Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 162
Chính Đức không hề chú ý đến hành động của Giải Ngữ mà quay sang cười hỏi Dương Lăng:
- Dương khanh! Sáng sớm ngươi đã tiến cung, có chuyện gì quan trọng sao?
Dương Lăng ho khan một tiếng, liếc mắt nhìn Lưu Cẩn, Cẩn hiểu ý vội đỡ lời:
- Hoàng thượng! Đám người Lưu Kiện, Tạ Thiên cấu kết nội đình bức hiếp thiên tử vô pháp vô thiên, hôm qua nô tài xin người hạ thánh chỉ định tội mấy kẻ này sau đó công bố khắp thiên hạ nhằm khiến cho bá quan sợ hãi dè chừng mà tự xét lại mình. Tuy nhiên hôm nay lại nghe tin chiến sự biên cương khẩn cấp, lúc này không nên khiến triều đình rúng động bởi vậy kính xin Hoàng thượng lại hạ chỉ ban ân, miễn tội danh cho bọn họ.
Chính Đức không vui đáp:
- Hôm qua vừa hạ chỉ, cớ sao hôm nay đã muốn thu lại rồi? À.........- Hắn hồ nghi liếc mắt nhìn Dương Lăng, cười hỏi:
- Nhất định là Dương khanh không đành lòng nên ra mặt cầu xin tha thứ cho bọn họ, phải không?
Hắn suy nghĩ một hồi, nhận thấy Lưu Kiện, Tạ Thiên tuy đáng ghét nhưng dù sao cũng từng là Thái phó của mình, nay bọn họ đã không muốn truy cứu nữa, chuyện này bỏ qua cũng được. Hắn gật đầu đồng ý:
- Được! Trước tiên hạ chỉ khiển trách, sau lại ra ân chỉ miễn trách phạt cũng không có vấn đề gì. Việc này ngươi cứ đi làm đi!
Lưu Cẩn vội cất tiếng tạ ơn với vẻ mặt mừng rỡ. Chính Đức lại nói với Dương Lăng:
- Tín hiệu phong hỏa từ biên ải đã truyền đến kinh thành đêm trước nhưng vẫn chưa có tin tức gì thêm. Bây giờ đã có tin tình báo chính xác rồi sao?
Dương Lăng bước lên một bước đáp:
- Vâng! Thần đã có tin tức tường tận hơn đang định bẩm với Hoàng thượng.
Y đưa mắt nhìn hai cô gái. Chính Đức hiểu ý, quay sang hai cô mà từ tốn:
- Giải Ngữ! Tu Hoa! Hai nàng hãy theo Mã Vĩnh Thành rời đi, rồi để hắn thu xếp chỗ ở cho. Đợi đầu xuân trẫm sẽ dọn đến Báo viên ở, đến khi đó trẫm sẽ chuẩn bị cho các nàng hai căn phòng thực lớn.
Hai cô gái ngoan ngoãn vâng một tiếng. Tu Hoa cẩn thận liếc nhìn Dương Lăng rồi khoan thai bước theo Mã Vĩnh Thành.
Chính Đức vươn vai ngáp dài, bảo Dương Lăng:
- Dương thị độc, chúng ta vào phòng đã rồi có gì hãy nói!
Đám Lưu Cẩn không tiện theo vào nhưng cả bọn đều không quan tâm tới chuyện này lắm, duy có Miêu Quỳ rất mong lập quân công nên kìm lòng không được cứ đứng ngóng ngay cạnh cửa đỏ mắt mong chờ.
Chính Đức dẫn Dương Lăng về đến tẩm cung, để nguyên quần áo mà nằm xuống sập đoạn khoan khoái nói:
- Dương khanh! Tới hôm nay trẫm mới cảm nhận được niềm vui khi làm đàn ông.
Dương Lăng chưa biết tiếp lời thế nào, Chính Đức đã xoay người lại, đưa tay chống cằm mỉm cười nói:
- Trẫm có hoàng hậu, có phi tần, nếu trẫm bằng lòng còn có thể đưa vô số mỹ nữ như hoa vào cung nhưng điều trẫm muốn chỉ là cái cảm giác gia đình. Mặc dù hai cô gái dân gian này vẫn còn hơi gò bó khép nép với trẫm nhưng so với nội cung thì đã tốt hơn nhiều.
Dương Lăng không ngờ Chính Đức không vội hỏi tình hình quân sự ở tiền phương mà lại lải nhải việc nhà. Y thấy mặt Chính Đức đầy vẻ mơ mộng ngọt ngào nên không tiện cắt ngang lời hắn ngay lúc này liền nhẫn nại nói:
- Hoàng hậu nương nương và hai vị quý phi nương nương đều là những người tri thư đạt lễ, hiền lương thục đức......
Chính Đức bực bội khoát khoát tay trợn mắt lườm y:
- Chớ có giở trò này với trẫm nữa! Tính tình, nhan sắc của Hoàng hậu và hai vị quý phi đều rất tốt, nhưng trẫm lại không thể cảm thấy thân thiết với họ được.
Chính Đức thở than:
- Vợ chồng gặp mặt một chút thôi vậy mà đứng có nghi lễ đứng, ngồi có nghi lễ ngồi, cái bộ dạng trang trọng đó khiến người nhìn mà như phải chịu tội. Thậm chí khi chỉ có hai người mà vẫn phải luôn luôn chú ý đến thân phận, lễ nghi......
Hắn nheo mắt nhìn ánh đèn cung đình lộng lẫy, ánh mắt xa xăm, nhẹ giọng nói:
- Trẫm thường suy nghĩ, không biết chốn dân gian vợ chồng ân ái, cầm sắt hài hòa thú vị đến thế nào? Còn nhớ ngày hè lần đó ta đi thăm ngươi, thấy ngươi nằm trên giường trúc bên bờ suối, Ấu nương tỷ tỷ ngồi đối diện với ngươi, vài cô gái khác quây quần bên cạnh ngươi. Khi đó ngươi nghe đàn uống rượu thong dong nhàn nhã, xung quanh là vợ hiền thiếp đẹp, thực là đã được tận hưởng hết niềm hạnh phúc! Trẫm chỉ muốn được bớt đi một chút gò bó mà thôi.
Ánh mắt Dương Lăng chợt lóe sáng, nhân cơ hội nói:
- Hoàng thượng! Chuyện đời chính là như vậy, đấng quân vương mong có thể tự do một chút như ở gia đình bình thường, có thêm một chút tình thân trong hoàng tộc. Còn người ở gia đình bình thường lại ngóng trông có thể hưởng chút vinh hoa như kẻ giàu sang, bớt đi phần nào nghèo khổ. Thực ra ở hoàn cảnh nào cũng có cái được, có cái mất mà thôi.
Y hít một hơi thật sâu, nói tiếp:
- Giống như hôm nay, Hoàng thượng ở trong cung, tuy vướng nhiều ràng buộc nhưng lại được ăn ngon mặc đẹp, có mỹ nhân bầu bạn. Còn Đại Đồng, Tuyên Phủ phải chịu ngọn lửa chiến tranh mấy ngày liền, dân chúng lưu lạc khắp nơi, tính mạng hết sức nguy ngập. Trong thời buổi loạn lạc thì tình cảnh dân chúng còn không bằng chó lợn!
Chính Đức bỗng nhiên ngồi thẳng dậy, mặt hơi lộ vẻ xấu hổ. Hắn định thần lại một chút, rồi vội hỏi:
- Dương khanh, chiến sự ở tiền phương thế nào? Hàng năm giặc Thát đều đến cướp bóc một phen, thực đã coi Đại Minh ta như kho thóc của bọn chúng rồi. Không phải năm ngoái quân Thát từng chịu thua thiệt lớn sao?
Dương Lăng nghiêm nét mặt đáp:
- Chính là vì năm trước quân Thát chịu thiệt thòi cho nên năm nay bọn chúng mới tập kết trọng binh trở lại tấn công Đại Đồng. Hơn nữa lần này Bá Nhan khả hãn và Hỏa Sư hợp tác, hai người đều là mãnh tướng cực kỳ kiêu dũng. Hiện giờ tổng binh Tuyên Phủ là Trương Tuấn hao binh tổn tướng, phải lui giữ Đại Đồng, Chỉ huy sứ Lưu Kinh và nhiều quan tướng chết trận. Hoa Mã Trì, Đức Long, Tĩnh Ninh, Hội Ninh đều đã bị công chiếm, Sóc Châu, Mã Ấp chỉ sợ cũng......
Chính Đức giận dữ đứng bật dậy, rảo bước đi loanh quanh trong phòng, hai nắm đấm siết chặt, oán hận nói:
- Lòng lang dạ sói, khinh người quá đáng! Trẫm nhất định phải dạy dỗ bọn chúng một phen!
Rồi hắn lại nhíu mày hỏi:
- Trẫm thường nghe nói đến danh tiếng của tiểu vương tử (*) và Hỏa Sư, có điều cũng nghe nói bọn họ trước nay không hòa thuận, sao lần này lại hợp tác? Bây giờ tình hình quan ngoại rốt cuộc thế nào rồi? Giữa bọn họ là quan hệ phụ thuộc hay sao?
(*) Biệt hiệu của Bá Nhan.
Dương Lăng đêm qua đã được Ngô Kiệt giảng giải kĩ càng tỉ mỉ nên hiểu rõ thế cuộc chính trị bây giờ của người Mông Cổ ở quan ngoại, lập tức đáp:
- Bây giờ người Mông Cổ chia làm Ngõa Thích Mông Cổ và Thát Đát Mông Cổ. Ngõa Thích ngày càng suy bại, bây giờ không đủ sức xâm nhập phía nam, nhiều lần tập kích biên giới đều là người Thát Đát. Đại Hãn của Thát Đát Mông Cổ là Bá Nhan, là con cháu trực hệ của Hốt Tất Liệt. Người này cai trị tổng cộng sáu vùng đất là Sát Cáp Nhĩ, Ngột Lương Cáp, Khách Nhĩ Khách, Ngạc Nhĩ Đa Tư, Mông Quách Lặc Tân và Vĩnh Tạ Bố, trướng của Đại hãn đặt tại Sát Cáp Nhĩ. Hỏa Sư là kỳ chủ của tộc Thổ Mặc Đặc Mông Quách Lặc Tân, là lực lượng quân sự mạnh thứ nhì sau Bá Nhan trong quân Thát Đát. Hắn cưới con gái của Đại hãn đời trước Mãn Đô Lỗ là công chúa Y Khắc Tích làm vợ, mà Vương phi Mãn Đô Hải Tư Cầm của Mãn Đô Lỗ lúc ba mươi ba tuổi thì tái giá với đứa cháu (*) Bá Nhan mới bảy tuổi. Y Khắc Tích chính là con ruột của Mãn Đô Hải Tư Cầm cho nên tuy Bá Nhan nhỏ tuổi hơn Hỏa Sư nhưng trên danh nghĩa lại là nhạc phụ của Hỏa Sư, thêm vào đó lực lượng của Bá Nhan so với Hỏa Sư thì mạnh hơn, bởi vậy Hỏa Sư đối với Bá Nhan ... có thể nói là bằng mặt mà không bằng lòng.
(*) cháu trong bà cháu.
Chính Đức nghe mà to cả đầu, hắn suy nghĩ một hồi lâu vẫn không hiểu nổi quan hệ giữa hai người đó là như thế nào nên thành ra vô cùng bực bội. Hắn trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
- Lần này binh lực của Thát Đát thế nào?
Sắc mặt Dương Lăng cũng tỏ ra nghiêm trọng, y nặng nề đáp:
- Bảy vạn thiết kỵ, tất cả đều là kỵ binh dũng mãnh thiện chiến, hơn nữa bọn chúng không chia binh như trước đây. Phòng thủ biên thuỳ chỉ có năm vạn quân cho nên đối phương công thành chiếm đất dễ dàng, thế như chẻ tre, mang đi vô số phụ nữ, trẻ nhỏ lẫn tất cả tiền tài vật chất......Thần đã từng ở nơi đó, biết dân chúng nơi đó... hàng năm đều phải trải qua một lần kiếp nạn giữa sự sống và cái chết, vừa bước vào mùa đông là đã bị cường đạo Thát Đát truy đuổi phải chạy tới núi hoang rừng thẳm, có thể là trượng phu bị giết chết, có thể là thê tử bị ô nhục, cũng có thể là con trẻ bị bắt đi làm nô dịch. Người may mắn sống sót trở về thì tiền tài của cải đã bị cướp đi sạch sẽ, còn phải vùng vẫy cầu sinh, năm sau lại vất vả trồng một ít lương thực vậy mà cũng không quên nộp thuế cống hiến cho triều đình......
Ngực Hoàng đế Chính Đức phập phồng mãnh liệt, tức giận đến đỏ bừng khuôn mặt. Mặc dù hắn thường oán trách mình bị nhiều ràng buộc, không được tự do như một người dân tầm thường nhưng cũng không hề quên trách nhiệm của bản thân. Lời của Dương Lăng đã khơi dậy lòng tự trọng mãnh liệt của hắn: Hắn là hoàng đế Đại Minh, dân chúng Đại Minh bị người ta khi dễ hỏi làm sao mà hắn không xấu hổ, không tức giận?
Bỗng nhiên Chính Đức căng họng thét lớn:
- Trẫm muốn ngự giá thân chinh! Trẫm muốn đích thân dẫn đầu thiên quân vạn mã, tiêu diệt giặc Thát, cứu dân chúng của trẫm!
Lời này không phải chỉ mình Dương Lăng nghe thấy mà ngay cả bọn Miêu Quỳ, Lưu Cẩn ở bên cửa cũng nghe được rõ ràng. Bọn chúng sợ tới mức nhanh như chớp xông vào, lật đật quỳ rạp xuống bái lạy, luôn miệng tâu xin:
- Hoàng thượng! Không thể được! Hoàng thượng! Không thể được! Biến cố Thổ Mộc Bảo (2) năm xưa vẫn chưa phai nhạt, quyết không thể giẫm vào vết xe đổ ấy được......
Chính Đức tức giận:
- Đánh rắm! Một năm bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng, có mỗi một chuyện như vậy mà cứ nói đi nói lại mãi là sao? Hoàng đế Hồng Vũ triều ta không mang binh đánh giặc hay sao? Hoàng đế Vĩnh Lạc triều ta không đích thân Bắc phạt hay sao?
Dương Lăng cũng hơi hốt hoảng. Y lấy lại bình tĩnh, bỗng nhiên nói:
- Nếu như vậy, thần nguyện từ chức Xưởng đốc Nội xưởng, làm một tên tiểu tốt trong quân vì Hoàng thượng chinh chiến sa trường, thề hết lòng giết giặc!
Chính Đức sửng sốt, lập tức cười to:
- Ngươi? Không được không được! Trẫm đã tập qua võ nghệ còn ngươi chỉ là một người đọc sách. Nếu cho ngươi điều binh khiển tướng, bày mưu tính kế thì trẫm tin ngươi làm được, còn ra trận giết địch quả thực không phải là sở trường của ngươi.
Dương Lăng khẽ mỉm cười đáp:
- Hoàng thượng nói chí phải, mỗi người có một vị trí và tác dụng riêng. Hoàng thượng là chủ thiên hạ, có Hoàng thượng trấn thủ kinh thành để thiên hạ trông vào, để vạn dân không loạn nên nếu Hoàng thượng tự mình nắm ấn soái ra trận chỉ huy thì chính là dùng tài lớn vào việc nhỏ vậy. Hoàng thượng muốn thân chinh dẫn binh nhưng bây giờ lại không phải lúc vì biên ải đang nguy cấp, cần phái một lão tướng tới trấn thủ mới đúng.
Miêu Quỳ cũng dập đầu tâu:
- Hoàng thượng! Dù chỉ là con cháu quý tộc thôi cũng đã cần hết sức cẩn thận rồi, huống chi ngài là thiên tử. Nô tài nguyện thay Hoàng thượng thân chinh ra trận giết địch, chém giặc lập công!
Chính Đức vừa nghe, tâm tình vốn kích động cũng hơi bình phục một chút. Hắn xoa xoa cằm, hỏi:
- Dương khanh có đề nghị gì không?
Dương Lăng trầm ngâm đáp:
- Hoàng thượng! Việc này cần triệu tập đại thần các bộ thương nghị. Thần là người của xưởng vệ, không tiện cùng bá quan luận bàn chính sự.
Y chần chừ một chút, rút cuộc cũng nhịn không được phải nói ra kiến giải của chính mình:
- Thần đã phái thám mã tìm hiểu kĩ càng tình hình của người Thát Đát. Quân Thát người người đều cưỡi ngựa tốt, đi lại như gió. Trước đây, khi quân ta đối địch với bọn chúng thường thường chỉ chạy sau kẻ địch, theo bọn chúng chạy ngược chạy xuôi. Cuối cùng tuy nói là đuổi giặc Thát đi nhưng thực chất là để bọn chúng cướp bóc thỏa thíc rồi mới thuận thế lui binh. Tốc độ hành quân không bằng Thát Đát chính là nhược điểm của quân ta, cho nên thần cho rằng triều đình xuất binh không thể noi theo sách lược chia binh trong quá khứ mà nên tập trung quân đội lại một chỗ, đánh chắc tiến chắc, từng bước đẩy lùi kẻ địch. Ngoài ra, tái ngoại là vùng giá lạnh, dân cư thưa thớt, muốn bổ sung thêm binh lực không phải là chuyện dễ chút nào.
Hơn nữa giặc Thát cũng không có ý định chiếm giữ lâu dài thành trì của chúng ta cho nên không cần so đo với bọn chúng việc được mất một vùng đất mà nên lấy việc tiêu hao lực lượng của quân địch làm chủ, giết người là chính, giết được nhiều sẽ khiến bọn chúng đau lòng, đến sang năm tự nhiên các bộ lạc sẽ phải suy nghĩ thật cẩn thận trước khi xuất binh. Thêm nữa, Hỏa Sư vẫn luôn luôn dã tâm bừng bừng, nhất định không cam lòng ở lâu dưới trướng người khác, cho nên lần này xuất binh thì chủ soái cần phải ra quân có trọng điểm, chủ lực hãy nhằm vào tiểu vương tử mà buông tha Hỏa Sư, cố nín nhịn mối oán hận nhất thời. Trong tình huống cán cân lực lượng của người Thát Đát có sự thay đổi thì Hỏa Sư nhất định sẽ nảy dị tâm. Nếu nội bộ Thát Đát bắt đầu phân tranh vậy Đại Minh ta chỉ việc tọa sơn quan hổ đấu, khi cần thiết còn có thể ra tay giúp phe yếu một chút khiến cho bọn chúng tiếp tục cắn nhau.
Chính Đức lẩm bẩm:
- Đánh chắc tiến chắc, giết người là chính, không thể chia binh, đánh Tiểu nhường Hỏa. Tốt, trẫm nhớ rồi!
Ánh mắt Dương Lăng đột nhiên lóe sáng, y lại nói:
- Thực ra...... Còn có một nhánh kì binh, nếu như ta sử dụng tốt sẽ trở thành cánh tay phải của Đại Minh. Nhưng chuyện này chỉ có Hoàng thượng mới quyết định được.
Chính Đức ánh mắt sáng ngời, vội hỏi tới:
- Kì binh gì vậy? Dương thị độc mau nói đi!
Dương Lăng nhấn từng chữ:
- Đóa Nhan Tam Vệ!
Chính Đức làm gì mà chẳng biết uy danh của Đóa Nhan Tam Vệ? Chỉ là những năm gần đây mặc dù trên danh nghĩa Đóa Nhan Tam Vệ vẫn là phiên thuộc của Đại Minh nhưng lại không qua lại nhiều, hơn nữa quan tướng Đại Minh vùng ấy thỉnh thoảng vẫn đến vùng biên giới cướp bóc một phen. Chỉ là cũng không gây ồn ào cho lắm nên Đại Minh luôn luôn mắt nhắm mắt mở bỏ qua. Chính Đức quả thực không nghĩ ra được Đóa Nhan Tam Vệ sẽ có ích gì.
Hắn tỏ vẻ nghi hoặc hỏi:
- Bây giờ Đóa Nhan Tam Vệ có vẻ ngoan ngoãn đối với Đại Minh nhưng thực ra sớm đã không nghe lệnh. Dương khanh muốn sử dụng bọn họ như thế nào?
Dương Lăng mỉm cười đáp:
- Đóa Nhan Tam Vệ gian nan sinh tồn giữa Đại Minh, Ngõa Thích, Thát Đát, về cơ bản bọn họ chính là cỏ đầu tường, trở cờ theo gió. Ngõa Thích Mông Cổ và Thát Đát Mông Cổ cũng thường thường cướp bóc bọn họ. Chỉ có Đại Minh ta luôn luôn dành cho họ đặc ân cho nên bọn họ thân cận hòa thuận với Đại Minh hơn. Chỉ là, khi trước Diệc Tư Mã của Ngõa Thích đánh cướp Đóa Nhan Tam Vệ, bọn họ từng cầu cứu Đại Minh lẫn Bá Nhan. Lúc ấy Bá Nhan xuất binh giúp họ còn Đại Minh lại chẳng có hành động gì. Sau đó Tổng binh Liêu Đông là Lí Cảo vì muốn mạo công xin thưởng nên vô cớ giết hại dân thường ở Hỗ thành thuộc Đóa Nhan Tam Vệ khiến cho Tam Vệ càng thêm xa lánh Đại Minh, bây giờ gần như là phiên thuộc của Bá Nhan.
Khi đó Đại Minh mang nặng tư tưởng thiên triều, chính quân đội cũng lan tràn xu hướng đó. Trong mắt bọn họ thì những dân man di ở quan ngoại thuần là một đám giặc cỏ mà hoàn toàn không hề chú ý đến tình hình chính trị của bọn họ. Dương Lăng tất nhiên biết tình hình quân sự trong nháy mắt có thể có vô số thay đổi nhưng nắm được tình hình chính trị của quốc gia khác từ trước đôi khi cũng có công hiệu bốn lạng bạt ngàn cân. Bởi vậy khi Ngô Kiệt thành lập thám mã ở quan ngoại thì y liền yêu cầu trọng điểm đặt ở phương diện chính trị kinh tế của người Thát Đát.
Những tin tình báo này ngay cả Chính Đức cũng không biết rõ, hắn không kìm được nghe đến nhập thần.
Dương Lăng tiếp tục nói:
- Thế lực của Hoa Đương (*) từ Liêu Đông trải đến tận Tuyên Phủ. Có bọn họ làm bình phong bên ngoài, các châu vùng Bình Loan sẽ rất ít bị Thát Đát quấy nhiễu. Nếu Hoàng thượng nắm giữ được bọn họ ở trong tay thì đó sẽ là một thanh đao sắc bén. Thêm nữa, nếu như khu vực Hà Sáo không ở trong tay chúng ta, đa số ngựa tốt Đại Minh cần nhờ Hỗ thành của Đóa Nhan Tam Vệ cung ứng cho nên nhất định phải tranh thủ được sự ủng hộ Đóa Nhan Tam Vệ, có chuyện gì xảy ra cũng không thể từ bỏ!
(*) Thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ
Chính Đức gật gật đầu, suy nghĩ một lúc lại lắc đầu, chần chờ nói:
- Bây giờ mới phục hồi quan hệ có phải là đã hơi muộn rồi không? Bọn họ lại chịu đồng ý công khai đối lập với Tiểu vương tử sao?
Dương Lăng giải thích:
- Không cần bọn họ xuất binh. Chính quyền triều Nguyên luôn thay đổi, luôn bất ổn. Chỉ cần chúng ta lấy quan to lộc hậu ra dụ, hứa gia tăng đáng kể tổng số lượng hàng hóa hai bên trao đổi tại Hỗ thành thì đương nhiên quý tộc Đóa Nhan sẽ động lòng. Đến lúc đó, chúng ta lại thi hành kế mọn với bọn họ, gây một ít tranh chấp giữa bọn họ và thế lực đang suy vi mà lại có cừu oán với bọn họ là Ngõa Thích Mông Cổ, để hai bên đánh nhau vài trận thì Hoa Đương nhất định sẽ không từ chối. Giữa hai bên và các bộ lạc mà Bá Nhan thống nhất đều có quan hệ thân thích, các bộ lạc kia tất sẽ phải dính dáng đến việc này. Lúc đó sân sau của Bá Nhan nổi lửa, hỏi hắn còn yên tâm dẫn quân đánh bên ngoài sao? Giữa hai phiên thuộc xảy ra chiến tranh thì kể như hắn tức không được mà giận cũng chẳng xong. Đến lúc đó chúng ta lại sử ra kế ly gián, Đóa Nhan cho dù không lập tức trở lại trong lòng Hoàng thượng thì cũng phải ngầm đánh tín hiệu một phen.
Chính Đức nghe xong liền cười ha hả, hắn nhếch miệng trừng mắt liếc nhìn Dương Lăng, ngẫm nghĩ một tí lại cười rộ lên, vừa cười vừa sẵng giọng:
- Ngươi thật biết ăn nói quá đấy! Nơi đó rặt một lũ vai u thịt bắp lông lá đầy người, còn nói trở về trong lòng trẫm nữa? Thật ghê tởm quá đi!
Dương Lăng cười hì hì đáp:
- Hoàng thượng, tái ngoại cũng có tiểu mỹ nhân đấy, người khí chất tuyệt vời có thể xứng với cái danh bông sen trên núi tuyết.
Chính Đức đời nào chịu tin, hắn cười rồi lắc đầu, nói:
- Được! Trẫm lập tức triệu tập sáu bộ, chọn lựa tướng soái.
Hắn liếc nhìn Dương Lăng, có ý để cho người mình tín nhiệm nhất dẫn quân ra trận nhưng lại không nỡ rời xa y, suy đi nghĩ lại đành phải thôi.
***
Bảy ngày sau, rốt cuộc đại quân triều đình cũng xuất phát. Chính Đức điều từ trong Đoàn doanh ra năm vạn tinh binh, để Miêu Quỳ của Tây xưởng làm Giám quân, Bảo quốc công Chu Huy làm Tổng binh, Đô ngự sử Sử Lâm làm Đề đốc.
Dương Lăng không biết vị Chu tổng binh này có bản lĩnh chỉ huy đánh trận như thế nào, nghe nói Lý đại học sĩ đề nghị để Dương Nhất Thanh vừa bị bãi chức đang nhàn rỗi nhận chức tổng binh, đáng tiếc lại bị đám Lưu Cẩn ngầm phá hoại.
Dương Lăng nhớ tới trong ngục còn giam giữ chủ sự Bộ binh Vương Thủ Nhân. Tuy rằng được mình chăm sóc nên hắn không hề cực khổ nhưng nằm dài chờ đợi ở chỗ kia cũng không hay, huống chi bản thân còn thiếu Vương Hoa một món nợ nhân tình. Nghe những lời mà Vương Thủ Nhân nhiều lần dâng lên cho Hoàng thượng thì có thể nhận ra hắn nhất định là một nhân tài về quân sự. Dương Lăng cũng đã nhắc tới hắn với Chính Đức, chỉ là chức quan của hắn quả thực quá nhỏ đồng thời cũng chưa từng tham gia chiến trận còn Lưu Cẩn lập tức nhớ tới vị tiểu quan này từng gọi thẳng hắn là kẻ quyền gian, cơn giận cũ vẫn chưa nguôi nên chuyện này tạm thời đành gác lại.
Có điều Chính Đức đã nhớ kỹ những lời dặn dò của Dương Lăng. Khi đăng đàn bái tướng, điểm binh, hắn lại hết lần này đến lần khác dặn dò bọn Miêu Quỳ không được chia binh tránh để địch lợi dụng cơ hội, phải tập trung quân lực nhằm tiêu diệt giặc Thát là chính, Chu Huy đều nhất nhất vâng dạ nghe theo.
Khi Chính Đức tập hợp các vị quan lớn của sáu bộ để cùng thương nghị kế sách dùng binh thì Thị Lang bộ Lại là Vương Ngao dâng lên tám phương sách chống địch: Định sách lược, trọng chủ tướng, nghiêm pháp lệnh, thương biên dân, quảng chiêu mộ, dùng ly gián, phân chia binh, đánh bất ngờ.
Bên trong đó có hư có thực. Định sách lược và nghiêm pháp lệnh giao cho bộ Lễ làm là được, còn nó đối với việc kháng địch ở tiền tuyến có hiệu quả hay không thì chẳng cần quan tâm làm gì, dù sao mỗi lần xuất binh đều phải có quá trình này.
Việc “trọng chủ tướng” đã được Dương Lăng bàn riêng với Chính Đức. Đối với việc này Chính Đức cũng không hồ đồ. Hắn hoàn toàn không tin những hoạn quan, thư sinh chưa từng đánh giặc lại so được với các đại tướng có kinh nghiệm cầm quân cho nên hắn nghiêm khắc khuyên bảo Miêu Quỳ, Sử Lâm không được can thiệp quá nhiều vào quân vụ.
Thương xót biên dân lại là việc sau khi chiến tranh kết thúc mà hiện giờ chiêu mộ binh lính cũng không kịp, còn chia binh lại trái với sách lược của Dương Lăng nên Chính Đức không chút nghĩ ngợi đã lập tức bác bỏ ngay.
Chính Đức đưa ra kế ly gián phân hoá Hỏa Sư và Tiểu vương tử, Lưu Đại Hạ tưởng đây là chủ ý của Chính Đức nên lập tức khen không dứt miệng. Chính Đức được đệ nhất võ tướng đương triều ca ngợi thì ngay lập tức lâng lâng như ở trên mây, hơn nữa hắn cũng không cảm thấy Dương Lăng là người ngoài nên liền mặt dày vui lòng nhận lấy phần công lao này.
Dương Lăng từ khi nhận được mật chỉ của Chính Đức thì nhiều ngày nay đang lên kế hoạch liên lạc Đóa Nhan Tam Vệ, ly gián nội bộ Mông Nguyên (3). Vài năm gần đây khúc mắc giữa thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh rất sâu, mặc dù hứa cho lợi nhiều nhưng nếu như không có một người đủ cho Đóa Nhan Tam Vệ tin phục thì có lẽ sẽ rất khó được bọn họ tin tưởng.
Nhưng việc tiếp cận lôi kéo Đóa Nhan Tam Vệ không chỉ có lợi cho một trận chiến này nên Dương Lăng rất cẩn thận. Đồng thời nếu như toàn bộ bốn mươi sáu biến pháp của Lưu Cẩn bị gác lại, chẳng những Lưu Cẩn mất thể diện mà thế lực ngoại đình cũng vượt trội, đối với chính sách bỏ lệnh cấm thông thương của mình cũng gây ra ảnh hưởng rất nhiều.
Cho nên Dương Lăng chuyển sang thỏa hiệp, khuyên Lưu Cẩn giao sách lược biến pháp cho Tiêu Phương sửa chữa, trau chuốt, sau đó đệ trình lên để ba vị Đại học sĩ cùng thảo luận. Trong chính sách của Lưu Cẩn cũng có rất nhiều chỗ lợi, ví dụ như việc gia tăng quyền giám sát của bộ Hộ, chẳng những có ích với triều đình mà cũng có thể tăng cường quyền lực của bộ Hộ. Dương Lăng không tin ngoại đình lại bác bỏ toàn bộ, chỉ cần cho thi hành hơn chục điều thì trận phong ba giữa nội đình và ngoại đình liền có thể lắng xuống, danh vọng của bản thân cũng sẽ dâng cao.
Cũng vì như thế nên nhiều ngày qua Dương Lăng bận rộn tối mày tối mặt. Y phải nghe ngóng tình hình, sắp xếp chuyện của bản thân, đồng thời y không hề tin tưởng vị Đại tướng quân được phái ra này có thể đối phó với thế công mãnh liệt của Bá Nhan khả hãn nên y dặn dò Ngô Kiệt phái ra hàng loạt thám mã đi lại như mắc cửi liên tục mang tình hình hành quân và chiến đấu của quân Minh ở tiền phương đưa về. Bất cứ lúc nào y cũng chú ý đến tình hình tiền tuyến, nếu không vì lo lắng đến Ấu Nương vừa mới có thai thì ngay cả nhà mình y cũng không về.
Buổi trưa, Dương Lăng từ trong cung đi ra. Đến lân cận tây môn, y thấy bên đường có một người bán hàng rong đang bán một số quả khô trên chiếc xe đẩy tay. Những quả táo gai trông như mã não đỏ kia nhìn vô cùng hấp dẫn khiến người ta chỉ muốn ăn ngay, y vội dung chân đá đá vào vách kiệu.
Kiệu phu nghe tiếng liền dừng kiệu. Dương Lăng vén rèm kiệu bước xuống, mỉm cười bước đến vệ đường. Dấu hiệu nôn ọe của Ấu Nương vẫn chưa rõ ràng mà bình thường việc ăn uống cũng có người chăm lo chu đáo còn Cao Văn Tâm gần đây cũng chăm chỉ thăm nom, thường xuyên pha chế chút thuốc bổ cho nàng dùng. Những việc này vốn không cần Dương Lăng lo tới, nhưng hôm nay y thấy những trái cây này chín mọng đỏ rực, quả thực rất đáng yêu liền muốn tự tay mua về cho Ấu Nương một ít.
Hôm nay Dương Lăng mặc thường phục, có điều lại ngồi trên kiệu mà trước sau đều có thị vệ nên hiển nhiên là người quyền thế. Người bán hàng rong vội cúi đầu khom lưng cười hỏi:
- Khách quan, ngài muốn mua gì?
Dương Lăng nhón một quả táo gai lên, trái cây đỏ tươi như máu, quả thật càng nhìn càng muốn ăn. Dương Lăng vui vẻ nói:
- Bán cho ta độ năm cân táo gai đi, ồ, hạch đào kia cũng lấy năm cân.
Người bán hàng rong mừng khấp khởi gói kỹ hai bọc trái cây, Liễu Bưu bước lên phía trước thanh toán tiền. Đang lúc Dương Lăng quay người muốn đi chợt nghe phía trước ầm ĩ huyên náo, có một số người qua đường chạy ùa vào một ngõ hẻm. Dương Lăng không nén nổi nghi hoặc nhìn sang, hỏi:
- Xảy ra chuyện gì vậy?
Liễu Bưu lắc lắc đầu, quay đầu ra hiệu thủ hạ ở lại với đại nhân rồi thưa:
- Để ty chức đi xem thử!
Người bán hàng rong lại tặc lưỡi thở dài, lắc đầu nói:
- Ôi! Những tên du côn này lại đến gây rối rồi, đúng là không có lương tâm.
Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Chủ quán! Ông biết đã xảy ra chuyện gì sao?
Người bán hàng rong thấy y là một vị đại gia qua đường, nói chuyện lại ôn hòa liền đáp:
- Lão gia, ngài có điều không biết đâu, năm nay giặc Thát ở biên ải lợi hại lắm. Nghe nói bọn họ đánh chiếm thành trì so với năm trước nhiều gấp đôi, rất đông dân chúng nơi nơi chạy nạn, hai ngày nay đã có người chạy nạn tới kinh thành rồi.
Dương Lăng trong lòng trầm xuống, thất thanh:
- Dân chạy nạn đã vào kinh rồi sao?
Người bán hàng rong đáp:
- Sao có thể chứ? Lão gia là đại nhân vật ắt phải biết kinh thành này là vùng đất trọng yếu, sao có thể để cho đám đông ăn mày xin cơm, dân chúng chạy nạn vào thành kêu gào? Một khi có người thừa dịp lộn xộn gây loạn thì nguy mất! Lý đại học sĩ đã sai người dựng lều ở ngoại thành và ra lệnh cho bộ Hộ cung cấp củi lửa lương thực để vỗ yên nạn dân, phát động dân chúng quyên góp một ít quần áo, chăn mền. Có một số lão gia có lòng tốt cũng ào ào ra ngoài thành lập trạm phát cháo làm việc thiện. Trong ngõ hẻm nhỏ kia có một vị nương tử tạm trú, nàng đi ngang qua nơi này nhìn thấy nạn dân liền nảy ý tốt, cũng ở ngoài thành lập trạm phát cháo cứu tế dân chúng. Vài tên lưu manh trong thành nhìn thấy nương tử người ta xinh đẹp lại là người ngoại xứ bèn vin cớ cháo nóng làm bỏng tay của bọn hắn để không ngừng tới cửa làm phiền. Đây đã là lần thứ ba rồi.
Dương Lăng cả giận, nhưng cố nén, bảo Liễu Bưu:
- Đi, đi xem sao!
Dương Lăng dẫn đầu đi vào ngõ thì cả bọn thấy trước cửa một cái tứ hợp viện nho nhỏ có rất đông dân chúng đang vây quanh xem náo nhiệt, vài tên du côn ở trước cửa đang liên tục mắng chửi. Trước cửa có một tiểu nha đầu xinh xắn, hai tay chống nạnh, hai má tức giận đến đỏ rực, hai mắt giống như là muốn phun ra lửa, mặt quay về phía những tên lưu manh đang nói năng thô tục, hiển nhiên đang gắng sức kềm chế cơn giận.
Dương Lăng đang muốn bước tới mang mấy tên lưu manh vô lương lên quan tra xét, bên trong chợt bước ra một cô gái xinh đẹp mặc áo đỏ khoác áo choàng cũng đỏ rực. Đôi mắt to quyến rũ của nàng nhìn quét qua những tên lưu manh, đoạn hướng về phía những người chung quanh chắp tay thi lễ nói:
- Các vị hương thân phụ lão! Tiểu nữ là khách đi ngang qua kinh thành, nhìn thấy có nạn dân chạy đến tận đây, nghĩ trong túi mình coi như rủng rỉnh nên có lòng muốn cứu tế một chút. Mấy vị đại gia này làm khó dễ như thế chính là lễ tiết của dân chúng kinh thành đối xử với người khác xứ hay sao?
Những tên này là lưu manh nổi tiếng vùng lân cận, mặc dù dân chúng bình thường không ưa bọn chúng nhưng không ai dám mở miệng lên tiếng ủng hộ nàng. Một tên côn đồ cười dâm đãng nói:
- Tiểu nương tử, ngươi bố thí cháo là ngươi làm việc thiện, nhưng cháo nóng kia vô ý làm phỏng tay huynh đệ của chúng ta cho nên ngươi phải biết điều một chút mới đúng chứ?
Cô gái áo đỏ khoảng chừng hai sáu hai bảy tuổi, eo nhỏ mềm mại, khuôn mặt thanh tú xinh đẹp, hai mắt thật to, mũi cao xinh xắn, tuy miệng không phải anh đào nhỏ nhắn nhưng đôi môi no tròn gợi cảm, thực là rung động lòng người.
Lúc này tuy đôi mày thanh tú kia cau lại nhưng làn da nàng trắng như tuyết, chiếc cổ nõn nà trông vẫn vô cùng quyến rũ xinh đẹp. Nàng liếc tên du côn vẻ khinh miệt, thản nhiên hỏi:
- Vị đại gia này! Tiểu nữ không phải đã đưa ngươi năm lượng bạc làm tiền thuốc thang rồi sao?
Tên du côn cười ti tiện đáp:
- Tiểu nương tử, chỉ năm lượng bạc mà đã muốn đuổi bọn đại gia ta sao? Ngươi cũng quá coi thường khẩu vị của dân chúng kinh thành dưới chân thiên tử này rồi.
Cô gái áo đỏ mày liễu dựng ngược, đột nhiên quắc mắt nhưng không biết vì sao nàng lại vẫn tiếp tục nhẫn nại, không hề phát tác. Nàng cố nén lửa giận, lạnh lùng cười một tiếng rồi đáp:
- Được! Vậy tiểu nữ tử sẽ bồi thường đại gia mười lượng bạc ròng, phụ nữ chúng ta đi ra ngoài cũng không dễ dàng, xin các vị đại gia khoan dung cho một phen.
Nói xong cô gái áo đỏ liền lật cổ tay một cái. Tên du côn kia vừa ngây người ra một chút, một thỏi bạc ròng đã xuất hiện trong bàn tay gã. Liễu Bưu kinh ngạc hô lên một tiếng, ghé sát vào tai Dương Lăng thì thầm:
- Đại nhân! Cô gái biết võ công, hơn nữa công phu còn rất lợi hại!
Dương Lăng ừ một tiếng. Đã biết nàng kia có một thân võ nghệ, ắt sẽ không bị người ức hiếp, y cũng không lo lắng nữa. Lại thấy tên du côn nhón nhón nén bạc trong lòng bàn tay, liếc mắt qua huynh đệ đang đứng quanh rồi cười hì hì bảo:
- Tiểu nương tử, nàng thực là ngoan ngoãn đấy, có điều... bọn đại gia ta đây cũng không thiếu bạc.
Cô gái áo đỏ hơi nghiêng đầu một chút, vẻ như suy nghĩ, mắt vẫn không rời kẻ kia. Giữa đôi môi hồng lộ ra hàm răng chỉnh tề trắng tinh, nàng hơi cụp mắt rồi lại nhẹ nhàng ngước lên, đôi mắt hơi có ý cười, nhẹ giọng hỏi:
- Vậy đại gia rốt cuộc có ý gì vậy?
Dáng vẻ quyến rũ của nàng khiến lòng người xao động, tên du côn nọ càng bị vẻ đẹp của nàng làm cho lửa dục khó nhịn nổi. Bọn chúng nghe ngóng được người phụ nữ này là người khác xứ, ngoài việc có tiền thì hình như thân phận cũng không tính là cao quý nhưng trước mặt nhiều người như vậy vẫn không dám nói thẳng ra mục đích của mình.
Những tên du côn này hoàn toàn không chú ý đến việc tuy thiếu phụ lộ vẻ tươi cười nhưng trong đôi mắt lại thoáng toát ra một chút sát khí, nhất thời cất tiếng reo hò vui đùa ầm ĩ, nửa thật nửa giả đáp:
- Tay của đại ca bọn ta bị ngươi làm phỏng, Tiểu nương tử hãy tới chỗ chúng ta giúp đỡ chăm sóc đại ca. Khi nào đại ca hành động được tự nhiên thì ngươi sẽ có thể rời đi.
Thiếu phụ áo đỏ đột nhiên quắc mắt, gương mặt xinh đẹp rắn đanh lại, lạnh lùng nói:
- Thì ra là thế! Chắc hẳn mấy vị đại gia thấy ta là một nữ tử không có chỗ dựa, lại là người ở phương xa nên tưởng dễ ức hiếp phải không?
Nàng ta phất tay áo, xoay người lại bảo:
- Thúy nhi, tiễn khách! Còn kẻ nào làm bừa sẽ báo quan truy xét!
Tiểu nha hoàn kia sớm đã chờ đến bực bội, vừa nghe phu nhân dặn dò bèn lập tức bước nhanh lên trước, hùng hổ quát:
- Mấy tên du côn vô lại không biết điều này, cút ngay cho bà cô! Chớ có ở chỗ này làm ô uế đôi mắt của ta.
Tên du côn không giận mà cười dâm, tay nhằm trước ngực nàng chộp tới,:
- Cô bé này, nàng còn thú vị hơn chủ nhân của nàng nữa... Ôi chao! Ôi! Ôi! Buông tay...
Thiếu nữ kia vung tay chụp một cái đã bắt được cổ tay gã liền thuận thế hất mạnh khiến gã lảo đảo ngã văng ra xa. Mấy tên du côn bên cạnh vừa thấy vậy liền ngay lập tức chen nhau xông lên. Lúc đó chưa có vôi, cũng không biết bọn chúng dùng cái gì mà vừa vung tay một cái thì một chùm khói vàng đã tràn ra. Thiếu nữ kia không ngờ mấy tên du côn nho nhỏ lại mang bên người vật như vậy nên ngay lập tức bị che mắt. Nàng liền thét một tiếng, chân giẫm mạnh, thân thể mềm mại tựa như quả bóng da nhảy bật về bậc thềm phía sau, phản ứng vô cùng nhanh nhẹn.
Thiếu phụ áo đỏ đã đi lên bậc thểm nhưng thấy tình cảnh này thì cổ tay trắng như ngọc liền đưa ra giúp thiếu nữ ổn định thân thể rồi phóng người nhảy lên. Nàng không ngờ lại tựa như chim yến nhẹ nhàng nhảy lên hơn một trượng, xoạt một tiếng đã hạ xuống trước mặt đám du côn. Sau một tiếng thét đầy sát ý, nàng giống như mãnh hổ hạ sơn đứng tại chỗ vung chân ra chiêu. Mấy tên du côn vừa mới đến gần đã bị nàng tung cước đá bắn ngược trở về.
Chú thích:
(1) Phép dùng binh có chia ra hai lối cơ bản nhất, đó là chính binh và kỳ binh. Chính binh tức là phép đánh quang minh chính đại, dựa vào thực lực quân đội là chủ yếu. Kỳ binh là phép đánh dựa vào mưu kế, lấy các hiểm chiêu làm chủ. Ở đây tên chương có nghĩa là ra quân đồng thời sử dụng cả chính binh lẫn kỳ binh.
(2) Năm 1449 quân Ngõa Thích xâm phạm Trung Nguyên, vua Minh Anh Tông nhà Minh ngự giá thân chinh, bị quân Ngõa Thích đánh bại và bắt sống tại Thổ Mộc Bảo. Người Trung Quốc coi đây là một mối sỉ nhục lớn.
(3) Trong lịch sử, nhà Nguyên vẫn tồn tại cho đến năm 1635 khi vua Hậu Kim Hoàng Thái Cực xâm lược Mông Cổ và ép khan lúc đó là khan Ejei phải trao ấn đế triều Nguyên cho người Nữ Chân thì triều đại Nguyên mới kết thúc.
- Dương khanh! Sáng sớm ngươi đã tiến cung, có chuyện gì quan trọng sao?
Dương Lăng ho khan một tiếng, liếc mắt nhìn Lưu Cẩn, Cẩn hiểu ý vội đỡ lời:
- Hoàng thượng! Đám người Lưu Kiện, Tạ Thiên cấu kết nội đình bức hiếp thiên tử vô pháp vô thiên, hôm qua nô tài xin người hạ thánh chỉ định tội mấy kẻ này sau đó công bố khắp thiên hạ nhằm khiến cho bá quan sợ hãi dè chừng mà tự xét lại mình. Tuy nhiên hôm nay lại nghe tin chiến sự biên cương khẩn cấp, lúc này không nên khiến triều đình rúng động bởi vậy kính xin Hoàng thượng lại hạ chỉ ban ân, miễn tội danh cho bọn họ.
Chính Đức không vui đáp:
- Hôm qua vừa hạ chỉ, cớ sao hôm nay đã muốn thu lại rồi? À.........- Hắn hồ nghi liếc mắt nhìn Dương Lăng, cười hỏi:
- Nhất định là Dương khanh không đành lòng nên ra mặt cầu xin tha thứ cho bọn họ, phải không?
Hắn suy nghĩ một hồi, nhận thấy Lưu Kiện, Tạ Thiên tuy đáng ghét nhưng dù sao cũng từng là Thái phó của mình, nay bọn họ đã không muốn truy cứu nữa, chuyện này bỏ qua cũng được. Hắn gật đầu đồng ý:
- Được! Trước tiên hạ chỉ khiển trách, sau lại ra ân chỉ miễn trách phạt cũng không có vấn đề gì. Việc này ngươi cứ đi làm đi!
Lưu Cẩn vội cất tiếng tạ ơn với vẻ mặt mừng rỡ. Chính Đức lại nói với Dương Lăng:
- Tín hiệu phong hỏa từ biên ải đã truyền đến kinh thành đêm trước nhưng vẫn chưa có tin tức gì thêm. Bây giờ đã có tin tình báo chính xác rồi sao?
Dương Lăng bước lên một bước đáp:
- Vâng! Thần đã có tin tức tường tận hơn đang định bẩm với Hoàng thượng.
Y đưa mắt nhìn hai cô gái. Chính Đức hiểu ý, quay sang hai cô mà từ tốn:
- Giải Ngữ! Tu Hoa! Hai nàng hãy theo Mã Vĩnh Thành rời đi, rồi để hắn thu xếp chỗ ở cho. Đợi đầu xuân trẫm sẽ dọn đến Báo viên ở, đến khi đó trẫm sẽ chuẩn bị cho các nàng hai căn phòng thực lớn.
Hai cô gái ngoan ngoãn vâng một tiếng. Tu Hoa cẩn thận liếc nhìn Dương Lăng rồi khoan thai bước theo Mã Vĩnh Thành.
Chính Đức vươn vai ngáp dài, bảo Dương Lăng:
- Dương thị độc, chúng ta vào phòng đã rồi có gì hãy nói!
Đám Lưu Cẩn không tiện theo vào nhưng cả bọn đều không quan tâm tới chuyện này lắm, duy có Miêu Quỳ rất mong lập quân công nên kìm lòng không được cứ đứng ngóng ngay cạnh cửa đỏ mắt mong chờ.
Chính Đức dẫn Dương Lăng về đến tẩm cung, để nguyên quần áo mà nằm xuống sập đoạn khoan khoái nói:
- Dương khanh! Tới hôm nay trẫm mới cảm nhận được niềm vui khi làm đàn ông.
Dương Lăng chưa biết tiếp lời thế nào, Chính Đức đã xoay người lại, đưa tay chống cằm mỉm cười nói:
- Trẫm có hoàng hậu, có phi tần, nếu trẫm bằng lòng còn có thể đưa vô số mỹ nữ như hoa vào cung nhưng điều trẫm muốn chỉ là cái cảm giác gia đình. Mặc dù hai cô gái dân gian này vẫn còn hơi gò bó khép nép với trẫm nhưng so với nội cung thì đã tốt hơn nhiều.
Dương Lăng không ngờ Chính Đức không vội hỏi tình hình quân sự ở tiền phương mà lại lải nhải việc nhà. Y thấy mặt Chính Đức đầy vẻ mơ mộng ngọt ngào nên không tiện cắt ngang lời hắn ngay lúc này liền nhẫn nại nói:
- Hoàng hậu nương nương và hai vị quý phi nương nương đều là những người tri thư đạt lễ, hiền lương thục đức......
Chính Đức bực bội khoát khoát tay trợn mắt lườm y:
- Chớ có giở trò này với trẫm nữa! Tính tình, nhan sắc của Hoàng hậu và hai vị quý phi đều rất tốt, nhưng trẫm lại không thể cảm thấy thân thiết với họ được.
Chính Đức thở than:
- Vợ chồng gặp mặt một chút thôi vậy mà đứng có nghi lễ đứng, ngồi có nghi lễ ngồi, cái bộ dạng trang trọng đó khiến người nhìn mà như phải chịu tội. Thậm chí khi chỉ có hai người mà vẫn phải luôn luôn chú ý đến thân phận, lễ nghi......
Hắn nheo mắt nhìn ánh đèn cung đình lộng lẫy, ánh mắt xa xăm, nhẹ giọng nói:
- Trẫm thường suy nghĩ, không biết chốn dân gian vợ chồng ân ái, cầm sắt hài hòa thú vị đến thế nào? Còn nhớ ngày hè lần đó ta đi thăm ngươi, thấy ngươi nằm trên giường trúc bên bờ suối, Ấu nương tỷ tỷ ngồi đối diện với ngươi, vài cô gái khác quây quần bên cạnh ngươi. Khi đó ngươi nghe đàn uống rượu thong dong nhàn nhã, xung quanh là vợ hiền thiếp đẹp, thực là đã được tận hưởng hết niềm hạnh phúc! Trẫm chỉ muốn được bớt đi một chút gò bó mà thôi.
Ánh mắt Dương Lăng chợt lóe sáng, nhân cơ hội nói:
- Hoàng thượng! Chuyện đời chính là như vậy, đấng quân vương mong có thể tự do một chút như ở gia đình bình thường, có thêm một chút tình thân trong hoàng tộc. Còn người ở gia đình bình thường lại ngóng trông có thể hưởng chút vinh hoa như kẻ giàu sang, bớt đi phần nào nghèo khổ. Thực ra ở hoàn cảnh nào cũng có cái được, có cái mất mà thôi.
Y hít một hơi thật sâu, nói tiếp:
- Giống như hôm nay, Hoàng thượng ở trong cung, tuy vướng nhiều ràng buộc nhưng lại được ăn ngon mặc đẹp, có mỹ nhân bầu bạn. Còn Đại Đồng, Tuyên Phủ phải chịu ngọn lửa chiến tranh mấy ngày liền, dân chúng lưu lạc khắp nơi, tính mạng hết sức nguy ngập. Trong thời buổi loạn lạc thì tình cảnh dân chúng còn không bằng chó lợn!
Chính Đức bỗng nhiên ngồi thẳng dậy, mặt hơi lộ vẻ xấu hổ. Hắn định thần lại một chút, rồi vội hỏi:
- Dương khanh, chiến sự ở tiền phương thế nào? Hàng năm giặc Thát đều đến cướp bóc một phen, thực đã coi Đại Minh ta như kho thóc của bọn chúng rồi. Không phải năm ngoái quân Thát từng chịu thua thiệt lớn sao?
Dương Lăng nghiêm nét mặt đáp:
- Chính là vì năm trước quân Thát chịu thiệt thòi cho nên năm nay bọn chúng mới tập kết trọng binh trở lại tấn công Đại Đồng. Hơn nữa lần này Bá Nhan khả hãn và Hỏa Sư hợp tác, hai người đều là mãnh tướng cực kỳ kiêu dũng. Hiện giờ tổng binh Tuyên Phủ là Trương Tuấn hao binh tổn tướng, phải lui giữ Đại Đồng, Chỉ huy sứ Lưu Kinh và nhiều quan tướng chết trận. Hoa Mã Trì, Đức Long, Tĩnh Ninh, Hội Ninh đều đã bị công chiếm, Sóc Châu, Mã Ấp chỉ sợ cũng......
Chính Đức giận dữ đứng bật dậy, rảo bước đi loanh quanh trong phòng, hai nắm đấm siết chặt, oán hận nói:
- Lòng lang dạ sói, khinh người quá đáng! Trẫm nhất định phải dạy dỗ bọn chúng một phen!
Rồi hắn lại nhíu mày hỏi:
- Trẫm thường nghe nói đến danh tiếng của tiểu vương tử (*) và Hỏa Sư, có điều cũng nghe nói bọn họ trước nay không hòa thuận, sao lần này lại hợp tác? Bây giờ tình hình quan ngoại rốt cuộc thế nào rồi? Giữa bọn họ là quan hệ phụ thuộc hay sao?
(*) Biệt hiệu của Bá Nhan.
Dương Lăng đêm qua đã được Ngô Kiệt giảng giải kĩ càng tỉ mỉ nên hiểu rõ thế cuộc chính trị bây giờ của người Mông Cổ ở quan ngoại, lập tức đáp:
- Bây giờ người Mông Cổ chia làm Ngõa Thích Mông Cổ và Thát Đát Mông Cổ. Ngõa Thích ngày càng suy bại, bây giờ không đủ sức xâm nhập phía nam, nhiều lần tập kích biên giới đều là người Thát Đát. Đại Hãn của Thát Đát Mông Cổ là Bá Nhan, là con cháu trực hệ của Hốt Tất Liệt. Người này cai trị tổng cộng sáu vùng đất là Sát Cáp Nhĩ, Ngột Lương Cáp, Khách Nhĩ Khách, Ngạc Nhĩ Đa Tư, Mông Quách Lặc Tân và Vĩnh Tạ Bố, trướng của Đại hãn đặt tại Sát Cáp Nhĩ. Hỏa Sư là kỳ chủ của tộc Thổ Mặc Đặc Mông Quách Lặc Tân, là lực lượng quân sự mạnh thứ nhì sau Bá Nhan trong quân Thát Đát. Hắn cưới con gái của Đại hãn đời trước Mãn Đô Lỗ là công chúa Y Khắc Tích làm vợ, mà Vương phi Mãn Đô Hải Tư Cầm của Mãn Đô Lỗ lúc ba mươi ba tuổi thì tái giá với đứa cháu (*) Bá Nhan mới bảy tuổi. Y Khắc Tích chính là con ruột của Mãn Đô Hải Tư Cầm cho nên tuy Bá Nhan nhỏ tuổi hơn Hỏa Sư nhưng trên danh nghĩa lại là nhạc phụ của Hỏa Sư, thêm vào đó lực lượng của Bá Nhan so với Hỏa Sư thì mạnh hơn, bởi vậy Hỏa Sư đối với Bá Nhan ... có thể nói là bằng mặt mà không bằng lòng.
(*) cháu trong bà cháu.
Chính Đức nghe mà to cả đầu, hắn suy nghĩ một hồi lâu vẫn không hiểu nổi quan hệ giữa hai người đó là như thế nào nên thành ra vô cùng bực bội. Hắn trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
- Lần này binh lực của Thát Đát thế nào?
Sắc mặt Dương Lăng cũng tỏ ra nghiêm trọng, y nặng nề đáp:
- Bảy vạn thiết kỵ, tất cả đều là kỵ binh dũng mãnh thiện chiến, hơn nữa bọn chúng không chia binh như trước đây. Phòng thủ biên thuỳ chỉ có năm vạn quân cho nên đối phương công thành chiếm đất dễ dàng, thế như chẻ tre, mang đi vô số phụ nữ, trẻ nhỏ lẫn tất cả tiền tài vật chất......Thần đã từng ở nơi đó, biết dân chúng nơi đó... hàng năm đều phải trải qua một lần kiếp nạn giữa sự sống và cái chết, vừa bước vào mùa đông là đã bị cường đạo Thát Đát truy đuổi phải chạy tới núi hoang rừng thẳm, có thể là trượng phu bị giết chết, có thể là thê tử bị ô nhục, cũng có thể là con trẻ bị bắt đi làm nô dịch. Người may mắn sống sót trở về thì tiền tài của cải đã bị cướp đi sạch sẽ, còn phải vùng vẫy cầu sinh, năm sau lại vất vả trồng một ít lương thực vậy mà cũng không quên nộp thuế cống hiến cho triều đình......
Ngực Hoàng đế Chính Đức phập phồng mãnh liệt, tức giận đến đỏ bừng khuôn mặt. Mặc dù hắn thường oán trách mình bị nhiều ràng buộc, không được tự do như một người dân tầm thường nhưng cũng không hề quên trách nhiệm của bản thân. Lời của Dương Lăng đã khơi dậy lòng tự trọng mãnh liệt của hắn: Hắn là hoàng đế Đại Minh, dân chúng Đại Minh bị người ta khi dễ hỏi làm sao mà hắn không xấu hổ, không tức giận?
Bỗng nhiên Chính Đức căng họng thét lớn:
- Trẫm muốn ngự giá thân chinh! Trẫm muốn đích thân dẫn đầu thiên quân vạn mã, tiêu diệt giặc Thát, cứu dân chúng của trẫm!
Lời này không phải chỉ mình Dương Lăng nghe thấy mà ngay cả bọn Miêu Quỳ, Lưu Cẩn ở bên cửa cũng nghe được rõ ràng. Bọn chúng sợ tới mức nhanh như chớp xông vào, lật đật quỳ rạp xuống bái lạy, luôn miệng tâu xin:
- Hoàng thượng! Không thể được! Hoàng thượng! Không thể được! Biến cố Thổ Mộc Bảo (2) năm xưa vẫn chưa phai nhạt, quyết không thể giẫm vào vết xe đổ ấy được......
Chính Đức tức giận:
- Đánh rắm! Một năm bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng, có mỗi một chuyện như vậy mà cứ nói đi nói lại mãi là sao? Hoàng đế Hồng Vũ triều ta không mang binh đánh giặc hay sao? Hoàng đế Vĩnh Lạc triều ta không đích thân Bắc phạt hay sao?
Dương Lăng cũng hơi hốt hoảng. Y lấy lại bình tĩnh, bỗng nhiên nói:
- Nếu như vậy, thần nguyện từ chức Xưởng đốc Nội xưởng, làm một tên tiểu tốt trong quân vì Hoàng thượng chinh chiến sa trường, thề hết lòng giết giặc!
Chính Đức sửng sốt, lập tức cười to:
- Ngươi? Không được không được! Trẫm đã tập qua võ nghệ còn ngươi chỉ là một người đọc sách. Nếu cho ngươi điều binh khiển tướng, bày mưu tính kế thì trẫm tin ngươi làm được, còn ra trận giết địch quả thực không phải là sở trường của ngươi.
Dương Lăng khẽ mỉm cười đáp:
- Hoàng thượng nói chí phải, mỗi người có một vị trí và tác dụng riêng. Hoàng thượng là chủ thiên hạ, có Hoàng thượng trấn thủ kinh thành để thiên hạ trông vào, để vạn dân không loạn nên nếu Hoàng thượng tự mình nắm ấn soái ra trận chỉ huy thì chính là dùng tài lớn vào việc nhỏ vậy. Hoàng thượng muốn thân chinh dẫn binh nhưng bây giờ lại không phải lúc vì biên ải đang nguy cấp, cần phái một lão tướng tới trấn thủ mới đúng.
Miêu Quỳ cũng dập đầu tâu:
- Hoàng thượng! Dù chỉ là con cháu quý tộc thôi cũng đã cần hết sức cẩn thận rồi, huống chi ngài là thiên tử. Nô tài nguyện thay Hoàng thượng thân chinh ra trận giết địch, chém giặc lập công!
Chính Đức vừa nghe, tâm tình vốn kích động cũng hơi bình phục một chút. Hắn xoa xoa cằm, hỏi:
- Dương khanh có đề nghị gì không?
Dương Lăng trầm ngâm đáp:
- Hoàng thượng! Việc này cần triệu tập đại thần các bộ thương nghị. Thần là người của xưởng vệ, không tiện cùng bá quan luận bàn chính sự.
Y chần chừ một chút, rút cuộc cũng nhịn không được phải nói ra kiến giải của chính mình:
- Thần đã phái thám mã tìm hiểu kĩ càng tình hình của người Thát Đát. Quân Thát người người đều cưỡi ngựa tốt, đi lại như gió. Trước đây, khi quân ta đối địch với bọn chúng thường thường chỉ chạy sau kẻ địch, theo bọn chúng chạy ngược chạy xuôi. Cuối cùng tuy nói là đuổi giặc Thát đi nhưng thực chất là để bọn chúng cướp bóc thỏa thíc rồi mới thuận thế lui binh. Tốc độ hành quân không bằng Thát Đát chính là nhược điểm của quân ta, cho nên thần cho rằng triều đình xuất binh không thể noi theo sách lược chia binh trong quá khứ mà nên tập trung quân đội lại một chỗ, đánh chắc tiến chắc, từng bước đẩy lùi kẻ địch. Ngoài ra, tái ngoại là vùng giá lạnh, dân cư thưa thớt, muốn bổ sung thêm binh lực không phải là chuyện dễ chút nào.
Hơn nữa giặc Thát cũng không có ý định chiếm giữ lâu dài thành trì của chúng ta cho nên không cần so đo với bọn chúng việc được mất một vùng đất mà nên lấy việc tiêu hao lực lượng của quân địch làm chủ, giết người là chính, giết được nhiều sẽ khiến bọn chúng đau lòng, đến sang năm tự nhiên các bộ lạc sẽ phải suy nghĩ thật cẩn thận trước khi xuất binh. Thêm nữa, Hỏa Sư vẫn luôn luôn dã tâm bừng bừng, nhất định không cam lòng ở lâu dưới trướng người khác, cho nên lần này xuất binh thì chủ soái cần phải ra quân có trọng điểm, chủ lực hãy nhằm vào tiểu vương tử mà buông tha Hỏa Sư, cố nín nhịn mối oán hận nhất thời. Trong tình huống cán cân lực lượng của người Thát Đát có sự thay đổi thì Hỏa Sư nhất định sẽ nảy dị tâm. Nếu nội bộ Thát Đát bắt đầu phân tranh vậy Đại Minh ta chỉ việc tọa sơn quan hổ đấu, khi cần thiết còn có thể ra tay giúp phe yếu một chút khiến cho bọn chúng tiếp tục cắn nhau.
Chính Đức lẩm bẩm:
- Đánh chắc tiến chắc, giết người là chính, không thể chia binh, đánh Tiểu nhường Hỏa. Tốt, trẫm nhớ rồi!
Ánh mắt Dương Lăng đột nhiên lóe sáng, y lại nói:
- Thực ra...... Còn có một nhánh kì binh, nếu như ta sử dụng tốt sẽ trở thành cánh tay phải của Đại Minh. Nhưng chuyện này chỉ có Hoàng thượng mới quyết định được.
Chính Đức ánh mắt sáng ngời, vội hỏi tới:
- Kì binh gì vậy? Dương thị độc mau nói đi!
Dương Lăng nhấn từng chữ:
- Đóa Nhan Tam Vệ!
Chính Đức làm gì mà chẳng biết uy danh của Đóa Nhan Tam Vệ? Chỉ là những năm gần đây mặc dù trên danh nghĩa Đóa Nhan Tam Vệ vẫn là phiên thuộc của Đại Minh nhưng lại không qua lại nhiều, hơn nữa quan tướng Đại Minh vùng ấy thỉnh thoảng vẫn đến vùng biên giới cướp bóc một phen. Chỉ là cũng không gây ồn ào cho lắm nên Đại Minh luôn luôn mắt nhắm mắt mở bỏ qua. Chính Đức quả thực không nghĩ ra được Đóa Nhan Tam Vệ sẽ có ích gì.
Hắn tỏ vẻ nghi hoặc hỏi:
- Bây giờ Đóa Nhan Tam Vệ có vẻ ngoan ngoãn đối với Đại Minh nhưng thực ra sớm đã không nghe lệnh. Dương khanh muốn sử dụng bọn họ như thế nào?
Dương Lăng mỉm cười đáp:
- Đóa Nhan Tam Vệ gian nan sinh tồn giữa Đại Minh, Ngõa Thích, Thát Đát, về cơ bản bọn họ chính là cỏ đầu tường, trở cờ theo gió. Ngõa Thích Mông Cổ và Thát Đát Mông Cổ cũng thường thường cướp bóc bọn họ. Chỉ có Đại Minh ta luôn luôn dành cho họ đặc ân cho nên bọn họ thân cận hòa thuận với Đại Minh hơn. Chỉ là, khi trước Diệc Tư Mã của Ngõa Thích đánh cướp Đóa Nhan Tam Vệ, bọn họ từng cầu cứu Đại Minh lẫn Bá Nhan. Lúc ấy Bá Nhan xuất binh giúp họ còn Đại Minh lại chẳng có hành động gì. Sau đó Tổng binh Liêu Đông là Lí Cảo vì muốn mạo công xin thưởng nên vô cớ giết hại dân thường ở Hỗ thành thuộc Đóa Nhan Tam Vệ khiến cho Tam Vệ càng thêm xa lánh Đại Minh, bây giờ gần như là phiên thuộc của Bá Nhan.
Khi đó Đại Minh mang nặng tư tưởng thiên triều, chính quân đội cũng lan tràn xu hướng đó. Trong mắt bọn họ thì những dân man di ở quan ngoại thuần là một đám giặc cỏ mà hoàn toàn không hề chú ý đến tình hình chính trị của bọn họ. Dương Lăng tất nhiên biết tình hình quân sự trong nháy mắt có thể có vô số thay đổi nhưng nắm được tình hình chính trị của quốc gia khác từ trước đôi khi cũng có công hiệu bốn lạng bạt ngàn cân. Bởi vậy khi Ngô Kiệt thành lập thám mã ở quan ngoại thì y liền yêu cầu trọng điểm đặt ở phương diện chính trị kinh tế của người Thát Đát.
Những tin tình báo này ngay cả Chính Đức cũng không biết rõ, hắn không kìm được nghe đến nhập thần.
Dương Lăng tiếp tục nói:
- Thế lực của Hoa Đương (*) từ Liêu Đông trải đến tận Tuyên Phủ. Có bọn họ làm bình phong bên ngoài, các châu vùng Bình Loan sẽ rất ít bị Thát Đát quấy nhiễu. Nếu Hoàng thượng nắm giữ được bọn họ ở trong tay thì đó sẽ là một thanh đao sắc bén. Thêm nữa, nếu như khu vực Hà Sáo không ở trong tay chúng ta, đa số ngựa tốt Đại Minh cần nhờ Hỗ thành của Đóa Nhan Tam Vệ cung ứng cho nên nhất định phải tranh thủ được sự ủng hộ Đóa Nhan Tam Vệ, có chuyện gì xảy ra cũng không thể từ bỏ!
(*) Thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ
Chính Đức gật gật đầu, suy nghĩ một lúc lại lắc đầu, chần chờ nói:
- Bây giờ mới phục hồi quan hệ có phải là đã hơi muộn rồi không? Bọn họ lại chịu đồng ý công khai đối lập với Tiểu vương tử sao?
Dương Lăng giải thích:
- Không cần bọn họ xuất binh. Chính quyền triều Nguyên luôn thay đổi, luôn bất ổn. Chỉ cần chúng ta lấy quan to lộc hậu ra dụ, hứa gia tăng đáng kể tổng số lượng hàng hóa hai bên trao đổi tại Hỗ thành thì đương nhiên quý tộc Đóa Nhan sẽ động lòng. Đến lúc đó, chúng ta lại thi hành kế mọn với bọn họ, gây một ít tranh chấp giữa bọn họ và thế lực đang suy vi mà lại có cừu oán với bọn họ là Ngõa Thích Mông Cổ, để hai bên đánh nhau vài trận thì Hoa Đương nhất định sẽ không từ chối. Giữa hai bên và các bộ lạc mà Bá Nhan thống nhất đều có quan hệ thân thích, các bộ lạc kia tất sẽ phải dính dáng đến việc này. Lúc đó sân sau của Bá Nhan nổi lửa, hỏi hắn còn yên tâm dẫn quân đánh bên ngoài sao? Giữa hai phiên thuộc xảy ra chiến tranh thì kể như hắn tức không được mà giận cũng chẳng xong. Đến lúc đó chúng ta lại sử ra kế ly gián, Đóa Nhan cho dù không lập tức trở lại trong lòng Hoàng thượng thì cũng phải ngầm đánh tín hiệu một phen.
Chính Đức nghe xong liền cười ha hả, hắn nhếch miệng trừng mắt liếc nhìn Dương Lăng, ngẫm nghĩ một tí lại cười rộ lên, vừa cười vừa sẵng giọng:
- Ngươi thật biết ăn nói quá đấy! Nơi đó rặt một lũ vai u thịt bắp lông lá đầy người, còn nói trở về trong lòng trẫm nữa? Thật ghê tởm quá đi!
Dương Lăng cười hì hì đáp:
- Hoàng thượng, tái ngoại cũng có tiểu mỹ nhân đấy, người khí chất tuyệt vời có thể xứng với cái danh bông sen trên núi tuyết.
Chính Đức đời nào chịu tin, hắn cười rồi lắc đầu, nói:
- Được! Trẫm lập tức triệu tập sáu bộ, chọn lựa tướng soái.
Hắn liếc nhìn Dương Lăng, có ý để cho người mình tín nhiệm nhất dẫn quân ra trận nhưng lại không nỡ rời xa y, suy đi nghĩ lại đành phải thôi.
***
Bảy ngày sau, rốt cuộc đại quân triều đình cũng xuất phát. Chính Đức điều từ trong Đoàn doanh ra năm vạn tinh binh, để Miêu Quỳ của Tây xưởng làm Giám quân, Bảo quốc công Chu Huy làm Tổng binh, Đô ngự sử Sử Lâm làm Đề đốc.
Dương Lăng không biết vị Chu tổng binh này có bản lĩnh chỉ huy đánh trận như thế nào, nghe nói Lý đại học sĩ đề nghị để Dương Nhất Thanh vừa bị bãi chức đang nhàn rỗi nhận chức tổng binh, đáng tiếc lại bị đám Lưu Cẩn ngầm phá hoại.
Dương Lăng nhớ tới trong ngục còn giam giữ chủ sự Bộ binh Vương Thủ Nhân. Tuy rằng được mình chăm sóc nên hắn không hề cực khổ nhưng nằm dài chờ đợi ở chỗ kia cũng không hay, huống chi bản thân còn thiếu Vương Hoa một món nợ nhân tình. Nghe những lời mà Vương Thủ Nhân nhiều lần dâng lên cho Hoàng thượng thì có thể nhận ra hắn nhất định là một nhân tài về quân sự. Dương Lăng cũng đã nhắc tới hắn với Chính Đức, chỉ là chức quan của hắn quả thực quá nhỏ đồng thời cũng chưa từng tham gia chiến trận còn Lưu Cẩn lập tức nhớ tới vị tiểu quan này từng gọi thẳng hắn là kẻ quyền gian, cơn giận cũ vẫn chưa nguôi nên chuyện này tạm thời đành gác lại.
Có điều Chính Đức đã nhớ kỹ những lời dặn dò của Dương Lăng. Khi đăng đàn bái tướng, điểm binh, hắn lại hết lần này đến lần khác dặn dò bọn Miêu Quỳ không được chia binh tránh để địch lợi dụng cơ hội, phải tập trung quân lực nhằm tiêu diệt giặc Thát là chính, Chu Huy đều nhất nhất vâng dạ nghe theo.
Khi Chính Đức tập hợp các vị quan lớn của sáu bộ để cùng thương nghị kế sách dùng binh thì Thị Lang bộ Lại là Vương Ngao dâng lên tám phương sách chống địch: Định sách lược, trọng chủ tướng, nghiêm pháp lệnh, thương biên dân, quảng chiêu mộ, dùng ly gián, phân chia binh, đánh bất ngờ.
Bên trong đó có hư có thực. Định sách lược và nghiêm pháp lệnh giao cho bộ Lễ làm là được, còn nó đối với việc kháng địch ở tiền tuyến có hiệu quả hay không thì chẳng cần quan tâm làm gì, dù sao mỗi lần xuất binh đều phải có quá trình này.
Việc “trọng chủ tướng” đã được Dương Lăng bàn riêng với Chính Đức. Đối với việc này Chính Đức cũng không hồ đồ. Hắn hoàn toàn không tin những hoạn quan, thư sinh chưa từng đánh giặc lại so được với các đại tướng có kinh nghiệm cầm quân cho nên hắn nghiêm khắc khuyên bảo Miêu Quỳ, Sử Lâm không được can thiệp quá nhiều vào quân vụ.
Thương xót biên dân lại là việc sau khi chiến tranh kết thúc mà hiện giờ chiêu mộ binh lính cũng không kịp, còn chia binh lại trái với sách lược của Dương Lăng nên Chính Đức không chút nghĩ ngợi đã lập tức bác bỏ ngay.
Chính Đức đưa ra kế ly gián phân hoá Hỏa Sư và Tiểu vương tử, Lưu Đại Hạ tưởng đây là chủ ý của Chính Đức nên lập tức khen không dứt miệng. Chính Đức được đệ nhất võ tướng đương triều ca ngợi thì ngay lập tức lâng lâng như ở trên mây, hơn nữa hắn cũng không cảm thấy Dương Lăng là người ngoài nên liền mặt dày vui lòng nhận lấy phần công lao này.
Dương Lăng từ khi nhận được mật chỉ của Chính Đức thì nhiều ngày nay đang lên kế hoạch liên lạc Đóa Nhan Tam Vệ, ly gián nội bộ Mông Nguyên (3). Vài năm gần đây khúc mắc giữa thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh rất sâu, mặc dù hứa cho lợi nhiều nhưng nếu như không có một người đủ cho Đóa Nhan Tam Vệ tin phục thì có lẽ sẽ rất khó được bọn họ tin tưởng.
Nhưng việc tiếp cận lôi kéo Đóa Nhan Tam Vệ không chỉ có lợi cho một trận chiến này nên Dương Lăng rất cẩn thận. Đồng thời nếu như toàn bộ bốn mươi sáu biến pháp của Lưu Cẩn bị gác lại, chẳng những Lưu Cẩn mất thể diện mà thế lực ngoại đình cũng vượt trội, đối với chính sách bỏ lệnh cấm thông thương của mình cũng gây ra ảnh hưởng rất nhiều.
Cho nên Dương Lăng chuyển sang thỏa hiệp, khuyên Lưu Cẩn giao sách lược biến pháp cho Tiêu Phương sửa chữa, trau chuốt, sau đó đệ trình lên để ba vị Đại học sĩ cùng thảo luận. Trong chính sách của Lưu Cẩn cũng có rất nhiều chỗ lợi, ví dụ như việc gia tăng quyền giám sát của bộ Hộ, chẳng những có ích với triều đình mà cũng có thể tăng cường quyền lực của bộ Hộ. Dương Lăng không tin ngoại đình lại bác bỏ toàn bộ, chỉ cần cho thi hành hơn chục điều thì trận phong ba giữa nội đình và ngoại đình liền có thể lắng xuống, danh vọng của bản thân cũng sẽ dâng cao.
Cũng vì như thế nên nhiều ngày qua Dương Lăng bận rộn tối mày tối mặt. Y phải nghe ngóng tình hình, sắp xếp chuyện của bản thân, đồng thời y không hề tin tưởng vị Đại tướng quân được phái ra này có thể đối phó với thế công mãnh liệt của Bá Nhan khả hãn nên y dặn dò Ngô Kiệt phái ra hàng loạt thám mã đi lại như mắc cửi liên tục mang tình hình hành quân và chiến đấu của quân Minh ở tiền phương đưa về. Bất cứ lúc nào y cũng chú ý đến tình hình tiền tuyến, nếu không vì lo lắng đến Ấu Nương vừa mới có thai thì ngay cả nhà mình y cũng không về.
Buổi trưa, Dương Lăng từ trong cung đi ra. Đến lân cận tây môn, y thấy bên đường có một người bán hàng rong đang bán một số quả khô trên chiếc xe đẩy tay. Những quả táo gai trông như mã não đỏ kia nhìn vô cùng hấp dẫn khiến người ta chỉ muốn ăn ngay, y vội dung chân đá đá vào vách kiệu.
Kiệu phu nghe tiếng liền dừng kiệu. Dương Lăng vén rèm kiệu bước xuống, mỉm cười bước đến vệ đường. Dấu hiệu nôn ọe của Ấu Nương vẫn chưa rõ ràng mà bình thường việc ăn uống cũng có người chăm lo chu đáo còn Cao Văn Tâm gần đây cũng chăm chỉ thăm nom, thường xuyên pha chế chút thuốc bổ cho nàng dùng. Những việc này vốn không cần Dương Lăng lo tới, nhưng hôm nay y thấy những trái cây này chín mọng đỏ rực, quả thực rất đáng yêu liền muốn tự tay mua về cho Ấu Nương một ít.
Hôm nay Dương Lăng mặc thường phục, có điều lại ngồi trên kiệu mà trước sau đều có thị vệ nên hiển nhiên là người quyền thế. Người bán hàng rong vội cúi đầu khom lưng cười hỏi:
- Khách quan, ngài muốn mua gì?
Dương Lăng nhón một quả táo gai lên, trái cây đỏ tươi như máu, quả thật càng nhìn càng muốn ăn. Dương Lăng vui vẻ nói:
- Bán cho ta độ năm cân táo gai đi, ồ, hạch đào kia cũng lấy năm cân.
Người bán hàng rong mừng khấp khởi gói kỹ hai bọc trái cây, Liễu Bưu bước lên phía trước thanh toán tiền. Đang lúc Dương Lăng quay người muốn đi chợt nghe phía trước ầm ĩ huyên náo, có một số người qua đường chạy ùa vào một ngõ hẻm. Dương Lăng không nén nổi nghi hoặc nhìn sang, hỏi:
- Xảy ra chuyện gì vậy?
Liễu Bưu lắc lắc đầu, quay đầu ra hiệu thủ hạ ở lại với đại nhân rồi thưa:
- Để ty chức đi xem thử!
Người bán hàng rong lại tặc lưỡi thở dài, lắc đầu nói:
- Ôi! Những tên du côn này lại đến gây rối rồi, đúng là không có lương tâm.
Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Chủ quán! Ông biết đã xảy ra chuyện gì sao?
Người bán hàng rong thấy y là một vị đại gia qua đường, nói chuyện lại ôn hòa liền đáp:
- Lão gia, ngài có điều không biết đâu, năm nay giặc Thát ở biên ải lợi hại lắm. Nghe nói bọn họ đánh chiếm thành trì so với năm trước nhiều gấp đôi, rất đông dân chúng nơi nơi chạy nạn, hai ngày nay đã có người chạy nạn tới kinh thành rồi.
Dương Lăng trong lòng trầm xuống, thất thanh:
- Dân chạy nạn đã vào kinh rồi sao?
Người bán hàng rong đáp:
- Sao có thể chứ? Lão gia là đại nhân vật ắt phải biết kinh thành này là vùng đất trọng yếu, sao có thể để cho đám đông ăn mày xin cơm, dân chúng chạy nạn vào thành kêu gào? Một khi có người thừa dịp lộn xộn gây loạn thì nguy mất! Lý đại học sĩ đã sai người dựng lều ở ngoại thành và ra lệnh cho bộ Hộ cung cấp củi lửa lương thực để vỗ yên nạn dân, phát động dân chúng quyên góp một ít quần áo, chăn mền. Có một số lão gia có lòng tốt cũng ào ào ra ngoài thành lập trạm phát cháo làm việc thiện. Trong ngõ hẻm nhỏ kia có một vị nương tử tạm trú, nàng đi ngang qua nơi này nhìn thấy nạn dân liền nảy ý tốt, cũng ở ngoài thành lập trạm phát cháo cứu tế dân chúng. Vài tên lưu manh trong thành nhìn thấy nương tử người ta xinh đẹp lại là người ngoại xứ bèn vin cớ cháo nóng làm bỏng tay của bọn hắn để không ngừng tới cửa làm phiền. Đây đã là lần thứ ba rồi.
Dương Lăng cả giận, nhưng cố nén, bảo Liễu Bưu:
- Đi, đi xem sao!
Dương Lăng dẫn đầu đi vào ngõ thì cả bọn thấy trước cửa một cái tứ hợp viện nho nhỏ có rất đông dân chúng đang vây quanh xem náo nhiệt, vài tên du côn ở trước cửa đang liên tục mắng chửi. Trước cửa có một tiểu nha đầu xinh xắn, hai tay chống nạnh, hai má tức giận đến đỏ rực, hai mắt giống như là muốn phun ra lửa, mặt quay về phía những tên lưu manh đang nói năng thô tục, hiển nhiên đang gắng sức kềm chế cơn giận.
Dương Lăng đang muốn bước tới mang mấy tên lưu manh vô lương lên quan tra xét, bên trong chợt bước ra một cô gái xinh đẹp mặc áo đỏ khoác áo choàng cũng đỏ rực. Đôi mắt to quyến rũ của nàng nhìn quét qua những tên lưu manh, đoạn hướng về phía những người chung quanh chắp tay thi lễ nói:
- Các vị hương thân phụ lão! Tiểu nữ là khách đi ngang qua kinh thành, nhìn thấy có nạn dân chạy đến tận đây, nghĩ trong túi mình coi như rủng rỉnh nên có lòng muốn cứu tế một chút. Mấy vị đại gia này làm khó dễ như thế chính là lễ tiết của dân chúng kinh thành đối xử với người khác xứ hay sao?
Những tên này là lưu manh nổi tiếng vùng lân cận, mặc dù dân chúng bình thường không ưa bọn chúng nhưng không ai dám mở miệng lên tiếng ủng hộ nàng. Một tên côn đồ cười dâm đãng nói:
- Tiểu nương tử, ngươi bố thí cháo là ngươi làm việc thiện, nhưng cháo nóng kia vô ý làm phỏng tay huynh đệ của chúng ta cho nên ngươi phải biết điều một chút mới đúng chứ?
Cô gái áo đỏ khoảng chừng hai sáu hai bảy tuổi, eo nhỏ mềm mại, khuôn mặt thanh tú xinh đẹp, hai mắt thật to, mũi cao xinh xắn, tuy miệng không phải anh đào nhỏ nhắn nhưng đôi môi no tròn gợi cảm, thực là rung động lòng người.
Lúc này tuy đôi mày thanh tú kia cau lại nhưng làn da nàng trắng như tuyết, chiếc cổ nõn nà trông vẫn vô cùng quyến rũ xinh đẹp. Nàng liếc tên du côn vẻ khinh miệt, thản nhiên hỏi:
- Vị đại gia này! Tiểu nữ không phải đã đưa ngươi năm lượng bạc làm tiền thuốc thang rồi sao?
Tên du côn cười ti tiện đáp:
- Tiểu nương tử, chỉ năm lượng bạc mà đã muốn đuổi bọn đại gia ta sao? Ngươi cũng quá coi thường khẩu vị của dân chúng kinh thành dưới chân thiên tử này rồi.
Cô gái áo đỏ mày liễu dựng ngược, đột nhiên quắc mắt nhưng không biết vì sao nàng lại vẫn tiếp tục nhẫn nại, không hề phát tác. Nàng cố nén lửa giận, lạnh lùng cười một tiếng rồi đáp:
- Được! Vậy tiểu nữ tử sẽ bồi thường đại gia mười lượng bạc ròng, phụ nữ chúng ta đi ra ngoài cũng không dễ dàng, xin các vị đại gia khoan dung cho một phen.
Nói xong cô gái áo đỏ liền lật cổ tay một cái. Tên du côn kia vừa ngây người ra một chút, một thỏi bạc ròng đã xuất hiện trong bàn tay gã. Liễu Bưu kinh ngạc hô lên một tiếng, ghé sát vào tai Dương Lăng thì thầm:
- Đại nhân! Cô gái biết võ công, hơn nữa công phu còn rất lợi hại!
Dương Lăng ừ một tiếng. Đã biết nàng kia có một thân võ nghệ, ắt sẽ không bị người ức hiếp, y cũng không lo lắng nữa. Lại thấy tên du côn nhón nhón nén bạc trong lòng bàn tay, liếc mắt qua huynh đệ đang đứng quanh rồi cười hì hì bảo:
- Tiểu nương tử, nàng thực là ngoan ngoãn đấy, có điều... bọn đại gia ta đây cũng không thiếu bạc.
Cô gái áo đỏ hơi nghiêng đầu một chút, vẻ như suy nghĩ, mắt vẫn không rời kẻ kia. Giữa đôi môi hồng lộ ra hàm răng chỉnh tề trắng tinh, nàng hơi cụp mắt rồi lại nhẹ nhàng ngước lên, đôi mắt hơi có ý cười, nhẹ giọng hỏi:
- Vậy đại gia rốt cuộc có ý gì vậy?
Dáng vẻ quyến rũ của nàng khiến lòng người xao động, tên du côn nọ càng bị vẻ đẹp của nàng làm cho lửa dục khó nhịn nổi. Bọn chúng nghe ngóng được người phụ nữ này là người khác xứ, ngoài việc có tiền thì hình như thân phận cũng không tính là cao quý nhưng trước mặt nhiều người như vậy vẫn không dám nói thẳng ra mục đích của mình.
Những tên du côn này hoàn toàn không chú ý đến việc tuy thiếu phụ lộ vẻ tươi cười nhưng trong đôi mắt lại thoáng toát ra một chút sát khí, nhất thời cất tiếng reo hò vui đùa ầm ĩ, nửa thật nửa giả đáp:
- Tay của đại ca bọn ta bị ngươi làm phỏng, Tiểu nương tử hãy tới chỗ chúng ta giúp đỡ chăm sóc đại ca. Khi nào đại ca hành động được tự nhiên thì ngươi sẽ có thể rời đi.
Thiếu phụ áo đỏ đột nhiên quắc mắt, gương mặt xinh đẹp rắn đanh lại, lạnh lùng nói:
- Thì ra là thế! Chắc hẳn mấy vị đại gia thấy ta là một nữ tử không có chỗ dựa, lại là người ở phương xa nên tưởng dễ ức hiếp phải không?
Nàng ta phất tay áo, xoay người lại bảo:
- Thúy nhi, tiễn khách! Còn kẻ nào làm bừa sẽ báo quan truy xét!
Tiểu nha hoàn kia sớm đã chờ đến bực bội, vừa nghe phu nhân dặn dò bèn lập tức bước nhanh lên trước, hùng hổ quát:
- Mấy tên du côn vô lại không biết điều này, cút ngay cho bà cô! Chớ có ở chỗ này làm ô uế đôi mắt của ta.
Tên du côn không giận mà cười dâm, tay nhằm trước ngực nàng chộp tới,:
- Cô bé này, nàng còn thú vị hơn chủ nhân của nàng nữa... Ôi chao! Ôi! Ôi! Buông tay...
Thiếu nữ kia vung tay chụp một cái đã bắt được cổ tay gã liền thuận thế hất mạnh khiến gã lảo đảo ngã văng ra xa. Mấy tên du côn bên cạnh vừa thấy vậy liền ngay lập tức chen nhau xông lên. Lúc đó chưa có vôi, cũng không biết bọn chúng dùng cái gì mà vừa vung tay một cái thì một chùm khói vàng đã tràn ra. Thiếu nữ kia không ngờ mấy tên du côn nho nhỏ lại mang bên người vật như vậy nên ngay lập tức bị che mắt. Nàng liền thét một tiếng, chân giẫm mạnh, thân thể mềm mại tựa như quả bóng da nhảy bật về bậc thềm phía sau, phản ứng vô cùng nhanh nhẹn.
Thiếu phụ áo đỏ đã đi lên bậc thểm nhưng thấy tình cảnh này thì cổ tay trắng như ngọc liền đưa ra giúp thiếu nữ ổn định thân thể rồi phóng người nhảy lên. Nàng không ngờ lại tựa như chim yến nhẹ nhàng nhảy lên hơn một trượng, xoạt một tiếng đã hạ xuống trước mặt đám du côn. Sau một tiếng thét đầy sát ý, nàng giống như mãnh hổ hạ sơn đứng tại chỗ vung chân ra chiêu. Mấy tên du côn vừa mới đến gần đã bị nàng tung cước đá bắn ngược trở về.
Chú thích:
(1) Phép dùng binh có chia ra hai lối cơ bản nhất, đó là chính binh và kỳ binh. Chính binh tức là phép đánh quang minh chính đại, dựa vào thực lực quân đội là chủ yếu. Kỳ binh là phép đánh dựa vào mưu kế, lấy các hiểm chiêu làm chủ. Ở đây tên chương có nghĩa là ra quân đồng thời sử dụng cả chính binh lẫn kỳ binh.
(2) Năm 1449 quân Ngõa Thích xâm phạm Trung Nguyên, vua Minh Anh Tông nhà Minh ngự giá thân chinh, bị quân Ngõa Thích đánh bại và bắt sống tại Thổ Mộc Bảo. Người Trung Quốc coi đây là một mối sỉ nhục lớn.
(3) Trong lịch sử, nhà Nguyên vẫn tồn tại cho đến năm 1635 khi vua Hậu Kim Hoàng Thái Cực xâm lược Mông Cổ và ép khan lúc đó là khan Ejei phải trao ấn đế triều Nguyên cho người Nữ Chân thì triều đại Nguyên mới kết thúc.
Bình luận facebook