Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 166
Dương Lăng vừa về tới nhà, Hàn Ấu Nương đã ra đón y, hỏi ngay:
- Tướng công, nghe nói nhà mình mới đón về mấy vị khách phải không?
Dương Lăng "ừ" rồi đáp:
- Một vị thư sinh trọng thương chưa tỉnh, nghe nói rất giỏi võ nghệ...
Vừa nói đến đây, y sực nhớ ra một chuyện, bèn buột miệng hỏi:
- Đúng rồi, Ấu Nương này, nếu như là nàng, thì có thể nhảy cao đến một trượng không?
Hàn Ấu Nương ngạc nhiên hỏi lại:
-Sao tướng công lại hỏi chuyện này?
Rồi nàng nghênh mặt cười đắc ý:
-Tướng công đã quên trước đây thiếp từng phóng lên đài hành hình cao hơn một trượng rồi à?
Dương Lăng búng mũi nàng một cái, cười nói:
- Biết nàng lợi hại rồi! Tướng công muốn hỏi là nếu đứng tại chỗ bật lên cao một trượng, nàng làm được không?
Hàn Ấu Nương suy nghĩ một chút rồi lắc đầu đáp:
- Không thể, kể cả cha cũng không làm được. Thuật bật thẳng người nếu chỉ dựa vào lực bắp chân thì không thể nào nhảy cao đến một trượng. Thiếp và cha học môn Ngạnh khí công cũng chỉ để cường thân kiện thể, trừ khi là biết thuật điều tức thổ nạp(1) thì mới có thể làm được, cao thủ như vậy cũng cực hiếm.
Nàng bỗng mở to mắt, kéo tay áo Dương Lăng hỏi:
- Tướng công đã gặp qua cao nhân như vậy rồi à?
Dương Lăng cười lớn đáp:
- Cũng không cao lắm, chỉ cao hơn nàng có nửa cái đầu thôi.
Nghe Ấu Nương nói vậy, y chợt cảm thấy có chút nghi ngờ. Lăn lộn cùng đám người Liễu Bưu bấy lâu, y cũng biết được ít nhiều về võ học. Tục ngữ có câu "cùng văn phú võ"(2), trên thực tế thì đa số kẻ luyện võ là những người nghèo khổ, song phần lớn bọn họ đều chỉ tu luyện công phu ngoại môn. Một người con gái trong đoàn ngựa thồ có thể mời ở đâu ra được danh sư về truyền thụ cho võ công thượng thừa, hơn nữa còn luyện thành xuất sắc như vậy chứ?
Tuy nhiên vừa nhớ đến chuyện người thiếu phụ áo đỏ ấy không biết chữ, y lại xua tan ý nghi ngờ nàng có thân phận khác. Hàn Ấu Nương hỏi:
-Tướng công đang nghĩ gì vậy?
Dương Lăng vội nói:
- Hả? À không có gì, tướng công chỉ... Do quê nhà đang gặp phải chiến tranh loạn lạc nên cũng có người vào kinh nhờ cậy, có vẻ bọn họ cũng không định trở về nữa. Ta đang nghĩ làm sao thu xếp cho bọn họ đây.
Hàn Ấu Nương mừng rỡ reo lên:
-Khách đến là đồng hương với chúng ta sao? Là vị thân thích nào vậy?
Dương Lăng cười gượng gạo:
-Là... tam ca Dương Tuyền và con thứ Vân Long nhà đại ca.
Nụ cười của Hàn Ấu Nương lập tức cứng đơ. Dương Lăng cũng biết vị anh con bác này trước đây quả thực không ra gì, nhưng dẫu sao những việc xấu xa hắn làm cũng kín, chưa bị phanh phui, nay hắn gặp nạn, từ ngàn dặm xa xôi chạy đến nhờ vả, nếu cự tuyệt không cho hắn vào nhà, mình sẽ bị người ta nhổ nước bọt dìm chết thôi.
Thời đó quan niệm về dòng họ và hương thổ thật sự rất nặng. Đến nỗi kẻ si mê danh lợi, bo bo giữ mình như Tiêu Phương mà một khi có khách cố hương đến nhờ vả cũng còn không dám không hết lòng góp lời cầu xin hoàng thượng giúp đỡ bọn họ. Huống hồ Dương Tuyền là đường huynh(3) của y, luận về huyết thống xa gần trong quan niệm dòng họ thời bấy giờ thì còn thân thiết hơn thê tử cả một tầng.
Thường ngày Dương Lăng trò chuyện với đám người Lưu Cẩn, từng nghe bọn họ kể rằng, năm xưa vua Hoằng Trị từng tin yêu một người hầu thân cận họ Trương. Do gia cảnh bần cùng, lúc chín tuổi vị thái giám đó đã bị phụ thân thiến đưa vào trong cung, để rồi hai mươi năm sau hắn trở thành một trong những hoạn quan được tin yêu nhất bên cạnh vua Hoằng Trị.
Khi người cha già nghèo túng của hắn vào kinh cầu kiến, do Trương thái giám vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện ngày xưa nên mặc dù thái giám bên người nhiều lần khuyên nhủ, hắn vẫn nhất định không chịu gặp mặt. Kết quả lập tức trở thành cái đích cho mọi người chỉ trích. Về sau hoàng đế nghe được chuyện này, từ đó cũng trở nên lạnh nhạt xa lánh hắn, bảo rằng hắn không biết đạo lý làm người, đại nghịch bất đạo.
Mình đến từ thời hiện đại, trong lòng không có nhiều điều kiêng kị, nhưng không thể không suy xét đến quan niệm của người thời này, không nhận thân tộc họ hàng là trái với luân lý cương thường, trong khi thiên hạ được cai trị bởi những nhà Nho, chỉ cần một điểm này thôi là anh đã đủ bị người ta hặc tội bãi quan rồi.
Dương Lăng bối rối nói:
- Hôm nay bọn họ vừa mới vào kinh, ta cũng không có cách gì khác. Đợi dăm ba ngày nữa sẽ giúp bọn họ tìm chỗ ở, tiếp tế ít lương thực, nếu hắn không chơi bời lêu lổng nữa, ta sẽ tìm cho hắn một công việc, coi như đã tận tâm rồi.
Hàn Ấu Nương liền nhớ tới tên đốn mạt kia. Đường đệ của mình còn bệnh nằm liệt giường mà đã động tay động chân với em dâu, nhớ lại hành vi không chút liêm sỉ của hắn làm nàng lại cảm thấy không thoải mái. Trước đây khi gia tộc mình đến Kê Minh nương nhờ, mình không hề có bất kì hành động thất lễ nào với trưởng bối tôn thất của tướng công. Nay tướng công đã là quan lớn, mình càng phải nên chú ý hơn đến những điểm dễ bị người ta chê trách chỉ trích này mới được.
Thấy bộ dạng khó xử của Dương Lăng, nàng vội khoác áo choàng lên, nhẹ giọng nói:
- Ở lâu trong nhà quả thực bất tiện, nhưng mà tướng công cũng không cần phải tìm chỗ ở cho bọn họ vội, để người ngoài không hiểu chuyện nhìn vào sẽ nói những lời khó nghe.
Dương Lăng thấy nàng khoác thêm áo ngoài, bèn hỏi:
- Nàng định ra ngoài đi dạo à? Hôm nay gió lớn, nàng đừng đi.
Hàn Ấu Nương dịu dàng cười đáp:
- Thiếp đi thăm vị khách nọ còn đang bị thương mà. Nói cho cùng thì Dương Tuyền cũng là tam ca của chàng, Vân Long lại gọi thiếp một tiếng thẩm nương(4). Thiếp là vợ của chàng, sao có thể không quan tâm gì đến cuộc sống của bọn họ chứ?
Dương Lăng vui sướng nói:
- Vợ ngoan, quả nhiên đã có phong thái chủ mẫu(5) nhà họ Dương rồi! Ta còn lo nàng sẽ không vui, nên đang tính giấu nàng nữa cơ.
Hàn Ấu Nương chun mũi, cười tinh nghịch:
- Người ta không có hẹp hòi như vậy đâu. Trước đây hắn buông lời ve vãn ong bướm, nếu không phải vì thấy trong nhà họ Dương, tướng công thân đơn thế cô, sợ chàng không thể tự lo cho mình thì đã dùng côn đánh bay hắn đi rồi. Nay thì không cần Ấu Nương ra tay nữa, tướng công của người ta lợi hại mà... Hắn mà dám... hừm hừm, kể cả cho hắn hai lá gan...
Đôi vợ chồng trẻ rôm rả, cùng nói cười đi đến sương phòng(*) ở nhà chính sân trước. Chú cháu Dương Tuyền mới vừa ăn xong chưa ngủ, vừa nghe vợ chồng bọn họ đến liền vội ra đón. Xưa và nay khác nhau như trời với đất; trạch viện đẹp đẽ sang trọng, gia bộc kính cẩn, loại phong thái cao sang đó Dương Tuyền chưa từng thấy bao giờ.
(*):sương phòng: căn phòng bên cạnh căn phòng chính.
Nhớ lại hành vi vô lễ trước đây, trong lòng hắn thấp thỏm không yên, hắn còn nghe nói thậm chí Hàn Ấu Nương cũng đã được yết kiến hoàng thượng, nay được ban cho thân phận Cáo Mệnh tam phẩm, điều đó đã được huyện Kê Minh ghi chép một cách hết sức long trọng. Dương Lăng rất yêu thương nàng, nếu như nàng ta mượn cớ ấy để trị mình thì hậu quả sẽ rất thê thảm, song hắn lại không nỡ bỏ qua vinh hoa phú quý trong tầm tay.
Đến khi thấy thái độ ân cần, hào phóng và tự nhiên của Hàn Ấu Nương, Dương Tuyền mới cảm thấy yên tâm, liền vội nịnh nọt tâng bốc một phen, chỉ lo nàng vẫn ghi thù hành vi của mình ngày đó.
Dương Vân Long tuy lớn hơn Dương Lăng ba tuổi, nhưng quả thực là con trai của đường huynh y, thế nên hết sức giữ lễ với hai vị tiểu thúc thúc, tiểu thẩm thẩm này. Hắn cũng từng đọc sách, có điều đã đi thi hai lần song vẫn chưa đỗ được tú tài. Tự thấy công danh vô vọng, hắn mới bèn theo tam thúc vào kinh sư dựa dẫm Dương Lăng.
Đợi khi rời khỏi sương phòng, Dương Lăng mới mỉm cười nói với Hàn Ấu Nương:
- Ấu Nương của hôm nay so với trước đây thực đã có khí độ hơn nhiều. Vào kinh được mở mang kiến thức, lại được bọn Ngọc Nhi và Tuyết Nhi hun đúc cho, đối nhân xử thế đã rất có lễ độ.
Chỉ là... nàng vốn không biết giả vờ, lúc nãy cười vẫn hơi gượng gạo. Sau này không cho phép làm vậy với tướng công, bằng không... ta sẽ lấy gia pháp ra 'hầu hạ', chắc chắn phần bên dưới khuôn mặt này sẽ không biết cười vịt vờ đâu.
Vừa nói y vừa vỗ nhẹ bờ mông căng tròn của Ấu Nương một cái, Hàn Ấu Nương kêu lên "ui da", rồi vừa mỉm cười vừa nhảy tới phía trước mấy bước. Dương Lăng vội lật đật kéo nàng lại.
Hàn Ấu Nương kéo một cánh tay của y lên, áp mặt lên tay y thủ thỉ:
- Nghĩ đến sự đáng ghét của hắn là người ta lại không chịu được. Có điều... lúc còn ở quê nhà, Dương tam ca chỉ biết chơi bời lêu lổng, không nghề ngỗng gì, nếu như chàng muốn kiếm cho hắn một công việc, vậy thì phải suy nghĩ kỹ đó. Ca ca làm ở bộ Hình, thường nói với thiếp rằng ở đó quan viên trên dưới đều có vẻ sợ y. Với tính tình hào sảng của huynh ấy mà cũng khó tìm được một bằng hữu tri âm, còn không phải là vì những người đó sợ chàng ư? Với tính cách của Dương tam ca... nếu như hắn lại cáo mượn oai hùm, cậy vào oai danh chàng để làm những điều xằng bậy thì...
Việc đó tự cổ chí kim thực ra không hiếm, Dương Lăng nghe vậy thì khẽ gật đầu. Y cũng cảm thấy cái tên lấc cấc này đến kinh sư khiến mình nuôi thì không ổn, mà đuổi cũng không xong, quả thực có điều khó xử. Đừng thấy hắn lúc này khép nép sợ sệt mà lầm, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Lúc còn ở Dương Gia Bình, hắn đã ỷ là người của gia tộc lớn nhất trong thôn mà bắt gà trộm chó, gây chuyện khắp xóm làng, xem ra không thể chỉ tìm đại một công việc cho hắn là sẽ có thể đuổi hắn đi được.
*****
Cao Văn Tâm cố lấy dũng khí thổ lộ tâm tình nhưng không ngờ lại khiến cho Dương Lăng sợ chạy mất dép. Lúc này nàng đang ngồi âu sầu, tưởng tượng ra cảnh vào lúc này năm sau Dương Lăng vẫn sống sờ sờ không hề hấn gì, đành phải đội khăn đỏ lên đầu gả cho mình. Trong lòng càng nghĩ càng thấy thú vị, thế là nhịn không được bật cười khúc khích, sự bực tức liền tan biến sạch.
Nàng bước đến bên giường, giơ ngọn đèn cúi xuống nhìn, thấy hơi thở vị thư sinh nọ đã ổn định, sau khi tan hết máu bầm trên ngực, cơn sốt cao đã dần được khống chế. Thuốc giao cho nhà bếp sắc đã được đưa đến, có điều còn nóng chưa uống được, Cao Văn Tâm bèn tính châm cứu trước cho y.
Nàng xoay người lấy túi thuốc châm cứu, kéo chiếc ghế đến bên đầu giường ngồi. Mới vừa mở bọc kim châm, thư sinh nọ chợt rên khẽ một tiếng, rồi từ từ mở mắt ra. Cao Văn Tâm mừng rỡ kêu lên:
- Công tử, ngài đã tỉnh rồi sao?
Lúc này, mặt thư sinh lún phún râu ria, hắn cũng chẳng thể biết được vẻ bề ngoài ra sao, có điều tuy đang bị trọng thương, ánh mắt lại vẫn linh động sáng ngời, trông hết sức lanh lợi. Hắn ngờ vực ngước nhìn người thiếu nữ dung mạo xinh đẹp trước mặt, thật lâu sau mới yếu ớt hỏi:
- Phải, tại hạ đã đỡ nhiều rồi, đa tạ ơn cứu mạng của cô nương. Nơi này... là đâu vậy?
Cao Văn Tâm cười tươi đáp:
- Nơi này là Dương phủ ở kinh sư, công tử được lão gia... được đại nhân nhà ta cứu về. Công tử chớ vội ngồi dậy, thương thế trên người vẫn còn nghiêm trọng. Công tử tỉnh dậy thì tốt rồi, ta sẽ châm cứu cho công tử một phen trước, chỉ cần giữ cho thần chí tỉnh táo, vết thương này sẽ không chuyển xấu nữa.
Thư sinh thấy vị cô nương này đang mở bọc vải, rút cây ngân châm ra thì liền ngưng miệng. Lúc này sắc trời khá tối, dưới ánh đèn nến hắn thấy Văn Tâm tóc mây vấn cao, phong thái trang nhã, buột miệng hỏi:
- Cô nương, kẻ hèn nhớ rằng mình thọ thương tại Diên Khánh, sao lại chớp mắt đã đến kinh thành rồi?
Cao Văn Tâm tay vê ngân châm, mắt liếc ngang sang, cười nhẹ đáp:
- Thương thế của công tử tuy nặng, song cũng không đến nỗi hôn mê suốt cả chặng đường, đến nỗi mình được ai cứu giúp, đã đi đến nơi nào cũng đều không hay không biết chứ?
Thư sinh nọ vốn thấy nàng có dung nhan xinh đẹp, phong thái tao nhã bất phàm, tính vịn cớ chuyện trò thêm mấy câu, không ngờ người thiếu nữ này lại thông minh như vậy, lập tức nhìn thấu ý đồ của y. Bị ngầm châm chọc một vố, thư sinh không khỏi đỏ mặt, ngượng ngập không biết nói gì.
Cao Văn Tâm khẽ "hừm" một tiếng, xắn tay áo lên, nghiêm mặt lại bảo:
- Có thể ngồi dậy không? Nếu như tỉnh rồi, lại còn có sức nói nhiều như vậy thì nằm dịch lên chút đi, bản cô nương châm cứu cho.
Cao Văn Tâm học được y thuật cao minh từ thuở nhỏ, vừa lớn đã được gán cho danh hiệu "Nữ thần y", trước giờ tâm cao khí ngạo, tầm mắt rất cao, lúc chẩn đoán chữa bệnh cho quan to khách quý cũng hiếm khi nở được nụ cười. Cũng chỉ có cái đêm kinh tâm động phách được Dương Lăng cứu ra khỏi bể khổ, bị y thấy tấm thân chỉ được che đậy bởi áo yếm, về sau lại có Hàn Ấu Nương ám thị cùng nàng ấy hầu hạ chung chồng, thì nàng mới đối xử với y thùy mị dịu dàng như nước.
Lúc này nhận ra sự ngưỡng mộ của thư sinh này, nàng đương nhiên không vui. Thư sinh nọ chống tay dịch lên một chút, dẫu sao thân thể mới vừa tỉnh lại vẫn còn yếu ớt. Thấy vậy Cao Văn Tâm thừa dịp hắn chống người lên liền kê gối bên dưới, rồi nói:
- Được rồi, cứ nằm như vậy đi.
Thư sinh thở hổn hển mấy hơi, thấy Cao Văn Tâm đưa nến đến sát người, tóc mây hơi rối, nét mặt thanh lệ dịu dàng, bất giác buột miệng khen:
- Vân kế kinh khinh vãn tựu, duyên hoa đạm đạm trang thành. Thanh yên tử vụ tráo khinh doanh, phi nhứ du ti vô..."(*) (tạm dịch: Tóc mây vấn khẽ cao cao, phấn son nhàn nhạt xuyến thêm sắc màu. Khói xanh sương tím bao quanh, bềnh bồng sợi tóc không...)
Còn chưa dứt lời, một tia sáng màu bạc chợt loé lên, một cây ngân châm đã đâm xuyên qua gò má y. Thư sinh chỉ cảm thấy dưới cằm cứng đơ, miệng không khép lại được nữa. Cao Văn Tâm nhíu cặp mày liễu, hừ lạnh mắng:
- Buông lời cợt nhả, thực là đáng ghét!
Liền đó chợt nghe bên ngoài cửa có tiếng người vọng vào:
- Văn Tâm, cô còn ở trong đó không vậy?
Cao Văn Tâm nghe được giọng của Dương Lăng liền mừng rỡ đứng dậy, làm mặt uy hiếp với thư sinh nọ, rồi lật đật xoay người ra đón.
Thư sinh nọ có thể đả thương yêu đạo Lý Phúc Đạt, hiển nhiên có một thân võ nghệ vô cùng phi phàm, một cây ngân châm nho nhỏ đương nhiên không thể chế ngự được hắn, nhưng hắn lại thấy vẻ giận dỗi của Cao Văn Tâm có một ý vị đặc biệt, tâm tình nhất thời xao động, không dám rút cây ngân châm ra để tránh chọc giận giai nhân.
Cao Văn Tâm đón Dương Lăng và Hàn Ấu Nương vào phòng. Dương Lăng nghe nói người nọ đã tỉnh, liền mừng rỡ đi đến trước giường thăm hỏi:
- Huynh đài tỉnh rồi à? Cảm thấy thế nào?
Thư sinh nọ há miệng ú ớ mấy tiếng, hết nhìn Dương Lăng rồi lại ngó sang Cao Văn Tâm, vừa định đưa tay rút cây ngân châm ra, trông thấy Cao Văn Tâm trừng cặp mắt bồ câu lên, liền vội rụt tay lại. Cao Văn Tâm vờ cười trả lời thay:
- Công tử mới vừa được châm cứu, hiện tại vẫn chưa thể cử động.
Thư sinh nghe vậy thì khổ sở gật đầu, Dương Lăng nghi ngờ hỏi:
- Ngực bị thương mà cần phải châm cứu mặt à, y thuật Cao gia quả nhiên thần diệu vô cùng.
Hàn Ấu Nương dịch chiếc ghế ra một chút, nói:
- Tướng công gấp làm gì, nếu như vị tráng sĩ này đã tỉnh rồi, đợi thêm một chút rồi trò chuyện cũng đâu muộn. Tỷ tỷ à, thương thế của tráng sĩ có nghiêm trọng không?
Thư sinh nọ nghe tiểu cô nương thanh tú này gọi vị công tử anh tuấn hiên ngang ở trước mặt mình là tướng công, lại gọi người con gái mỹ mạo mà hắn ngưỡng mộ là tỷ tỷ, thì không khỏi giật thót trong lòng. Hắn biết giữa thê thiếp các hộ gia đình giàu có thường gọi nhau là tỷ muội, chẳng lẽ giai nhân đã có nơi gắm gửi rồi?
Nãy giờ hắn vẫn há miệng, nước miếng đã sắp chảy cả ra ngoài, nếu như mỹ nữ đã có chồng, vậy hắn cũng không cần phải lấy lòng chi cho mất mặt nữa. Thư sinh rút cây ngân châm ra khỏi mặt, vặn vẹo miệng mấy cái rồi gượng cười nói:
- Đa tạ ơn cứu mạng của công tử và phu nhân, kẻ hèn thực cảm kích không hết.
Dương Lăng thấy vị thư sinh này da ngăm đen, mặc dù dung nhan tiều tuỵ, nhưng mặt mày sáng sủa vô cùng, nhìn trông rất vừa mắt, bèn cản vai hắn bảo:
- Cứ nằm đi. Huynh đài là người phương nào, họ tên là gì, nghe nói... là một đạo sĩ đã đả thương huynh đài?
Thư sinh thuận thế nằm xuống, mắt thấy công tử trẻ tuổi này dung mạo còn tuấn tú hơn mình mấy phần, khí độ cũng rất bất phàm, hai giai nhân đó hẳn là hiền thê mỹ thiếp của người ta, bèn tự hơi cảm thấy hổ thẹn khi nãy đã buông lời khinh xuất. Hắn mỉm cười đáp:
- Dạ, kẻ hèn là người Tùng Tư, Hồ Bắc, họ Ngũ tên Hán Siêu, thuở nhỏ học nghệ trên Võ Đang. Ngày đó thấy một yêu đạo đang mê hoặc hương dân, nên muốn bắt gã giao cho quan phủ truy xét, tiếc là bản lĩnh không bằng người...
Rồi hắn khẽ lắc đầu cười, nói tiếp:
- Công tử không cần phải nghi ngờ, gia phụ vừa mới nhậm chức Đồng tri ở phủ Thành Đô, tên húy là Văn Tự. Kẻ hèn cũng là gia đình quan lại, không phải là phường lưu manh trộm cướp đâu.
Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi nói:
- Ngũ Văn Định à? Ồ... nhớ rồi nhớ rồi, ha ha, hoá ra là công tử của Ngũ Văn Định. Ta quả có nghe qua danh hiệu của lệnh tôn đại nhân.
Ngũ Văn Định nguyên là quan tiến cử ở Thường Châu, mấy ngày trước Nguỵ Quốc công Từ Phủ tranh chấp ruộng đất với dân, kiện cáo lên đến tận trên châu. Ngũ Văn Định phán giao mảnh ruộng đó cho bá tánh bình dân nọ khiến cho Ngụy Quốc công nổi giận đùng đùng, cậy vào quan hệ mà chuyển vụ án vào kinh thành, hòng nghiêm trị Ngũ Văn Định. May thay lúc đó Hàn Uy đang ở bộ Hình, khi tới thăm vợ chồng Dương Lăng buột miệng nhắc đến chuyện này, cho nên Dương Lăng đã bảo Tiêu Phương chiếu cố một chút. Do đó chẳng những ông ta không bị trừng phạt mà còn được thăng chức lên làm Đồng tri ở phủ Thành Đô. Dương Lăng không ngờ kẻ mình cứu lại là con trai ông ta.
Ngũ Hán Siêu nghe y gọi thẳng tên húy cha mình không hề kiêng kị, thì tỏ vẻ không vui. Thấy vậy, Cao Văn Tâm liền nói:
- Đại nhân nhà ta là thống lĩnh ngự tiền thân quân, tổng đốc Nội xưởng Dương đại nhân, không biết Ngũ công tử có từng nghe nói tới chưa?
Ngũ Hán Siêu vừa nghe lập tức cả kinh. Tiêu Phương giỏi về lung lạc lòng người, lại biết thế lực Dương Lăng, cũng là chỗ dựa của lão, vẫn còn rất yếu, cho nên lúc giúp đỡ cho Ngũ Văn Định đã âm thầm tiết lộ cho ông ta biết rằng do Dương Lăng hỏi đến nên Ngụy Quốc công mới không thể hãm hại ông ấy.
Sau khi Ngũ Hán Siêu học nghệ thành tài xuống núi du lịch bốn bể đã từng gặp cha, đương nhiên biết được mấu chốt trong đó. Hắn càng biết rằng quyền thế Dương Lăng như mặt trời chính ngọ, đừng nói là gọi thẳng tên húy của phụ thân hắn mà cho dù vị Đồng tri đại nhân đó có đứng trước mặt y cũng sẽ phải khom gối quỳ vái ra mắt thượng quan.
Ngũ Hán Siêu là con cháu quan lại, vừa nghe đây là quan lớn trong triều, vẻ tự nhiên tiêu sái lập tức biến mất hoàn toàn, lúng túng nói:
- Thì ra... thì ra là Dương đại nhân. Nghe uy danh đại nhân đã lâu, thảo dân mang thương thế trên người, không thể làm tròn lễ...
Dương Lăng ngắt lời:
- Chậc, ta và huynh đài xưng hô huynh đệ không phải là tốt hơn sao? Hà tất dùng những lễ nghi rườm rà chốn quan trường đó? Huynh đài trên người còn mang thương thế, đừng nói chuyện nhiều. Văn Tâm, mau giúp Hán Siêu huynh trị thương đi.
Cao Văn Tâm dạ một tiếng, đi đến thu lại cây ngân châm trong tay Ngũ Hán Siêu, rồi lại rút ra một cây khác, nhắm ngay huyệt đạo dưới cần cổ mà vê nhẹ xuống. Người ngọc ở ngay trước mắt, mùi thơm nhàn nhạt lan toả khắp người, làn da trơn nhẵn như ngọc ửng lên vầng sáng dịu dàng dưới ánh nến, Ngũ Hán Siêu lại không dám có tơ tưởng gì, đành phải nín thở thu mắt lại, im lặng cho nàng chữa trị.
*****
Chú cháu Dương Tuyền đến Dương phủ đã được năm ngày, vào ngày thứ hai Dương Lăng và thê thiếp đã mở tiệc thết đãi cặp chú cháu trong tộc này. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đều là tuyệt sắc giai nhân, lại mặc lụa hoa tơ gấm, đeo vòng châu lắc ngọc, thực ngỡ như tiên nữ giáng trần.
Mặc dù Dương Tuyền không còn dám có bất kỳ ý nghĩ không yên phận gì với gia quyến của vị đường đệ này, song vẫn ngây mắt nhìn. May mà theo lễ nghi, những vị nội quyến này chỉ ra mắt một lần liền quay trở lại nội viện, cho nên Dương Tuyền mặc dù hâm mộ cũng chỉ đành ”ngắm trăng dưới giếng” mà thôi.
Mấy ngày qua khí trời trong lành ấm áp, tuyết đã ngừng rơi, Dương Lăng cũng thầm kêu may mắn không thôi. Nếu trời lại đổ thêm trận tuyết lớn nữa, dân chạy nạn quanh thành sẽ khó mà sống nổi.
Được sự gợi ý của Thành Khởi Vận, y biết rằng để khiến những phú hộ giàu có phát chẩn cứu tế thực ra không khó. Lương thực hao phí mỗi ngày không đến trăm lạng bạc, đối với những phú hộ giàu có đó mà nói thật sự như muối bỏ bể, chỉ cần dùng danh tiếng dụ bọn họ thì không lo bọn họ sẽ không góp tay.
Dương Lăng bèn đi gặp Lý Đông Dương, lại đích thân tới thăm Chu Cương và Trương Hạc Linh. Có hai nhà này làm gương phát chẩn cứu tế, có Lý Đông Dương đích thân viết tên lên bia công đức đặt ở Hộ Quốc tự trong kinh sư, lập tức thân hào quý tộc kinh sư ùn ùn hưởng ứng, dân góp người, quan góp sức, lều lán cứu tế được dựng lên khắp kinh thành. Những lao động khoẻ mạnh cũng được cho vào thành tìm việc; bọn họ lấy tiền công thấp, lại chịu được vất vả, thế là bỗng chốc cả làng đều vui.
Lúc này, Dương Lăng vừa mới chạy vào trong cung, lòng ngổn ngang trăm mối. Mấy ngày qua khắp triều đình liên tục nhận được tình báo đại quân giành lại được đất bị cướp, đuổi đánh giặc Thát, thế là cả triều phấn khởi.
Nhưng theo tin hỏa tốc truyền về từ Nội xưởng, thì mấy trận đầu quân Minh cậy vào nhuệ khí quả thực đã chiến thắng, chém rơi nghìn đầu giặc, thu được mấy nghìn thớt ngựa và lạc đà, đồng thời cướp lại được số lớn của cải và người dân bị bắt đi.
Thế nhưng không biết Miêu Quỳ có phải bị thắng lợi làm mê muội đầu óc hay không mà lòng tham công nổi lên, thấy quân địch rút lui liền dốc toàn lực truy kích. Kỵ binh quân Minh có hạn, lực chiến đấu và tính cơ động không đủ, lại phải chia binh đuổi theo giặc Thát chia làm ba lộ rút lui. Kết quả bị Bá Nhan Khả Hãn điều khiển đại quân vây đội quân tiên phong đang đơn độc thâm nhập lại thành như bánh kẹp, ba nghìn quân tinh nhuệ mất sạch vào tay giặc. Nay địch quân thừa dịp quân Minh phân tán chưa kịp tập hợp, đã bắt đầu tập kết trọng binh phản công Đại Đồng.
Dương Lăng suy tính trước sau, đã quyết định đề bạt Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân đến biên cương lĩnh soái. Nhưng hai người này một người nhàn rỗi ở nhà, một người đang ăn cơm tù, đều là những người từng đắc tội với Lưu Cẩn, tiến cử tuỳ tiện nhất định sẽ dẫn đến khúc mắc với Lưu Cẩn. Dương Lăng lo nghĩ rất lâu mới quyết định thuyết phục Lưu Cẩn trước, rồi mới đi gặp Chính Đức. Y đã chuẩn bị sẵn câu từ, nào ngờ khi gặp Lưu Cẩn, vừa mới nói rõ ý định thì chỉ thoáng trầm ngâm lão liền đã vui vẻ đồng ý luôn, khiến Dương Lăng rất bất ngờ. Tuy nhiên chiến sự biên giới quá khẩn cấp, y cũng chẳng để tâm nghĩ ngợi nhiều, vội vàng lôi Lưu Cẩn đi gặp Chính Đức.
Mã Vĩnh Thành dẫn hai người bọn họ chạy đến Ngự Hoa viên, thấy Chính Đức đang được mấy cung nữ thái giám hầu hạ chơi đánh quay trên mặt băng, trên con quay gắn thêm cái còi, phát ra tiếng kêu "tu tu".
Chính Đức mặc bộ áo ống bó màu đỏ sẫm, bên ngoài khoác áo lông cừu cộc tay màu thạch anh, đang chơi rất hăng say. Trông thấy Dương Lăng đến, hắn liền chỉ tay vào một cô nương mặc áo da chồn viền tím bên cạnh cười giục:
- Đánh mau lên, đánh mau lên, nếu con quay bị ngã, trẫm sẽ phạt nàng đó.
Chính Đức vừa quay đầu lại nói một cách luyến tiếc, vừa đi đến bên cái hồ cảnh đỡ Dương Lăng đang định sụp lạy dậy, cười nói:
- Miễn lễ miễn lễ, Dương khanh có biết chơi trò đánh quay này không? Trẫm và Giải Ngữ cùng Tu Hoa mới vừa học được đấy, chơi vui lắm.
Dương Lăng lắc đầu cười đáp:
- Trò này vi thần không biết, nhưng mà lúc nhỏ thần từng chơi trượt băng, phải sử dụng cả hai chân, nếu không thì sẽ ngã ngay.
Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, thích thú hỏi ngay:
- Chơi như thế nào? Mau chỉ cho trẫm đi!
Dương Lăng ho khan một tiếng rồi nói:
- Hoàng thượng, hay là bỏ qua trò đó đi, hai chân chơi xong đứng dậy không nổi đó. Một chân thì trượt rất nhanh, nhưng sẽ khiến cho ngài ngã đến mặt mũi bầm dập, lúc đó hoàng thái hậu còn không lấy đầu của thần ư?
Chính Đức đang vò đầu bứt tai thực sự nghĩ không ra cái gì mà chốc thì hai chân chốc thì lại một chân, đang định hỏi rõ thêm thì Dương Lăng đã giành kể ngắn gọn tình hình chiến sự mới nhất ngoài biên tái một lượt. Chính Đức vừa nghe liền cả giận, quát lớn:
- Láo toét!
Mã Vĩnh Thành hoảng sợ quỳ mọp xuống đất, mấy người trên mặt tuyết nghe hắn quát cũng không dám tụ tập chơi đùa nữa, đứng ở xa không dám lại gần. Chỉ có hai cô nương một cao một thấp, khoác áo và đội mũ lông chồn nâu, mắt sáng răng ngà bước đến, người con gái thấp hơn tươi cười nói:
- Hoàng huynh, đừng có như pháo hễ động vào là nổ bùng lên như thế chứ. Dương đại nhân lại trêu chọc gì huynh rồi à?
Dương Lăng mỉm cười, thấy người thiếu nữ tươi cười như hoa đó là công chúa Vĩnh Thuần, còn vị cô nương dong dỏng như ngọc đẹp, áo đen da trắng rạng ngời đứng bên cạnh chính là Vĩnh Phúc, thì liền vội khom người hành lễ:
- Ra mắt trưởng công chúa và Vĩnh Thuần công chúa điện hạ!
Chính Đức đỏ mặt quát lên:
- Trước lúc bọn chúng đi trẫm đã ba lần bảy lượt căn dặn bọn chúng không được chia quân, không được tiến bừa, vậy mà bọn chúng lại coi lời của trẫm như gió thoảng bên tai. Mã Vĩnh Thành, lập tức truyền ý chỉ của trẫm, bắt ba cái tên ngu xuẩn đó về kinh trị tội!
Công chúa Vĩnh Thuần thấy ông anh mình thật sự đang nổi trận lôi đình, thế là tinh nghịch le lưỡi không nói nữa. Công chúa Vĩnh Phúc liếc nhanh Dương Lăng một cái, thấy y khoác áo khoác da chồn màu đen viền vàng, anh tuấn trang nghiêm, khí chất càng trưởng thành chững trạc, khuôn mặt không khỏi hơi ửng lên, vội khẽ giọng nói:
-Dương đại nhân hãy mau đứng dậy, không cần câu nệ.
Chính Đức hậm hực vất chiếc roi sang một bên. Chiếc roi đó được làm từ san hô, trên chuôi quấn tơ vàng, núm chuôi còn cẩn bảo thạch. Mã Vĩnh Thành vội cuống quít bò tới nhặt lại từ trong đống tuyết rồi dùng tay áo lau phủi tuyết đi như thể nó là bảo bối của mình vậy.
Chính Đức cũng chả thèm nhìn, đỡ Dương Lăng đứng dậy rồi nói:
- Đi, theo trẫm về cung Càn Thanh, chúng ta bàn bạc kỹ lưỡng một phen.
Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành mau lẹ bước theo sau. Công chúa Vĩnh Phúc chậm rãi bước đến dưới hành lang bên hồ, ống tay áo lợp nhung đen mượt đặt trên thành lan can chạm trổ, đưa mắt nhìn theo hướng mấy người rời đi, gương mặt thanh nhã trắng ngần chất chứa một nỗi cô đơn.
Trở về tới gác Tây Noãn, vừa đặt mông xuống ghế, Chính Đức liền nói:
- Đại Đồng đông nối liền Thượng Cốc, nam thông với Tịnh Hằng, tây tiếp giáp Hoàng Hà, bắc đổ ra sa mạc, cả ba mặt đều giáp biên giới, thực sự là bức thành che chở kinh sư của trẫm, nếu bị mấy vạn đại quân giặc Thát đánh sâu vào nội địa Trung Nguyên, vậy hậu quả thực sẽ khó lường. Ba tên... ba tên..., Dương khanh, khanh thấy trẫm có cần phải phái thêm đại quân không?
Dương Lăng liền thưa:
- Hoàng thượng, Miêu Quỳ cũng xem như đã cẩn thận, quân phòng thủ tập kết ở Đại Đồng được bốn vạn. Không có quân số đông gấp mấy lần và vũ khí công thành lợi hại thì giặc Thát có muốn đánh chiếm tòa thành lũy sâu tường vững này cũng sẽ không hề dễ dàng. Hơn nữa binh mã các lộ tiến công cũng đang gấp rút quay về chi viện, Đại Đồng hẳn sẽ không thất thủ đâu.
Chính Đức tuy ham chơi, song cũng biết coi trọng chuyện dùng binh, nghe vậy mới cảm thấy yên tâm hơn. Dương Lăng lại nói:
-Điều mà thần lo lắng là giặc Thát công thì ta ắt cứu, đại quân bị bọn chúng kiềm chế và dắt mũi, tất cả mọi bố trí ban đầu đều bị xáo trộn, sẽ khó mà vãn hồi được thế cuộc suy tàn.
Chính Đức vỗ mạnh bàn một cái, đột nhiên hưng phấn đứng dậy nói:
- Để trẫm thân chinh, Dương khanh làm tiên phong, chúng ta đánh thắng một trận thật hoành tráng cho kẻ khác thấy.
Mã Vĩnh Thành định mở miệng nói, Dương Lăng đã vội cướp lời:
- Hoàng thượng, đạo dùng binh không đơn giản như vậy đâu. Thần đang nghĩ rằng, quân đoàn tinh nhuệ của Đại Minh là kinh quân, nhưng sức chiến đấu của kinh quân lại không bằng biên quân vốn chỉ có trang bị và khí giới sơ sài, nguyên do chính là vì thiếu tập luyện.
Sau khi chiến sự kết thúc, hoàng thượng có thể điều kinh quân đến biên tái, dùng bọn giặc Thát hung hãn làm thầy giáo tốt nhất, các bộ luân phiên canh giữ biên cương và luyện binh, đồng thời điều biên quân về kinh thành, do thần và hoàng thượng mỗi người tự lĩnh quân tác chiến, học hỏi bản lĩnh thống binh lĩnh soái từ những đội quân có kinh nghiệm thực chiến phong phú này. Đến khi ấy, quân đội Đại Minh ai ai cũng đều có kinh nghiệm trận mạc phong phú, quân có thể chiến đấu, quan có thể làm tướng, lúc đó hoàng thượng lại đích thân lĩnh binh tiến ra biên giới, diễn lại oai phong thời hai vua Hồng Vũ và Vĩnh Nhạc. Hoàng thượng thấy thế nào ạ?
Chính Đức nghe vậy sướng rơn, hỏi dồn:
-Hay lắm, rất hay, vậy theo khanh thấy thì hiện tại trẫm nên làm thế nào?
Dương Lăng liếc mắt sang Lưu Cẩn, Lưu Cẩn vội cười siểm đỡ lời:
- Chiến sự tiền phương bất lợi, không phải là vì quân ít tướng hèn, mà vì không có tướng tài thống lĩnh. Nô tài đã kiểm tra Dương Nhất Thanh mà Lý đại học sĩ tiến cử, nghe nói người này rất am hiểu binh pháp, hiểu rõ biên cương, thiện dã chiến, có thể làm chủ soái Đại Đồng.
Chính Đức gật đầu nói:
- Chuẩn cho, Dương Nhất Thanh này hiện đang ở chỗ nào?
Dương Lăng mỉm cười đáp:
- Mấy ngày trước gã không biết thức thời, dâng sớ nói giúp cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, hiện bị bãi chức đang ở nhà nhàn rỗi. Bất quá một khi hoàng thượng hạ thánh chỉ, gã nhất định sẽ vui mừng tòng mệnh. Ngoài ra thần còn xin tiến cử thêm một người, là con của thượng thư Vương Hoa của bộ Lễ tên là Vương Thủ Nhân, chính là chủ sự bộ Binh người đã trình lên hoàng thượng phương pháp khắc chế đao sắc của người Oa. Người này không câu chấp mưu lược trận địa, thích tùy cơ ứng biến, rất hợp với tình thế chiến trường có thể thay đổi trong nháy mắt, có thể đề bạt hắn trợ giúp cho Dương Nhất Thanh.
Lưu Cẩn thấp thỏm lo lắng, sợ Chính Đức lại hỏi một câu "người này hiện đang ở chỗ nào", may mà khi Chính Đức nghe nói chủ sự bộ Binh thì tưởng rằng gã vẫn còn đương nhiệm, nên cũng không hỏi nhiều.
Dương Lăng lại thưa:
- Hoàng thượng, Dương Nhất Thanh vì phạm tội nên bị bãi chức. Lần này hoàng thượng trọng dụng lại gã, gã nhất định sẽ mang ơn đội nghĩa. Nhưng thân gã đang mang tội, nếu lại phái giám quân, Dương Nhất Thanh ắt sẽ nhụt tâm thoái chí, còn phải chịu cản trở, không thể thi triển hết sở trường.
Tục ngữ có câu 'nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì chớ nghi ngờ', hoàng thượng có thể ra lệnh gã toàn quyền phụ trách chiến sự, tiết chế tam quan, làm tam trấn tổng binh huyện Thiên Quan, tỉnh Thái Nguyên. Nếu có thể lập chiến công, đánh bại giặc Thát, thì thăng lên làm Tam biên tổng chế. Cùng lúc sử dụng ơn huệ và an ủi, Dương Nhất Thanh tất sẽ toàn lực làm việc, dốc sức phục vụ!
Lưu Cẩn vừa nghe lập được chiến công thì sẽ thăng Dương Nhất Thanh lên làm Tam biên tổng chế giống như Vương Việt năm xưa, nắm giữ mười vạn đại quân, trong lòng liền cảm thấy không ổn. Vừa định khuyên can, Chính Đức đã nói:
- Được, nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, chỉ cần gã giải quyết được nỗi ấm ức này cho trẫm, trẫm sẽ phong hắn làm Tam biên tổng chế.
Nói đoạn Chính Đức chấp bút đích thân viết một tờ thánh chỉ, bảo Mã Vĩnh Thành triệu Thượng Bảo giám đóng ấn, rồi lệnh cho lão ta lập tức đi truyền chỉ. Lưu Cẩn nhớ ra mình vẫn còn một chiêu ám kế, thế là cũng không nói thêm gì.
Đến khi hai người rời khỏi cung Càn Thanh, Lưu Cẩn mới oán trách:
- Dương đại nhân, cái tên Dương Nhất Thanh đó và chúng ta không chung thuyền, ngộ nhỡ để gã lập được đại công, nắm giữ trọng binh, há chẳng sẽ mang phiền phức đến cho chúng ta sao?
Dương Lăng cười đáp:
- Ngài sợ gì chứ? Năm xưa Vương Việt cũng là Tam biên tổng chế, vậy mà chẳng phải một tờ thánh chỉ nói bắt vào kinh liền bắt vào kinh đó sao. Công công là nội tướng của Đại Minh, nắm giữ một nửa triều đình, tục ngữ thường nói 'bụng tể tướng có thể chèo thuyền'(6), gã dâng sớ cầu xin cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, chứng tỏ người này cũng trọng tình trọng nghĩa, công công hà tất quá so đo?
Sắc mặt Lưu Cẩn lập tức trở nên hết sức hoà hoãn, lão ta mỉm cười dè dặt nói:
- Nói chí phải, khà khà, đến khi đó ta lại động tay chân vào quân giới khiến hắn không hoàn thành đại sự là được.
Dương Lăng giật mình thất kinh, vội ngăn:
- Vạn lần không thể!
- Hử?
Lưu Cẩn nghi hoặc nhìn y, hỏi:
-Chẳng lẽ Dương đại nhân không phải vì muốn tìm một kẻ chết thay đỡ tội cho Miêu Quỳ nên mới đẩy hai cái tên chướng mắt này ra chiến trường sao? Cớ sao lại bảo vệ bọn chúng như vậy?
Dương Lăng định thần lại một chút rồi mới nói:
- Ờ... thì đúng là như vậy. Miêu Quỳ và chúng ta là ngựa chung một tàu, gặp họa thì cùng chịu mà gặp phước thì cùng hưởng, nếu để lão ta thua đến không thể vãn hồi mới triệu về kinh, công công và ta nhất định sẽ bị ngoại quan hặc tội. Nhưng công công chớ quên, hiện tại Dương Nhất Thanh không phải là do Lý đại học sĩ đề cử, mà là chính miệng công công tiến cử, cái tên Vương Thủ Nhân nọ cũng là do bản quan tiến cử.
Nếu như hai người bọn họ lập được chiến công thì chúng ta sẽ được xem là biết nhìn người, biết dùng người, nước lên thì thuyền lên, uy danh chói lọi. Nhược bằng bọn họ thất bại, đừng thấy bọn họ cùng một hệ với Lý Đông Dương mà lầm, đám người ngoại đình ắt sẽ đổ món nợ ấy lên đầu chúng ta. Công công mới nhậm chức nội tướng, nếu dưới sự chủ trì của công công, quân ta đánh bại bọn giặc Thát hung tợn thiện chiến, ai sẽ dám không thừa nhận tài phò chính của công công? Công lao bọn họ có lớn dường nào, phần công lao lớn nhất còn không phải là của công công à?
Lưu Cẩn vỗ trán nói:
-Phải rồi, Dương đại nhân nói chí lí, xem ra phần cung ứng quân nhu này ta không thể qua loa được. Hừ! Có điều không ngờ hai cái tên không biết thức thời đó đối đầu với ta, nay lại phải chia cho bọn chúng một phần công to, thực là béo bở cho bọn chúng quá.
Lưu Cẩn nói với giọng không phục, trong lòng cũng đã âm thầm tính toán. Bản thân lão là kẻ tham ô, song lại không muốn thấy người khác tham ô, lão thích sử dụng thân nhân làm thân tín, song ghét nhất là kẻ khác dựa dẫm bám víu vào quan hệ. Hơn nữa lão tuy là thái giám song lại không hề tín nhiệm thái giám, cho nên vẫn luôn muốn trọng dụng một số người phe ngoại đình, phát triển thế lực của bản thân. Hiện tại nếu đã không thể lật đổ Dương Nhất Thanh, lão liền âm thầm tính toán làm sao để có thể chiêu nạp cho mình dùng.
Thấy đã thuyết phục được Lưu Cẩn, lúc này Dương Lăng mới thầm thở phào nhẹ nhõm. Đại quân đang chiến đấu ở bên ngoài, nếu như trong triều có người tay nắm quyền lớn như vậy mà ngấm ngầm ngáng chân, thì cho dù là Nhạc Vũ Mục(7) tái thế cũng đừng hòng thắng giặc.
*****
Trong Dương phủ, Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Cao Văn Tâm tiễn Âu Dương phu nhân ra về, bọn họ nói cười vui vẻ, hợp ý vô cùng.
Vị phu nhân của Nghiêm Tung còn lớn hơn tướng công thị một tuổi, nhưng tri thư đạt lễ, nết na hiền lành. Nàng giống như Ấu Nương, cũng bầu bạn cùng tướng công mình từ thuở cơ hàn, cho nên rất được Nghiêm Tung kính trọng.
Bà ta thường hay đến nhà trò chuyện cùng đám người Hàn Ấu Nương việc vặt trong nhà, một mặt là do tướng công vốn không có thế lực chống lưng, hắn đã ngầm tỏ ý muốn bà ta kết giao với một đám nhân vật quyền thế nhằm có thể đứng vững trong kinh sư, đồng thời đích thực cũng bởi bà ta và mấy người Hàn Ấu Nương rất tâm đầu ý hợp.
Bà ta cùng trượng phu mình thành thân đã lâu, nay đã hai mươi sáu tuổi song lại vẫn chưa có mụn con. Hiện tại tướng công đã có quan tước, điều kiện gia cảnh cũng rất tốt, bà ta cũng từng nảy ra ý định muốn nạp thiếp lấy vợ bé cho trượng phu, song lại bị Nghiêm Tung nghiêm khắc cự tuyệt. Việc này càng khiến cho Âu Dương phu nhân cảm thấy hổ thẹn không thôi.
Hôm nay đến Dương phủ viếng thăm, nghe tin vui Hàn Ấu Nương đã mang thai, Âu Dương thị rất đỗi hâm mộ. Cao Văn Tâm nghe bà ta kể tâm sự bèn bắt mạch giúp cho, rồi ghi một đơn thuốc, bảo cầm về uống thử. Vốn đã từng nghe đại danh của nữ thần y, thế là bà ta bèn cất kỹ đơn thuốc vào người như thể là báu vật, hận không thể lập tức lắp hai cánh bay đến tiệm thuốc ngay.
Nhìn thấy điệu bộ hồn vía trên mây của bà, Hàn Ấu Nương bèn cùng mấy tỷ muội đưa tiễn về. Lúc này Ngũ Hán Siêu đang luyện kiếm trước tiền đình. Hắn vẫn chưa khỏi hẳn thương thế, nhưng người từng tu luyện nội công thượng thừa lấy điều hoà hơi thở bên trong làm phụ trợ, khiến tốc độ hồi phục mau chóng vô cùng.
Hàn Ấu Nương cùng Âu Dương phu nhân đi ở phía trước, vừa mới rẽ từ hành lang hông qua, trông thấy vị công tử của Ngũ đồng tri hất, đâm, quét, chém; kiếm pháp sử dụng kình lực liên miên, cương nhu có cả, kiếm thế uyển chuyển mà hùng hồn. Nàng tuy không biết kiếm pháp nội gia song lại hiểu được lợi hại trong đó, nhịn không được kinh ngạc thốt lên:
- Công phu thật giỏi!
Ngũ Hán Siêu nghe tiếng bèn thu kiếm, trông thấy rõ Dương phu nhân và mấy vị nội quyến, mắt liền hướng thẳng, chắp tay thi lễ chào:
- Kẻ hèn ra mắt phu nhân.
Đám người Hàn Ấu Nương vòng từ hành lang bên hông đi ra, Hàn Ấu Nương cười khẽ nói:
- Ngũ công tử bị thương nặng như vậy, không ngờ đã chóng khỏi rồi.
Ngũ Hán Siêu cười đáp:
- Đó đều nhờ... Cao cô nương diệu thủ hồi xuân. Còn phải cảm tạ đại nhân và phu nhân đã quan tâm chu đáo cho kẻ hèn này.
Vừa nói ánh mắt vừa không kiềm được liếc sang Cao Văn Tâm. Ngày đó hắn nghe Cao Văn Tâm gọi Dương Lăng là 'đại nhân nhà ta', khẩu khí lại không giống như thiếp thất của Dương Lăng, con tim liền hoạt bát trở lại. Bóng hình xinh đẹp lung linh dưới ánh nến và khí chất cao quý của Cao cô nương trong khoảnh khắc vừa tỉnh dậy đã in sâu vào trong lòng hắn; vị thanh niên học nghệ trên núi mười năm này đã động lòng ái mộ.
Hắn nghĩ phụ thân mình tốt xấu gì cũng là châu đồng tri tòng ngũ phẩm, mình lại văn võ song toàn, nhất biểu anh tài, nếu Cao Văn Tâm chỉ là tì nữ Dương phủ, bất luận thế nào mình cũng xứng đôi với nàng ấy. Nhưng bản thân hắn không tiện dò hỏi gia bộc Dương phủ về cô nương nhà người ta. Từ sau ngày đó mỗi lần Cao Văn Tâm đến xem bệnh cho hắn đều luôn kéo theo Cao lão quản gia kè kè bên người, hại hắn đến giờ vẫn như ngắm hoa trong sương mù, tra không ra được thân phận thật của cô nương này. Hiện tại thấy nàng đi chung cùng hai vị thiếu nữ kiều mị cùng búi kiểu tóc phụ nữ đã có gia đình, dáng vẻ không giống như là một thị nữ, trong lòng cảm thấy kế hoạch thất bại rồi.
Khi nãy Hàn Ấu Nương thấy công phu của hắn, biết đó là võ nghệ vô cùng cao siêu, còn võ công của mình là đi theo con đường ngoại gia bá đạo. Tướng công cứ nói điều này đã lâu mà vẫn chưa được học, võ công của người này lại thích hợp để tướng công học tập. Tuy tướng công đã quá tuổi thích hợp để luyện võ, nhưng dùng để cường thân kiện thể vẫn tốt, hơn nữa người này văn võ song toàn, gia thế thanh bạch, nếu có thể giữ lại để phò tá tướng công cũng vẫn có thể xem là một nhân tài.
Hàn Ấu Nương mang trong lòng phần tâm tư này, cho nên đối đãi với hắn càng thêm khách khí, dừng lại chuyện trò vài câu, rồi mới kéo tay Âu Dương phu nhân ra cổng. Cao Văn Tâm cũng nheo mắt liếc hắn một cái, rồi cũng đi theo sau Hàn Ấu Nương ra ngoài.
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai vừa trò chuyện vừa lặng lẽ đi theo phía sau, một cơn lốc cuộn tới, Ngọc Đường Xuân không chú ý, chiếc khăn hoa quàng cổ đã bị ngọn gió cuốn phăng treo trên ngọn cây cao.
Chiếc khăn quàng cổ này là của Dương Lăng đích thân tặng cho nàng lúc từ Giang Nam trở về, Ngọc Đường Xuân nào nỡ vứt bỏ, liền vội chạy đến bên gốc cây, ngước nhìn ngọn cây cao đến mấy trượng, giậm chân kêu:
- Tuyết Nhi, mau đi tìm người mang thang đến đi.
Ngũ Hán Siêu ngửa đầu nhìn thân cây, nói:
- Thang cũng không bắt tới ngọn đâu, xin phu nhân hãy tránh sang bên, kẻ hèn sẽ giúp người lấy xuống.
Ngọc Đường Xuân nhấc váy lùi lại vài bước, đứng cùng Tuyết Lý Mai kinh ngạc nhìn hắn. Ngũ Hán Siêu hít sâu một hơi, găm kiếm vào trong tuyết, nhẹ nhàng búng người tới trước vài bước rồi phóng người nhảy lên trượng hai trượng ba, một chân điểm nhẹ chính xác lên một cành cây, khóm tuyết rơi lả tả, hắn mượn thế lại phóng lên thêm hơn trượng, liên tục hai lần, vươn một tay với lấy chiếc khăn, rồi vặn lưng trên không trung, nhẹ nhàng sà xuống như một con diều hâu.
Nội thương của hắn chưa khỏi hẳn, chỗ bị thương trên ngực cũng chưa lành, cú nhảy này không dám dốc toàn lực, lúc tiếp đất mặt hơi ửng đỏ. Hắn ho khẽ vài tiếng rồi mới đưa khăn qua, nói:
- Phu nhân, khăn của người đây.
Ngọc Đường Xuân cầm lấy khăn, thán phục:
- Thật lợi hại, con người có thể nhảy cao như vậy sao?
Ngũ Hán Siêu mỉm cười đáp:
- Chỉ là chút tài mọn, khiến phu nhân chê cười rồi. Dương đại nhân là tổng đốc nội xưởng, dưới tay tàng long ngoạ hổ, cao thủ như mây, những kẻ tài giỏi hơn xa tại hạ nhất định đều tề tụ dưới trướng.
Tuyết Lý Mai quả không biết dưới trướng phu quân có những người nào, nhưng dẫu sao trước mặt người ngoài quyết không thể lộ dốt cho tướng công được, thế là nàng cười khẽ một tiếng, tinh nghịch nói:
- Xem như ngươi thức thời, dưới trướng lão gia chúng ta quả thực cao thủ như mây, lúc bắt phản loạn Đông xưởng, năm nghìn đấu với tám nghìn mà chỉ bị thương chưa tới bốn chục.
Ngũ Hán Siêu thấy vị tiểu phu nhân này hãy còn ấu trĩ, dễ đối phó hơn vị đứng cạnh bên, bèn thừa cơ dò hỏi:
- Tại hạ tạm trú ở Dương phủ, song lại không biết hai vị phu nhân, cho nên vừa nãy chưa chào hỏi, thật sự thất lễ, không biết nên xưng hô thế nào?
Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân hơi sững người. Thiếp thất ở các hộ gia đình lớn bình thường đương nhiên sẽ phân làm 'nhị phu nhân', 'tam phu nhân'. Hai người được gả vào cùng lúc, Dương Lăng lại không phân biệt đối xử với bọn họ.
Ngọc Đường Xuân thoáng trù trừ, khi nãy thấy Hàn Ấu Nương đối đãi hết sức kính lễ với hắn, nàng cũng không dám đánh mất lễ nghi, bèn điềm đạm đáp:
- Công tử chớ nên khách khí, trong phủ vẫn luôn gọi ta là Ngọc phu nhân, muội ấy là Tuyết phu nhân.
Ngũ Hán Siêu lại thi lễ hỏi tiếp:
- Ra mắt Ngọc phu nhân, Tuyết phu nhân. Ờm... vị cô nương họ Cao giúp kẻ hèn chẩn bệnh trị thương nọ cũng là Dương phu nhân sao? Kẻ hèn không tiện hỏi thẳng trước mặt, lại sợ xưng hô không đúng lễ phép.
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa mắt nhìn nhau, bất tri bất giác lại đột nhiên nhớ đến bức tranh xuân cung khiêu khích nọ, vẻ mặt lập tức có phần ngượng ngập. Quan hệ của hai người bọn họ đã phát triển đến tình trạng như vậy mà vẫn không thấy lão gia có vẻ gì là sốt ruột, chẳng lẽ vì cảm thấy trong một năm mà nạp ba thiếp vào nhà là chuyện khiến người chê cười, nên muốn lần lữa sang năm sao?
Ngọc Đường Xuân do dự đáp:
- Cao cô nương là... thái y ngự tứ của Dương phủ, cũng không phải là nội quyến nhà họ Dương.
Ngũ Hán Siêu vừa nghe liền cả mừng. Vẻ mừng rỡ vừa thoáng hiện bên khóe chân mày, Tuyết Lý Mai đã cười hì hì như một chú chim khách bồi thêm một câu:
- Nếu công tử gọi tỷ ấy là Dương phu nhân thì tỷ ấy cũng sẽ không nổi giận đâu. Hiện tại chưa phải, nhưng qua mấy tháng nữa thì nhất định sẽ phải.
Chú thích:
(1) điều hoà hơi thở
(2) nghèo học văn, giàu học võ; vì đụng tới võ nghệ (thứ thiệt) rất tốn kém. Thậm chí dựng phim chiến tranh cũng tốn kém hơn phim tình cảm nhiều, lúc đó đạo diễn cũng cảm khái "Cùng văn, phú võ".
(3) đường huynh, đường đệ là anh/em con bác bên nội; biểu huynh/đệ là anh/em con cậu bên ngoại
(4) thím
(5) nữ chủ nhân
(6) nguyên văn 'Tướng quân ngạch hoành kham tẩu mã, tể tướng đỗ nội năng xanh thuyền' nghĩa là trán tướng quân có thể phi ngựa, bụng thừa tướng có thể chèo thuyền, ý khuyên con người nên rộng lượng và khoáng đạt trong cách đối nhân xử thế.
(7) chỉ danh tướng Nhạc Phi thời Tống
- Tướng công, nghe nói nhà mình mới đón về mấy vị khách phải không?
Dương Lăng "ừ" rồi đáp:
- Một vị thư sinh trọng thương chưa tỉnh, nghe nói rất giỏi võ nghệ...
Vừa nói đến đây, y sực nhớ ra một chuyện, bèn buột miệng hỏi:
- Đúng rồi, Ấu Nương này, nếu như là nàng, thì có thể nhảy cao đến một trượng không?
Hàn Ấu Nương ngạc nhiên hỏi lại:
-Sao tướng công lại hỏi chuyện này?
Rồi nàng nghênh mặt cười đắc ý:
-Tướng công đã quên trước đây thiếp từng phóng lên đài hành hình cao hơn một trượng rồi à?
Dương Lăng búng mũi nàng một cái, cười nói:
- Biết nàng lợi hại rồi! Tướng công muốn hỏi là nếu đứng tại chỗ bật lên cao một trượng, nàng làm được không?
Hàn Ấu Nương suy nghĩ một chút rồi lắc đầu đáp:
- Không thể, kể cả cha cũng không làm được. Thuật bật thẳng người nếu chỉ dựa vào lực bắp chân thì không thể nào nhảy cao đến một trượng. Thiếp và cha học môn Ngạnh khí công cũng chỉ để cường thân kiện thể, trừ khi là biết thuật điều tức thổ nạp(1) thì mới có thể làm được, cao thủ như vậy cũng cực hiếm.
Nàng bỗng mở to mắt, kéo tay áo Dương Lăng hỏi:
- Tướng công đã gặp qua cao nhân như vậy rồi à?
Dương Lăng cười lớn đáp:
- Cũng không cao lắm, chỉ cao hơn nàng có nửa cái đầu thôi.
Nghe Ấu Nương nói vậy, y chợt cảm thấy có chút nghi ngờ. Lăn lộn cùng đám người Liễu Bưu bấy lâu, y cũng biết được ít nhiều về võ học. Tục ngữ có câu "cùng văn phú võ"(2), trên thực tế thì đa số kẻ luyện võ là những người nghèo khổ, song phần lớn bọn họ đều chỉ tu luyện công phu ngoại môn. Một người con gái trong đoàn ngựa thồ có thể mời ở đâu ra được danh sư về truyền thụ cho võ công thượng thừa, hơn nữa còn luyện thành xuất sắc như vậy chứ?
Tuy nhiên vừa nhớ đến chuyện người thiếu phụ áo đỏ ấy không biết chữ, y lại xua tan ý nghi ngờ nàng có thân phận khác. Hàn Ấu Nương hỏi:
-Tướng công đang nghĩ gì vậy?
Dương Lăng vội nói:
- Hả? À không có gì, tướng công chỉ... Do quê nhà đang gặp phải chiến tranh loạn lạc nên cũng có người vào kinh nhờ cậy, có vẻ bọn họ cũng không định trở về nữa. Ta đang nghĩ làm sao thu xếp cho bọn họ đây.
Hàn Ấu Nương mừng rỡ reo lên:
-Khách đến là đồng hương với chúng ta sao? Là vị thân thích nào vậy?
Dương Lăng cười gượng gạo:
-Là... tam ca Dương Tuyền và con thứ Vân Long nhà đại ca.
Nụ cười của Hàn Ấu Nương lập tức cứng đơ. Dương Lăng cũng biết vị anh con bác này trước đây quả thực không ra gì, nhưng dẫu sao những việc xấu xa hắn làm cũng kín, chưa bị phanh phui, nay hắn gặp nạn, từ ngàn dặm xa xôi chạy đến nhờ vả, nếu cự tuyệt không cho hắn vào nhà, mình sẽ bị người ta nhổ nước bọt dìm chết thôi.
Thời đó quan niệm về dòng họ và hương thổ thật sự rất nặng. Đến nỗi kẻ si mê danh lợi, bo bo giữ mình như Tiêu Phương mà một khi có khách cố hương đến nhờ vả cũng còn không dám không hết lòng góp lời cầu xin hoàng thượng giúp đỡ bọn họ. Huống hồ Dương Tuyền là đường huynh(3) của y, luận về huyết thống xa gần trong quan niệm dòng họ thời bấy giờ thì còn thân thiết hơn thê tử cả một tầng.
Thường ngày Dương Lăng trò chuyện với đám người Lưu Cẩn, từng nghe bọn họ kể rằng, năm xưa vua Hoằng Trị từng tin yêu một người hầu thân cận họ Trương. Do gia cảnh bần cùng, lúc chín tuổi vị thái giám đó đã bị phụ thân thiến đưa vào trong cung, để rồi hai mươi năm sau hắn trở thành một trong những hoạn quan được tin yêu nhất bên cạnh vua Hoằng Trị.
Khi người cha già nghèo túng của hắn vào kinh cầu kiến, do Trương thái giám vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện ngày xưa nên mặc dù thái giám bên người nhiều lần khuyên nhủ, hắn vẫn nhất định không chịu gặp mặt. Kết quả lập tức trở thành cái đích cho mọi người chỉ trích. Về sau hoàng đế nghe được chuyện này, từ đó cũng trở nên lạnh nhạt xa lánh hắn, bảo rằng hắn không biết đạo lý làm người, đại nghịch bất đạo.
Mình đến từ thời hiện đại, trong lòng không có nhiều điều kiêng kị, nhưng không thể không suy xét đến quan niệm của người thời này, không nhận thân tộc họ hàng là trái với luân lý cương thường, trong khi thiên hạ được cai trị bởi những nhà Nho, chỉ cần một điểm này thôi là anh đã đủ bị người ta hặc tội bãi quan rồi.
Dương Lăng bối rối nói:
- Hôm nay bọn họ vừa mới vào kinh, ta cũng không có cách gì khác. Đợi dăm ba ngày nữa sẽ giúp bọn họ tìm chỗ ở, tiếp tế ít lương thực, nếu hắn không chơi bời lêu lổng nữa, ta sẽ tìm cho hắn một công việc, coi như đã tận tâm rồi.
Hàn Ấu Nương liền nhớ tới tên đốn mạt kia. Đường đệ của mình còn bệnh nằm liệt giường mà đã động tay động chân với em dâu, nhớ lại hành vi không chút liêm sỉ của hắn làm nàng lại cảm thấy không thoải mái. Trước đây khi gia tộc mình đến Kê Minh nương nhờ, mình không hề có bất kì hành động thất lễ nào với trưởng bối tôn thất của tướng công. Nay tướng công đã là quan lớn, mình càng phải nên chú ý hơn đến những điểm dễ bị người ta chê trách chỉ trích này mới được.
Thấy bộ dạng khó xử của Dương Lăng, nàng vội khoác áo choàng lên, nhẹ giọng nói:
- Ở lâu trong nhà quả thực bất tiện, nhưng mà tướng công cũng không cần phải tìm chỗ ở cho bọn họ vội, để người ngoài không hiểu chuyện nhìn vào sẽ nói những lời khó nghe.
Dương Lăng thấy nàng khoác thêm áo ngoài, bèn hỏi:
- Nàng định ra ngoài đi dạo à? Hôm nay gió lớn, nàng đừng đi.
Hàn Ấu Nương dịu dàng cười đáp:
- Thiếp đi thăm vị khách nọ còn đang bị thương mà. Nói cho cùng thì Dương Tuyền cũng là tam ca của chàng, Vân Long lại gọi thiếp một tiếng thẩm nương(4). Thiếp là vợ của chàng, sao có thể không quan tâm gì đến cuộc sống của bọn họ chứ?
Dương Lăng vui sướng nói:
- Vợ ngoan, quả nhiên đã có phong thái chủ mẫu(5) nhà họ Dương rồi! Ta còn lo nàng sẽ không vui, nên đang tính giấu nàng nữa cơ.
Hàn Ấu Nương chun mũi, cười tinh nghịch:
- Người ta không có hẹp hòi như vậy đâu. Trước đây hắn buông lời ve vãn ong bướm, nếu không phải vì thấy trong nhà họ Dương, tướng công thân đơn thế cô, sợ chàng không thể tự lo cho mình thì đã dùng côn đánh bay hắn đi rồi. Nay thì không cần Ấu Nương ra tay nữa, tướng công của người ta lợi hại mà... Hắn mà dám... hừm hừm, kể cả cho hắn hai lá gan...
Đôi vợ chồng trẻ rôm rả, cùng nói cười đi đến sương phòng(*) ở nhà chính sân trước. Chú cháu Dương Tuyền mới vừa ăn xong chưa ngủ, vừa nghe vợ chồng bọn họ đến liền vội ra đón. Xưa và nay khác nhau như trời với đất; trạch viện đẹp đẽ sang trọng, gia bộc kính cẩn, loại phong thái cao sang đó Dương Tuyền chưa từng thấy bao giờ.
(*):sương phòng: căn phòng bên cạnh căn phòng chính.
Nhớ lại hành vi vô lễ trước đây, trong lòng hắn thấp thỏm không yên, hắn còn nghe nói thậm chí Hàn Ấu Nương cũng đã được yết kiến hoàng thượng, nay được ban cho thân phận Cáo Mệnh tam phẩm, điều đó đã được huyện Kê Minh ghi chép một cách hết sức long trọng. Dương Lăng rất yêu thương nàng, nếu như nàng ta mượn cớ ấy để trị mình thì hậu quả sẽ rất thê thảm, song hắn lại không nỡ bỏ qua vinh hoa phú quý trong tầm tay.
Đến khi thấy thái độ ân cần, hào phóng và tự nhiên của Hàn Ấu Nương, Dương Tuyền mới cảm thấy yên tâm, liền vội nịnh nọt tâng bốc một phen, chỉ lo nàng vẫn ghi thù hành vi của mình ngày đó.
Dương Vân Long tuy lớn hơn Dương Lăng ba tuổi, nhưng quả thực là con trai của đường huynh y, thế nên hết sức giữ lễ với hai vị tiểu thúc thúc, tiểu thẩm thẩm này. Hắn cũng từng đọc sách, có điều đã đi thi hai lần song vẫn chưa đỗ được tú tài. Tự thấy công danh vô vọng, hắn mới bèn theo tam thúc vào kinh sư dựa dẫm Dương Lăng.
Đợi khi rời khỏi sương phòng, Dương Lăng mới mỉm cười nói với Hàn Ấu Nương:
- Ấu Nương của hôm nay so với trước đây thực đã có khí độ hơn nhiều. Vào kinh được mở mang kiến thức, lại được bọn Ngọc Nhi và Tuyết Nhi hun đúc cho, đối nhân xử thế đã rất có lễ độ.
Chỉ là... nàng vốn không biết giả vờ, lúc nãy cười vẫn hơi gượng gạo. Sau này không cho phép làm vậy với tướng công, bằng không... ta sẽ lấy gia pháp ra 'hầu hạ', chắc chắn phần bên dưới khuôn mặt này sẽ không biết cười vịt vờ đâu.
Vừa nói y vừa vỗ nhẹ bờ mông căng tròn của Ấu Nương một cái, Hàn Ấu Nương kêu lên "ui da", rồi vừa mỉm cười vừa nhảy tới phía trước mấy bước. Dương Lăng vội lật đật kéo nàng lại.
Hàn Ấu Nương kéo một cánh tay của y lên, áp mặt lên tay y thủ thỉ:
- Nghĩ đến sự đáng ghét của hắn là người ta lại không chịu được. Có điều... lúc còn ở quê nhà, Dương tam ca chỉ biết chơi bời lêu lổng, không nghề ngỗng gì, nếu như chàng muốn kiếm cho hắn một công việc, vậy thì phải suy nghĩ kỹ đó. Ca ca làm ở bộ Hình, thường nói với thiếp rằng ở đó quan viên trên dưới đều có vẻ sợ y. Với tính tình hào sảng của huynh ấy mà cũng khó tìm được một bằng hữu tri âm, còn không phải là vì những người đó sợ chàng ư? Với tính cách của Dương tam ca... nếu như hắn lại cáo mượn oai hùm, cậy vào oai danh chàng để làm những điều xằng bậy thì...
Việc đó tự cổ chí kim thực ra không hiếm, Dương Lăng nghe vậy thì khẽ gật đầu. Y cũng cảm thấy cái tên lấc cấc này đến kinh sư khiến mình nuôi thì không ổn, mà đuổi cũng không xong, quả thực có điều khó xử. Đừng thấy hắn lúc này khép nép sợ sệt mà lầm, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Lúc còn ở Dương Gia Bình, hắn đã ỷ là người của gia tộc lớn nhất trong thôn mà bắt gà trộm chó, gây chuyện khắp xóm làng, xem ra không thể chỉ tìm đại một công việc cho hắn là sẽ có thể đuổi hắn đi được.
*****
Cao Văn Tâm cố lấy dũng khí thổ lộ tâm tình nhưng không ngờ lại khiến cho Dương Lăng sợ chạy mất dép. Lúc này nàng đang ngồi âu sầu, tưởng tượng ra cảnh vào lúc này năm sau Dương Lăng vẫn sống sờ sờ không hề hấn gì, đành phải đội khăn đỏ lên đầu gả cho mình. Trong lòng càng nghĩ càng thấy thú vị, thế là nhịn không được bật cười khúc khích, sự bực tức liền tan biến sạch.
Nàng bước đến bên giường, giơ ngọn đèn cúi xuống nhìn, thấy hơi thở vị thư sinh nọ đã ổn định, sau khi tan hết máu bầm trên ngực, cơn sốt cao đã dần được khống chế. Thuốc giao cho nhà bếp sắc đã được đưa đến, có điều còn nóng chưa uống được, Cao Văn Tâm bèn tính châm cứu trước cho y.
Nàng xoay người lấy túi thuốc châm cứu, kéo chiếc ghế đến bên đầu giường ngồi. Mới vừa mở bọc kim châm, thư sinh nọ chợt rên khẽ một tiếng, rồi từ từ mở mắt ra. Cao Văn Tâm mừng rỡ kêu lên:
- Công tử, ngài đã tỉnh rồi sao?
Lúc này, mặt thư sinh lún phún râu ria, hắn cũng chẳng thể biết được vẻ bề ngoài ra sao, có điều tuy đang bị trọng thương, ánh mắt lại vẫn linh động sáng ngời, trông hết sức lanh lợi. Hắn ngờ vực ngước nhìn người thiếu nữ dung mạo xinh đẹp trước mặt, thật lâu sau mới yếu ớt hỏi:
- Phải, tại hạ đã đỡ nhiều rồi, đa tạ ơn cứu mạng của cô nương. Nơi này... là đâu vậy?
Cao Văn Tâm cười tươi đáp:
- Nơi này là Dương phủ ở kinh sư, công tử được lão gia... được đại nhân nhà ta cứu về. Công tử chớ vội ngồi dậy, thương thế trên người vẫn còn nghiêm trọng. Công tử tỉnh dậy thì tốt rồi, ta sẽ châm cứu cho công tử một phen trước, chỉ cần giữ cho thần chí tỉnh táo, vết thương này sẽ không chuyển xấu nữa.
Thư sinh thấy vị cô nương này đang mở bọc vải, rút cây ngân châm ra thì liền ngưng miệng. Lúc này sắc trời khá tối, dưới ánh đèn nến hắn thấy Văn Tâm tóc mây vấn cao, phong thái trang nhã, buột miệng hỏi:
- Cô nương, kẻ hèn nhớ rằng mình thọ thương tại Diên Khánh, sao lại chớp mắt đã đến kinh thành rồi?
Cao Văn Tâm tay vê ngân châm, mắt liếc ngang sang, cười nhẹ đáp:
- Thương thế của công tử tuy nặng, song cũng không đến nỗi hôn mê suốt cả chặng đường, đến nỗi mình được ai cứu giúp, đã đi đến nơi nào cũng đều không hay không biết chứ?
Thư sinh nọ vốn thấy nàng có dung nhan xinh đẹp, phong thái tao nhã bất phàm, tính vịn cớ chuyện trò thêm mấy câu, không ngờ người thiếu nữ này lại thông minh như vậy, lập tức nhìn thấu ý đồ của y. Bị ngầm châm chọc một vố, thư sinh không khỏi đỏ mặt, ngượng ngập không biết nói gì.
Cao Văn Tâm khẽ "hừm" một tiếng, xắn tay áo lên, nghiêm mặt lại bảo:
- Có thể ngồi dậy không? Nếu như tỉnh rồi, lại còn có sức nói nhiều như vậy thì nằm dịch lên chút đi, bản cô nương châm cứu cho.
Cao Văn Tâm học được y thuật cao minh từ thuở nhỏ, vừa lớn đã được gán cho danh hiệu "Nữ thần y", trước giờ tâm cao khí ngạo, tầm mắt rất cao, lúc chẩn đoán chữa bệnh cho quan to khách quý cũng hiếm khi nở được nụ cười. Cũng chỉ có cái đêm kinh tâm động phách được Dương Lăng cứu ra khỏi bể khổ, bị y thấy tấm thân chỉ được che đậy bởi áo yếm, về sau lại có Hàn Ấu Nương ám thị cùng nàng ấy hầu hạ chung chồng, thì nàng mới đối xử với y thùy mị dịu dàng như nước.
Lúc này nhận ra sự ngưỡng mộ của thư sinh này, nàng đương nhiên không vui. Thư sinh nọ chống tay dịch lên một chút, dẫu sao thân thể mới vừa tỉnh lại vẫn còn yếu ớt. Thấy vậy Cao Văn Tâm thừa dịp hắn chống người lên liền kê gối bên dưới, rồi nói:
- Được rồi, cứ nằm như vậy đi.
Thư sinh thở hổn hển mấy hơi, thấy Cao Văn Tâm đưa nến đến sát người, tóc mây hơi rối, nét mặt thanh lệ dịu dàng, bất giác buột miệng khen:
- Vân kế kinh khinh vãn tựu, duyên hoa đạm đạm trang thành. Thanh yên tử vụ tráo khinh doanh, phi nhứ du ti vô..."(*) (tạm dịch: Tóc mây vấn khẽ cao cao, phấn son nhàn nhạt xuyến thêm sắc màu. Khói xanh sương tím bao quanh, bềnh bồng sợi tóc không...)
Còn chưa dứt lời, một tia sáng màu bạc chợt loé lên, một cây ngân châm đã đâm xuyên qua gò má y. Thư sinh chỉ cảm thấy dưới cằm cứng đơ, miệng không khép lại được nữa. Cao Văn Tâm nhíu cặp mày liễu, hừ lạnh mắng:
- Buông lời cợt nhả, thực là đáng ghét!
Liền đó chợt nghe bên ngoài cửa có tiếng người vọng vào:
- Văn Tâm, cô còn ở trong đó không vậy?
Cao Văn Tâm nghe được giọng của Dương Lăng liền mừng rỡ đứng dậy, làm mặt uy hiếp với thư sinh nọ, rồi lật đật xoay người ra đón.
Thư sinh nọ có thể đả thương yêu đạo Lý Phúc Đạt, hiển nhiên có một thân võ nghệ vô cùng phi phàm, một cây ngân châm nho nhỏ đương nhiên không thể chế ngự được hắn, nhưng hắn lại thấy vẻ giận dỗi của Cao Văn Tâm có một ý vị đặc biệt, tâm tình nhất thời xao động, không dám rút cây ngân châm ra để tránh chọc giận giai nhân.
Cao Văn Tâm đón Dương Lăng và Hàn Ấu Nương vào phòng. Dương Lăng nghe nói người nọ đã tỉnh, liền mừng rỡ đi đến trước giường thăm hỏi:
- Huynh đài tỉnh rồi à? Cảm thấy thế nào?
Thư sinh nọ há miệng ú ớ mấy tiếng, hết nhìn Dương Lăng rồi lại ngó sang Cao Văn Tâm, vừa định đưa tay rút cây ngân châm ra, trông thấy Cao Văn Tâm trừng cặp mắt bồ câu lên, liền vội rụt tay lại. Cao Văn Tâm vờ cười trả lời thay:
- Công tử mới vừa được châm cứu, hiện tại vẫn chưa thể cử động.
Thư sinh nghe vậy thì khổ sở gật đầu, Dương Lăng nghi ngờ hỏi:
- Ngực bị thương mà cần phải châm cứu mặt à, y thuật Cao gia quả nhiên thần diệu vô cùng.
Hàn Ấu Nương dịch chiếc ghế ra một chút, nói:
- Tướng công gấp làm gì, nếu như vị tráng sĩ này đã tỉnh rồi, đợi thêm một chút rồi trò chuyện cũng đâu muộn. Tỷ tỷ à, thương thế của tráng sĩ có nghiêm trọng không?
Thư sinh nọ nghe tiểu cô nương thanh tú này gọi vị công tử anh tuấn hiên ngang ở trước mặt mình là tướng công, lại gọi người con gái mỹ mạo mà hắn ngưỡng mộ là tỷ tỷ, thì không khỏi giật thót trong lòng. Hắn biết giữa thê thiếp các hộ gia đình giàu có thường gọi nhau là tỷ muội, chẳng lẽ giai nhân đã có nơi gắm gửi rồi?
Nãy giờ hắn vẫn há miệng, nước miếng đã sắp chảy cả ra ngoài, nếu như mỹ nữ đã có chồng, vậy hắn cũng không cần phải lấy lòng chi cho mất mặt nữa. Thư sinh rút cây ngân châm ra khỏi mặt, vặn vẹo miệng mấy cái rồi gượng cười nói:
- Đa tạ ơn cứu mạng của công tử và phu nhân, kẻ hèn thực cảm kích không hết.
Dương Lăng thấy vị thư sinh này da ngăm đen, mặc dù dung nhan tiều tuỵ, nhưng mặt mày sáng sủa vô cùng, nhìn trông rất vừa mắt, bèn cản vai hắn bảo:
- Cứ nằm đi. Huynh đài là người phương nào, họ tên là gì, nghe nói... là một đạo sĩ đã đả thương huynh đài?
Thư sinh thuận thế nằm xuống, mắt thấy công tử trẻ tuổi này dung mạo còn tuấn tú hơn mình mấy phần, khí độ cũng rất bất phàm, hai giai nhân đó hẳn là hiền thê mỹ thiếp của người ta, bèn tự hơi cảm thấy hổ thẹn khi nãy đã buông lời khinh xuất. Hắn mỉm cười đáp:
- Dạ, kẻ hèn là người Tùng Tư, Hồ Bắc, họ Ngũ tên Hán Siêu, thuở nhỏ học nghệ trên Võ Đang. Ngày đó thấy một yêu đạo đang mê hoặc hương dân, nên muốn bắt gã giao cho quan phủ truy xét, tiếc là bản lĩnh không bằng người...
Rồi hắn khẽ lắc đầu cười, nói tiếp:
- Công tử không cần phải nghi ngờ, gia phụ vừa mới nhậm chức Đồng tri ở phủ Thành Đô, tên húy là Văn Tự. Kẻ hèn cũng là gia đình quan lại, không phải là phường lưu manh trộm cướp đâu.
Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi nói:
- Ngũ Văn Định à? Ồ... nhớ rồi nhớ rồi, ha ha, hoá ra là công tử của Ngũ Văn Định. Ta quả có nghe qua danh hiệu của lệnh tôn đại nhân.
Ngũ Văn Định nguyên là quan tiến cử ở Thường Châu, mấy ngày trước Nguỵ Quốc công Từ Phủ tranh chấp ruộng đất với dân, kiện cáo lên đến tận trên châu. Ngũ Văn Định phán giao mảnh ruộng đó cho bá tánh bình dân nọ khiến cho Ngụy Quốc công nổi giận đùng đùng, cậy vào quan hệ mà chuyển vụ án vào kinh thành, hòng nghiêm trị Ngũ Văn Định. May thay lúc đó Hàn Uy đang ở bộ Hình, khi tới thăm vợ chồng Dương Lăng buột miệng nhắc đến chuyện này, cho nên Dương Lăng đã bảo Tiêu Phương chiếu cố một chút. Do đó chẳng những ông ta không bị trừng phạt mà còn được thăng chức lên làm Đồng tri ở phủ Thành Đô. Dương Lăng không ngờ kẻ mình cứu lại là con trai ông ta.
Ngũ Hán Siêu nghe y gọi thẳng tên húy cha mình không hề kiêng kị, thì tỏ vẻ không vui. Thấy vậy, Cao Văn Tâm liền nói:
- Đại nhân nhà ta là thống lĩnh ngự tiền thân quân, tổng đốc Nội xưởng Dương đại nhân, không biết Ngũ công tử có từng nghe nói tới chưa?
Ngũ Hán Siêu vừa nghe lập tức cả kinh. Tiêu Phương giỏi về lung lạc lòng người, lại biết thế lực Dương Lăng, cũng là chỗ dựa của lão, vẫn còn rất yếu, cho nên lúc giúp đỡ cho Ngũ Văn Định đã âm thầm tiết lộ cho ông ta biết rằng do Dương Lăng hỏi đến nên Ngụy Quốc công mới không thể hãm hại ông ấy.
Sau khi Ngũ Hán Siêu học nghệ thành tài xuống núi du lịch bốn bể đã từng gặp cha, đương nhiên biết được mấu chốt trong đó. Hắn càng biết rằng quyền thế Dương Lăng như mặt trời chính ngọ, đừng nói là gọi thẳng tên húy của phụ thân hắn mà cho dù vị Đồng tri đại nhân đó có đứng trước mặt y cũng sẽ phải khom gối quỳ vái ra mắt thượng quan.
Ngũ Hán Siêu là con cháu quan lại, vừa nghe đây là quan lớn trong triều, vẻ tự nhiên tiêu sái lập tức biến mất hoàn toàn, lúng túng nói:
- Thì ra... thì ra là Dương đại nhân. Nghe uy danh đại nhân đã lâu, thảo dân mang thương thế trên người, không thể làm tròn lễ...
Dương Lăng ngắt lời:
- Chậc, ta và huynh đài xưng hô huynh đệ không phải là tốt hơn sao? Hà tất dùng những lễ nghi rườm rà chốn quan trường đó? Huynh đài trên người còn mang thương thế, đừng nói chuyện nhiều. Văn Tâm, mau giúp Hán Siêu huynh trị thương đi.
Cao Văn Tâm dạ một tiếng, đi đến thu lại cây ngân châm trong tay Ngũ Hán Siêu, rồi lại rút ra một cây khác, nhắm ngay huyệt đạo dưới cần cổ mà vê nhẹ xuống. Người ngọc ở ngay trước mắt, mùi thơm nhàn nhạt lan toả khắp người, làn da trơn nhẵn như ngọc ửng lên vầng sáng dịu dàng dưới ánh nến, Ngũ Hán Siêu lại không dám có tơ tưởng gì, đành phải nín thở thu mắt lại, im lặng cho nàng chữa trị.
*****
Chú cháu Dương Tuyền đến Dương phủ đã được năm ngày, vào ngày thứ hai Dương Lăng và thê thiếp đã mở tiệc thết đãi cặp chú cháu trong tộc này. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đều là tuyệt sắc giai nhân, lại mặc lụa hoa tơ gấm, đeo vòng châu lắc ngọc, thực ngỡ như tiên nữ giáng trần.
Mặc dù Dương Tuyền không còn dám có bất kỳ ý nghĩ không yên phận gì với gia quyến của vị đường đệ này, song vẫn ngây mắt nhìn. May mà theo lễ nghi, những vị nội quyến này chỉ ra mắt một lần liền quay trở lại nội viện, cho nên Dương Tuyền mặc dù hâm mộ cũng chỉ đành ”ngắm trăng dưới giếng” mà thôi.
Mấy ngày qua khí trời trong lành ấm áp, tuyết đã ngừng rơi, Dương Lăng cũng thầm kêu may mắn không thôi. Nếu trời lại đổ thêm trận tuyết lớn nữa, dân chạy nạn quanh thành sẽ khó mà sống nổi.
Được sự gợi ý của Thành Khởi Vận, y biết rằng để khiến những phú hộ giàu có phát chẩn cứu tế thực ra không khó. Lương thực hao phí mỗi ngày không đến trăm lạng bạc, đối với những phú hộ giàu có đó mà nói thật sự như muối bỏ bể, chỉ cần dùng danh tiếng dụ bọn họ thì không lo bọn họ sẽ không góp tay.
Dương Lăng bèn đi gặp Lý Đông Dương, lại đích thân tới thăm Chu Cương và Trương Hạc Linh. Có hai nhà này làm gương phát chẩn cứu tế, có Lý Đông Dương đích thân viết tên lên bia công đức đặt ở Hộ Quốc tự trong kinh sư, lập tức thân hào quý tộc kinh sư ùn ùn hưởng ứng, dân góp người, quan góp sức, lều lán cứu tế được dựng lên khắp kinh thành. Những lao động khoẻ mạnh cũng được cho vào thành tìm việc; bọn họ lấy tiền công thấp, lại chịu được vất vả, thế là bỗng chốc cả làng đều vui.
Lúc này, Dương Lăng vừa mới chạy vào trong cung, lòng ngổn ngang trăm mối. Mấy ngày qua khắp triều đình liên tục nhận được tình báo đại quân giành lại được đất bị cướp, đuổi đánh giặc Thát, thế là cả triều phấn khởi.
Nhưng theo tin hỏa tốc truyền về từ Nội xưởng, thì mấy trận đầu quân Minh cậy vào nhuệ khí quả thực đã chiến thắng, chém rơi nghìn đầu giặc, thu được mấy nghìn thớt ngựa và lạc đà, đồng thời cướp lại được số lớn của cải và người dân bị bắt đi.
Thế nhưng không biết Miêu Quỳ có phải bị thắng lợi làm mê muội đầu óc hay không mà lòng tham công nổi lên, thấy quân địch rút lui liền dốc toàn lực truy kích. Kỵ binh quân Minh có hạn, lực chiến đấu và tính cơ động không đủ, lại phải chia binh đuổi theo giặc Thát chia làm ba lộ rút lui. Kết quả bị Bá Nhan Khả Hãn điều khiển đại quân vây đội quân tiên phong đang đơn độc thâm nhập lại thành như bánh kẹp, ba nghìn quân tinh nhuệ mất sạch vào tay giặc. Nay địch quân thừa dịp quân Minh phân tán chưa kịp tập hợp, đã bắt đầu tập kết trọng binh phản công Đại Đồng.
Dương Lăng suy tính trước sau, đã quyết định đề bạt Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân đến biên cương lĩnh soái. Nhưng hai người này một người nhàn rỗi ở nhà, một người đang ăn cơm tù, đều là những người từng đắc tội với Lưu Cẩn, tiến cử tuỳ tiện nhất định sẽ dẫn đến khúc mắc với Lưu Cẩn. Dương Lăng lo nghĩ rất lâu mới quyết định thuyết phục Lưu Cẩn trước, rồi mới đi gặp Chính Đức. Y đã chuẩn bị sẵn câu từ, nào ngờ khi gặp Lưu Cẩn, vừa mới nói rõ ý định thì chỉ thoáng trầm ngâm lão liền đã vui vẻ đồng ý luôn, khiến Dương Lăng rất bất ngờ. Tuy nhiên chiến sự biên giới quá khẩn cấp, y cũng chẳng để tâm nghĩ ngợi nhiều, vội vàng lôi Lưu Cẩn đi gặp Chính Đức.
Mã Vĩnh Thành dẫn hai người bọn họ chạy đến Ngự Hoa viên, thấy Chính Đức đang được mấy cung nữ thái giám hầu hạ chơi đánh quay trên mặt băng, trên con quay gắn thêm cái còi, phát ra tiếng kêu "tu tu".
Chính Đức mặc bộ áo ống bó màu đỏ sẫm, bên ngoài khoác áo lông cừu cộc tay màu thạch anh, đang chơi rất hăng say. Trông thấy Dương Lăng đến, hắn liền chỉ tay vào một cô nương mặc áo da chồn viền tím bên cạnh cười giục:
- Đánh mau lên, đánh mau lên, nếu con quay bị ngã, trẫm sẽ phạt nàng đó.
Chính Đức vừa quay đầu lại nói một cách luyến tiếc, vừa đi đến bên cái hồ cảnh đỡ Dương Lăng đang định sụp lạy dậy, cười nói:
- Miễn lễ miễn lễ, Dương khanh có biết chơi trò đánh quay này không? Trẫm và Giải Ngữ cùng Tu Hoa mới vừa học được đấy, chơi vui lắm.
Dương Lăng lắc đầu cười đáp:
- Trò này vi thần không biết, nhưng mà lúc nhỏ thần từng chơi trượt băng, phải sử dụng cả hai chân, nếu không thì sẽ ngã ngay.
Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, thích thú hỏi ngay:
- Chơi như thế nào? Mau chỉ cho trẫm đi!
Dương Lăng ho khan một tiếng rồi nói:
- Hoàng thượng, hay là bỏ qua trò đó đi, hai chân chơi xong đứng dậy không nổi đó. Một chân thì trượt rất nhanh, nhưng sẽ khiến cho ngài ngã đến mặt mũi bầm dập, lúc đó hoàng thái hậu còn không lấy đầu của thần ư?
Chính Đức đang vò đầu bứt tai thực sự nghĩ không ra cái gì mà chốc thì hai chân chốc thì lại một chân, đang định hỏi rõ thêm thì Dương Lăng đã giành kể ngắn gọn tình hình chiến sự mới nhất ngoài biên tái một lượt. Chính Đức vừa nghe liền cả giận, quát lớn:
- Láo toét!
Mã Vĩnh Thành hoảng sợ quỳ mọp xuống đất, mấy người trên mặt tuyết nghe hắn quát cũng không dám tụ tập chơi đùa nữa, đứng ở xa không dám lại gần. Chỉ có hai cô nương một cao một thấp, khoác áo và đội mũ lông chồn nâu, mắt sáng răng ngà bước đến, người con gái thấp hơn tươi cười nói:
- Hoàng huynh, đừng có như pháo hễ động vào là nổ bùng lên như thế chứ. Dương đại nhân lại trêu chọc gì huynh rồi à?
Dương Lăng mỉm cười, thấy người thiếu nữ tươi cười như hoa đó là công chúa Vĩnh Thuần, còn vị cô nương dong dỏng như ngọc đẹp, áo đen da trắng rạng ngời đứng bên cạnh chính là Vĩnh Phúc, thì liền vội khom người hành lễ:
- Ra mắt trưởng công chúa và Vĩnh Thuần công chúa điện hạ!
Chính Đức đỏ mặt quát lên:
- Trước lúc bọn chúng đi trẫm đã ba lần bảy lượt căn dặn bọn chúng không được chia quân, không được tiến bừa, vậy mà bọn chúng lại coi lời của trẫm như gió thoảng bên tai. Mã Vĩnh Thành, lập tức truyền ý chỉ của trẫm, bắt ba cái tên ngu xuẩn đó về kinh trị tội!
Công chúa Vĩnh Thuần thấy ông anh mình thật sự đang nổi trận lôi đình, thế là tinh nghịch le lưỡi không nói nữa. Công chúa Vĩnh Phúc liếc nhanh Dương Lăng một cái, thấy y khoác áo khoác da chồn màu đen viền vàng, anh tuấn trang nghiêm, khí chất càng trưởng thành chững trạc, khuôn mặt không khỏi hơi ửng lên, vội khẽ giọng nói:
-Dương đại nhân hãy mau đứng dậy, không cần câu nệ.
Chính Đức hậm hực vất chiếc roi sang một bên. Chiếc roi đó được làm từ san hô, trên chuôi quấn tơ vàng, núm chuôi còn cẩn bảo thạch. Mã Vĩnh Thành vội cuống quít bò tới nhặt lại từ trong đống tuyết rồi dùng tay áo lau phủi tuyết đi như thể nó là bảo bối của mình vậy.
Chính Đức cũng chả thèm nhìn, đỡ Dương Lăng đứng dậy rồi nói:
- Đi, theo trẫm về cung Càn Thanh, chúng ta bàn bạc kỹ lưỡng một phen.
Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành mau lẹ bước theo sau. Công chúa Vĩnh Phúc chậm rãi bước đến dưới hành lang bên hồ, ống tay áo lợp nhung đen mượt đặt trên thành lan can chạm trổ, đưa mắt nhìn theo hướng mấy người rời đi, gương mặt thanh nhã trắng ngần chất chứa một nỗi cô đơn.
Trở về tới gác Tây Noãn, vừa đặt mông xuống ghế, Chính Đức liền nói:
- Đại Đồng đông nối liền Thượng Cốc, nam thông với Tịnh Hằng, tây tiếp giáp Hoàng Hà, bắc đổ ra sa mạc, cả ba mặt đều giáp biên giới, thực sự là bức thành che chở kinh sư của trẫm, nếu bị mấy vạn đại quân giặc Thát đánh sâu vào nội địa Trung Nguyên, vậy hậu quả thực sẽ khó lường. Ba tên... ba tên..., Dương khanh, khanh thấy trẫm có cần phải phái thêm đại quân không?
Dương Lăng liền thưa:
- Hoàng thượng, Miêu Quỳ cũng xem như đã cẩn thận, quân phòng thủ tập kết ở Đại Đồng được bốn vạn. Không có quân số đông gấp mấy lần và vũ khí công thành lợi hại thì giặc Thát có muốn đánh chiếm tòa thành lũy sâu tường vững này cũng sẽ không hề dễ dàng. Hơn nữa binh mã các lộ tiến công cũng đang gấp rút quay về chi viện, Đại Đồng hẳn sẽ không thất thủ đâu.
Chính Đức tuy ham chơi, song cũng biết coi trọng chuyện dùng binh, nghe vậy mới cảm thấy yên tâm hơn. Dương Lăng lại nói:
-Điều mà thần lo lắng là giặc Thát công thì ta ắt cứu, đại quân bị bọn chúng kiềm chế và dắt mũi, tất cả mọi bố trí ban đầu đều bị xáo trộn, sẽ khó mà vãn hồi được thế cuộc suy tàn.
Chính Đức vỗ mạnh bàn một cái, đột nhiên hưng phấn đứng dậy nói:
- Để trẫm thân chinh, Dương khanh làm tiên phong, chúng ta đánh thắng một trận thật hoành tráng cho kẻ khác thấy.
Mã Vĩnh Thành định mở miệng nói, Dương Lăng đã vội cướp lời:
- Hoàng thượng, đạo dùng binh không đơn giản như vậy đâu. Thần đang nghĩ rằng, quân đoàn tinh nhuệ của Đại Minh là kinh quân, nhưng sức chiến đấu của kinh quân lại không bằng biên quân vốn chỉ có trang bị và khí giới sơ sài, nguyên do chính là vì thiếu tập luyện.
Sau khi chiến sự kết thúc, hoàng thượng có thể điều kinh quân đến biên tái, dùng bọn giặc Thát hung hãn làm thầy giáo tốt nhất, các bộ luân phiên canh giữ biên cương và luyện binh, đồng thời điều biên quân về kinh thành, do thần và hoàng thượng mỗi người tự lĩnh quân tác chiến, học hỏi bản lĩnh thống binh lĩnh soái từ những đội quân có kinh nghiệm thực chiến phong phú này. Đến khi ấy, quân đội Đại Minh ai ai cũng đều có kinh nghiệm trận mạc phong phú, quân có thể chiến đấu, quan có thể làm tướng, lúc đó hoàng thượng lại đích thân lĩnh binh tiến ra biên giới, diễn lại oai phong thời hai vua Hồng Vũ và Vĩnh Nhạc. Hoàng thượng thấy thế nào ạ?
Chính Đức nghe vậy sướng rơn, hỏi dồn:
-Hay lắm, rất hay, vậy theo khanh thấy thì hiện tại trẫm nên làm thế nào?
Dương Lăng liếc mắt sang Lưu Cẩn, Lưu Cẩn vội cười siểm đỡ lời:
- Chiến sự tiền phương bất lợi, không phải là vì quân ít tướng hèn, mà vì không có tướng tài thống lĩnh. Nô tài đã kiểm tra Dương Nhất Thanh mà Lý đại học sĩ tiến cử, nghe nói người này rất am hiểu binh pháp, hiểu rõ biên cương, thiện dã chiến, có thể làm chủ soái Đại Đồng.
Chính Đức gật đầu nói:
- Chuẩn cho, Dương Nhất Thanh này hiện đang ở chỗ nào?
Dương Lăng mỉm cười đáp:
- Mấy ngày trước gã không biết thức thời, dâng sớ nói giúp cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, hiện bị bãi chức đang ở nhà nhàn rỗi. Bất quá một khi hoàng thượng hạ thánh chỉ, gã nhất định sẽ vui mừng tòng mệnh. Ngoài ra thần còn xin tiến cử thêm một người, là con của thượng thư Vương Hoa của bộ Lễ tên là Vương Thủ Nhân, chính là chủ sự bộ Binh người đã trình lên hoàng thượng phương pháp khắc chế đao sắc của người Oa. Người này không câu chấp mưu lược trận địa, thích tùy cơ ứng biến, rất hợp với tình thế chiến trường có thể thay đổi trong nháy mắt, có thể đề bạt hắn trợ giúp cho Dương Nhất Thanh.
Lưu Cẩn thấp thỏm lo lắng, sợ Chính Đức lại hỏi một câu "người này hiện đang ở chỗ nào", may mà khi Chính Đức nghe nói chủ sự bộ Binh thì tưởng rằng gã vẫn còn đương nhiệm, nên cũng không hỏi nhiều.
Dương Lăng lại thưa:
- Hoàng thượng, Dương Nhất Thanh vì phạm tội nên bị bãi chức. Lần này hoàng thượng trọng dụng lại gã, gã nhất định sẽ mang ơn đội nghĩa. Nhưng thân gã đang mang tội, nếu lại phái giám quân, Dương Nhất Thanh ắt sẽ nhụt tâm thoái chí, còn phải chịu cản trở, không thể thi triển hết sở trường.
Tục ngữ có câu 'nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì chớ nghi ngờ', hoàng thượng có thể ra lệnh gã toàn quyền phụ trách chiến sự, tiết chế tam quan, làm tam trấn tổng binh huyện Thiên Quan, tỉnh Thái Nguyên. Nếu có thể lập chiến công, đánh bại giặc Thát, thì thăng lên làm Tam biên tổng chế. Cùng lúc sử dụng ơn huệ và an ủi, Dương Nhất Thanh tất sẽ toàn lực làm việc, dốc sức phục vụ!
Lưu Cẩn vừa nghe lập được chiến công thì sẽ thăng Dương Nhất Thanh lên làm Tam biên tổng chế giống như Vương Việt năm xưa, nắm giữ mười vạn đại quân, trong lòng liền cảm thấy không ổn. Vừa định khuyên can, Chính Đức đã nói:
- Được, nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, chỉ cần gã giải quyết được nỗi ấm ức này cho trẫm, trẫm sẽ phong hắn làm Tam biên tổng chế.
Nói đoạn Chính Đức chấp bút đích thân viết một tờ thánh chỉ, bảo Mã Vĩnh Thành triệu Thượng Bảo giám đóng ấn, rồi lệnh cho lão ta lập tức đi truyền chỉ. Lưu Cẩn nhớ ra mình vẫn còn một chiêu ám kế, thế là cũng không nói thêm gì.
Đến khi hai người rời khỏi cung Càn Thanh, Lưu Cẩn mới oán trách:
- Dương đại nhân, cái tên Dương Nhất Thanh đó và chúng ta không chung thuyền, ngộ nhỡ để gã lập được đại công, nắm giữ trọng binh, há chẳng sẽ mang phiền phức đến cho chúng ta sao?
Dương Lăng cười đáp:
- Ngài sợ gì chứ? Năm xưa Vương Việt cũng là Tam biên tổng chế, vậy mà chẳng phải một tờ thánh chỉ nói bắt vào kinh liền bắt vào kinh đó sao. Công công là nội tướng của Đại Minh, nắm giữ một nửa triều đình, tục ngữ thường nói 'bụng tể tướng có thể chèo thuyền'(6), gã dâng sớ cầu xin cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, chứng tỏ người này cũng trọng tình trọng nghĩa, công công hà tất quá so đo?
Sắc mặt Lưu Cẩn lập tức trở nên hết sức hoà hoãn, lão ta mỉm cười dè dặt nói:
- Nói chí phải, khà khà, đến khi đó ta lại động tay chân vào quân giới khiến hắn không hoàn thành đại sự là được.
Dương Lăng giật mình thất kinh, vội ngăn:
- Vạn lần không thể!
- Hử?
Lưu Cẩn nghi hoặc nhìn y, hỏi:
-Chẳng lẽ Dương đại nhân không phải vì muốn tìm một kẻ chết thay đỡ tội cho Miêu Quỳ nên mới đẩy hai cái tên chướng mắt này ra chiến trường sao? Cớ sao lại bảo vệ bọn chúng như vậy?
Dương Lăng định thần lại một chút rồi mới nói:
- Ờ... thì đúng là như vậy. Miêu Quỳ và chúng ta là ngựa chung một tàu, gặp họa thì cùng chịu mà gặp phước thì cùng hưởng, nếu để lão ta thua đến không thể vãn hồi mới triệu về kinh, công công và ta nhất định sẽ bị ngoại quan hặc tội. Nhưng công công chớ quên, hiện tại Dương Nhất Thanh không phải là do Lý đại học sĩ đề cử, mà là chính miệng công công tiến cử, cái tên Vương Thủ Nhân nọ cũng là do bản quan tiến cử.
Nếu như hai người bọn họ lập được chiến công thì chúng ta sẽ được xem là biết nhìn người, biết dùng người, nước lên thì thuyền lên, uy danh chói lọi. Nhược bằng bọn họ thất bại, đừng thấy bọn họ cùng một hệ với Lý Đông Dương mà lầm, đám người ngoại đình ắt sẽ đổ món nợ ấy lên đầu chúng ta. Công công mới nhậm chức nội tướng, nếu dưới sự chủ trì của công công, quân ta đánh bại bọn giặc Thát hung tợn thiện chiến, ai sẽ dám không thừa nhận tài phò chính của công công? Công lao bọn họ có lớn dường nào, phần công lao lớn nhất còn không phải là của công công à?
Lưu Cẩn vỗ trán nói:
-Phải rồi, Dương đại nhân nói chí lí, xem ra phần cung ứng quân nhu này ta không thể qua loa được. Hừ! Có điều không ngờ hai cái tên không biết thức thời đó đối đầu với ta, nay lại phải chia cho bọn chúng một phần công to, thực là béo bở cho bọn chúng quá.
Lưu Cẩn nói với giọng không phục, trong lòng cũng đã âm thầm tính toán. Bản thân lão là kẻ tham ô, song lại không muốn thấy người khác tham ô, lão thích sử dụng thân nhân làm thân tín, song ghét nhất là kẻ khác dựa dẫm bám víu vào quan hệ. Hơn nữa lão tuy là thái giám song lại không hề tín nhiệm thái giám, cho nên vẫn luôn muốn trọng dụng một số người phe ngoại đình, phát triển thế lực của bản thân. Hiện tại nếu đã không thể lật đổ Dương Nhất Thanh, lão liền âm thầm tính toán làm sao để có thể chiêu nạp cho mình dùng.
Thấy đã thuyết phục được Lưu Cẩn, lúc này Dương Lăng mới thầm thở phào nhẹ nhõm. Đại quân đang chiến đấu ở bên ngoài, nếu như trong triều có người tay nắm quyền lớn như vậy mà ngấm ngầm ngáng chân, thì cho dù là Nhạc Vũ Mục(7) tái thế cũng đừng hòng thắng giặc.
*****
Trong Dương phủ, Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Cao Văn Tâm tiễn Âu Dương phu nhân ra về, bọn họ nói cười vui vẻ, hợp ý vô cùng.
Vị phu nhân của Nghiêm Tung còn lớn hơn tướng công thị một tuổi, nhưng tri thư đạt lễ, nết na hiền lành. Nàng giống như Ấu Nương, cũng bầu bạn cùng tướng công mình từ thuở cơ hàn, cho nên rất được Nghiêm Tung kính trọng.
Bà ta thường hay đến nhà trò chuyện cùng đám người Hàn Ấu Nương việc vặt trong nhà, một mặt là do tướng công vốn không có thế lực chống lưng, hắn đã ngầm tỏ ý muốn bà ta kết giao với một đám nhân vật quyền thế nhằm có thể đứng vững trong kinh sư, đồng thời đích thực cũng bởi bà ta và mấy người Hàn Ấu Nương rất tâm đầu ý hợp.
Bà ta cùng trượng phu mình thành thân đã lâu, nay đã hai mươi sáu tuổi song lại vẫn chưa có mụn con. Hiện tại tướng công đã có quan tước, điều kiện gia cảnh cũng rất tốt, bà ta cũng từng nảy ra ý định muốn nạp thiếp lấy vợ bé cho trượng phu, song lại bị Nghiêm Tung nghiêm khắc cự tuyệt. Việc này càng khiến cho Âu Dương phu nhân cảm thấy hổ thẹn không thôi.
Hôm nay đến Dương phủ viếng thăm, nghe tin vui Hàn Ấu Nương đã mang thai, Âu Dương thị rất đỗi hâm mộ. Cao Văn Tâm nghe bà ta kể tâm sự bèn bắt mạch giúp cho, rồi ghi một đơn thuốc, bảo cầm về uống thử. Vốn đã từng nghe đại danh của nữ thần y, thế là bà ta bèn cất kỹ đơn thuốc vào người như thể là báu vật, hận không thể lập tức lắp hai cánh bay đến tiệm thuốc ngay.
Nhìn thấy điệu bộ hồn vía trên mây của bà, Hàn Ấu Nương bèn cùng mấy tỷ muội đưa tiễn về. Lúc này Ngũ Hán Siêu đang luyện kiếm trước tiền đình. Hắn vẫn chưa khỏi hẳn thương thế, nhưng người từng tu luyện nội công thượng thừa lấy điều hoà hơi thở bên trong làm phụ trợ, khiến tốc độ hồi phục mau chóng vô cùng.
Hàn Ấu Nương cùng Âu Dương phu nhân đi ở phía trước, vừa mới rẽ từ hành lang hông qua, trông thấy vị công tử của Ngũ đồng tri hất, đâm, quét, chém; kiếm pháp sử dụng kình lực liên miên, cương nhu có cả, kiếm thế uyển chuyển mà hùng hồn. Nàng tuy không biết kiếm pháp nội gia song lại hiểu được lợi hại trong đó, nhịn không được kinh ngạc thốt lên:
- Công phu thật giỏi!
Ngũ Hán Siêu nghe tiếng bèn thu kiếm, trông thấy rõ Dương phu nhân và mấy vị nội quyến, mắt liền hướng thẳng, chắp tay thi lễ chào:
- Kẻ hèn ra mắt phu nhân.
Đám người Hàn Ấu Nương vòng từ hành lang bên hông đi ra, Hàn Ấu Nương cười khẽ nói:
- Ngũ công tử bị thương nặng như vậy, không ngờ đã chóng khỏi rồi.
Ngũ Hán Siêu cười đáp:
- Đó đều nhờ... Cao cô nương diệu thủ hồi xuân. Còn phải cảm tạ đại nhân và phu nhân đã quan tâm chu đáo cho kẻ hèn này.
Vừa nói ánh mắt vừa không kiềm được liếc sang Cao Văn Tâm. Ngày đó hắn nghe Cao Văn Tâm gọi Dương Lăng là 'đại nhân nhà ta', khẩu khí lại không giống như thiếp thất của Dương Lăng, con tim liền hoạt bát trở lại. Bóng hình xinh đẹp lung linh dưới ánh nến và khí chất cao quý của Cao cô nương trong khoảnh khắc vừa tỉnh dậy đã in sâu vào trong lòng hắn; vị thanh niên học nghệ trên núi mười năm này đã động lòng ái mộ.
Hắn nghĩ phụ thân mình tốt xấu gì cũng là châu đồng tri tòng ngũ phẩm, mình lại văn võ song toàn, nhất biểu anh tài, nếu Cao Văn Tâm chỉ là tì nữ Dương phủ, bất luận thế nào mình cũng xứng đôi với nàng ấy. Nhưng bản thân hắn không tiện dò hỏi gia bộc Dương phủ về cô nương nhà người ta. Từ sau ngày đó mỗi lần Cao Văn Tâm đến xem bệnh cho hắn đều luôn kéo theo Cao lão quản gia kè kè bên người, hại hắn đến giờ vẫn như ngắm hoa trong sương mù, tra không ra được thân phận thật của cô nương này. Hiện tại thấy nàng đi chung cùng hai vị thiếu nữ kiều mị cùng búi kiểu tóc phụ nữ đã có gia đình, dáng vẻ không giống như là một thị nữ, trong lòng cảm thấy kế hoạch thất bại rồi.
Khi nãy Hàn Ấu Nương thấy công phu của hắn, biết đó là võ nghệ vô cùng cao siêu, còn võ công của mình là đi theo con đường ngoại gia bá đạo. Tướng công cứ nói điều này đã lâu mà vẫn chưa được học, võ công của người này lại thích hợp để tướng công học tập. Tuy tướng công đã quá tuổi thích hợp để luyện võ, nhưng dùng để cường thân kiện thể vẫn tốt, hơn nữa người này văn võ song toàn, gia thế thanh bạch, nếu có thể giữ lại để phò tá tướng công cũng vẫn có thể xem là một nhân tài.
Hàn Ấu Nương mang trong lòng phần tâm tư này, cho nên đối đãi với hắn càng thêm khách khí, dừng lại chuyện trò vài câu, rồi mới kéo tay Âu Dương phu nhân ra cổng. Cao Văn Tâm cũng nheo mắt liếc hắn một cái, rồi cũng đi theo sau Hàn Ấu Nương ra ngoài.
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai vừa trò chuyện vừa lặng lẽ đi theo phía sau, một cơn lốc cuộn tới, Ngọc Đường Xuân không chú ý, chiếc khăn hoa quàng cổ đã bị ngọn gió cuốn phăng treo trên ngọn cây cao.
Chiếc khăn quàng cổ này là của Dương Lăng đích thân tặng cho nàng lúc từ Giang Nam trở về, Ngọc Đường Xuân nào nỡ vứt bỏ, liền vội chạy đến bên gốc cây, ngước nhìn ngọn cây cao đến mấy trượng, giậm chân kêu:
- Tuyết Nhi, mau đi tìm người mang thang đến đi.
Ngũ Hán Siêu ngửa đầu nhìn thân cây, nói:
- Thang cũng không bắt tới ngọn đâu, xin phu nhân hãy tránh sang bên, kẻ hèn sẽ giúp người lấy xuống.
Ngọc Đường Xuân nhấc váy lùi lại vài bước, đứng cùng Tuyết Lý Mai kinh ngạc nhìn hắn. Ngũ Hán Siêu hít sâu một hơi, găm kiếm vào trong tuyết, nhẹ nhàng búng người tới trước vài bước rồi phóng người nhảy lên trượng hai trượng ba, một chân điểm nhẹ chính xác lên một cành cây, khóm tuyết rơi lả tả, hắn mượn thế lại phóng lên thêm hơn trượng, liên tục hai lần, vươn một tay với lấy chiếc khăn, rồi vặn lưng trên không trung, nhẹ nhàng sà xuống như một con diều hâu.
Nội thương của hắn chưa khỏi hẳn, chỗ bị thương trên ngực cũng chưa lành, cú nhảy này không dám dốc toàn lực, lúc tiếp đất mặt hơi ửng đỏ. Hắn ho khẽ vài tiếng rồi mới đưa khăn qua, nói:
- Phu nhân, khăn của người đây.
Ngọc Đường Xuân cầm lấy khăn, thán phục:
- Thật lợi hại, con người có thể nhảy cao như vậy sao?
Ngũ Hán Siêu mỉm cười đáp:
- Chỉ là chút tài mọn, khiến phu nhân chê cười rồi. Dương đại nhân là tổng đốc nội xưởng, dưới tay tàng long ngoạ hổ, cao thủ như mây, những kẻ tài giỏi hơn xa tại hạ nhất định đều tề tụ dưới trướng.
Tuyết Lý Mai quả không biết dưới trướng phu quân có những người nào, nhưng dẫu sao trước mặt người ngoài quyết không thể lộ dốt cho tướng công được, thế là nàng cười khẽ một tiếng, tinh nghịch nói:
- Xem như ngươi thức thời, dưới trướng lão gia chúng ta quả thực cao thủ như mây, lúc bắt phản loạn Đông xưởng, năm nghìn đấu với tám nghìn mà chỉ bị thương chưa tới bốn chục.
Ngũ Hán Siêu thấy vị tiểu phu nhân này hãy còn ấu trĩ, dễ đối phó hơn vị đứng cạnh bên, bèn thừa cơ dò hỏi:
- Tại hạ tạm trú ở Dương phủ, song lại không biết hai vị phu nhân, cho nên vừa nãy chưa chào hỏi, thật sự thất lễ, không biết nên xưng hô thế nào?
Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân hơi sững người. Thiếp thất ở các hộ gia đình lớn bình thường đương nhiên sẽ phân làm 'nhị phu nhân', 'tam phu nhân'. Hai người được gả vào cùng lúc, Dương Lăng lại không phân biệt đối xử với bọn họ.
Ngọc Đường Xuân thoáng trù trừ, khi nãy thấy Hàn Ấu Nương đối đãi hết sức kính lễ với hắn, nàng cũng không dám đánh mất lễ nghi, bèn điềm đạm đáp:
- Công tử chớ nên khách khí, trong phủ vẫn luôn gọi ta là Ngọc phu nhân, muội ấy là Tuyết phu nhân.
Ngũ Hán Siêu lại thi lễ hỏi tiếp:
- Ra mắt Ngọc phu nhân, Tuyết phu nhân. Ờm... vị cô nương họ Cao giúp kẻ hèn chẩn bệnh trị thương nọ cũng là Dương phu nhân sao? Kẻ hèn không tiện hỏi thẳng trước mặt, lại sợ xưng hô không đúng lễ phép.
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa mắt nhìn nhau, bất tri bất giác lại đột nhiên nhớ đến bức tranh xuân cung khiêu khích nọ, vẻ mặt lập tức có phần ngượng ngập. Quan hệ của hai người bọn họ đã phát triển đến tình trạng như vậy mà vẫn không thấy lão gia có vẻ gì là sốt ruột, chẳng lẽ vì cảm thấy trong một năm mà nạp ba thiếp vào nhà là chuyện khiến người chê cười, nên muốn lần lữa sang năm sao?
Ngọc Đường Xuân do dự đáp:
- Cao cô nương là... thái y ngự tứ của Dương phủ, cũng không phải là nội quyến nhà họ Dương.
Ngũ Hán Siêu vừa nghe liền cả mừng. Vẻ mừng rỡ vừa thoáng hiện bên khóe chân mày, Tuyết Lý Mai đã cười hì hì như một chú chim khách bồi thêm một câu:
- Nếu công tử gọi tỷ ấy là Dương phu nhân thì tỷ ấy cũng sẽ không nổi giận đâu. Hiện tại chưa phải, nhưng qua mấy tháng nữa thì nhất định sẽ phải.
Chú thích:
(1) điều hoà hơi thở
(2) nghèo học văn, giàu học võ; vì đụng tới võ nghệ (thứ thiệt) rất tốn kém. Thậm chí dựng phim chiến tranh cũng tốn kém hơn phim tình cảm nhiều, lúc đó đạo diễn cũng cảm khái "Cùng văn, phú võ".
(3) đường huynh, đường đệ là anh/em con bác bên nội; biểu huynh/đệ là anh/em con cậu bên ngoại
(4) thím
(5) nữ chủ nhân
(6) nguyên văn 'Tướng quân ngạch hoành kham tẩu mã, tể tướng đỗ nội năng xanh thuyền' nghĩa là trán tướng quân có thể phi ngựa, bụng thừa tướng có thể chèo thuyền, ý khuyên con người nên rộng lượng và khoáng đạt trong cách đối nhân xử thế.
(7) chỉ danh tướng Nhạc Phi thời Tống
Bình luận facebook