu tiếp tục giằng co với con mèo này, chắc chắn sẽ bị xé cho tan tành. Tai nghe thấy tiếng ổ khóa bị chìa khóa cắm vào chuyển động, lưỡi khóa văng ra, Dư Phi không còn đường lui nữa, đến đầu cũng không dám quay lại, giật khăn quàng ra ném cho con mèo, bất chấp hai chân vẫn còn mềm nhũn, đeo cặp phi nhanh như chớp tháo chạy ra cửa sau.
***
Từ Tokyo đến Bắc Kinh bay mất ba giờ. Một ngày trước ngày trở về đã định sẵn trước đó, bệnh gai đốt sống thắt lưng của ông Thượng đột nhiên phát tác. Khoa Văn học đại học bên kia ban đầu đã sắp xếp chuyên gia khám chữa bệnh cho ông nhưng ông Thượng lại khăng khăng đòi về Bắc Kinh, nói là căn bệnh này của ông đã ngót nghét hai mươi năm rồi, trước nay vẫn do cùng một bác sĩ khám chữa, quen cửa quen nẻo, ngoài việc yên tâm ra thì hiệu quả cũng thật sự tốt, ở Nhật Bản ngôn ngữ không thông, mà cái chuyện bệnh tật này, phiên dịch cũng không nói rõ ràng được nên ông thấy không yên lòng.
Vì lẽ đó, hai ông bà đổi vé máy bay, dưới sự tháp tùng của hai học trò, bay suốt đêm về Bắc Kinh.
Nhưng khi hai ông bà về tới căn nhà ở Chiêm Viên vào sáng sớm, vừa mở cửa đã thấy một cô gái tóc dài chạy trối chết, còn bị Cọp Cái tháo mất một cái khăn quàng.
Hai ông bà đã sống đến tuổi thất thập, bao nhiêu mưa gió của thời đại đều đã trải qua, chỉ duy tình cảnh này là chưa từng lường được.
Họ đã thấy được rõ ràng một bên gò má của cô gái nọ, trắng trẻo mịn màng, mắt mũi miệng đều nhìn rất được, răng như tạc bằng ngà voi, chỉ là mái tóc dài thô dày xõa tung, lộ ra vẻ phản nghịch bất kham. Cô đeo một cặp sách rõ nặng, vậy mà lúc vọt chạy lại hết sức mạnh mẽ, mái tóc dài tung bay tựa bạch dương trong gió.
Hai ông bà sững sờ đứng ở cửa, hai học trò thì nhìn đến trợn mắt há mồm, lát sau mới hỏi: "Thầy Thượng, trong nhà...bị trộm ghé thăm sao?"
"Để em đuổi theo!" Cậu học trò kéo hành lý vào nhà xong liền buông vali ra, chạy về phía phòng bếp.
"Ấy! Em đứng lại!" Thầy Thượng vội gọi cậu ta lại, cậu học trò sửng sốt nhưng vẫn dừng lại.
Ông Thượng quay đầu, xác nhận lại chiếc xe đỗ trước cửa nhà đúng là của Bạch Phỉ Lệ, lại ngẩng đầu lên nhìn về phía tầng hai, chỉ thấy cửa phòng ngủ Bạch Phỉ Lệ mở toang, không khỏi nhíu chặt mày một cái, nói với hai học trò:
"Không sao, hai đứa về ký túc xá đi."
Hai học trò vẫn còn đang lo lắng lỡ xảy ra chuyện gì, hai ông bà lớn tuổi rồi sẽ không ứng phó được, bà Thiện lại hiền lành nói: "Ra vào Chiêm Viên đều có bảo vệ giám sát, chim chóc bay vào còn có người báo cáo nữa là, lấy đâu ra trộm được? Tôi ở đây mấy chục năm rồi cũng chưa từng nghe nói có vụ nào như thế. Hai người các cậu đi theo hai ông già bà cả chúng tôi, dọc đường bận trước bận sau cũng đã mệt muốn chết rồi, mau về nghỉ đi. Có thằng cháu Tiểu Bạch Tử nhà tôi ở đây coi sóc, các cậu khỏi lo."
Hai cậu học trò nửa tin nửa ngờ, một người ra phía sau phòng bếp và phòng chứa đồ kiểm tra một lượt, xác nhận không có ai, người còn lại mang hành lý của hai ông bà vào tháo dỡ, giúp họ cởi áo khoác dày sụ và khăn quàng ra, hai người dặn dò đủ thứ rồi mới rời đi.
Hai ông bà đóng cửa lại, nhìn nhau.
Cọp Cái "meo" một tiếng, đầy tủi thân mà ngồi chồm hổm trên ghế salon, bà Thiện vội đi qua, cởi dây cho nó. Bà vừa cởi vừa thắc mắc:
"Tiểu Bạch Tử đã bao giờ buộc dây cho Cọp Cái đâu? Chỉ e là do sợ Cọp Cái cào người. Nhưng Cọp Cái nhà mình đâu phải gặp ai cũng cào đâu? Có cào cũng chỉ cào những ai tới gần Tiểu Bạch Tử thôi."
Cọp Cái ư ử kêu, ra sức cọ cái đầu lớn đùng vào người bà Thiện.
"Cửa phòng mở tung ra thế kia." Ông Thượng nói, "Tiểu Bạch Tử nhát gan, lúc ngủ thường để hé một khe cửa, nhưng đã khi nào mở toang ra thế đâu?"
"Chẳng lẽ là..."
Hai ông bà nhìn nhau, vẻ mặt kỳ quái.
Ông Thượng được bà Thiện đỡ, chậm rãi lên tầng. Vào phòng ngủ Bạch Phỉ Lệ, chỉ thấy chăn trên giường bị xốc lên, nhưng không có ai. Ông Thượng liếc bà Thiện: "Hôm qua tôi gọi điện cho Tiểu Bạch Tử, không phải là nó nói nó không có bạn gái sao?"
Bà Thiện cũng nghĩ không ra, vẻ mặt hoang mang gật đầu: "Đúng vậy, có lần nào mà chúng ta không hỏi đâu? Lần nào nó cũng nói là không có."
Sắc mặt ông Thượng nhất thời sạm lại. "Trước đây cặp với một cô bạn gái, cũng chưa từng cho chúng ta gặp mặt. Hiện giờ còn giỏi hơn kìa, dẫn về nhà qua đêm cũng không thèm nói cho chúng ta biết, còn coi chúng ta là ông bà ngoại sao?"
Ông gạt tay bà Thiện ra, tự trở tay đỡ lấy lưng, loạng choạng đi vào phòng sách lớn, lấy quải trượng bằng gỗ hoàng hoa lê ra.
Bà Thiện vừa nhìn đã hoảng lên, giữ lấy tay ông nói: "Ấy ấy lão Thượng, đánh Tiểu Bạch Tử sao được chứ? Da dẻ nó mỏng manh thế, vừa đụng cái đã bầm tím, ông đánh một gậy nó lại chẳng không ngất mất à!"
Ông Thượng vùng khỏi tay bà, nghiêm khắc trừng bà: "Tại bà chiều nó quá nên thế đấy! Chiều hư luôn rồi!"
Bà Thiện cũng xuất thân từ dòng dõi thư hương thế gia, là đại tiểu thư được nuông chiều từ bé, suốt bao năm qua nào đã từng chịu nghe ông Thượng trách mắng, sau khi đóng cửa phòng sách lại thì gào lên với ông:
"Nói cứ như ông thì không chiều nó ấy! Nhìn xem ba tháng nay ông muốn nó ra làm sao hả? Đổi cách mới kiếm việc ra cho nó làm để nó phải nói chuyện với ông. Tiểu Bạch Tử cũng ngoan, ông bảo nó làm gì nó đều làm đến nơi đến chốn cả. Bây giờ trường học người ta đã sắp xếp bác sĩ ổn thỏa cho ông để ông an tâm chữa bệnh rồi trở về sau rồi, ông chẳng những không muốn lại còn đòi về trước một ngày, nói muốn cho nó niềm vui bất ngờ. Ái chà! Ông nhìn thử xem! Niềm vui này đúng là bất ngờ gớm ra nhỉ!"
Ông Thượng tức phồng mang, giống như con cá nóc, ông chống gậy mở cửa ra đi được hai bước, đột nhiên "ối" một tiếng, nắm tay đỡ lấy lưng. Bà Thái ban đầu còn nổi cơn với ông nên không chịu dìu ông, giờ lại đuổi sát theo đỡ lấy ông, nhắc nhở: "Còn muốn đánh nữa à, lớn tuổi thế rồi còn đòi đánh!"
Ông Thượng ấn ấn thắt lưng: "Aiz aiz, Tiểu Thiện, dìu tôi lên tầng đi... Thằng nhóc thối, thế nào tôi cũng phải mắng cho nó một trận."
Bạch Phỉ Lệ trước nay vẫn hay dậy muộn, nhất là sau khi đi du học về, bất kể ngủ lúc mấy giờ cũng đều thẳng một mạch đến mười một, mười hai giờ mới dậy. Hai ông bà thuộc thế hệ trước đều từng sống trong trường, làm việc và nghỉ ngơi đều cực kỳ có quy luật, giờ giấc luôn nghiêm ngặt dựa theo thời gian biểu của trường.
Họ lúc đầu vô cùng không vừa mắt Bạch Phỉ Lệ như vậy, mỗi ngày đúng bảy giờ là lôi anh từ trên giường xuống. Nhưng nhìn anh sau khi thức dậy, đến tận lúc ngồi vào bàn ăn sáng rồi mà vẫn đầy mặt ngơ ngác hồn phi phách tán, kết quả là giờ không nhịn được mềm lòng, cuối cùng cũng chỉ có thể để tùy anh.
Nhưng hôm nay, ông Thượng mặc kệ tất cả, nhất định phải đòi bằng được Bạch Phỉ Lệ một lời giải thích ngay lúc này.
Ông Thượng đắng cay muôn phần leo lên gác xép, chỉ thấy Bạch Phỉ Lệ vẫn còn đang ngủ vùi trong chăn, lộ mỗi tóc ra ngoài, mái tóc rối bời thành một nùi, cứ như bị chó gặm, phía dưới còn có mấy lọn nhuộm màu trắng nhạt. Ông Thượng nhất thời giận mà không có chỗ trút, giật chăn của anh ra, vừa định mắng thì mắt chợt trợn tròn, lập tức đắp lại chăn cho anh.
Bà Thiện vẫn còn đứng ở cuối giường, thấy thế vội hỏi: "Sao thế lão Thượng?" bà cũng đuổi tới định vén chăn Bạch Phỉ Lệ lên. Lão Thượng vội vàng cản lại: "Đừng nhìn kẻo lại đau lòng... Hây dà cái thằng này, làm gì thế không biết!" ông đau lòng muốn chết, nhất thời quên mất là chính mình đã cầm quải trượng xông vào.
Bà Thiện vừa nghe thế, còn tưởng xảy ra chuyện lớn gì, "hả" một tiếng, khăng khăng muốn tự mình vén chăn lên xem. Hai ông bà còn đang giằng co với nhau, Bạch Phỉ Lệ đã tỉnh lại, thò đầu ra khỏi chăn vừa nhìn, hai khuôn mặt quen thuộc chợt đập vào mắt, nhất thời giật nảy mình tỉnh táo lại, ở trong chăn dịch người về phía bên kia, ôm chặt chăn gọi: "Ngoại?"
Anh còn ngờ rằng mình đang mơ, cắn chăn một cái mới tin được mình đã tỉnh, hoảng sợ hỏi: "Không phải ngoại nói là mai mới về sao? Sao giờ đã về rồi?"
Ông Thượng nghe câu này, cười nhạt hai tiếng "ha ha", trách cứ: "Còn ngại ngoại mày về sớm quá phỏng?"
Bạch Phỉ Lệ vội đáp: "Dạ không..."
Ông Thượng ngắt lời anh: "Nhìn lại cái dáng vẻ của mày bây giờ đi! Ông bà mày ba tháng không về, tóc mày dài quá nhỉ, còn nhuộm tóc nữa, bảo sao giữa chừng không chịu gọi video cho chúng ta! Mới nãy vào phòng mày, trên lịch mày còn viết "23 tháng 12, cắt tóc" nữa cơ đấy, chúng ta mà không về sớm, còn được chiêm ngưỡng cái vẻ diêm dúa này của mày sao?"
Bạch Phỉ Lệ vừa tỉnh lại đã bị mắng cho tơi tả, một câu cũng không dám hó hé, ôm chăn ngồi nửa ngày mới đáp lại, đàng hoàng nhận sai: "Con dậy rồi đi cắt ngay đây."
"Được rồi!" Ông Thượng tức giận nói, "Thấy cũng thấy rồi! Ngoại trừ rối mắt ra cũng không phải là quá xấu!"
Bạch Phỉ Lệ còn đang "???" hoang mang, ông Thượng đã lại quở thêm trận nữa: "Trên người mày xanh xanh tím tím thế là sao? Bị ai đánh thành vậy hả? Người khác đánh mày mày không biết đánh lại sao? Cho mày luyện Taekwondo nhiều năm thế thành công cốc hết hả?! Làm sao mà vẫn cái dáng vẻ Lâm muội muội thế chứ?!"
Bạch Phỉ Lệ: "..."
Lúc này anh mới chợt nhận ra là không thấy Dư Phi đâu! Hai ông bà trở về quá đột ngột, nhất thời làm anh không nghĩ ngợi được gì, lúc này chợt tỉnh táo lại, có chút hốt hoảng tìm kiếm xung quanh, nhưng làm sao còn bóng dáng Dư Phi? Quần áo cô treo trên cái giá đối diện cũng không thấy đâu nữa, khăn quàng cổ trên giường cũng biến mất, cả căn phòng đều không còn lưu lại bất kỳ dấu vết nào của cô.
Cô lại đi đâu mất rồi? Cô đi từ lúc nào? Sao cô lại muốn đi? Lẽ nào tối qua cô không vui sao? Lúc thân mật cô còn gọi anh là "A Phỉ", tiếng cô gọi không giống với bất kỳ ai khác, nhưng rốt cuộc tình cảm cô dành cho anh là như thế nào?
Anh nhớ tới buổi sáng lần đầu tiên đó khi cô tỉnh lại đã đè chăn xuống nói với anh: "Chúng ta bèo nước gặp nhau, đường ai người nấy đi, đừng gặp lại nhau nữa."
Anh nhớ tới lần thứ hai trong con ngõ cũ kỹ, cô rơi lệ xoay người bỏ đi, đi một cái là tám tháng mất tăm như đá chìm đáy biển, không thể tìm được cô nữa.
Căn nhà ở Chiêm Viên này, ngoại trừ Quan Cửu tìm tới một lần lúc anh đổ bệnh, anh chưa từng nhắc tới với bất kỳ ai khác, đến cả Lăng Tửu cũng không biết nhà anh ở đâu. Mà Quan Cửu cũng chưa từng bước lên tầng hai nơi thế giới của anh ngự trị. Tối qua, tấm lòng anh muốn giữ cô lại, chẳng lẽ còn chưa đủ rõ ràng? Vì sao cô vẫn biến mất như vậy?
Nghĩ đến những điều này, trong lòng Bạch Phỉ Lệ chợt lạnh toát, ánh mắt nhàn nhạt nhìn về một phía, tăng thêm vài phần tức giận.
Ông Thượng thấy đôi mắt đẹp của anh dừng hồi lâu nơi kia, cũng nhìn theo, lại chẳng thấy gì cả, không khỏi bực mình nói: "Hỏi mày đấy! Tính sổ từng cái một, trước tiên nói về chuyện trên người mày bị sao đi!"
Bạch Phỉ Lệ thoáng sửng sốt, cúi đầu, vén chăn lên nhìn vào trong, quả nhiên thấy bên trong xanh xanh đỏ đỏ kín người, cứ như mở phường nhuộm, cái thì là dấu tay, cái thì hằn thành hình hoa văn của chăn đệm, trong đầu ùng ục nảy ra hai chữ thô tục, bụm mặt hàm hồ kêu nhỏ một tiếng: "A Thuỷ ơi...", mặt đỏ đến tận cổ.
Rõ ràng lần trước không nghiêm trọng như vậy.
Anh trời sinh da vừa trắng vừa mỏng, chỉ lỡ đụng chút cũng sẽ bị bầm máu. Khi còn bé ông bà ngoại còn tưởng anh có bệnh gì về máu, mấy lần dẫn anh đến bệnh viện kiểm tra sơ đồ cấu tạo máu, nhưng kiểm tới tra lui cũng không ra bất cứ vấn đề gì, bác sĩ bảo anh cố gắng không để bị va chạm và bị thương. Cho nên đến tận khi anh mười mấy tuổi rồi, đồ dùng trong nhà vẫn bịt góc.
Bà Thiện tưởng là anh thực sự có vấn đề gì, sốt ruột tới cạnh giường kéo chăn Bạch Phỉ Lệ: "Rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra? Tiểu Bạch Tử, để ngoại xem chút xem nào, bị thương ở đâu rồi?"
Bạch Phỉ Lệ vội giữ chăn lại, ho khan hai tiếng, nói: "Tối qua hình như con bị mộng du, ngã từ trên thang xuống... Thật sự không phải do đánh nhau đâu mà."
Ông Thượng nghi ngờ: "Vậy sao lại nghiêm trọng vậy hả?"
"Không nghiêm trọng đâu ạ." Bạch Phỉ Lệ khép hai tay trước mũi, nghĩ liều: Dù sao ngoại cũng không nghĩ tới chuyện kia.
Nhưng ông Thượng lại hỏi: "Hôm qua gọi điện cho mày, mày còn bảo không có bạn gái đúng không?"
Bạch Phỉ Lệ: "..."
Bạch Phỉ Lệ: "Đúng ạ."
Ông Thượng lấy khăn quàng cổ ra ném xuống trước mặt anh: "Vậy cái này từ đâu ra?"
Bạch Phỉ Lệ nhìn vết mèo cào đâm thủng lỗ chỗ trên cái khăn, trong lòng nghi hoặc sao cái khăn lại vào tay ngoại thế này, ngoài miệng vẫn ứng phó: "Cọp Cái nhặt từ bên ngoài về?"
Trên mình Cọp Cái còn bị buộc dây cơ đấy, nhặt từ ngoài về bằng niềm tin à! Thằng nhóc nói hươu nói vượn! Ông Thượng rốt cuộc cũng triệt để nổi cáu: "Lấy một con mèo ra để đổ lỗi, mày có biết xấu hổ không hả? Ông bà mày đều thấy hết cả rồi! Cái cô kia đó!"
Bạch Phỉ Lệ có cảm giác như vừa bị đá lại vừa phải chịu bị ngoại truy hỏi, nghĩ bụng chuyện này không thể nói rõ ràng được, chỉ đành giả ngu đến cùng: "Ở đâu ra cô nào vậy ạ?"
Ông Thượng tức giận ngập trời, giơ tay ra muốn mở ngăn kéo bên cạnh. Chứng cứ sau khi hành sự đều ở hết trong đấy, sao có thể để ngoại thấy được? Bạch Phỉ Lệ nhào qua đè lại, ông Thượng tức giận đến độ rống lên: "Nhìn tay mày xem! Bị ai cào hả!"
"Mèo..."
"Tào lao!"
Đúng lúc này di động bên gối Bạch Phỉ Lệ chợt có một cuộc gọi đến, Bạch Phỉ Lệ quay đầu lại nhìn, là "Bạch Cư Uyên", giờ mới chỉ là sáu rưỡi sáng.
Mới sáng sớm đã thi nhau kéo loạn vậy sao? Bạch Phỉ Lệ cúp máy.
Anh lăn một cái xoay người, kéo chăn quỳ trên giường, cúi người xin lỗi ông Thượng:
"Xin lỗi ngoại, con không nên có hành vi ăn cơm trước kẻng."
"Ngoại mày bảo không được lúc nào hả!" Ông Thượng suýt nữa thì bị anh chọc tức đến tắt thở, "Ngoại bảo là không được hả?" ông thực sự chỉ hận rèn sắt không thành thép, "Hăm bốn rồi, cháu ngoại mày tinh lực bừng bừng, đưa một cô gái về ngủ thì có làm sao?! Chuyện đương nhiên thế còn gì! Ngoại hỏi mày, sao hôm qua lại nói là không có bạn gái hả! Sao ngủ một buổi đến sáng sớm con gái nhà người ta đã chạy mất rồi? Có phải mày không muốn chịu trách nhiệm không?!"
Tâm tình Bạch Phỉ Lệ trầm xuống, chuyện này té ra lại thành bị nói ngược, là con gái nhà người ta không muốn chịu trách nhiệm với cháu ngoại đó.
Bà Thiện cũng thành khẩn khuyên nhủ: "Cô gái đó hình như rất sợ gặp phải ông bà thì phải, ông bà còn chưa thấy con bé ra sao, nó đã chạy mất ra cửa sau rồi. Con đã đưa người ta về nhà rồi, chung quy không phải là chỉ để vui đùa một chút đấy chứ? Ngoại thấy cô bé ăn mặc rõ ràng là một đứa bé ngoan. Con gái nhà người ta tâm tư dễ vỡ, con đừng có làm tổn thương lòng người ta."
Bạch Phỉ Lệ cúi đầu không nói gì. Bạch Cư Uyên lại gọi điện tới, anh lại tắt đi.
Ông Thượng trông thấy, hỏi: "Ba mày tìm mày làm gì?"
Bạch Phỉ Lệ ngẩng đầu nhìn ông ngoại, nói: "Ông ấy muốn hợp tác với một tập đoàn tài chính lớn của Nhật Bản, làm một dự án sở hữu đất đai thương mại gì đó... Cụ thể con cũng không rõ lắm."
"Đầu cơ với chả đầu keo, làm ăn tử tế thì không làm, cả ngày chỉ biết nghĩ đến đầu cơ." ông Thượng rất không vui, "Còn muốn lôi mày xuống nước theo nữa."
"Đúng là dân cờ bạc." Bà Thiện bình luận, "Tiểu Bạch Tử, ba con vẫn còn chịu nghe lời con, con chịu khó lôi kéo khuyên ngăn nó lại chút."
Bạch Phỉ Lệ cúi đầu đáp lời.
"Không nói đến nó nữa." ông Thượng thở dài, "Cho mày ba ngày, dẫn cô gái kia về đây cho ngoại mày xem một cái."
Hai tay Bạch Phỉ Lệ bóp bóp đầu, lát sau mới nói: "Năm ngày được không ngoại?"
"Mày còn cò kè mặc cả với ngoại mày nữa à!" Ông Thượng lại lần nữa nổi nóng, giơ quải trượng lên, bà Thiện vội kéo ông lại:
"Có hai ngày mà ông cháu hai người cũng phải tranh nhau, một già một nhỏ, rõ là kỳ cục! Lão già xuống nhà nằm đi! Thằng nhỏ mau tới đây giúp ngoại thu xếp lại hành lý!"
***
Dư Phi ngựa không dừng vó chạy khắp cả ngày, rốt cuộc đến trước bốn giờ chiều cũng xong được hết chuyện.
Cô chẳng còn lòng dạ nào để mà tiếp tục ôn tập nữa, nhớ tới có một câu hát Mân Nam thế này: Bảy phần dốc sức mà làm, ba phần còn lại trông trời giúp cho.
Hiện giờ, cô đã dốc sức làm xong bảy phần, chuẩn bị rất đầy đủ, cũng không có gì để nước đến chân mới nhảy. Còn ba phần còn lại thì phải xem trời thôi.
Cô chuẩn bị tinh thần, đến Văn Thù Viện.
Văn Thù Viện thường mở cửa cho khách hành hương đến năm giờ chiều, cô đến nơi lúc bốn rưỡi, lấy hương từ chỗ lĩnh hương, sau đó bắt đầu từ cửa chùa, lần lượt đi qua từng Phật đường tế bái.
Cô gắng dằn lòng lại, đến tận cuối cùng đi hết nhà chính rồi mới gặp Thứ Cơ.
Thứ Cơ hôm nay mặc một chiếc áo cà sa thuần sắc trắng, cầm một cái dẫn khánh, đầu mới cạo lại, lấm chấm điểm xanh. Dư Phi đứng ở thềm đá, thấy bốn phía không có ai mới đưa tay ra sờ cái đầu trọc lốc của hắn một cái, tủm tỉm cười nói: "Chà chà, Gà Chay đại ca ca thăng chức tăng lương rồi, chúc mừng chúc mừng."
Thứ Cơ nghiêm chỉnh chắp hai tay: "Bà chằn, đừng táy máy chân tay với bần tăng, bần tăng cũng không phải sư tử nhà cô, lòng bần tăng lặng như đáy nước."
Dư Phi cười đến rạng rỡ, nhưng là ngoài cười mà trong không cười, cười xong "hừ" một tiếng, làm bộ tức giận muốn bỏ đi. Thứ Cơ gọi cô lại: "Dư Phi muội muội, anh thấy em sắc mặt hồng hào, tươi như hoa đào, âm dương điều hòa..." Dư Phi nhảy dựng lên tẩn cho hắn một trận tơi bời.
Thứ Cơ la lên: "Phương trượng ở bên trong phương trượng ở bên trong!" thấy Dư Phi dừng tay, Thứ Cơ lại bồi thêm một câu: "Sư tử uy vũ đầy mình, ta đây anh danh không đổ..." Dư Phi liền tháo cặp sách xuống, Thứ Cơ phải giơ tay bám chặt lấy cánh cửa gỗ của sảnh giảng kinh, Dư Phi mới không dám đập hắn.
"Cô nói tối qua gặp anh ta bên Phật Hải?"
Đầu ngón chân Dư Phi chọt chọt xuống vũng nước bên mái hiên, gật đầu.
"Muộn vậy mà cô còn đến Phật Hải tản bộ à? Tới tìm tôi hả?"
"Tôi về khuya đi ngang qua thôi."
"Thật sự là đi ngang qua?"
Dư Phi cúi đầu, không nói gì.
Thứ Cơ hiểu ra, "Tối qua Nghê Lân diễn, cô đến đó đuổi tên biến thái kia đi?"
Dư Phi không hé răng, đầu ngón chân tiếp tục khua khua trong vũng nước, gạt đống cỏ xanh ra khỏi đó.
Thứ Cơ dùng cái dẫn khánh nhỏ bằng sắt gõ một cái thật mạnh lên đầu Dư Phi.
"Ôi, cô đúng là đồ ngốc!"
Kẻ Dư Phi đánh đêm qua ở Phật Hải, cô có biết. Chẳng những có biết mà còn là đã biết rất nhiều năm.
Kẻ đó là hí mê của Nghê Lân, hoặc có lẽ không nên gọi là hí mê (*), bởi gã khác hí mê ở chỗ, gã không chỉ mê Nghê Lân diễn hí mà còn điên cuồng mê cả con người Nghê Lân, đối với Nghê Lân có một tình cảm cuồng nhiệt đến độ méo mó đầy biến thái.
(*) Nguyên văn là 戏迷, chỉ người mê xem hát, lý ra có thể dịch được ra tiếng Việt nhưng ở đây sẽ giữ nguyên Hán Việt như một tên riêng để gọi "fan" của hí kịch.
Hiện giờ trong giới Lê viên, càn đán không có nhiều lắm, càn đán diễn hát tốt chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Nghê Khả sáng lập "Nghê phái", am hiểu nhất chính là vai đán. Hoa đán, thanh y, đao mã đán (*) Nghê Lân đều hát được, mà việc kết hợp các ngón xướng, niệm, tố, đả đều rất xem trọng "hoa sam (**)", y mà biểu diễn thì chỉ có thể gọi là đệ nhất kinh kỳ.
(*) Nguyên văn là 刀马旦, tên gọi các vai nữ biết võ trong hí kịch.
(**) Nguyên văn là 花衫, ý chỉ các vai nữ trong kịch truyền thống Trung Quốc.
Chính vì vậy, Nghê Lân luôn rất được lòng những hí mê cứng (*). Nhưng rừng vốn rộng mà chim nào cũng có, trong số những hí mê cứng, luôn luôn có một vài người kỳ quái đến đáng sợ như vậy.
(*) Đọc lên thấy cũng không ổn lắm nhưng ý giống như "fan cứng" vậy đó, chưa biết thay từ gì khác nghe trơn tru hơn.
Kẻ đó tự xưng là "Lưu Quân", đại khái phát âm là vậy, đó là do một lần nọ nhóm sư phụ Thiện Đăng Đĩnh bắt được gã, đem đến đồn cảnh sát, dưới sự truy hỏi của cảnh sát, gã xoắn xuýt mãi mới khai ra tên đó.
Cảnh sát không tìm được thẻ căn cước của gã, cũng không tra ra chỗ ở và thân phận thật của gã, chỉ có thể coi gã là một kẻ lang thang vô gia cư có chướng ngại về mặt nhận thức để tiến hành xử lý. Không lâu sau, gã lại trở lại.
Kẻ này là một tên cuồng theo dõi, Nghê Lân đi đâu gã theo tới đó, còn cực kỳ thích chụp lén Nghê Lân. Gã từng có một cái blog, chuyên đăng ảnh chụp Nghê Lân. Mọi ghi chép trên blog này đều là nhật ký của gã, nhưng mỗi một bài trong nhật ký của gã đều nhắc đến Nghê Lân. Gã điên cuồng ảo tưởng ra chuyện sống cùng Nghê Lân hằng ngày, thậm chí còn sinh con dưỡng cái. Qua những dòng chữ đó, có thể thấy được gã có khát vọng độc chiếm Nghê Lân cực kỳ mãnh liệt, gã thậm chí từng viết, "Nghê Lân mà lấy ai, tôi sẽ giết kẻ đó!".
Dư Phi khi đọc xong blog của gã, sợ đến sởn hết cả da gà. Nhưng bởi gã chưa từng gây ra bất kỳ chuyện gì đáng để vào đồn nên Thiện Đăng Đĩnh cũng không thể làm gì được gã.
Năm mười hai tuổi, sau khi đoạt được giải vàng ở cuộc thi kinh kịch dành cho thiếu nhi, Dư Phi cũng trổ mã lớn lên. Sư phụ yêu thích tài năng của cô, liền để cô mới còn nhỏ đã bắt đầu diễn hí cùng Nghê Lân. Khi đó Nghê Lân vẫn còn đang luyện vở "Tỏa lân nang (*)", đóng vai đại tiểu thư Tiết Tương Linh. Độ khó của vai diễn này rất lớn, Nghê Lân phải khổ luyện mất mấy năm mới bắt đầu lên sân khấu diễn. Dư Phi diễn phụ một vai lão sinh trong vở đó, có một đoạn diễn đối với Nghê Lân. Năm đó lên đài, Dư Phi mới mười bốn tuổi, tuy vai không có nhiều đất diễn lắm nhưng diễn xuất đã manh nha bộc lộ tài năng.
(*) Là một vở kinh kịch do Ông Ngẫu Hồng và Trình Nghiễn Thu cùng hẹn nhau sáng tác vào năm 1940. Nội dung kể về chuyện khi con gái phú hộ Tiết Tương Linh ở Đăng Châu xuất giá, kiệu hoa đi được nửa đường thì gặp mưa, vào đình Xuân Thu tạm lánh, cùng lúc đó kiệu hoa chở một cô gái nghèo tên Triệu Thủ Trinh cũng vào đó trú mưa. Triệu Thủ Trinh cảm thán giàu nghèo gặp nhau, lòng người dễ đổi nên than khóc. Tương Linh có tấm lòng trượng nghĩa thấy thương, bèn lấy từ trong hòm châu báu hồi môn ra một chiếc tỏa lân nang (túi nhốt kỳ lân – thực ra tớ chưa rõ nó là cái gì lắm nhưng có vẻ là một vật tượng trưng mang ý cát tường cầu may) tặng cho. Mưa ngớt, hai người rời đi.
Sáu năm sau, Đăng Châu gặp nạn hồng thủy, Tương Linh thất lạc người nhà, chạy nạn đến Lai Châu, vì kế sinh nhai mà phải vào nhà sĩ phu họ Lư làm nô tỳ. Một ngày nọ phải theo tiểu công tử Thiên Lân, đứng dưới lầu, công tử ném bóng ở bên trên, bắt Tương Linh phải nhặt bóng, Tương Linh bất đắc dĩ vô cùng, lại trông thấy chiếc tỏa lân nang tặng Triệu Thu Trinh ở trên lầu, rơi lệ lúc nào không hay. Thì ra Lư phu nhân chính là Triệu Thủ Trinh. Bấy giờ, biết Tương Linh là người tặng túi, Thu Trinh lấy làm thân thiết, kính như thượng khách, giúp cô tìm lại mẹ và chồng con, rốt cuộc cả nhà được đoàn tụ.
Cũng chính bắt đầu từ đó, cô lần đầu tiên bị Lưu Quân công kích. Lần thứ ba lên diễn, cô còn bị Lưu Quân ném một túi phân và nước tiểu lớn vào người.
Có lẽ là bởi Lưu Quân phát hiện ra cô là con gái.
Nghê Lân diễn vai đán, người diễn đối với y về cơ bản đều là nam, những nam diễn viên này đều chưa từng bị Lưu Quân tập kích.
Nhưng cô thì lại chính là khôn sinh duy nhất trong Thiện Đăng Đĩnh.
Dư Phi chẳng phải loại người hiền lành biết điều gì cho cam. Ai ức hiếp cô, chỉ cần cô cảm thấy không thẹn với lương tâm, nhất định sẽ không nín nhịn, huống chi là một tên biến thái như Lưu Quân?
Lưu Quân bị cấm vào Thiện Đăng Đĩnh, nhưng chỉ cần là buổi diễn của Nghê Lân, gã sẽ thập thò xớ rớ bên ngoài.
Kể từ lúc đó, Dư Phi đã bí mật triển khai hành động "đánh chó đêm". Cô tụ tập những đệ tử nhỏ tuổi trong Thiện Đăng Đĩnh lại, mỗi lần trước khi Nghê Lân diễn xong đều đi tìm Lưu Quân, tìm được rồi thì dồn gã vào một góc phố nhỏ đánh cho một trận.
Chiêu này quả thực có hiệu quả, số lần Lưu Quân xuất hiện trong phạm vi Thiện Đăng Đĩnh giảm hẳn. Nhưng cũng vì vậy mà Dư Phi bị chủ thuyền phạt nặng, chỉ là cô cũng chẳng thấm thía mấy hơn mười cái roi da này, có mỗi Thứ Cơ là thấy xót hộ.
Sau khi trở lại Bắc Kinh, Dư Phi nghe Lan Đình nói, không có cô ở đây, Lưu Quân lại chứng nào tật nấy quay lại.
Cô chưa từng có ý muốn quay lại Thiện Đăng Đĩnh gặp Nghê Lân, thậm chí cô còn từng thề sẽ không gặp lại Nghê Lân nữa. Nhưng có lẽ là do tính phản nghịch ương bướng của cô lại trỗi dậy, cũng có thể là do trong lòng có chút cảm giác không cam và chịu thua, cô muốn làm tới cùng việc "bảo vệ" này.
Mỗi buổi tối cô đều đến thư viện ôn tập cho kỳ thi nghiên cứu sinh. Từ thư viện đến Phật Hải đi bộ mất mười phút. Mỗi đêm sau khi thư viện đóng cửa, cô lại đến Phật Hải, thường thì cũng vừa lúc Thiện Đăng Đĩnh vừa diễn xong. Nếu là buổi diễn có Nghê Lân, cô sẽ chú ý tìm xem có Lưu Quân núp gần đó không, nếu có, cô sẽ đuổi gã chạy bằng được mới thôi. Sau đó, cô sẽ lên chuyến xe đêm về nhà.
Có đôi lúc, cô cảm thấy, tình yêu cay đắng cô dành cho Nghê Lân suốt mười năm, cũng chính là đối đầu với Lưu Quân bất phân thắng bại suốt mười năm. Cô và Lưu Quân, thậm chí còn không nói rõ được là ai cố chấp hơn ai. Cũng không biết trong lòng Nghê Lân, có phải cô cũng chẳng khác gì tên biến thái Lưu Quân kia không, dây dưa mập mờ, khiến y phát phiền.
Cái dẫn khánh Thứ Cơ cầm chính là tai rồng mắt trời nơi tu viện Phật gia, gõ trong lúc tụng kinh lễ Phật, dùng để cảnh tỉnh chúng sinh giác ngộ. Chỉ là, Dư Phi trúng một dùi sắt xong, trong lòng lại xổ ra chín chữ:
Hòa thượng thối, bây làm sao mà hiểu được!
***
Hôm nay, Văn Thù Viện đón một xí nghiệp đến cầu pháp, trong đó có mấy người có quan hệ rất tốt với phương trượng đại sư của Văn Thù Viện, phương trượng liền đặc biệt mở một khóa giảng riêng ở sảnh giảng kinh cho họ. Thứ Cơ phải vào sảnh duy trì trật tự, không thể cùng Dư Phi đi ăn đồ chay. Dư Phi một mình về nhà, lúc ra đến Đại Hùng bảo điện, chợt nghe phía sau có người gọi:
"Dư Phi."
Ngoài Thứ Cơ thỉnh thoảng sẽ gọi đùa cô một tiếng "Dư Phi muội muội" ra, đã rất lâu rồi cô chưa từng nghe ai gọi cô bằng cái tên này.
Cô quay đầu lại, nhìn thấy một người quen.
Người này hơn bốn mươi tuổi, mặc một bộ tây trang vừa vặn, vóc người được bảo dưỡng vô cùng tốt, rất có phong độ. Viền mắt y rất thâm, môi trên rất mỏng, tướng mạo có chút hơi giống người Tây. Kéo theo sau lưng một cái vali bằng hợp kim nhôm, có vẻ là đi công tác rồi tới đây.
Người này họ Lâu, mọi người đều gọi y là ngài Lâu. Dư Phi nhận ra y là bởi y từng quyên cho Thiện Đăng Đĩnh một khoản tiền không nhỏ.
Sau chuyện của Lưu Quân, Dư Phi không xuất hiện bằng dáng vẻ thật sau khi tháo phục trang xuống nữa, cũng ít khi giao lưu với hí mê. Hí mê nhận ra Dư Phi chỉ đếm trên đầu ngón tay, ngài Lâu coi như là một trong số những người đó.
Ấn tượng của cô đối với ngài Lâu không tệ. Cô không rõ lắm về thân phận thật của ngài Lâu nhưng cũng biết y là một người rất có bối cảnh, kiến thức uyên thâm, giao du rộng rãi. Ngài Lâu thực ra có một nửa dòng máu là người Lĩnh Nam, khi nói chuyện với Dư Phi thường dùng tiếng địa phương, khiến Dư Phi cảm thấy rất thân thiết.
Ngài Lâu là người thân thiện, thích nghe hí kịch, sưu tầm. Mỗi lần tới Bắc Kinh đều sẽ ghé qua Thiện Đăng Đĩnh xem Dư Phi diễn một vở. Vở diễn kết thúc rồi sẽ đến hậu trường xem Dư Phi tháo phục trang, tâm sự cùng cô về vở hí hôm đó. Đôi lúc nhìn ra tâm tình Dư Phi không tốt, sẽ nói vài câu an ủi, khích lệ cô.
Dư Phi cảm thấy, nếu hí mê ai cũng được như ngài Lâu, vậy cũng không tệ,
"Nghe nói em rời khỏi Thiện Đăng Đĩnh?" Ngài Lâu mời Dư Phi ăn cơm, cô đồng ý.
"Vâng, phạm phải nội quy của thuyền." Dư Phi vừa đi vừa trả lời đại khái.
"Trước đó có hỏi em qua WeChat mà không thấy em trả lời."
"Đợt đó tâm trạng không tốt nên em không trả lời ai cả." Dư Phi nói lời xin lỗi, ngài Lâu cũng không để bụng. Ngoài Phật Hải có một nhà hàng đồ chay, thanh nhã mộc mạc, hai người vào trong tìm một bàn ngồi xuống.
Món ăn được dọn lên, ngài Lâu hỏi qua về tình hình gần đây của Dư Phi, Dư Phi nói cho y biết ngày mai mình sẽ thi nghiên cứu sinh vào học viện hí kịch, ngài Lâu khen ngợi cô một hồi.
"Từ lần đầu tiên nghe em hát hí khúc lúc em mười sáu, tôi đã biết em sớm muộn sẽ trở thành tên tuổi lớn rồi." ngài Lâu nói, "Hiện giờ bị đuổi khỏi Thiện Đăng Đĩnh rồi mà em vẫn có thể đi tiếp, tôi quả nhiên không nhìn lầm người."
Dư Phi cười cười, rót cho ngài Lâu một chén rượu. Rượu là sake do chủ quán tự ủ, dùng than củi mảnh nhỏ để nấu, hương vị đậm đà ấm nóng, uống vào có thể xua tan giá lạnh. Hai người cụng chén, cùng uống cạn.
Ngài Lâu hỏi: "Dư Phi có thể uống được nhiêu?"
Dư Phi nghĩ, lần duy nhất cô uống rượu trước đó là ở "Chiếc bè", kết quả uống xong chẳng biết mình là ai đây là đâu nữa, bèn nói: "Tửu lượng không khá lắm ạ, uống nhiều là gục luôn."
Ngài Lâu cười: "Em thoạt nhìn cũng không giống người uống được rượu." Sau đó cũng không rót rượu cho cô nữa, bảo cô ăn nhiều hơn.
Ngài Lâu nói: "Em rời khỏi Thiện Đăng Đĩnh rồi thì coi như không phải người của Nghê phái nữa, tìm thử một sư phụ khác xem. Tôi có quen một số danh gia kinh kịch, sau này có thể giới thiệu cho em, bây giờ em không vào một đoàn kịch nào cũng không ổn, tôi sẽ đề cử em với họ, nhờ họ dành vài cơ hội diễn cho em."
Dư Phi ngập ngừng một chút, cuối cùng vẫn khai thật: "Lúc em rời khỏi Thiện Đăng Đĩnh đã thề, ba năm không được hóa trang lên sân khấu. Nếu có thể thi đậu nghiên cứu sinh, em sẽ luyện ở trường trước đã."
Ngài Lâu nhúng đầu đũa vào rượu, viết lên bàn mười hai chữ:
Mượn nhờ sức gió lớn, đưa ta lên mây xanh.
"Hiểu lời này không?"
"Kinh kịch cũng là một bộ môn nghệ thuật. Người làm nghệ thuật đều cần một bàn tay giúp đỡ, nếu không rượu có thơm cũng sợ ngõ hẹp sâu, em nói xem có đúng không? Trước đây em còn có Thiện Đăng Đĩnh, hiện giờ em không có gì hết, không có gió lớn để mượn lực, em sao lên được đây?"
Dư Phi mím môi, lặng thinh không nói.
Ngài Lâu lại cười, tự rót cho mình một chén rượu, tư thế lão luyện, mang theo một vẻ tao nhã riêng của lứa tuổi y. Chút hương rượu tinh khiết thơm lừng bốc lên từ chén rượu, thoang thoảng tản ra trong không khí."
"Tôi không ép em, em còn trẻ, nhưng hãy suy nghĩ những lời này trước đi đã."
Dư Phi giơ đũa, chậm rãi gắp một miếng thịt chay lên ăn.
Ngài Lâu tự mình uống cạn rượu trong chén, kéo cái vali bên cạnh qua. Y ngồi trên ghế, cúi người xuống, hai tay nhấn một cái, mở cặp khóa được thiết kế tinh vi trên vali ra.
Dư Phi tưởng y định lấy đồ, ai ngờ khung vali bằng nhôm mở ra, bên trong ấy thế mà lại không phải hành lý.
Trên lớp vải lót mềm màu vàng đặt một hộp gỗ tử đàn dáng dài, sơn bóng ấm nhuận, thiết kế tinh xảo, điêu khắc cảnh trong truyền thuyết về ông tổ Lê viên Đường Minh Hoàng giả gái diễn khúc "Trường mệnh tây hà nữ (*)", bản thân chiếc hộp này đã là một tác phẩm nghệ thuật.
(*) Nguyên văn là 长命西河女, là một khúc ca nổi tiếng của giáo phường thời Đường.
Ngài Lâu nói: "Tôi mới trở về từ buổi đấu giá mùa thu của Christie"s (*) ở Hồng Kông, thắng được một thứ. Tôi giữ lại cũng vô dụng, muốn tặng cho em."
(*) Là một nhà đấu giá của Anh do James Christie thành lập vào năm 1766, nổi tiếng vì đã bán được bức tranh Đấng cứu thế (Salvator Mundi) được cho là của Leonardo da Vinci với giá kỷ lục là 450 triệu dollars.
Y lấy từ trong hành lý ra một đôi găng tay cao su, mở hộp gỗ tử đàn ra. Trong hộp ngự một chiếc lông công đính trên mũ trong kinh kịch, lông công rất dài, đặt trong hộp gỗ uốn thành hình cung.
Chiếc lông công này nhìn có vẻ rất cũ, nhưng vẫn toàn vẹn như xưa, màu sắc mơ hồ vẫn còn sót lại vẻ rực rỡ năm nào.
"Phụ nữ hát vai lão sinh xuất sắc nhất, trăm năm qua không ai vượt được Mạnh Tiểu Đông (*). Năm 1949, đêm trước giải phóng, Mạnh Tiểu Đông đã theo Đỗ Nguyệt Sênh di cư đến Hồng Kông. Lúc Đỗ Nguyệt Sênh qua đời đã tự mình dặn dò bạn tốt, nhờ họ chăm sóc tử tế cho Mạnh Tiểu Đông, thế nào cũng không được để bà hát hí khúc nữa. Mọi người cho rằng, Mạnh Tiểu Đông đã nghe theo Đỗ Nguyệt Sênh, đến khi tuổi già cũng chỉ chơi đua ngựa, mạt chược chứ không còn đến bất kỳ phòng trà nào hát hí khúc nữa. Nhưng kỳ thực bà từng ngầm hát một lần, chiếc lông công này, chính là chiếc bà dùng vào lúc đó. Người bảo tồn chiếc lông công này chính là bạn thân của Mạnh Tiểu Đông khi về già ở Hồng Kông, người thừa kế của người bạn tốt đó vừa qua đời năm nay, chiếc lông công này rơi vào tay Christie"s. Christie"s dùng giá cao làm bảo đảm, tuyệt đối là hàng thật."
Ngài Lâu lấy lông công ra. Chiếc lông công này vừa thoát khỏi sự hạn chế của hộp đã bật thẳng dậy, rung rinh dựng lên, vừa có thần lại vừa có phong độ, khiến người ta như thể nhìn thấy được tinh thần sáng láng, chói lọi của Mạnh Tiểu Đông trên sân khấu năm đó.
Ngài Lâu đưa lông công cho Dư Phi:
"Em phải trở thành "Đông Hoàng"."
(*) Mạnh Tiểu Đông (1908 – 1977), còn có biệt danh là Mạnh Nhược Lan, Mạnh Lệnh Huy, sinh ra ở Thượng Hải, dòng dõi thế gia Lê viên, là nữ diễn viên kinh kịch đóng vai lão sinh nổi tiếng, rất có tiếng tăm với các vai lão sinh hoàng đế (bởi vậy mà còn được gọi là Đông Hoàng), là người kế nghiệp sư phụ Dư Thúc Nham, là nữ đệ tử duy nhất của Dư môn.
------
Cái này là cái dẫn khánh mà Thứ Cơ cầm:
Tớ nhớ không nhầm thì hình như Phật giáo Việt Nam không dùng cái này nên không có tên Việt cho nó, nếu bạn nào theo đạo Phật mà biết cái này gọi là gì thì bảo tớ nhé!
Bình luận facebook