Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 19 - Phần 3 (Hết)
Holmes ra ngoài một mình, làm việc trong một tiếng đồng hồ, rồi trở vào nhà với hai bàn chân dính đầy tuyết và một gương mặt lạnh lùng khó hiểu:
- Thưa ông, bây giờ, điều duy nhất mà tôi có thể làm để giúp ông, là trở về nhà tôi.
- Nhưng còn mấy viên ngọc?
- Tôi chưa thể nói ra được.
Ông chủ ngân hàng vặn hai bàn tay vào nhau:
- Vậy là tôi sẽ không bao giờ lại trông thấy chúng! - Ông ta kêu lên - Còn con trai tôi?
- Tôi vẫn không thay đổi ý kiến về cậu ấy.
- Vậy, tôi van ông, xin ông giải thích, sự việc là như thế nào?
- Nếu sáng mai, ông có thể đến nhà tôi, trong khoảng từ 9 đến 10 giờ, tôi sẽ giải thích cho ông rõ tất cả. Có phải ông đã giao cho tôi toàn quyền chi tiêu, miễn sao thu hồi lại được ba viên ngọc?
- Tôi sẵn sàng chi cả gia tài!
- Tốt lắm. Bây giờ tôi đi lo việc đó. Xin chào ông.
Trong chuyến đi trở về, tôi tìm cách dò hỏi, nhưng Holmes trả lời rất vu vơ. Chúng tôi về đến nhà trước 3 giờ chiều. Holmes chạy thẳng vào phòng, vài phút sau anh trở ra, cải trang thành một anh bồi: Cổ áo cuốn tròn, bộ đồ sờn rách với chiếc càvạt đỏ và đôi giày mòn gót.
- Như thế này là được rồi. - Anh vừa nói, vừa ngắm nghía mình trong gương - Trong vụ này, có thể giả thiết của tôi đúng, nhưng cũng có thể là tôi sai lầm. Nhưng dù sao, rồi tôi cũng sẽ biết rõ sự thật.
Anh cắt một lát thịt bò nướng, kẹp vào giữa hai miếng bánh mì, và ra đi.
Khi anh trở về, tôi vừa uống xong tách trà. Trông anh là có thể thấy rõ ngay vẻ vui tươi: Anh xách hai chiếc giày cũ bằng đầu sợi dây giày, đong đưa qua lại, rồi ném vào góc phòng. Tôi rót cho anh một tách trà.
- Tôi chỉ về một lát, rồi lại đi ngay, để tiếp tục cuộc điều tra.
- Ở đâu vậy?
- Ồ, ở tận đầu kia của khu West End. Và tôi chưa biết mấy giờ tôi sẽ về. Vậy nên anh không cần chờ tôi!
- Có triển vọng không?
- Không tệ lắm! Tôi đã đến Streatham, nhưng không vào nhà. Vụ này có một vấn đề nhỏ rất lý thú. Thôi, tôi chỉ còn vừa đủ thì giờ để thay đồ.
Qua những lời nói có vẻ hơi mơ hồ của anh, tôi hiểu anh đã đạt được những kết quả rất khả quan. Chờ đến khuya vẫn chưa thấy anh về, tôi bèn đi ngủ.
Tôi không biết Holmes về lúc mấy giờ, nhưng sáng hôm sau, khi xuống phòng khách để ăn điểm tâm, tôi đã thấy anh ngồi đó tự bao giờ, tươi tỉnh và khỏe khoắn, tay này cầm một tờ báo, tay kia là tách cà phê.
- Xin lỗi, tôi đã không đợi anh cùng ăn. Nhưng chúng ta có hẹn với thân chủ, và bây giờ đã hơn 9 giờ rồi.
- Thật vậy, dường như tôi vừa mới nghe có tiếng chuông reo.
Quả đúng là ông chủ nhà băng của chúng tôi. Chỉ mới qua một đêm mà ông tiều tụy hẳn! Ông vào phòng với vẻ mệt mỏi và đờ đẫn. Tôi đẩy chiếc ghế bành đến cho ông, và ông liền ngồi phịch xuống.
- Không biết tôi đã làm gì nên tội! Cách đây hai hôm, tôi còn là một người thành đạt và sung sướng. Nhưng hôm nay, tôi đã khốn khổ nhất trần đời. Họa vô đơn chí, con nhỏ đã ra đi rồi!
- Mary bỏ đi rồi à?
- Phải. Sáng nay. Phòng nó trống trơn, trên bàn có một lá thư. Ngày hôm qua, trong cơn đau buồn, tôi có quở trách nó, rằng tất cả câu chuyện thê thảm này sẽ không xảy đến, nếu trước đây nó bằng lòng kết hôn với Arthur. Trong thư, nó nhắc đến lời trách móc đó.
“Thưa bác rất yêu quý của con!
Con thấy rằng con là nguyên nhân gây ra tai họa cho bác, rằng nếu con hành động khác đi thì tai họa đã không xảy đến. Với ý nghĩ này ám ảnh trong đầu, con sẽ không thể tiếp tục an nhiên sống ở trong nhà bác được nữa; vậy tốt hơn con nên rời xa. Xin bác đừng lo lắng cho tương lai của con; con không thiếu thốn gì đâu. Nhất là xin bác đừng kiếm tìm con mà mất thì giờ vô ích. Dầu còn sống hay chết, mãi mãi con vẫn là Mary thương yêu của bác.”
- Ông Holmes, liệu Mary có tự tử không?
- Không! Cô ấy đã chọn giải pháp tốt nhất; ông Holder, tai họa của ông sắp chấm dứt rồi.
- Thế à? Nhưng ngọc đâu?
- Ông có nghĩ rằng một nghìn bảng cho mỗi viên ngọc là một số tiền quá lớn không?
- Tôi sẵn sàng trả mười nghìn bảng!
- Không cần nhiều đến thế! Chỉ cần ba nghìn thôi. Cộng thêm một số tiền thưởng nhỏ nữa, được không? Ông có mang theo cuốn ngân phiếu không? Đây, bút đây. Ông chỉ cần viết một ngân phiếu bốn nghìn bảng, thì mọi việc sẽ êm đẹp cả.
Ông chủ nhà băng mừng quýnh, tay run run viết tờ ngân phiếu. Holmes đi đến bàn giấy của anh, lấy ra một miếng tam giác nhỏ bằng vàng có gắn ba viên ngọc beryl và ném nó lên bàn.
- Nó đây rồi! Ông đã tìm ra nó! - Vị chủ nhà băng cứ lắp ba lắp bắp - Tôi thoát nạn rồi! Thoát nạn rồi! Thoát nạn rồi! - Ông siết chặt những viên ngọc vào ngực.
- Ông còn mắc nợ một điều khác nữa, ông Holder. - Holmes nói với một vẻ nghiêm khắc.
- Tôi còn mắc nợ? - Ông ta vừa hỏi lại, vừa cầm cây bút lên - Hãy nói cho tôi biết bao nhiêu, tôi vui lòng đền đáp.
- Không, ông không còn mắc nợ tôi gì cả. Nhưng ông phải thiết tha xin lỗi con trai ông. Đó là một tâm hồn cao quý. Trong vụ này, cậu ấy đã hành động một cách dũng cảm và cao thượng.
- Arthur không ăn cắp sao?
- Tôi đã nói với ông ngày hôm qua, và tôi xin khẳng định điều đó trong ngày hôm nay: Không!
- Chắc chắn chứ? Vậy chúng ta hãy đến ngay nhà giam báo cho nó biết.
- Cậu ấy đã biết rồi! Sau khi làm rõ được sự thật, tôi có đến nhà giam nói chuyện với cậu ấy. Vì cậu ấy không chịu mở miệng, nên tôi đã nói cho cậu ấy biết hết mọi điều. Cậu ấy thừa nhận tôi suy xét đúng sự thật. Và cậu ấy giải thích thêm vài chi tiết hãy còn hơi lờ mờ. Cái tin về cô Mary sẽ khiến cậu ấy kể mọi việc cho ông biết.
- Tôi van ông, xin ông hãy nói hết cho tôi nghe!
- Vâng. Nhưng tôi buộc phải bắt đầu bằng sự việc đau lòng nhất đối với ông: Thủ phạm là Mary và George Burnwell! Bây giờ, họ đã trốn rồi.
- Con bé á? Không thể có chuyện đó!
- Khốn thay, đây không phải là chuyện “có thể” hay “không thể”, mà là sự thật! Cả ông và con trai ông đều không hiểu rõ bản chất của George Burnwell. Đó là một trong những người nguy hiểm nhất ở nước Anh: tay cờ bạc sạt nghiệp, tên lưu manh bất trị, một kẻ không còn lương tâm. Cô cháu gái của ông hoàn toàn không biết gì về hắn cả. Khi ông ta bắt đầu tán tỉnh cô ấy (cũng như ông ta đã tán tỉnh hàng trăm phụ nữ trước đó), Mary đã hãnh diện, nghĩ rằng cô là người đầu tiên và duy nhất làm cho trái tim ông ta rung động. Chỉ có quỷ mới biết được những gì tên lưu manh đó đã nhỏ to với Mary. Có điều chắc chắn là, trong vòng tay của hắn, cô ấy đã trở thành một món đồ chơi: Gần như đêm nào hai người cũng lén lút gặp nhau.
- Tôi không tin, không thể tin được! - Ông chủ nhà băng hét lên, gương mặt tái mét.
- Tốt! Vậy tôi sẽ kể cho ông nghe những gì đã xảy ra ở nhà ông đêm hôm đó. Khi ông đi về phòng mình thì Mary lẻn ra khỏi phòng cô ấy, đến đứng bên cửa sổ trông ra lối dẫn tới chuồng ngựa và nói chuyện với tình nhân đang đứng ở bên ngoài. Dấu chân của gã bất lương in rõ trên tuyết trong suốt thời gian hắn đứng bên cửa sổ. Mary đã nói với hắn về chiếc vương miện. Lòng tham của kẻ thối tha đó nổi dậy và hắn thuyết phục cô nàng đánh cắp bảo vật. Vừa nghe xong những lời dụ dỗ đó, Mary bỗng thấy ông đang đi xuống cầu thang, cô vội vã đóng cửa sổ lại và kể cho ông nghe về chuyện chị hầu phòng.
“Về phần con trai ông, sau khi xin tiền ông không được, cậu trở về phòng mình nằm trằn trọc mãi, tâm trí lo âu bởi những món nợ. Lúc nửa đêm, cậu nghe có tiếng bước chân đi nhẹ qua cửa phòng mình. Cậu liền ngồi dậy, nhìn ra ngoài hành lang và kinh ngạc thấy Mary đi vào trong phòng thay đồ của ông. Sinh nghi, cậu liền mặc vội sơ mi và quần dài, rồi đứng núp trong bóng tối. Một lát sau, Mary xuất hiện dưới ánh sáng của chiếc đèn đặt ở dãy hành lang, và con ông thấy rõ cô cầm chiếc vương miện đi xuống cầu thang. Kinh hãi, cậu liền chạy đến ẩn mình sau tấm màn gần cửa phòng ông. Tại đó, cậu thấy cô gái nhẹ mở chiếc cửa sổ lớn, trao vương miện cho một kẻ nào ở bên ngoài, rồi nhanh chóng đóng cửa sổ lại và trở về phòng của nàng.
“Chừng nào Mary vẫn còn đứng ở đó, Arthur không thể làm được gì vì không muốn gây tai tiếng cho người mà cậu thương yêu.
“Nhưng khi nàng đi rồi, cậu liền chạy xuống cầu thang với đôi chân trần. Cậu mở chiếc cửa sổ lớn, nhảy ra ngoài tuyết và lao mình trên lối đi dẫn đến chuồng ngựa. Đằng trước cậu hiện ra lờ mờ một bóng người đàn ông đang chạy: George Burnwell cố chạy trốn, nhưng Arthur đã tiến sát đến ông ta. Hai người giành giật với nhau, con ông giữ một mé vương miện và gã sở khanh giữ mé kia. Con trai ông đã nện cho tên lưu manh một nhát khá nặng ở phía trên mắt. Rồi thình lình nghe có một tiếng “rắc” khô khan. Nhưng con trai ông, nhận thấy mình đã giựt được vương miện, liền chạy trở về nhà, đóng cửa sổ lại, leo lên phòng thay đồ của ông. Chính lúc cậu nhận thấy chiếc vương miện đã bị bẻ cong và cố uốn cho nó thẳng lại thì ông xuất hiện…”
- Có thể nào lại như thế được chăng? - Ông chủ nhà băng thầm thì.
- Và lúc đó, ông đã làm cho cậu ấy giận dữ bằng những lời mắng nhiếc thậm tệ. Nhưng cậu đã chọn giải pháp cao thượng nhất: Im lặng để giữ bí mật cho cô nàng.
- Bây giờ tôi mới hiểu, tại sao con nhỏ đã la lên một tiếng rồi bất tỉnh, khi nó trông thấy chiếc vương miện! - Ông Holder đau đớn nói - Chúa ơi, tôi thật là u mê. Và con tôi đã xin tôi để nó đi ra ngoài trong năm phút! Thằng bé muốn trở lại chỗ nó đã đánh nhau với tên ác ôn để tìm miếng vương miện bị bẻ… Ôi, tôi rất có lỗi với con tôi.
- Khi đến nhà ông, tôi liền đi một vòng xung quanh, hy vọng tìm được những dấu chân trên tuyết. Tôi biết rằng đêm hôm trước đó tuyết không rơi, và không khí lạnh giá giữ được nguyên vẹn những dấu vết. Tôi men theo lối đi dành cho gia nhân, nhưng ở đây đã có quá nhiều dấu chân giẫm lên nhau và tôi không thể phân biệt được gì nữa. Tuy nhiên, tôi cũng nhận ra rằng cách cửa nhà bếp không xa, một người đàn bà đã dừng lại và nói chuyện với một người đàn ông, dấu chân người đó để lại có hình tròn ở một bên, chứng tỏ người đàn ông này dùng một cái nạng gỗ… Sau đó, tôi đi khắp khu vườn, nhưng chỉ tìm thấy ở đó những dấu chân của các cảnh sát. Trái lại, khi đi theo lối dẫn đến chuồng ngựa, tôi đã khám phá được cả một câu chuyện rất dài và rất phức tạp. Chính những dấu chân còn in rõ mồn một trên tuyết đã kể cho tôi biết.
“Có hai loại dấu chân song song với nhau: dấu chân của người mang giày và dấu chân của người đi chân trần. Những dấu chân trần này chỉ có thể là của con trai ông. Lần theo những dấu chân đó về phía ngôi nhà, tôi đi đến chiếc cửa sổ lớn. Ở đó tôi thấy dấu chân của người mang giày in rất sâu xuống lớp tuyết, chứng tỏ người đó đã đứng tại đây một lúc khá lâu, có lẽ là để chờ đợi. Rồi, vẫn lần theo những dấu chân, tôi quay trở lại đầu kia của lối đi. Cách chừng 100m, tôi nhận ra được chỗ hai người đã dừng lại đối diện với nhau: lớp tuyết bị giẫm đạp hỗn loạn ở đây, chứng tỏ đã có một cuộc giành giật quyết liệt xảy ra. Sau cùng, tôi tìm thấy vài giọt máu, vậy là tôi đã không lầm. Người mang giày đã tháo chạy xuống mé dưới lối đi, một vết máu nhỏ ở đây chứng tỏ hắn đã bị thương. Hắn chạy ra đến con đường lớn, nhưng đến đây thì bị mất dấu của hắn, bởi vì lề đường và lòng đường đã được quét sạch.
“Tuy nhiên, khi trở vào nhà, dùng kính lúp xem xét thật kỹ thành và khung của chiếc cửa sổ lớn, tôi liền nhận ra ngay có một người đã nhảy qua đó để vào nhà. Tôi thấy rõ dấu của một bàn chân còn ướt trên bờ cửa sổ. Lúc bấy giờ, với những chi tiết được thu thập và phân tích như thế, tôi đã có thể dựng lên một giả thiết: Có một người đàn ông đứng chờ ở bên ngoài cửa sổ lớn, một kẻ nào đó trong nhà đem chiếc vương miện xuống trao cho hắn và con trai ông đã bắt gặp được sự việc này. Cậu đuổi theo tên trộm, đánh nhau với hắn, mỗi người cố gắng lôi kéo chiếc vương miện về phía mình, và sức lực của hai người cộng lại đã làm cho chiếc vương miện bị gãy mất một góc. Con trai ông thu hồi lại được chiếc vương miện, nhưng đã bỏ lại ba viên ngọc trong tay gã địch thủ ác ôn. Cho tới đó, mọi sự đều rõ ràng, hợp lý. Vấn đề đặt ra bây giờ là tìm xem tên trộm đó là ai và kẻ nào ở trong nhà đã đem chiếc vương miện xuống cho hắn.
“Trong vụ này, chắc chắn ông không phải là người đem vương miện xuống cho tên trộm. Vậy chỉ còn cô cháu gái của ông và những chị hầu phòng. Nhưng nếu thủ phạm là những chị hầu phòng thì không có lý do gì Arthur lại im lặng. Vậy chỉ còn có Mary, và tôi biết rằng Arthur rất thương yêu cô ta; điều này đủ để giải thích tại sao cậu cam chịu câm như hến… Tôi nhớ rằng ông đã bắt gặp Mary đứng bên chiếc cửa sổ đó, rằng cô nàng đã ngất xỉu khi trông thấy chiếc vương miện mà cô tưởng đang phải ở trong tay kẻ đồng lõa của mình. Thế là tôi tin giả thiết của mình khớp với sự thật.
“Nhưng ai có thể là kẻ đồng lõa của cô nàng? Dĩ nhiên đó phải là gã tình nhân. Bởi nếu không thì ai đủ sức làm cho cô ta quên được ông? Tôi biết rằng ông rất ít khi ra ngoài đi chơi, và số bạn thân của gia đình ông cũng rất ít ỏi. Nhưng trong đó có George Burnwell, một người đàn ông đầy tai tiếng đối với giới phụ nữ. Có thể chính hắn ta là kẻ đồng lõa của Mary và cũng chính hắn đang giữ những viên ngọc bị mất. Dù Arthur có biết rõ hắn là tên trộm, hắn có thể vẫn an toàn, bởi Arthur sẽ không dám tiết lộ ra điều sẽ gây tai tiếng cho gia đình mình.
“Lúc bấy giờ, tôi cải trang thành một người hầu và đến nhà ông quý tộc. Một gia nhân ở đó cho tôi biết, đêm vừa qua, ông chủ của anh ta đã vô ý tự gây ra một vết thương ở mặt. Và sau cùng, với sáu xu, tôi mua lại được một đôi giày cũ của chủ anh ta. Tôi liền chạy thẳng một mạch đến Streatham để đo xem những dấu chân đó, kích thước và hình dạng có đúng là bàn chân ông ta không: y chang!”
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
- Tối hôm qua, - Ông Holder nói - tôi có trông thấy trên lối đến chuồng ngựa có một gã bụi đời, ăn mặc rách rưới.
- Chính là tôi đấy. Sau khi đã biết chắc tên trộm đó chính là George Burnwell, tôi trở về nhà thay quần áo. Đến đây, vai trò của tôi trở nên khó khăn hơn. Bởi vì tôi hiểu rằng không nên làm rùm beng vụ này, cốt để tránh cho ông khỏi bị tai tiếng. Tôi cũng biết rằng George Burnwell là một tên táng tận lương tâm, chắc chắn hắn sẽ khai thác cái thế kẹt của ông. Lúc đầu hắn chối leo lẻo… Nhưng khi tôi kể rõ từng chi tiết sự việc xảy ra đêm hôm đó, hắn liền trở mặt xấc xược và chụp lấy một cái chùy treo trên tường. Tôi lập tức gí súng vào thái dương hắn. Tôi đề nghị với hắn cho tôi chuộc lại ba viên ngọc với giá ba nghìn bảng. Hắn chặc lưỡi: “Thật là xui! Tôi chỉ bán có sáu trăm bảng mà thôi!”. Tôi bèn buộc hắn phải cho tôi địa chỉ người mua, đổi lại tôi hứa sẽ không lôi hắn ra tòa. Tôi chạy thẳng một mạch đến nhà người kia, và sau một hồi ngã giá, tôi mua lại được ba viên ngọc với giá một nghìn bảng mỗi viên. Xong, tôi liền tới gặp con trai ông để cho cậu ấy biết rằng, tất cả đã được giải quyết tốt đẹp. Lúc bấy giờ đã 2 giờ sáng rồi, tôi chỉ còn nghĩ đến có một việc: đi ngủ. Sau một ngày làm việc cực nhọc, đó quả là một sự nghỉ ngơi rất xứng đáng đấy chứ!
- Và ngày đó đã cứu nước Anh thoát khỏi một vụ tai tiếng xấu xa! - Ông chủ nhà băng kết luận và đứng lên - Thưa ông, tôi không thể tìm ra được lời nào để bày tỏ hết lòng biết ơn đối với ông. Nhưng, xin ông hãy tin rằng, mãi mãi, tôi không bao giờ quên ơn ông. Bây giờ, tôi mau chóng đến gặp con trai tôi để xin nó tha thứ. Về phần con bé Mary đáng thương đó, hành động dại dột của nó đã làm cho tôi tan nát cả cõi lòng. Với khả năng xét đoán tài tình của ông, ông có thể cho tôi biết bây giờ nó ở đâu không?
- Cô ta thì đương nhiên là chỉ có mặt tại nơi mà George Burnwell đang ở. Chẳng bao lâu nữa, ông cứ tin tôi, họ sẽ nhận sự trừng phạt thích đáng, cho dù họ phạm tội lỗi gì.
- Thưa ông, bây giờ, điều duy nhất mà tôi có thể làm để giúp ông, là trở về nhà tôi.
- Nhưng còn mấy viên ngọc?
- Tôi chưa thể nói ra được.
Ông chủ ngân hàng vặn hai bàn tay vào nhau:
- Vậy là tôi sẽ không bao giờ lại trông thấy chúng! - Ông ta kêu lên - Còn con trai tôi?
- Tôi vẫn không thay đổi ý kiến về cậu ấy.
- Vậy, tôi van ông, xin ông giải thích, sự việc là như thế nào?
- Nếu sáng mai, ông có thể đến nhà tôi, trong khoảng từ 9 đến 10 giờ, tôi sẽ giải thích cho ông rõ tất cả. Có phải ông đã giao cho tôi toàn quyền chi tiêu, miễn sao thu hồi lại được ba viên ngọc?
- Tôi sẵn sàng chi cả gia tài!
- Tốt lắm. Bây giờ tôi đi lo việc đó. Xin chào ông.
Trong chuyến đi trở về, tôi tìm cách dò hỏi, nhưng Holmes trả lời rất vu vơ. Chúng tôi về đến nhà trước 3 giờ chiều. Holmes chạy thẳng vào phòng, vài phút sau anh trở ra, cải trang thành một anh bồi: Cổ áo cuốn tròn, bộ đồ sờn rách với chiếc càvạt đỏ và đôi giày mòn gót.
- Như thế này là được rồi. - Anh vừa nói, vừa ngắm nghía mình trong gương - Trong vụ này, có thể giả thiết của tôi đúng, nhưng cũng có thể là tôi sai lầm. Nhưng dù sao, rồi tôi cũng sẽ biết rõ sự thật.
Anh cắt một lát thịt bò nướng, kẹp vào giữa hai miếng bánh mì, và ra đi.
Khi anh trở về, tôi vừa uống xong tách trà. Trông anh là có thể thấy rõ ngay vẻ vui tươi: Anh xách hai chiếc giày cũ bằng đầu sợi dây giày, đong đưa qua lại, rồi ném vào góc phòng. Tôi rót cho anh một tách trà.
- Tôi chỉ về một lát, rồi lại đi ngay, để tiếp tục cuộc điều tra.
- Ở đâu vậy?
- Ồ, ở tận đầu kia của khu West End. Và tôi chưa biết mấy giờ tôi sẽ về. Vậy nên anh không cần chờ tôi!
- Có triển vọng không?
- Không tệ lắm! Tôi đã đến Streatham, nhưng không vào nhà. Vụ này có một vấn đề nhỏ rất lý thú. Thôi, tôi chỉ còn vừa đủ thì giờ để thay đồ.
Qua những lời nói có vẻ hơi mơ hồ của anh, tôi hiểu anh đã đạt được những kết quả rất khả quan. Chờ đến khuya vẫn chưa thấy anh về, tôi bèn đi ngủ.
Tôi không biết Holmes về lúc mấy giờ, nhưng sáng hôm sau, khi xuống phòng khách để ăn điểm tâm, tôi đã thấy anh ngồi đó tự bao giờ, tươi tỉnh và khỏe khoắn, tay này cầm một tờ báo, tay kia là tách cà phê.
- Xin lỗi, tôi đã không đợi anh cùng ăn. Nhưng chúng ta có hẹn với thân chủ, và bây giờ đã hơn 9 giờ rồi.
- Thật vậy, dường như tôi vừa mới nghe có tiếng chuông reo.
Quả đúng là ông chủ nhà băng của chúng tôi. Chỉ mới qua một đêm mà ông tiều tụy hẳn! Ông vào phòng với vẻ mệt mỏi và đờ đẫn. Tôi đẩy chiếc ghế bành đến cho ông, và ông liền ngồi phịch xuống.
- Không biết tôi đã làm gì nên tội! Cách đây hai hôm, tôi còn là một người thành đạt và sung sướng. Nhưng hôm nay, tôi đã khốn khổ nhất trần đời. Họa vô đơn chí, con nhỏ đã ra đi rồi!
- Mary bỏ đi rồi à?
- Phải. Sáng nay. Phòng nó trống trơn, trên bàn có một lá thư. Ngày hôm qua, trong cơn đau buồn, tôi có quở trách nó, rằng tất cả câu chuyện thê thảm này sẽ không xảy đến, nếu trước đây nó bằng lòng kết hôn với Arthur. Trong thư, nó nhắc đến lời trách móc đó.
“Thưa bác rất yêu quý của con!
Con thấy rằng con là nguyên nhân gây ra tai họa cho bác, rằng nếu con hành động khác đi thì tai họa đã không xảy đến. Với ý nghĩ này ám ảnh trong đầu, con sẽ không thể tiếp tục an nhiên sống ở trong nhà bác được nữa; vậy tốt hơn con nên rời xa. Xin bác đừng lo lắng cho tương lai của con; con không thiếu thốn gì đâu. Nhất là xin bác đừng kiếm tìm con mà mất thì giờ vô ích. Dầu còn sống hay chết, mãi mãi con vẫn là Mary thương yêu của bác.”
- Ông Holmes, liệu Mary có tự tử không?
- Không! Cô ấy đã chọn giải pháp tốt nhất; ông Holder, tai họa của ông sắp chấm dứt rồi.
- Thế à? Nhưng ngọc đâu?
- Ông có nghĩ rằng một nghìn bảng cho mỗi viên ngọc là một số tiền quá lớn không?
- Tôi sẵn sàng trả mười nghìn bảng!
- Không cần nhiều đến thế! Chỉ cần ba nghìn thôi. Cộng thêm một số tiền thưởng nhỏ nữa, được không? Ông có mang theo cuốn ngân phiếu không? Đây, bút đây. Ông chỉ cần viết một ngân phiếu bốn nghìn bảng, thì mọi việc sẽ êm đẹp cả.
Ông chủ nhà băng mừng quýnh, tay run run viết tờ ngân phiếu. Holmes đi đến bàn giấy của anh, lấy ra một miếng tam giác nhỏ bằng vàng có gắn ba viên ngọc beryl và ném nó lên bàn.
- Nó đây rồi! Ông đã tìm ra nó! - Vị chủ nhà băng cứ lắp ba lắp bắp - Tôi thoát nạn rồi! Thoát nạn rồi! Thoát nạn rồi! - Ông siết chặt những viên ngọc vào ngực.
- Ông còn mắc nợ một điều khác nữa, ông Holder. - Holmes nói với một vẻ nghiêm khắc.
- Tôi còn mắc nợ? - Ông ta vừa hỏi lại, vừa cầm cây bút lên - Hãy nói cho tôi biết bao nhiêu, tôi vui lòng đền đáp.
- Không, ông không còn mắc nợ tôi gì cả. Nhưng ông phải thiết tha xin lỗi con trai ông. Đó là một tâm hồn cao quý. Trong vụ này, cậu ấy đã hành động một cách dũng cảm và cao thượng.
- Arthur không ăn cắp sao?
- Tôi đã nói với ông ngày hôm qua, và tôi xin khẳng định điều đó trong ngày hôm nay: Không!
- Chắc chắn chứ? Vậy chúng ta hãy đến ngay nhà giam báo cho nó biết.
- Cậu ấy đã biết rồi! Sau khi làm rõ được sự thật, tôi có đến nhà giam nói chuyện với cậu ấy. Vì cậu ấy không chịu mở miệng, nên tôi đã nói cho cậu ấy biết hết mọi điều. Cậu ấy thừa nhận tôi suy xét đúng sự thật. Và cậu ấy giải thích thêm vài chi tiết hãy còn hơi lờ mờ. Cái tin về cô Mary sẽ khiến cậu ấy kể mọi việc cho ông biết.
- Tôi van ông, xin ông hãy nói hết cho tôi nghe!
- Vâng. Nhưng tôi buộc phải bắt đầu bằng sự việc đau lòng nhất đối với ông: Thủ phạm là Mary và George Burnwell! Bây giờ, họ đã trốn rồi.
- Con bé á? Không thể có chuyện đó!
- Khốn thay, đây không phải là chuyện “có thể” hay “không thể”, mà là sự thật! Cả ông và con trai ông đều không hiểu rõ bản chất của George Burnwell. Đó là một trong những người nguy hiểm nhất ở nước Anh: tay cờ bạc sạt nghiệp, tên lưu manh bất trị, một kẻ không còn lương tâm. Cô cháu gái của ông hoàn toàn không biết gì về hắn cả. Khi ông ta bắt đầu tán tỉnh cô ấy (cũng như ông ta đã tán tỉnh hàng trăm phụ nữ trước đó), Mary đã hãnh diện, nghĩ rằng cô là người đầu tiên và duy nhất làm cho trái tim ông ta rung động. Chỉ có quỷ mới biết được những gì tên lưu manh đó đã nhỏ to với Mary. Có điều chắc chắn là, trong vòng tay của hắn, cô ấy đã trở thành một món đồ chơi: Gần như đêm nào hai người cũng lén lút gặp nhau.
- Tôi không tin, không thể tin được! - Ông chủ nhà băng hét lên, gương mặt tái mét.
- Tốt! Vậy tôi sẽ kể cho ông nghe những gì đã xảy ra ở nhà ông đêm hôm đó. Khi ông đi về phòng mình thì Mary lẻn ra khỏi phòng cô ấy, đến đứng bên cửa sổ trông ra lối dẫn tới chuồng ngựa và nói chuyện với tình nhân đang đứng ở bên ngoài. Dấu chân của gã bất lương in rõ trên tuyết trong suốt thời gian hắn đứng bên cửa sổ. Mary đã nói với hắn về chiếc vương miện. Lòng tham của kẻ thối tha đó nổi dậy và hắn thuyết phục cô nàng đánh cắp bảo vật. Vừa nghe xong những lời dụ dỗ đó, Mary bỗng thấy ông đang đi xuống cầu thang, cô vội vã đóng cửa sổ lại và kể cho ông nghe về chuyện chị hầu phòng.
“Về phần con trai ông, sau khi xin tiền ông không được, cậu trở về phòng mình nằm trằn trọc mãi, tâm trí lo âu bởi những món nợ. Lúc nửa đêm, cậu nghe có tiếng bước chân đi nhẹ qua cửa phòng mình. Cậu liền ngồi dậy, nhìn ra ngoài hành lang và kinh ngạc thấy Mary đi vào trong phòng thay đồ của ông. Sinh nghi, cậu liền mặc vội sơ mi và quần dài, rồi đứng núp trong bóng tối. Một lát sau, Mary xuất hiện dưới ánh sáng của chiếc đèn đặt ở dãy hành lang, và con ông thấy rõ cô cầm chiếc vương miện đi xuống cầu thang. Kinh hãi, cậu liền chạy đến ẩn mình sau tấm màn gần cửa phòng ông. Tại đó, cậu thấy cô gái nhẹ mở chiếc cửa sổ lớn, trao vương miện cho một kẻ nào ở bên ngoài, rồi nhanh chóng đóng cửa sổ lại và trở về phòng của nàng.
“Chừng nào Mary vẫn còn đứng ở đó, Arthur không thể làm được gì vì không muốn gây tai tiếng cho người mà cậu thương yêu.
“Nhưng khi nàng đi rồi, cậu liền chạy xuống cầu thang với đôi chân trần. Cậu mở chiếc cửa sổ lớn, nhảy ra ngoài tuyết và lao mình trên lối đi dẫn đến chuồng ngựa. Đằng trước cậu hiện ra lờ mờ một bóng người đàn ông đang chạy: George Burnwell cố chạy trốn, nhưng Arthur đã tiến sát đến ông ta. Hai người giành giật với nhau, con ông giữ một mé vương miện và gã sở khanh giữ mé kia. Con trai ông đã nện cho tên lưu manh một nhát khá nặng ở phía trên mắt. Rồi thình lình nghe có một tiếng “rắc” khô khan. Nhưng con trai ông, nhận thấy mình đã giựt được vương miện, liền chạy trở về nhà, đóng cửa sổ lại, leo lên phòng thay đồ của ông. Chính lúc cậu nhận thấy chiếc vương miện đã bị bẻ cong và cố uốn cho nó thẳng lại thì ông xuất hiện…”
- Có thể nào lại như thế được chăng? - Ông chủ nhà băng thầm thì.
- Và lúc đó, ông đã làm cho cậu ấy giận dữ bằng những lời mắng nhiếc thậm tệ. Nhưng cậu đã chọn giải pháp cao thượng nhất: Im lặng để giữ bí mật cho cô nàng.
- Bây giờ tôi mới hiểu, tại sao con nhỏ đã la lên một tiếng rồi bất tỉnh, khi nó trông thấy chiếc vương miện! - Ông Holder đau đớn nói - Chúa ơi, tôi thật là u mê. Và con tôi đã xin tôi để nó đi ra ngoài trong năm phút! Thằng bé muốn trở lại chỗ nó đã đánh nhau với tên ác ôn để tìm miếng vương miện bị bẻ… Ôi, tôi rất có lỗi với con tôi.
- Khi đến nhà ông, tôi liền đi một vòng xung quanh, hy vọng tìm được những dấu chân trên tuyết. Tôi biết rằng đêm hôm trước đó tuyết không rơi, và không khí lạnh giá giữ được nguyên vẹn những dấu vết. Tôi men theo lối đi dành cho gia nhân, nhưng ở đây đã có quá nhiều dấu chân giẫm lên nhau và tôi không thể phân biệt được gì nữa. Tuy nhiên, tôi cũng nhận ra rằng cách cửa nhà bếp không xa, một người đàn bà đã dừng lại và nói chuyện với một người đàn ông, dấu chân người đó để lại có hình tròn ở một bên, chứng tỏ người đàn ông này dùng một cái nạng gỗ… Sau đó, tôi đi khắp khu vườn, nhưng chỉ tìm thấy ở đó những dấu chân của các cảnh sát. Trái lại, khi đi theo lối dẫn đến chuồng ngựa, tôi đã khám phá được cả một câu chuyện rất dài và rất phức tạp. Chính những dấu chân còn in rõ mồn một trên tuyết đã kể cho tôi biết.
“Có hai loại dấu chân song song với nhau: dấu chân của người mang giày và dấu chân của người đi chân trần. Những dấu chân trần này chỉ có thể là của con trai ông. Lần theo những dấu chân đó về phía ngôi nhà, tôi đi đến chiếc cửa sổ lớn. Ở đó tôi thấy dấu chân của người mang giày in rất sâu xuống lớp tuyết, chứng tỏ người đó đã đứng tại đây một lúc khá lâu, có lẽ là để chờ đợi. Rồi, vẫn lần theo những dấu chân, tôi quay trở lại đầu kia của lối đi. Cách chừng 100m, tôi nhận ra được chỗ hai người đã dừng lại đối diện với nhau: lớp tuyết bị giẫm đạp hỗn loạn ở đây, chứng tỏ đã có một cuộc giành giật quyết liệt xảy ra. Sau cùng, tôi tìm thấy vài giọt máu, vậy là tôi đã không lầm. Người mang giày đã tháo chạy xuống mé dưới lối đi, một vết máu nhỏ ở đây chứng tỏ hắn đã bị thương. Hắn chạy ra đến con đường lớn, nhưng đến đây thì bị mất dấu của hắn, bởi vì lề đường và lòng đường đã được quét sạch.
“Tuy nhiên, khi trở vào nhà, dùng kính lúp xem xét thật kỹ thành và khung của chiếc cửa sổ lớn, tôi liền nhận ra ngay có một người đã nhảy qua đó để vào nhà. Tôi thấy rõ dấu của một bàn chân còn ướt trên bờ cửa sổ. Lúc bấy giờ, với những chi tiết được thu thập và phân tích như thế, tôi đã có thể dựng lên một giả thiết: Có một người đàn ông đứng chờ ở bên ngoài cửa sổ lớn, một kẻ nào đó trong nhà đem chiếc vương miện xuống trao cho hắn và con trai ông đã bắt gặp được sự việc này. Cậu đuổi theo tên trộm, đánh nhau với hắn, mỗi người cố gắng lôi kéo chiếc vương miện về phía mình, và sức lực của hai người cộng lại đã làm cho chiếc vương miện bị gãy mất một góc. Con trai ông thu hồi lại được chiếc vương miện, nhưng đã bỏ lại ba viên ngọc trong tay gã địch thủ ác ôn. Cho tới đó, mọi sự đều rõ ràng, hợp lý. Vấn đề đặt ra bây giờ là tìm xem tên trộm đó là ai và kẻ nào ở trong nhà đã đem chiếc vương miện xuống cho hắn.
“Trong vụ này, chắc chắn ông không phải là người đem vương miện xuống cho tên trộm. Vậy chỉ còn cô cháu gái của ông và những chị hầu phòng. Nhưng nếu thủ phạm là những chị hầu phòng thì không có lý do gì Arthur lại im lặng. Vậy chỉ còn có Mary, và tôi biết rằng Arthur rất thương yêu cô ta; điều này đủ để giải thích tại sao cậu cam chịu câm như hến… Tôi nhớ rằng ông đã bắt gặp Mary đứng bên chiếc cửa sổ đó, rằng cô nàng đã ngất xỉu khi trông thấy chiếc vương miện mà cô tưởng đang phải ở trong tay kẻ đồng lõa của mình. Thế là tôi tin giả thiết của mình khớp với sự thật.
“Nhưng ai có thể là kẻ đồng lõa của cô nàng? Dĩ nhiên đó phải là gã tình nhân. Bởi nếu không thì ai đủ sức làm cho cô ta quên được ông? Tôi biết rằng ông rất ít khi ra ngoài đi chơi, và số bạn thân của gia đình ông cũng rất ít ỏi. Nhưng trong đó có George Burnwell, một người đàn ông đầy tai tiếng đối với giới phụ nữ. Có thể chính hắn ta là kẻ đồng lõa của Mary và cũng chính hắn đang giữ những viên ngọc bị mất. Dù Arthur có biết rõ hắn là tên trộm, hắn có thể vẫn an toàn, bởi Arthur sẽ không dám tiết lộ ra điều sẽ gây tai tiếng cho gia đình mình.
“Lúc bấy giờ, tôi cải trang thành một người hầu và đến nhà ông quý tộc. Một gia nhân ở đó cho tôi biết, đêm vừa qua, ông chủ của anh ta đã vô ý tự gây ra một vết thương ở mặt. Và sau cùng, với sáu xu, tôi mua lại được một đôi giày cũ của chủ anh ta. Tôi liền chạy thẳng một mạch đến Streatham để đo xem những dấu chân đó, kích thước và hình dạng có đúng là bàn chân ông ta không: y chang!”
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
- Tối hôm qua, - Ông Holder nói - tôi có trông thấy trên lối đến chuồng ngựa có một gã bụi đời, ăn mặc rách rưới.
- Chính là tôi đấy. Sau khi đã biết chắc tên trộm đó chính là George Burnwell, tôi trở về nhà thay quần áo. Đến đây, vai trò của tôi trở nên khó khăn hơn. Bởi vì tôi hiểu rằng không nên làm rùm beng vụ này, cốt để tránh cho ông khỏi bị tai tiếng. Tôi cũng biết rằng George Burnwell là một tên táng tận lương tâm, chắc chắn hắn sẽ khai thác cái thế kẹt của ông. Lúc đầu hắn chối leo lẻo… Nhưng khi tôi kể rõ từng chi tiết sự việc xảy ra đêm hôm đó, hắn liền trở mặt xấc xược và chụp lấy một cái chùy treo trên tường. Tôi lập tức gí súng vào thái dương hắn. Tôi đề nghị với hắn cho tôi chuộc lại ba viên ngọc với giá ba nghìn bảng. Hắn chặc lưỡi: “Thật là xui! Tôi chỉ bán có sáu trăm bảng mà thôi!”. Tôi bèn buộc hắn phải cho tôi địa chỉ người mua, đổi lại tôi hứa sẽ không lôi hắn ra tòa. Tôi chạy thẳng một mạch đến nhà người kia, và sau một hồi ngã giá, tôi mua lại được ba viên ngọc với giá một nghìn bảng mỗi viên. Xong, tôi liền tới gặp con trai ông để cho cậu ấy biết rằng, tất cả đã được giải quyết tốt đẹp. Lúc bấy giờ đã 2 giờ sáng rồi, tôi chỉ còn nghĩ đến có một việc: đi ngủ. Sau một ngày làm việc cực nhọc, đó quả là một sự nghỉ ngơi rất xứng đáng đấy chứ!
- Và ngày đó đã cứu nước Anh thoát khỏi một vụ tai tiếng xấu xa! - Ông chủ nhà băng kết luận và đứng lên - Thưa ông, tôi không thể tìm ra được lời nào để bày tỏ hết lòng biết ơn đối với ông. Nhưng, xin ông hãy tin rằng, mãi mãi, tôi không bao giờ quên ơn ông. Bây giờ, tôi mau chóng đến gặp con trai tôi để xin nó tha thứ. Về phần con bé Mary đáng thương đó, hành động dại dột của nó đã làm cho tôi tan nát cả cõi lòng. Với khả năng xét đoán tài tình của ông, ông có thể cho tôi biết bây giờ nó ở đâu không?
- Cô ta thì đương nhiên là chỉ có mặt tại nơi mà George Burnwell đang ở. Chẳng bao lâu nữa, ông cứ tin tôi, họ sẽ nhận sự trừng phạt thích đáng, cho dù họ phạm tội lỗi gì.
Bình luận facebook