Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 15 - Phần 1
Chương 15. Cô gái đi xe đạp
Vào chủ nhật, ngày 23 tháng 4, lần đầu tiên chúng tôi làm quen với cô Violet Smith. Chuyến viếng thăm của cô ấy hoàn toàn không được Holmes chào đón, vì lúc đó anh đang vướng vào một vấn đề phức tạp liên quan tới sự khủng bố kỳ lạ nhằm vào nhà triệu phú sản xuất thuốc lá nổi tiếng… Tuy nhiên Holmes đã không thể từ chối nghe câu chuyện của người phụ nữ trẻ, xinh đẹp, cao ráo, duyên dáng và quý phái đó. Cô ấy xuất hiện ở phố Baker vào đêm khuya, van nài Holmes giúp đỡ. Quả là vô ích, vì Holmes rất bận. Nhưng người phụ nữ trẻ này tới đây, quyết kể lại câu chuyện của mình và không điều gì có thể buộc cô bước ra khỏi phòng. Với cử chỉ nhẫn nhịn và nụ cười đầy vẻ mệt mỏi, Holmes mời cô gái xinh đẹp ngồi xuống và kể cho chúng tôi nghe điều gì đang làm cô phiền lòng.
Holmes nói, khi đôi mắt sắc sảo của anh quan sát người phụ nữ:
- Ít nhất điều làm cô phiền muộn không phải là vấn đề sức khỏe. Một người đạp xe hăng hái như vậy, phải rất khỏe mạnh.
Cô ấy sửng sốt nhìn xuống chân mình. Và tôi quan sát thấy những vết trầy xước nhẹ ở đế giày, do cọ xát với pêđan.
- Vâng, tôi đi xe đạp rất nhiều, thưa ông Holmes. Và điều đó liên quan tới chuyến viếng thăm ông hôm nay của tôi.
Bạn tôi nhẹ nhàng cầm bàn tay đã tháo găng của người phụ nữ và xem xét rất kỹ…
- Tôi chắc là cô sẽ thứ lỗi cho tôi. Vì đây là yêu cầu công việc mà. - Holmes nói, khi anh buông tay cô ra - Tôi suýt nữa thì phạm sai lầm khi cho rằng cô… đánh máy. Ồ không, Watson, anh có nhận thấy các đầu ngón tay bẹp không; nó thật phù hợp với cả hai nghề đó. Tuy nhiên, có một vẻ gì đó rất thánh thiện trên khuôn mặt cô, - Holmes quan sát khuôn mặt cô gái xinh đẹp đó khi ánh sáng rọi vào mặt cô - mà những người đánh máy không thể có. Tiểu thư đây là một nhạc sĩ.
- Vâng, thưa ông Holmes, tôi đang dạy nhạc.
- Ở vùng nông thôn, phải không? Tôi đoán vậy khi thấy dáng điệu của cô.
- Vâng, ở gần Farnham, trong vùng phụ cận của Surrey.
- Một vùng tuyệt đẹp và cũng rất nhiều duyên nợ với anh đấy, Watson ạ! Nơi đây, chúng ta đã bắt giữ tên giả mạo Archie Stamford, anh có nhớ không? Nào, cô Violet, chuyện gì đã xảy ra vậy?
Cô gái kể lại câu chuyện một cách rành mạch và điềm tĩnh:
- Cha tôi đã mất, thưa ông Holmes, ông ấy là James Smith - nhạc trưởng của nhà hát Imperial cũ. Chú của tôi là Ralph Smith đã đến châu Phi hai mươi lăm năm trước, và từ đó chúng tôi không có tin tức gì về ông. Sau khi cha tôi mất, chúng tôi trở nên rất nghèo khó. Thế rồi một hôm, chúng tôi đọc được một lời nhắn đăng trên tờ “The Times”, tìm địa chỉ của chúng tôi. Ông có tưởng tượng được chúng tôi đã vui như thế nào không, vì đó chính là cơ may hiếm có mà ai đó mang đến cho chúng tôi. Ngay lập tức, chúng tôi tìm đến văn phòng luật sư đã đăng trong lời nhắn. Ở đó, chúng tôi gặp hai người đàn ông - ông Carruthers và Woodley - những người vừa từ Nam Phi trở về. Họ cho biết, chú tôi là bạn của họ; ông ấy đã chết trong nghèo đói ở Johannesburg vài tháng trước đây. Trước khi mất, chú tôi đã nhờ họ tìm người thân và giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Đó là chuyện lạ lùng với chúng tôi, vì chú Ralph khi còn sống không hề biết gì đến họ hàng, chẳng lẽ lúc chết lại quan tâm đến chúng tôi sao? Ông Carruthers giải thích chuyện lạ đó bằng lý do là ông chú tôi chỉ mới hay tin cha tôi mất, và ông cảm thấy phải có trách nhiệm với chúng tôi.
- Xin lỗi. - Holmes ngắt lời – Chuyện này xảy ra khi naò?
- Tháng 12 năm ngoái, nghĩa là bốn tháng trước.
- Cô kể tiếp đi !
- Với tôi, ông Woodley là kẻ đáng ghét nhất. Ông ta không rời mắt khỏi tôi. Ông ta trẻ hơn Cyril nhưng có khuôn mặt ụ ị, thô tục, bộ ria mép màu đỏ quạch và mái tóc lơ thơ rủ xuống phía trước. Ông ta hoàn toàn đáng ghét, và tôi cũng chắc chắn là Cyril không muốn tôi quen biết với một người như vậy.
- Ồ, Cyril là tên của… “anh ấy”! - Holmes mỉm cười. Cô gái trẻ đỏ mặt và khẽ bật cười.
- Đúng vậy, thưa ông, Cyril là một kỹ sư điện trẻ và chúng tôi định sẽ làm lễ thành hôn vào cuối mùa hè. Trời đất! Sao tự nhiên tôi lại nhắc đến anh ấy nhỉ? Điều tôi muốn nói là, ông Woodley thực sự đáng ghét. Nhưng Carruthers, người đàn ông lớn tuổi, thì dễ chịu hơn. Ông ta là một người trầm tĩnh, khuôn mặt nhẵn nhụi, vàng vọt, có thái độ lịch sự và nụ cười dễ thương. Ông ta hỏi thăm về cuộc sống của chúng tôi, mời tôi dạy nhạc cho cô con gái của ông. Tôi trả lời không muốn phải xa mẹ. Ông ấy bảo tôi có thể trở về nhà vào cuối tuần. Ông đề nghị thù lao hàng năm là một trăm bảng. Tôi đồng ý ngay và tới nhà ông ta ở Chiltern Grange, cách Farnham chừng mười cây số.
“Ông Carruthers góa vợ, nhưng có một bà quản gia luống tuổi là bà Dixon, trông coi công việc trong nhà. Ông rất yêu âm nhạc, còn cô con gái ông thật duyên dáng. Mỗi cuối tuần, tôi đều về thăm mẹ.
“Nhưng rồi gã ria đỏ Woodley tới thăm ông khoảng một tuần. Tuần đó với tôi dài như ba tháng! Hắn tán tỉnh tôi, khoe khoang của cải, bảo rằng nếu tôi ưng lấy hắn, thì tôi sẽ có những viên kim cương đẹp nhất London. Sau cùng, khi tôi bảo không muốn có quan hệ gì với hắn, hắn đã ghì chặt lấy tôi, thề là sẽ không buông ra chừng nào tôi chưa hôn hắn. Đúng lúc ông chủ tôi vào phòng, ông giật tôi ra khỏi vòng tay con quỷ đó. Gã lưu manh quay lại xô ngã chủ nhà và đánh bị thương ông ấy. Ngày hôm sau, ông Carruthers tới ngỏ lời xin lỗi tôi, hứa rằng sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện tương tự như vậy. Kể từ đó, tôi không còn gặp lại con quỷ ấy nữa.
“Còn bây giờ, tôi muốn nói đến một sự việc đặc biệt, khiến tôi phải tới đây xin lời khuyên của ông hôm nay.
“Thưa ông Holmes, tuần nào cũng vậy, cứ trưa thứ bảy tôi đạp xe tới ga Farnham để đáp chuyến tàu 12 giờ 22 phút đi London. Quãng đường đó vô cùng vắng vẻ, nhưng đoạn vắng nhất dài khoảng hơn một dặm, nằm giữa cánh rừng vây bọc nhà trọ Charlington và trảng cỏ Charlington. Trên đời, có lẽ chẳng có đoạn đường nào hoang vu hơn. Cách đây hai tuần, khi đi qua đó, tôi thấy có một người đạp xe cách sau tôi chừng 200m. Trước khi tới Farnham tôi nhìn lại phía sau, nhưng người đó đã biến mất. Nhưng thật ngạc nhiên, vào thứ hai, khi đi làm, tôi lại thấy người đó đạp xe cùng trên đoạn đường. Tuần vừa qua, sự ngạc nhiên càng tăng khi tôi lại thấy người đàn ông đó vào trưa thứ bảy và sáng thứ hai. Chắc chắn là ông ta luôn luôn đạp xe sau tôi một đoạn nhất định. Thật kỳ lạ! Tôi kể chuyện cho ông Carruthers nghe. Ông ấy tỏ ra quan tâm, rồi bảo tôi rằng ông đã đặt mua một con ngựa và một cỗ xe hạng nhẹ, để sau này tôi không còn phải một mình đạp xe trên con đường hoang vắng ấy.
“Đã có ngựa và xe trong tuần này rồi nhưng không rõ lý do gì mà lại chưa đến tay tôi, và tôi vẫn phải đạp xe tới nhà ga. Sáng hôm nay, khi ngang qua trảng cỏ, người đạp xe đã có mặt! Ông ta ở cách tôi một khoảng khá xa, khiến tôi không thể nào nhận biết được mặt ông ta. Nhưng tôi tin chắc, đó là một người tôi không quen biết. Ông ta vận đồ đen, đội mũ cát két dạ. Thứ duy nhất mà tôi có thể nhìn thấy rõ là bộ râu đen của ông ta. Hôm nay, tôi không thấy sợ hãi, nhưng lại rất tò mò nên tôi đạp xe chậm hơn, ông ta cũng đạp chậm lại. Tôi ngừng lại, ông ta cũng ngừng lại.
“Tôi đặt bẫy ông ta, lúc gần tới một khúc quành, tôi thình lình đạp hết tốc lực… Rồi vừa qua khúc đường quành, tôi đột ngột phanh gấp, sau đó xuống xe, đứng đợi. Nhưng ông ta không xuất hiện nữa. Tôi quay trở lại, ngó sang phía bên kia khúc quành. Trải dài trước mắt tôi, suốt cả một dặm đường chẳng thấy bóng dáng ông ta đâu. Kỳ lạ hơn hết là không hề có con đường phụ nào để cho ông ta lẩn trốn cả.”
Holmes cười khúc khích, xoa xoa hai bàn tay vào nhau:
- Thú vị thật! Kể từ lúc đi tới khúc quành đến lúc cô đứng nhìn con đường hoang vắng là khoảng chừng mấy phút?
- Hai hoặc ba phút gì đó.
- Người đàn ông không thể lùi lại và cô cũng nói rằng không có con đường phụ và cũng không có chỗ rẽ nào chứ?
- Chắc chắn là như thế !
- Vậy thì ông ta đã rẽ xuống một lối mòn ở bên phải hoặc bên trái con đường.
- Chắc chắn không ở bên phía trảng cỏ, vì nếu vậy ắt hẳn tôi đã phải trông thấy ông ta.
- Vậy thì theo phép loại suy, chúng ta đi tới kết luận là ông ta đã đi về hướng nhà trọ Charlington, nằm trong khu đất biệt lập ở phía bên kia con đường. Không có gì khác nữa chứ?
- Không, thưa ông, nhưng tôi cảm thấy rất bất an, nên đến tìm gặp ông và mong xin được lời khuyên của ông. Holmes im lặng trong chốc lát, cuối cùng anh hỏi:
- Vị hôn phu của cô ở đâu?
- Anh ấy làm việc tại công ty Midland Electric, ở Coventry.
- Có lần nào bất ngờ anh ấy tới thăm cô không?
- Ồ, nếu có thì tôi phải nhận ra anh ấy chứ!
- Có nhiều người “thầm thương trộm nhớ” tới cô không?
- Trước khi tôi quen với Cyril thì có vài người.
- Và từ đó đến nay?
- Chỉ mỗi cái gã thô bỉ râu đỏ quạch Woodley đó.
- Không ai khác nữa sao?
Cô gái lúng túng, khuôn mặt xinh đẹp đỏ ửng lên.
- Là ai mà cô không tiện nói vậy? - Holmes hỏi dồn.
- Ồ, có thể là tôi đã tưởng tượng ra những điều… không có thật chăng. Dường như là… ông chủ tôi. Ông ấy rất quan tâm tới tôi. Buổi tối, tôi thường chơi đàn cho ông ấy nghe. Ông ấy không bao giờ thổ lộ điều gì. Nhưng phụ nữ luôn đoán được...
- A! - Holmes reo to, và vẻ mặt nghiêm trọng - Ông ta kiếm sống bằng nghề gì?
- Ông ấy khá giàu có.
- Nhưng ông ta đâu có ngựa xe?
- Ít ra ông ấy cũng sống sung túc. Mỗi tuần, ông ấy đi London hai hoặc ba lần. Ông quan tâm tới nhiều những mỏ vàng ở Nam Phi.
- Cô Smith, cô hãy cho tôi biết rõ tất cả những chi tiết mới trong vụ việc của cô! Lúc này tôi rất bận, nhưng vẫn sẽ cố gắng giúp cô. Trong khi chờ đợi, nếu muốn làm điều gì, cô cần báo cho tôi biết trước. Xin chào cô.
Khi cô gái đi rồi, Holmes rít từng hơi thuốc dài… chìm đắm trong suy tư của mình.
- Một cô gái xinh đẹp như vậy, tất phải có nhiều người theo đuổi. Nhưng, tại sao ông ta lại chỉ theo đuổi trên một đoạn đường hoang vắng? Đây hẳn là một mối tình thầm lặng, đáng ngờ đến khó hiểu.
- Điều kỳ lạ chính là ở chỗ, kẻ si tình lại chỉ xuất hiện trên một đoạn đường duy nhất.
- Chính thế. Chúng ta phải tìm hiểu xem, ai ở trong nhà trọ Charlington, quyền lợi nào liên kết Carruthers với Woodley, bởi vì hai người đó khác nhau như hai thái cực. Cũng cần khám phá xem vì sao họ tỏ ra quá quan tâm đến cô gái. Và còn điều này nữa: Làm sao người ta dám trả cho một cô giáo dạy nhạc gấp đôi mức thù lao bình thường, trong lúc người đó lại không có xe, cũng không có ngựa, mà nhà hắn cách nhà ga tới mười cây số. Kỳ cục! Rất kỳ cục đấy Watson ạ!
- Anh định đi tới đó chăng?
- Không phải tôi, mà là anh. Rất có thể đây là cái bẫy, mà tôi thì không thể làm hỏng các công việc điều tra quan trọng khác chỉ vì nó. Sáng sớm thứ hai, anh sẽ tới Farnham, nấp bên bãi đất trống ở Charlington; đích thân anh quan sát, phán đoán và cân nhắc mọi việc cho thật cẩn thận. Sau đó hãy điều tra tất cả những người sống trong nhà trọ rồi trở về nói cho tôi biết.
Lúc nãy cô gái nói sáng thứ hai thì cô sẽ đến đó trên chuyến tàu rời ga Waterloo vào hồi 9 giờ 50. Vậy là tôi đáp chuyến tàu 9 giờ 13. Xuống ga Farnham, tôi tới khu đồng hoang Charlington không mấy khó khăn.
Con đường ngoằn ngoèo giữa một bên là mảnh đất trống quang đãng, bên kia là một hàng cây thông chạy quanh khu công viên tuyệt đẹp. Một lối vào chính được rải đá bám đầy rong rêu, hai bên cổng treo các gia huy đã mốc meo. Ngoài cái cổng chính cho xe ra vào này, tôi quan sát thấy vài lối nhỏ xuyên qua những khoảng trống ở hàng rào, từ đó mở ra nhiều lối mòn. Từ đường nhìn vào, thật khó mà nhìn thấy ngôi nhà, nhưng từ quang cảnh xung quanh cũng đoán được sự ảm đạm và mục nát của nó.
Trên bãi đất trống mọc đầy những bụi kim tước nở hoa rực rỡ dưới nắng mai. Tôi đứng sau một bụi cây, từ đó có thể quan sát thuận lợi cổng của căn nhà và một dải dài cả hai bên con đường hoang vắng. Một lát sau, tôi thấy một người đi xe đạp ngược với hướng mà tôi đã tới. Đó là một gã thanh niên trẻ tuổi mặc đồ đen. Khi tới đầu nhà Charlington thì gã nhảy xuống xe rồi dắt xe chui qua một khoảng trống ở hàng rào và biến mất trong chốc lát.
Mười lăm phút trôi qua, một chiếc xe đạp khác xuất hiện. Cô gái trẻ chắc đến từ phía nhà ga. Khi tới gần hàng rào, cô ngó nghiêng quan sát xung quanh. Một lát sau, người đàn ông ló ra khỏi chỗ nấp, nhảy lên xe đạp bám theo cô gái. Giữa phong cảnh mênh mông, chỉ có hai người: Cô gái ngồi thẳng người trên xe, và gã đàn ông đằng sau, còng lưng trên ghi đông xe đạp, hành động lén lút rất khả nghi. Thình lình cô gái quay người lại, giảm tốc độ. Người đàn ông cũng đạp chậm. Cô gái dừng lại, hắn ta cũng dừng lại cách cô khoảng 200m. Vừa lúc đó, cô gái quay ngược lại và lao thẳng vào gã. Người đàn ông cũng nhanh chẳng kém, phóng xe hết tốc lực bỏ chạy. Rồi cô gái liền trở lại con đường, đầu ngẩng cao, chẳng còn bận tâm đến kẻ đang lén lút bám theo mình. Thực ra, hắn ta cũng đã quay trở lại, và vẫn giữ khoảng cách trước. Khúc quanh của con đường đã che khuất bóng hai người…
Thật là may là tôi đã nán lại ở chỗ nấp. Lát sau, gã đàn ông lại hiện ra. Hắn ta đạp chầm chậm, đi ngang qua cái cổng, rồi nhảy xuống xe. Vài phút sau, tôi thấy gã đứng lẫn giữa những cái cây; bàn tay như đang nắn lại càvạt. Rồi gã lại leo lên xe và phóng đi theo ngả đường dẫn đến ngôi nhà. Tôi băng qua bên kia đường, nhìn theo gã qua những hàng cây. Xa xa, tôi lờ mờ thấy một ngôi nhà cổ xưa, xám xịt, tua tủa những ống khói cổ. Một lùm cây rậm rạp chắn khuất con đường, gã đàn ông đi xe đạp mất dạng hẳn.
Tôi khoan khoái thả bộ về ga Farnham, lòng thanh thản. Nhân viên quản lý nhà đất ở địa phương không cung cấp được cho tôi thông tin gì về nhà trọ Charlington; ông ta gợi ý cho tôi tới một hãng rất nổi tiếng ở Pall Mall. Trước khi trở về, tôi ghé qua hãng đó và được người đại diện đón tiếp lịch sự. Họ nói, tôi tới quá muộn rồi, nhà trọ Charlington đã được ông Williamson thuê mướn từ một tháng nay. Người đại diện lấy làm tiếc khi không thể cho tôi biết được gì nhiều về thân chủ đáng kính đó bởi ông ta không thể đem những bí mật của khách hàng ra kể.
Sherlock Holmes chăm chú nghe tôi kể lại, không nói dù chỉ là một lời khen nào. Trái lại, bộ mặt anh càng lúc càng tối sầm theo đà câu chuyện.
- Watson thân mến, anh đã phạm phải một sai lầm rất lớn. Lẽ ra anh phải nấp sau hàng rào, như vậy mới quan sát rõ nhân vật đáng chú ý đó. Nhưng đằng này anh lại đứng cách xa gã đến mấy trăm thước; và anh cũng chẳng cho tôi biết gì hơn về cô Smith. Cô ấy nói rằng không biết gã thanh niên đó. Tôi tin rằng, cô ấy đã không nói dối. Nếu không, tại sao hắn ta lại cố ý không cho cô sáp lại gần? Hắn gò mình trên ghi đông là để không chường cái mặt mình ra! Watson, anh đã xoay xở thật là tồi. Lạ chưa! Hắn vào trong nhà trọ Charlington và rồi vì muốn biết hắn là ai, anh lại đi gặp một đại lý địa ốc tại London.
- Đúng ra tôi phải làm gì? – Tôi bực bội to tiếng với Holmes.
- Phải tới quán rượu gần nhất. Ở đó người ta ba hoa đủ thứ chuyện trên trời, và họ sẽ nói cho anh biết tất cả những cái tên, từ ông chủ cho tới cô đầy tớ rửa bát. Williamson! Cái tên ấy chẳng cho tôi biết gì hết. Nếu là một ông già thì ông ta chẳng thể phóng chạy khi bị một thiếu nữ rượt đuổi. Chuyến đi của anh chỉ là sự xác nhận những lời kể của cô gái. Rằng câu chuyện kể của cô gái là có thật. Rằng có mối quan hệ nào đó giữa gã đạp xe với nhà trọ Charlington. Tôi cũng không nghi ngờ điều đó. Còn nhà trọ được ông Williamson thuê. Này, này, đừng có giận dỗi như vậy chứ! Từ nay đến thứ bảy, chúng ta sẽ phải điều tra thêm, lần này đích thân tôi sẽ ra tay.
Sáng hôm sau, chúng tôi nhận được thư của cô gái, cô kể vắn tắt những sự việc mà tôi đã chứng kiến. Nhưng điểm đáng chú ý của bức thư lại ở đoạn tái bút:
“Thưa ông Holmes, ông chủ đã ngỏ lời cầu hôn với tôi. Ông ấy đã đón nhận lời từ chối của tôi theo cách đứng đắn và tử tế, dù vậy ông cũng hiểu rằng mọi việc đã trở nên căng thẳng”.
- Cô gái nhỏ bé của chúng ta gặp rắc rối lớn rồi. - Holmes bình thản nói. Rồi với vẻ suy ngẫm, anh quyết định một cách bất ngờ. - Vụ này có cơ tiến triển khác hẳn với dự đoán ban đầu của tôi. Tôi cần phải tới đó.
Mãi khuya, Holmes mới trở về nhà với cặp môi bị giập và cục u thâm tím trên trán. Anh khoái chí với chuyến đi của mình, luôn tươi cười và vui vẻ kể lại:
- Tôi đã tìm ra cái quán ăn đó và tới ngồi bên quầy rượu. Gã chủ quán bép xép đã cho tôi biết tất cả những tin tức cần có. Williamson là người có bộ râu trắng, sống độc thân với vài gia nhân trong nhà trọ Charlington. Người ta đồn rằng, ông ta đã từng hoặc đang là mục sư. Nhưng kể từ khi ông ta tới đó, đôi ba sự việc xảy ra đã khiến cho thiên hạ nghi ngờ phẩm chất thầy tu của ông. Tôi có dò hỏi thì được biết, đã có một người mang tên đó được thụ phong, nhưng đã bị “lột mũ áo” từ lâu rồi! Ngoài ra, chủ quán còn cho tôi biết, cứ cuối tuần, khách khứa lại kéo tới nhà (“Những kẻ ham mê, thưa ông”). Và đặc biệt, một ông có bộ ria đỏ tên là Woodley sống luôn ở đó. Chúng tôi đang nói tới đoạn thú vị của câu chuyện thì có người tới quầy rượu; đó chính là “gã ria đỏ”. Hắn uống bia ở phòng trong và hắn đã nghe được toàn bộ câu chuyện chúng tôi đối thoại. “Anh là ai?”, “Anh muốn gì?”, “Tại sao anh lại đặt ra câu hỏi đó?” Gã có một lối nói nhanh, hơi văn vẻ, ngữ điệu quyết liệt. Gã kết thúc sự gây gổ… miệng bằng một cú đấm khiến tôi hứng đủ. Tiếp theo là những cú “quyền anh chính hiệu”, tôi thấy tốt hơn hết là nên chuồn ngay để tránh xa tên côn đồ này ra. Và tôi đã thoát ra như anh thấy đó. Còn gã Woodley thì phải về nhà trên chiếc xe kéo.
Vào chủ nhật, ngày 23 tháng 4, lần đầu tiên chúng tôi làm quen với cô Violet Smith. Chuyến viếng thăm của cô ấy hoàn toàn không được Holmes chào đón, vì lúc đó anh đang vướng vào một vấn đề phức tạp liên quan tới sự khủng bố kỳ lạ nhằm vào nhà triệu phú sản xuất thuốc lá nổi tiếng… Tuy nhiên Holmes đã không thể từ chối nghe câu chuyện của người phụ nữ trẻ, xinh đẹp, cao ráo, duyên dáng và quý phái đó. Cô ấy xuất hiện ở phố Baker vào đêm khuya, van nài Holmes giúp đỡ. Quả là vô ích, vì Holmes rất bận. Nhưng người phụ nữ trẻ này tới đây, quyết kể lại câu chuyện của mình và không điều gì có thể buộc cô bước ra khỏi phòng. Với cử chỉ nhẫn nhịn và nụ cười đầy vẻ mệt mỏi, Holmes mời cô gái xinh đẹp ngồi xuống và kể cho chúng tôi nghe điều gì đang làm cô phiền lòng.
Holmes nói, khi đôi mắt sắc sảo của anh quan sát người phụ nữ:
- Ít nhất điều làm cô phiền muộn không phải là vấn đề sức khỏe. Một người đạp xe hăng hái như vậy, phải rất khỏe mạnh.
Cô ấy sửng sốt nhìn xuống chân mình. Và tôi quan sát thấy những vết trầy xước nhẹ ở đế giày, do cọ xát với pêđan.
- Vâng, tôi đi xe đạp rất nhiều, thưa ông Holmes. Và điều đó liên quan tới chuyến viếng thăm ông hôm nay của tôi.
Bạn tôi nhẹ nhàng cầm bàn tay đã tháo găng của người phụ nữ và xem xét rất kỹ…
- Tôi chắc là cô sẽ thứ lỗi cho tôi. Vì đây là yêu cầu công việc mà. - Holmes nói, khi anh buông tay cô ra - Tôi suýt nữa thì phạm sai lầm khi cho rằng cô… đánh máy. Ồ không, Watson, anh có nhận thấy các đầu ngón tay bẹp không; nó thật phù hợp với cả hai nghề đó. Tuy nhiên, có một vẻ gì đó rất thánh thiện trên khuôn mặt cô, - Holmes quan sát khuôn mặt cô gái xinh đẹp đó khi ánh sáng rọi vào mặt cô - mà những người đánh máy không thể có. Tiểu thư đây là một nhạc sĩ.
- Vâng, thưa ông Holmes, tôi đang dạy nhạc.
- Ở vùng nông thôn, phải không? Tôi đoán vậy khi thấy dáng điệu của cô.
- Vâng, ở gần Farnham, trong vùng phụ cận của Surrey.
- Một vùng tuyệt đẹp và cũng rất nhiều duyên nợ với anh đấy, Watson ạ! Nơi đây, chúng ta đã bắt giữ tên giả mạo Archie Stamford, anh có nhớ không? Nào, cô Violet, chuyện gì đã xảy ra vậy?
Cô gái kể lại câu chuyện một cách rành mạch và điềm tĩnh:
- Cha tôi đã mất, thưa ông Holmes, ông ấy là James Smith - nhạc trưởng của nhà hát Imperial cũ. Chú của tôi là Ralph Smith đã đến châu Phi hai mươi lăm năm trước, và từ đó chúng tôi không có tin tức gì về ông. Sau khi cha tôi mất, chúng tôi trở nên rất nghèo khó. Thế rồi một hôm, chúng tôi đọc được một lời nhắn đăng trên tờ “The Times”, tìm địa chỉ của chúng tôi. Ông có tưởng tượng được chúng tôi đã vui như thế nào không, vì đó chính là cơ may hiếm có mà ai đó mang đến cho chúng tôi. Ngay lập tức, chúng tôi tìm đến văn phòng luật sư đã đăng trong lời nhắn. Ở đó, chúng tôi gặp hai người đàn ông - ông Carruthers và Woodley - những người vừa từ Nam Phi trở về. Họ cho biết, chú tôi là bạn của họ; ông ấy đã chết trong nghèo đói ở Johannesburg vài tháng trước đây. Trước khi mất, chú tôi đã nhờ họ tìm người thân và giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Đó là chuyện lạ lùng với chúng tôi, vì chú Ralph khi còn sống không hề biết gì đến họ hàng, chẳng lẽ lúc chết lại quan tâm đến chúng tôi sao? Ông Carruthers giải thích chuyện lạ đó bằng lý do là ông chú tôi chỉ mới hay tin cha tôi mất, và ông cảm thấy phải có trách nhiệm với chúng tôi.
- Xin lỗi. - Holmes ngắt lời – Chuyện này xảy ra khi naò?
- Tháng 12 năm ngoái, nghĩa là bốn tháng trước.
- Cô kể tiếp đi !
- Với tôi, ông Woodley là kẻ đáng ghét nhất. Ông ta không rời mắt khỏi tôi. Ông ta trẻ hơn Cyril nhưng có khuôn mặt ụ ị, thô tục, bộ ria mép màu đỏ quạch và mái tóc lơ thơ rủ xuống phía trước. Ông ta hoàn toàn đáng ghét, và tôi cũng chắc chắn là Cyril không muốn tôi quen biết với một người như vậy.
- Ồ, Cyril là tên của… “anh ấy”! - Holmes mỉm cười. Cô gái trẻ đỏ mặt và khẽ bật cười.
- Đúng vậy, thưa ông, Cyril là một kỹ sư điện trẻ và chúng tôi định sẽ làm lễ thành hôn vào cuối mùa hè. Trời đất! Sao tự nhiên tôi lại nhắc đến anh ấy nhỉ? Điều tôi muốn nói là, ông Woodley thực sự đáng ghét. Nhưng Carruthers, người đàn ông lớn tuổi, thì dễ chịu hơn. Ông ta là một người trầm tĩnh, khuôn mặt nhẵn nhụi, vàng vọt, có thái độ lịch sự và nụ cười dễ thương. Ông ta hỏi thăm về cuộc sống của chúng tôi, mời tôi dạy nhạc cho cô con gái của ông. Tôi trả lời không muốn phải xa mẹ. Ông ấy bảo tôi có thể trở về nhà vào cuối tuần. Ông đề nghị thù lao hàng năm là một trăm bảng. Tôi đồng ý ngay và tới nhà ông ta ở Chiltern Grange, cách Farnham chừng mười cây số.
“Ông Carruthers góa vợ, nhưng có một bà quản gia luống tuổi là bà Dixon, trông coi công việc trong nhà. Ông rất yêu âm nhạc, còn cô con gái ông thật duyên dáng. Mỗi cuối tuần, tôi đều về thăm mẹ.
“Nhưng rồi gã ria đỏ Woodley tới thăm ông khoảng một tuần. Tuần đó với tôi dài như ba tháng! Hắn tán tỉnh tôi, khoe khoang của cải, bảo rằng nếu tôi ưng lấy hắn, thì tôi sẽ có những viên kim cương đẹp nhất London. Sau cùng, khi tôi bảo không muốn có quan hệ gì với hắn, hắn đã ghì chặt lấy tôi, thề là sẽ không buông ra chừng nào tôi chưa hôn hắn. Đúng lúc ông chủ tôi vào phòng, ông giật tôi ra khỏi vòng tay con quỷ đó. Gã lưu manh quay lại xô ngã chủ nhà và đánh bị thương ông ấy. Ngày hôm sau, ông Carruthers tới ngỏ lời xin lỗi tôi, hứa rằng sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện tương tự như vậy. Kể từ đó, tôi không còn gặp lại con quỷ ấy nữa.
“Còn bây giờ, tôi muốn nói đến một sự việc đặc biệt, khiến tôi phải tới đây xin lời khuyên của ông hôm nay.
“Thưa ông Holmes, tuần nào cũng vậy, cứ trưa thứ bảy tôi đạp xe tới ga Farnham để đáp chuyến tàu 12 giờ 22 phút đi London. Quãng đường đó vô cùng vắng vẻ, nhưng đoạn vắng nhất dài khoảng hơn một dặm, nằm giữa cánh rừng vây bọc nhà trọ Charlington và trảng cỏ Charlington. Trên đời, có lẽ chẳng có đoạn đường nào hoang vu hơn. Cách đây hai tuần, khi đi qua đó, tôi thấy có một người đạp xe cách sau tôi chừng 200m. Trước khi tới Farnham tôi nhìn lại phía sau, nhưng người đó đã biến mất. Nhưng thật ngạc nhiên, vào thứ hai, khi đi làm, tôi lại thấy người đó đạp xe cùng trên đoạn đường. Tuần vừa qua, sự ngạc nhiên càng tăng khi tôi lại thấy người đàn ông đó vào trưa thứ bảy và sáng thứ hai. Chắc chắn là ông ta luôn luôn đạp xe sau tôi một đoạn nhất định. Thật kỳ lạ! Tôi kể chuyện cho ông Carruthers nghe. Ông ấy tỏ ra quan tâm, rồi bảo tôi rằng ông đã đặt mua một con ngựa và một cỗ xe hạng nhẹ, để sau này tôi không còn phải một mình đạp xe trên con đường hoang vắng ấy.
“Đã có ngựa và xe trong tuần này rồi nhưng không rõ lý do gì mà lại chưa đến tay tôi, và tôi vẫn phải đạp xe tới nhà ga. Sáng hôm nay, khi ngang qua trảng cỏ, người đạp xe đã có mặt! Ông ta ở cách tôi một khoảng khá xa, khiến tôi không thể nào nhận biết được mặt ông ta. Nhưng tôi tin chắc, đó là một người tôi không quen biết. Ông ta vận đồ đen, đội mũ cát két dạ. Thứ duy nhất mà tôi có thể nhìn thấy rõ là bộ râu đen của ông ta. Hôm nay, tôi không thấy sợ hãi, nhưng lại rất tò mò nên tôi đạp xe chậm hơn, ông ta cũng đạp chậm lại. Tôi ngừng lại, ông ta cũng ngừng lại.
“Tôi đặt bẫy ông ta, lúc gần tới một khúc quành, tôi thình lình đạp hết tốc lực… Rồi vừa qua khúc đường quành, tôi đột ngột phanh gấp, sau đó xuống xe, đứng đợi. Nhưng ông ta không xuất hiện nữa. Tôi quay trở lại, ngó sang phía bên kia khúc quành. Trải dài trước mắt tôi, suốt cả một dặm đường chẳng thấy bóng dáng ông ta đâu. Kỳ lạ hơn hết là không hề có con đường phụ nào để cho ông ta lẩn trốn cả.”
Holmes cười khúc khích, xoa xoa hai bàn tay vào nhau:
- Thú vị thật! Kể từ lúc đi tới khúc quành đến lúc cô đứng nhìn con đường hoang vắng là khoảng chừng mấy phút?
- Hai hoặc ba phút gì đó.
- Người đàn ông không thể lùi lại và cô cũng nói rằng không có con đường phụ và cũng không có chỗ rẽ nào chứ?
- Chắc chắn là như thế !
- Vậy thì ông ta đã rẽ xuống một lối mòn ở bên phải hoặc bên trái con đường.
- Chắc chắn không ở bên phía trảng cỏ, vì nếu vậy ắt hẳn tôi đã phải trông thấy ông ta.
- Vậy thì theo phép loại suy, chúng ta đi tới kết luận là ông ta đã đi về hướng nhà trọ Charlington, nằm trong khu đất biệt lập ở phía bên kia con đường. Không có gì khác nữa chứ?
- Không, thưa ông, nhưng tôi cảm thấy rất bất an, nên đến tìm gặp ông và mong xin được lời khuyên của ông. Holmes im lặng trong chốc lát, cuối cùng anh hỏi:
- Vị hôn phu của cô ở đâu?
- Anh ấy làm việc tại công ty Midland Electric, ở Coventry.
- Có lần nào bất ngờ anh ấy tới thăm cô không?
- Ồ, nếu có thì tôi phải nhận ra anh ấy chứ!
- Có nhiều người “thầm thương trộm nhớ” tới cô không?
- Trước khi tôi quen với Cyril thì có vài người.
- Và từ đó đến nay?
- Chỉ mỗi cái gã thô bỉ râu đỏ quạch Woodley đó.
- Không ai khác nữa sao?
Cô gái lúng túng, khuôn mặt xinh đẹp đỏ ửng lên.
- Là ai mà cô không tiện nói vậy? - Holmes hỏi dồn.
- Ồ, có thể là tôi đã tưởng tượng ra những điều… không có thật chăng. Dường như là… ông chủ tôi. Ông ấy rất quan tâm tới tôi. Buổi tối, tôi thường chơi đàn cho ông ấy nghe. Ông ấy không bao giờ thổ lộ điều gì. Nhưng phụ nữ luôn đoán được...
- A! - Holmes reo to, và vẻ mặt nghiêm trọng - Ông ta kiếm sống bằng nghề gì?
- Ông ấy khá giàu có.
- Nhưng ông ta đâu có ngựa xe?
- Ít ra ông ấy cũng sống sung túc. Mỗi tuần, ông ấy đi London hai hoặc ba lần. Ông quan tâm tới nhiều những mỏ vàng ở Nam Phi.
- Cô Smith, cô hãy cho tôi biết rõ tất cả những chi tiết mới trong vụ việc của cô! Lúc này tôi rất bận, nhưng vẫn sẽ cố gắng giúp cô. Trong khi chờ đợi, nếu muốn làm điều gì, cô cần báo cho tôi biết trước. Xin chào cô.
Khi cô gái đi rồi, Holmes rít từng hơi thuốc dài… chìm đắm trong suy tư của mình.
- Một cô gái xinh đẹp như vậy, tất phải có nhiều người theo đuổi. Nhưng, tại sao ông ta lại chỉ theo đuổi trên một đoạn đường hoang vắng? Đây hẳn là một mối tình thầm lặng, đáng ngờ đến khó hiểu.
- Điều kỳ lạ chính là ở chỗ, kẻ si tình lại chỉ xuất hiện trên một đoạn đường duy nhất.
- Chính thế. Chúng ta phải tìm hiểu xem, ai ở trong nhà trọ Charlington, quyền lợi nào liên kết Carruthers với Woodley, bởi vì hai người đó khác nhau như hai thái cực. Cũng cần khám phá xem vì sao họ tỏ ra quá quan tâm đến cô gái. Và còn điều này nữa: Làm sao người ta dám trả cho một cô giáo dạy nhạc gấp đôi mức thù lao bình thường, trong lúc người đó lại không có xe, cũng không có ngựa, mà nhà hắn cách nhà ga tới mười cây số. Kỳ cục! Rất kỳ cục đấy Watson ạ!
- Anh định đi tới đó chăng?
- Không phải tôi, mà là anh. Rất có thể đây là cái bẫy, mà tôi thì không thể làm hỏng các công việc điều tra quan trọng khác chỉ vì nó. Sáng sớm thứ hai, anh sẽ tới Farnham, nấp bên bãi đất trống ở Charlington; đích thân anh quan sát, phán đoán và cân nhắc mọi việc cho thật cẩn thận. Sau đó hãy điều tra tất cả những người sống trong nhà trọ rồi trở về nói cho tôi biết.
Lúc nãy cô gái nói sáng thứ hai thì cô sẽ đến đó trên chuyến tàu rời ga Waterloo vào hồi 9 giờ 50. Vậy là tôi đáp chuyến tàu 9 giờ 13. Xuống ga Farnham, tôi tới khu đồng hoang Charlington không mấy khó khăn.
Con đường ngoằn ngoèo giữa một bên là mảnh đất trống quang đãng, bên kia là một hàng cây thông chạy quanh khu công viên tuyệt đẹp. Một lối vào chính được rải đá bám đầy rong rêu, hai bên cổng treo các gia huy đã mốc meo. Ngoài cái cổng chính cho xe ra vào này, tôi quan sát thấy vài lối nhỏ xuyên qua những khoảng trống ở hàng rào, từ đó mở ra nhiều lối mòn. Từ đường nhìn vào, thật khó mà nhìn thấy ngôi nhà, nhưng từ quang cảnh xung quanh cũng đoán được sự ảm đạm và mục nát của nó.
Trên bãi đất trống mọc đầy những bụi kim tước nở hoa rực rỡ dưới nắng mai. Tôi đứng sau một bụi cây, từ đó có thể quan sát thuận lợi cổng của căn nhà và một dải dài cả hai bên con đường hoang vắng. Một lát sau, tôi thấy một người đi xe đạp ngược với hướng mà tôi đã tới. Đó là một gã thanh niên trẻ tuổi mặc đồ đen. Khi tới đầu nhà Charlington thì gã nhảy xuống xe rồi dắt xe chui qua một khoảng trống ở hàng rào và biến mất trong chốc lát.
Mười lăm phút trôi qua, một chiếc xe đạp khác xuất hiện. Cô gái trẻ chắc đến từ phía nhà ga. Khi tới gần hàng rào, cô ngó nghiêng quan sát xung quanh. Một lát sau, người đàn ông ló ra khỏi chỗ nấp, nhảy lên xe đạp bám theo cô gái. Giữa phong cảnh mênh mông, chỉ có hai người: Cô gái ngồi thẳng người trên xe, và gã đàn ông đằng sau, còng lưng trên ghi đông xe đạp, hành động lén lút rất khả nghi. Thình lình cô gái quay người lại, giảm tốc độ. Người đàn ông cũng đạp chậm. Cô gái dừng lại, hắn ta cũng dừng lại cách cô khoảng 200m. Vừa lúc đó, cô gái quay ngược lại và lao thẳng vào gã. Người đàn ông cũng nhanh chẳng kém, phóng xe hết tốc lực bỏ chạy. Rồi cô gái liền trở lại con đường, đầu ngẩng cao, chẳng còn bận tâm đến kẻ đang lén lút bám theo mình. Thực ra, hắn ta cũng đã quay trở lại, và vẫn giữ khoảng cách trước. Khúc quanh của con đường đã che khuất bóng hai người…
Thật là may là tôi đã nán lại ở chỗ nấp. Lát sau, gã đàn ông lại hiện ra. Hắn ta đạp chầm chậm, đi ngang qua cái cổng, rồi nhảy xuống xe. Vài phút sau, tôi thấy gã đứng lẫn giữa những cái cây; bàn tay như đang nắn lại càvạt. Rồi gã lại leo lên xe và phóng đi theo ngả đường dẫn đến ngôi nhà. Tôi băng qua bên kia đường, nhìn theo gã qua những hàng cây. Xa xa, tôi lờ mờ thấy một ngôi nhà cổ xưa, xám xịt, tua tủa những ống khói cổ. Một lùm cây rậm rạp chắn khuất con đường, gã đàn ông đi xe đạp mất dạng hẳn.
Tôi khoan khoái thả bộ về ga Farnham, lòng thanh thản. Nhân viên quản lý nhà đất ở địa phương không cung cấp được cho tôi thông tin gì về nhà trọ Charlington; ông ta gợi ý cho tôi tới một hãng rất nổi tiếng ở Pall Mall. Trước khi trở về, tôi ghé qua hãng đó và được người đại diện đón tiếp lịch sự. Họ nói, tôi tới quá muộn rồi, nhà trọ Charlington đã được ông Williamson thuê mướn từ một tháng nay. Người đại diện lấy làm tiếc khi không thể cho tôi biết được gì nhiều về thân chủ đáng kính đó bởi ông ta không thể đem những bí mật của khách hàng ra kể.
Sherlock Holmes chăm chú nghe tôi kể lại, không nói dù chỉ là một lời khen nào. Trái lại, bộ mặt anh càng lúc càng tối sầm theo đà câu chuyện.
- Watson thân mến, anh đã phạm phải một sai lầm rất lớn. Lẽ ra anh phải nấp sau hàng rào, như vậy mới quan sát rõ nhân vật đáng chú ý đó. Nhưng đằng này anh lại đứng cách xa gã đến mấy trăm thước; và anh cũng chẳng cho tôi biết gì hơn về cô Smith. Cô ấy nói rằng không biết gã thanh niên đó. Tôi tin rằng, cô ấy đã không nói dối. Nếu không, tại sao hắn ta lại cố ý không cho cô sáp lại gần? Hắn gò mình trên ghi đông là để không chường cái mặt mình ra! Watson, anh đã xoay xở thật là tồi. Lạ chưa! Hắn vào trong nhà trọ Charlington và rồi vì muốn biết hắn là ai, anh lại đi gặp một đại lý địa ốc tại London.
- Đúng ra tôi phải làm gì? – Tôi bực bội to tiếng với Holmes.
- Phải tới quán rượu gần nhất. Ở đó người ta ba hoa đủ thứ chuyện trên trời, và họ sẽ nói cho anh biết tất cả những cái tên, từ ông chủ cho tới cô đầy tớ rửa bát. Williamson! Cái tên ấy chẳng cho tôi biết gì hết. Nếu là một ông già thì ông ta chẳng thể phóng chạy khi bị một thiếu nữ rượt đuổi. Chuyến đi của anh chỉ là sự xác nhận những lời kể của cô gái. Rằng câu chuyện kể của cô gái là có thật. Rằng có mối quan hệ nào đó giữa gã đạp xe với nhà trọ Charlington. Tôi cũng không nghi ngờ điều đó. Còn nhà trọ được ông Williamson thuê. Này, này, đừng có giận dỗi như vậy chứ! Từ nay đến thứ bảy, chúng ta sẽ phải điều tra thêm, lần này đích thân tôi sẽ ra tay.
Sáng hôm sau, chúng tôi nhận được thư của cô gái, cô kể vắn tắt những sự việc mà tôi đã chứng kiến. Nhưng điểm đáng chú ý của bức thư lại ở đoạn tái bút:
“Thưa ông Holmes, ông chủ đã ngỏ lời cầu hôn với tôi. Ông ấy đã đón nhận lời từ chối của tôi theo cách đứng đắn và tử tế, dù vậy ông cũng hiểu rằng mọi việc đã trở nên căng thẳng”.
- Cô gái nhỏ bé của chúng ta gặp rắc rối lớn rồi. - Holmes bình thản nói. Rồi với vẻ suy ngẫm, anh quyết định một cách bất ngờ. - Vụ này có cơ tiến triển khác hẳn với dự đoán ban đầu của tôi. Tôi cần phải tới đó.
Mãi khuya, Holmes mới trở về nhà với cặp môi bị giập và cục u thâm tím trên trán. Anh khoái chí với chuyến đi của mình, luôn tươi cười và vui vẻ kể lại:
- Tôi đã tìm ra cái quán ăn đó và tới ngồi bên quầy rượu. Gã chủ quán bép xép đã cho tôi biết tất cả những tin tức cần có. Williamson là người có bộ râu trắng, sống độc thân với vài gia nhân trong nhà trọ Charlington. Người ta đồn rằng, ông ta đã từng hoặc đang là mục sư. Nhưng kể từ khi ông ta tới đó, đôi ba sự việc xảy ra đã khiến cho thiên hạ nghi ngờ phẩm chất thầy tu của ông. Tôi có dò hỏi thì được biết, đã có một người mang tên đó được thụ phong, nhưng đã bị “lột mũ áo” từ lâu rồi! Ngoài ra, chủ quán còn cho tôi biết, cứ cuối tuần, khách khứa lại kéo tới nhà (“Những kẻ ham mê, thưa ông”). Và đặc biệt, một ông có bộ ria đỏ tên là Woodley sống luôn ở đó. Chúng tôi đang nói tới đoạn thú vị của câu chuyện thì có người tới quầy rượu; đó chính là “gã ria đỏ”. Hắn uống bia ở phòng trong và hắn đã nghe được toàn bộ câu chuyện chúng tôi đối thoại. “Anh là ai?”, “Anh muốn gì?”, “Tại sao anh lại đặt ra câu hỏi đó?” Gã có một lối nói nhanh, hơi văn vẻ, ngữ điệu quyết liệt. Gã kết thúc sự gây gổ… miệng bằng một cú đấm khiến tôi hứng đủ. Tiếp theo là những cú “quyền anh chính hiệu”, tôi thấy tốt hơn hết là nên chuồn ngay để tránh xa tên côn đồ này ra. Và tôi đã thoát ra như anh thấy đó. Còn gã Woodley thì phải về nhà trên chiếc xe kéo.