Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 17 - Phần 2
Một tuần nữa lại trôi qua. Cuộc điều tra vẫn giẫm chân tại chỗ. Giám định tử thi không phát hiện ra manh mối gì, đành phải gác lại để tìm chứng cứ khác. Ông hiệu trưởng cũng kín đáo điều tra thầy giáo dạy toán Murdoch, nhưng không thu được kết quả. Tôi cũng kiểm tra tỉ mỉ lại hiện trường lần nữa mà chẳng có gì mới. Chưa có vụ án nào khiến tôi cảm thấy bất lực như vụ này, tôi không đưa ra được phán đoán khả dĩ nào. Sau đó đã xảy ra vụ việc về một con chó.
- Thưa ngài, có tin xấu về con chó của McPherson.
Một buổi tối, người quản gia của tôi đột nhiên nói sau khi thu thập được những tin tức từ kênh riêng của bà ta.
- Con chó ấy làm sao?
- Chết rồi! Nó chết vì thương chủ nó.
- Ai nói với bà như vậy?
- Mọi người đều đang nói về chuyện này. Con chó ấy cả tuần không ăn uống gì. Hôm nay, hai học sinh trong trường đã phát hiện ra nó chết ở bãi biển, đúng chỗ chủ nó đã chết.
- Chính ở chỗ ấy ư?
Trong óc tôi lóe lên một cảm giác mơ hồ - đó dứt khoát là chuyện lớn rồi đây! Chó chết, như vậy cũng là hợp với bản tính trung thành và thân thiện của loài chó. Nhưng sao lại ở đúng chỗ đó? Vì sao một bãi biển hoang vu lại nguy hiểm đối với cả một con chó? Lẽ nào nó cũng phải chết bởi kẻ hận thù kia? Đúng vậy, cảm giác còn rất mơ hồ, nhưng đã dần hình thành trong óc tôi một cách suy nghĩ mới. Vài phút sau, tôi đi thẳng vào trường học, tìm thấy ông hiệu trưởng Harold ở trong phòng làm việc. Theo yêu cầu của tôi, ông cho gọi hai học sinh đã phát hiện ra con chó chết đến.
- Đúng vậy! Con chó nằm chết trên bờ hồ nước ấy. - Một cậu học sinh khẳng định - Hẳn là nó đi tìm dấu chân của chủ nó.
Tôi nhìn con chó trung thành đang nằm trên chiếc thảm để ở giữa sân. Người nó cứng đờ, hai mắt lồi ra, bốn chân co rúm lại, biểu hiện sự đau đớn cực độ.
Sau đó, tôi đi ra chỗ hồ bơi. Mặt trời đã xuống núi, những vách đá vôi ngả bóng đen sì, phủ kín mặt hồ, khiến mặt nước xám xịt. Nơi này thật lạnh lẽo, chỉ có hai con chim đang bay trên trời, vừa bay vừa cất tiếng kêu. Trong ánh nắng chiều yếu ớt, tôi nhận ra dấu chân con chó nhỏ còn in trên cát, xung quanh hòn đá nơi chủ nó để chiếc khăn. Tôi đứng đó suy nghĩ rất lâu, trong lúc bóng đêm càng lúc càng dày thêm. Trong đầu tôi, những ý tưởng đang cuồn cuộn chảy. Rõ ràng tôi muốn tìm kiếm cái gì đó rất quan trọng và tôi biết nó đang ở đâu đây, mặc dù không sao tìm ra được gì. Đó là cảm giác của tôi khi đứng ở một nơi đầy tử khí này. Cuối cùng, tôi đành quay trở về nhà.
Đi hết con đường mòn, đột nhiên, một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi như ánh chớp, tôi nhớ ngay ra một điều quan trọng mà tôi đã khổ sở tìm kiếm suốt bao lâu. Trong đầu tôi chứa đựng cả một khối tri thức mới, tuy không theo trật tự nào nhưng lại rất cần thiết cho công việc của mình. Óc tôi như một gian kho chứa, trong đó có rất nhiều túi, khiến ngay cả tôi cũng chỉ có khái niệm mơ hồ về chúng. Tôi luôn nghĩ, trong đó ắt có thứ rất quan trọng đối với vụ án, dẫu nó vẫn chỉ lờ mờ thoắt ẩn thoắt hiện. Nhưng tôi biết mình sẽ có cách làm nó hiện rõ ra. Rất kỳ bí và thật khó tin, nhưng lại luôn có thể. Tôi cần phải kiểm chứng về điều này.
Trong nhà tôi có một căn gác xép chứa đầy sách vở. Tôi quay về và leo ngay lên đó, lục lọi cả giờ đồng hồ. Sau cùng, tôi cầm một cuốn sách có bìa màu cà phê, chữ in nhũ rồi đi ra. Tôi vội vã lật giở tới chương mà tôi nhớ. Đây đúng là một giả thuyết có phần không tưởng, nhưng tôi không thể không làm rõ khả năng đó, vì nếu không tôi sẽ không thể nào yên tâm được. Tôi ngủ rất muộn và nôn nóng chờ sự việc sẽ diễn ra vào ngày mai.
Thế nhưng công việc lại gặp một số trở ngại khá rắc rối. Tôi vừa vội vàng uống xong tách trà buổi sáng, định ra bãi biển thì viên cảnh sát Bardle ở Sở Cảnh sát tới - một người đàn ông rắn rỏi, đứng đắn nhưng hơi đần độn.
Anh ta có vẻ lúng túng đề nghị với tôi:
- Hôm nay, tôi đến đây chỉ là thăm viếng không chính thức và cũng không muốn nói nhiều. Nhưng thực sự là chúng tôi không có cách gì giải quyết vụ án này. Vấn đề là, liệu tôi có nên bắt ông ta?
- Anh định nói là bắt Murdoch phải không?
- Đúng. Nghĩ đi nghĩ lại, thực sự chẳng còn ai khác. Chúng tôi đã khoanh vùng rất hẹp các nghi can rồi, nếu không phải ông ta thì là ai?
- Anh có chứng cớ gì để buộc tội ông ta không?
Quá trình thu thập chứng cứ của anh ta giống với những giả thuyết vốn đeo bám tôi. Trước tiên là tính cách ngang ngạnh và những bí mật xung quanh Murdoch. Sự nóng giận bột phát biểu hiện ra khi ông ta quẳng con chó qua cửa sổ. Thêm nữa, trước đây ông ta đã cãi cọ với McPherson, và còn có thể căm hận vì anh ta theo đuổi tiểu thư nhà ông Bellamy nữa… Anh ta nắm chắc tất cả những vấn đề quan trọng nhưng chẳng có gì mới, trừ một điểm đó là Murdoch hình như đang chuẩn bị rời khỏi nơi này.
- Đã có tất cả những chứng cứ bất lợi đối với ông ta như vậy, mà nếu để ông ta đi thì tôi sẽ rơi vào tình cảnh thế nào đây?
- Giả thiết của anh có những lỗ hổng rất lớn. - Tôi phân tích - Sáng hôm xảy ra sự việc, ông ta có thể đưa ra những chứng cứ ngoại phạm. Ông ta đang giảng toán cho học sinh tới phút chót. Ngoài ra chớ quên rằng, ông ta không thể một chọi một với một người rất khỏe như McPherson để hành hung được. Cuối cùng là vấn đề hung khí dùng để ra tay nữa.
- Ngoài loại roi mềm ra thì còn có thể là gì khác?
- Anh đã khám nghiệm kỹ các vết thương chưa?
- Tôi đã xem xét rồi, bác sĩ pháp y cũng đã khám nghiệm rất kỹ.
- Nhưng tôi đã dùng kính lúp để quan sát thật kỹ lại, thấy chúng có những điểm rất khác biệt. - Tôi đến bàn lấy ra một bức ảnh phóng to - Đây là phương pháp mà tôi dùng để xử lý các vụ án loại này.
- Thưa ngài, ngài làm việc quả là rất hoàn hảo.
- Nếu không thì tôi đã không thành thám tử! Thôi, chúng ta hãy cùng xem kỹ các vết thương quanh vai phải nhé. Anh xem có gì đặc biệt nào?
- Không, tôi không thấy gì cả.
- Rõ ràng là độ sâu của vết thương không đều nhau. Đây là điểm có rỉ máu, kia là điểm không rỉ máu. Vết thương ở đây cũng vậy. Anh nói xem, thế là thế nào?
- Tôi nghĩ chẳng ra! Còn ngài?
- Có thể tôi biết mà cũng có thể không. Không lâu nữa, tôi nghĩ sẽ đưa ra đáp án chính xác. Một khi mô tả được dụng cụ gây ra vết thương, thì sẽ tìm được ra hung thủ ngay.
- Tôi có một ví dụ hơi thô thiển. - Viên cảnh sát gợi ý - Nếu đặt một tấm lưới bị nung đỏ lên lưng thì điểm gây chảy máu sẽ là các nút giao nhau của các sợi dây đan lưới…
- Hoặc chúng ta có thể nói một cách xác đáng hơn, đó là một loại roi gồm chín sợi bằng da, trên đó có rất nhiều những nút rắn chắc chăng?
- Quá đúng! Ngài Sherlock Holmes, ngài nói rất đúng! - Nhưng cũng có thể không hoàn toàn như vậy. Dù gì đi nữa, hoàn toàn chưa đủ chứng cứ để bắt người. Ngoài ra, còn câu nói của nạn nhân trước khi tắt thở: “Bờm sư tử” nữa chứ.
- Tôi đã cố suy đoán, liệu có phải là Ian...?
- Tôi cũng đã nghĩ tới, nhưng nghe thì không thấy giống chút nào! Tiếng nói của anh ta mà tai tôi ghi nhận, tôi khẳng định đó là từ “Bờm sư tử”.
- Ngài có giả thiết nào khác không, thưa ngài Sherlock Holmes?
- Cũng có, nhưng tôi đang tìm cách kiểm chứng chắc chắn đã. Trước đó, tôi không muốn bàn tới.
- Vậy khi nào thì có thể tìm được?
- Sau một giờ nữa, mà có lẽ không đến một giờ đâu… Viên cảnh sát gãi gãi cằm, nhìn tôi bán tín bán nghi:
- Tôi rất hy vọng hiểu được cách nghĩ trong đầu ngài, ngài Holmes ạ! Phải chăng là những chiếc thuyền cá kia?
- Không đâu, lúc ấy chúng ở cách nơi xảy ra án mạng rất xa.
- Vậy có phải là Bellamy và đứa con trai to lớn của ông ta chăng? Họ chẳng có chút cảm tình nào với nạn nhân cả.
- Không. Trước khi chưa làm rõ, tôi sẽ không nói gì cả. - Tôi cười trừ - Thưa ngài cảnh sát, nếu 12 giờ trưa nay ngài tới chỗ tôi…
Chúng tôi chuẩn bị chia tay thì có một sự việc hãi hùng xảy ra. Nhưng đó cũng chính là khởi điểm để kết thúc vụ án này.
Cửa nhà tôi đột nhiên mở tung ra, Murdoch loạng choạng bước vào, mặt cắt không còn giọt máu, đầu tóc rối bù, áo quần xộc xệch, đôi tay dài gầy gò bám chặt lấy cái bàn, miễn cưỡng đứng lên:
- Rượu brandy! Brandy! Mau mang đến đây!
Ông ta thở hổn hển, nói xong thì khe khẽ rên lên, rồi ngã xuống chiếc ghế tràng kỷ.
Tiếp sau đó, ông hiệu trưởng Harold cũng thở hổn hển chạy vào với bộ quần áo nhàu nhĩ như Murdoch và đầu cũng không đội mũ, vẻ mặt hốc hác.
- Mau đem brandy ra đi! - Ông hiệu trưởng gào lên - Ông ta suýt chết. Tất cả những gì tôi có thể làm là đưa ông ta tới đây. Ông ta đã ngất hai lần trên đường đi rồi…
Sau khi uống nửa cốc rượu nóng, sự việc đã thay đổi một cách kỳ diệu. Murdoch chống một tay, nâng người lên, cởi bỏ áo ngoài:
- Mau đem thuốc đến! Thuốc phiện, dầu thoa! - Ông ta hét toáng - Cái gì cũng được. Mau mau chấm dứt cơn đau vô hạn này đi cho tôi!
Nhìn vết thương trên lưng Murdoch, chúng tôi cùng thốt lên những tiếng kêu hãi hùng. Trên vai ông ta toàn là những vết thương hình lưới sưng mọng ngang dọc, giống hệt những vết thương gây ra cái chết của McPherson.
Sự đau đớn đó thật ghê sợ, bởi ông ta chốc chốc lại thở dốc, mặt tái mét, hai tay cào ngực, trán đẫm mồ hôi. Ông ta có thể chết bất cứ lúc nào. Mỗi lần cho uống rượu brandy là ông ta đều tỉnh lại. Lấy tăm bông chấm dầu cải bôi lên vết thương, có vẻ như làm dịu bớt sự đau đớn của những vết thương bí hiểm này. Cuối cùng, ông ta ngả đầu xuống gối, chút sức lực sót lại dường như bị dốc cạn làm ông ta nửa tỉnh nửa mê, nhưng ít ra cũng không cảm thấy đau đớn nữa. Chúng tôi không thể hỏi ông ta được điều gì.
Một lát sau, ông hiệu trưởng Harold nói với tôi:
- Lạy Chúa! Việc gì vậy, hả ngài Sherlock Holmes? Cuối cùng là chuyện gì vậy?
- Ông phát hiện ra ông ta ở đâu?
- Ngay trên bãi biển, ở chính nơi McPherson chết. Nếu tim ông ta cũng yếu như McPherson thì ông ta cũng chết lâu rồi! Trên đường, đã hai lần tôi ngỡ là ông ta… đi rồi.
- Ông thấy ông ta trên bãi biển ư?
- Khi tôi nghe thấy tiếng kêu của ông ta, tôi đang đi trên con đường nhỏ chỗ vách đá. Ông ta đứng ở mép nước, người lắc la lắc lư như say rượu. Tôi vội chạy tới khoác cho ông ta cái áo rồi đỡ ông ta dậy, dìu về đây. Vì Chúa, Sherlock Holmes, ngài hãy nhanh nhanh nghĩ ra cách gì đó để làm sáng tỏ vụ này đi! Không thể ở đây được nữa rồi! Lẽ nào một người tiếng tăm như ngài lại không có cách gì ư?
- Tôi nghĩ là mình có cách đấy. Ông và cả ngài cảnh sát nữa, hãy đi với tôi! Hãy xem ta có bắt được hung thủ hay không.
Để Murdoch cho bà quản gia chăm sóc, ba chúng tôi cùng tới cái đầm chết người kia, khăn và quần áo của Murdoch vẫn còn để cả đống trên hòn đá. Tôi từ từ đi quanh hồ, hai người bám sát sau tôi. Phần lớn cái đầm này rất nông, nhưng chỗ sâu nhất chừng năm thước lại ở ngay dưới mỏm đá nơi mà vách đá bờ biển lượn lõm vào khoảng 1-1,5m. Đây là nơi người ta thường tới bởi vì nước ở đây trong vắt như pha lê. Dưới vách núi là những hòn đá xếp thành dãy dài. Tôi đi dọc theo những mỏm đá, quan sát rất kỹ chỗ nước sâu. Chính ở nơi sâu nhất đó, tôi đã thấy cái mà tôi cần tìm. Tôi reo lên đắc thắng:
- Sứa độc Cyanea! Cyanea! Mau lại đây xem “Bờm sư tử”!
Quả thật con sứa độc này trông giống như một túm lông bờm của sư tử bị nhổ ra. Nó cuộn lại như một trái bóng nằm trên thềm đá ở sâu dưới mặt nước chừng 1m. Nó động đậy theo làn sóng, dưới đám lông màu vàng còn có rất nhiều tua màu trắng. Nó co vào, giãn ra một cách nặng nề và chậm chạp.
- Con vật gây ra tội ác đây rồi, phải tiêu diệt nó đi thôi! - Tôi hét to - Mau đến giúp tôi một tay, Harold!
Phía trên vách đá vừa may có một hòn đá rất to, chúng tôi cố sức đẩy nó xuống. “Ùm” một cái, nó đã bị lăn xuống nước. Sau khi sóng lặng, chúng tôi nhìn thấy hòn đá to ấy đang nằm đè lên trên một mỏm đá ở dưới đáy hồ, con sứa độc bị ép chặt bên dưới. Một lớp dầu đặc từ dưới đó chảy loang ra, dần dần nổi lên trên mặt nước.
- Hừ! Chuyện này ngoài sức tưởng tượng của tôi, làm khó cho tôi mãi! - Viên cảnh sát cũng kêu lên - Thưa ngài Sherlock Holmes, đó là con gì vậy? Tôi chưa thấy nó bao giờ cả. Con vật này từ đâu tới chứ không có ở vùng Sussex này.
- Không có nó càng tốt. - Tôi nói - Có lẽ cơn bão Tây Nam đã thổi nó dạt vào đây. Mời hai vị theo tôi về nhà, tôi sẽ đọc cho hai vị nghe câu chuyện hãi hùng của một người lần đầu tiên gặp nó, một tai ương khủng khiếp của biển cả.
Trở về văn phòng, chúng tôi thấy Murdoch đã dần hồi phục và ngồi lên được. Ông ta vẫn thấy mắt hoa, đầu váng, thi thoảng vẫn bị co giật vì quá đau đớn. Ông ta lắp bắp nói mình chẳng hiểu việc gì đã xảy ra, chỉ thấy người lúc ấy đột nhiên đau đớn đến tận xương tủy vì bị các móc nhọn quất vào mình, phải cố hết sức mới leo lên bờ được.
- Tôi có một cuốn sách. - Tôi giải thích - Lần đầu tiên nói rõ được một việc tưởng chừng không bao giờ làm rõ. Cuốn sách có tên là “Bên ngoài nhà”, của một nhà nghiên cứu sinh vật nổi tiếng. Ông kể rằng có một lần ông đã gặp loài vật khủng khiếp ấy, độc tính của nó chẳng kém gì chất độc của loài rắn đeo kính, nhưng mức độ gây đau đớn còn lớn hơn rất nhiều. Vì vậy ông ta đã miêu tả tỉ mỉ về Cyanea Capillata, tên đầy đủ của con quái vật giết người này. Tôi xin trích đọc một đoạn:
“Khi người bơi gặp phải một khối tròn, trơn mềm, màu hung, giống như đám lông bờm sư tử điểm bạc, thì phải hết sức cảnh giác, vì đó chính là loài sứa độc Cyanea Capillata”.
“Tác giả kể về việc chính ông đã một lần gặp loài vật này khi đi tắm trên biển Kent. Ông thấy nó tỏa ra những “cái vòi” dạng sợi trong suốt hầu như không nhìn thấy được, dài tới 5m. Tất cả những ai chạm vào nó đều gặp nguy hiểm chết người, dù là ở xa, chính ông cũng suýt mất mạng.”
“Những tua dạng sợi đó tạo ra những vết hằn đỏ trên da, nhìn kỹ thấy giống như ban đỏ, mỗi nốt ban giống như một mũi kim bị nung đỏ châm vào dây thần kinh”.
“Ông giải thích rằng, thậm chí một vết thương nhỏ nhất cũng gây đau đớn khủng khiếp, những đau đớn khó nói thành lời. “Đau lan ra cả vùng ngực, như bị đạn bắn vào. Tim đột nhiên ngừng đập, sau đó lại đập như điên loạn, cứ như chực nhảy ra khỏi lồng ngực vậy.” Ông gần như đã chết, mặc dù chỉ chạm vào những vòi độc đó ở trong nước biển đang có sóng, chứ không phải ở trong đầm nước phẳng lặng. Ông nói, sau khi bị trúng độc, ông không nhận ra mặt mình nữa: sắc mặt nhợt nhạt, nhăn nhúm khác thường, chẳng ra hình dạng gì cả. Ông ấy vội tu cả chai rượu brandy và có lẽ vì vậy mà thoát chết”.
Quay sang ông thanh tra, tôi nói:
- Anh hãy cầm tạm cuốn sách này, trong đó đã miêu tả đầy đủ tấn bi kịch của McPherson rồi.
- Đồng thời, nó cũng xóa sạch những nghi ngờ đối với tôi. - Murdoch nói xen vào, khuôn mặt tuy vô cùng đau đớn nhưng vẫn để lộ nụ cười châm biếm - Thưa ngài cảnh sát, tôi không trách ngài, cũng không trách ngài Holmes đây, bởi sự nghi ngờ của các vị là hoàn toàn có thể hiểu được…
- Không đúng, thưa ông Murdoch. Tôi đã bắt tay vào phá vụ án này rồi. Nếu tôi ra bờ biển sớm hơn một chút, theo kế hoạch đã định, thì có thể đã tránh được tai nạn này cho ông.
- Nhưng thưa ngài, làm sao ngài biết được?
- Tôi là người thích đọc đủ các loại sách, nhớ dai dẳng những chi tiết kỳ dị trong đầu. Mấy tiếng “Bờm sư tử” của McPherson cứ ám ảnh tôi mãi. Tôi nhớ rằng đã đọc nó ở trong một cuốn sách nào đó. Các ngài thấy đấy, chỉ vài chữ đó thôi cũng đã đủ miêu tả về loài vật khủng khiếp ấy. Tôi tin rằng, khi McPherson nhìn thấy nó là lúc nó đang nổi trên mặt nước, anh ta chỉ kịp nhớ ra duy nhất cái tên đó để cảnh báo chúng ta.
- Như vậy, ít nhất là tôi cũng đã được chứng minh sự trong sạch của mình. - Murdoch từ từ đứng dậy - Nhưng tôi còn có đôi câu muốn được giải thích, bởi tôi biết các ngài đã điều tra chuyện gì về tôi rồi. Tôi thực sự yêu cô gái đó, nhưng từ khi cô ấy chọn McPherson, ý nguyện duy nhất của tôi là giúp cô ấy tìm được hạnh phúc. Tôi tình nguyện tránh sang một bên, làm người liên lạc cho họ; tôi đã chuyển thư cho họ. Bởi với tôi, cô ấy là người thân cận nhất, nên tôi đã vội vã đến gặp và báo cho cô ấy tin dữ về cái chết của anh bạn trẻ của tôi. Cô ấy không muốn tiết lộ cho các ngài biết về quan hệ giữa chúng tôi, vì sợ các ngài không hiểu được sự thành thật của tôi mà còn gây thêm rắc rối nữa. Xin lỗi các ngài, giờ tôi xin phép về trường, tôi muốn nghỉ ngơi…
Một lúc sau, Harold cũng ra về. Ông ta bắt tay tôi, xin lỗi về những phiền phức do vụ án gây ra cho tôi. Còn thanh tra cảnh sát thì chân thành nói lời cảm ơn:
- Thật tuyệt! Tôi có nghe nói nhiều về ngài mà vẫn chưa tin. Nhưng nay thì tôi đã hoàn toàn bị khuất phục. Thật kỳ diệu!
Tôi buộc phải từ chối lời khen:
- Phải chi xác của McPherson ở dưới nước thì tôi đã nghĩ ngay tới con sứa độc mà không chậm chạp như vậy trong việc phá án. Chính cái khăn lau đã làm tôi bị lạc hướng, vì tôi nghĩ anh ta không nhảy xuống dưới nước. Tại sao ngay lúc ấy tôi không nghĩ ra là anh ta bị một con vật dưới nước tấn công nhỉ? Dù sao tôi cũng đã để mất phương hướng. Ông thanh tra, thường thì tôi luôn qua mặt các ông, nhưng lần này con sứa độc đã phục thù giúp các ông rồi.
- Thưa ngài, có tin xấu về con chó của McPherson.
Một buổi tối, người quản gia của tôi đột nhiên nói sau khi thu thập được những tin tức từ kênh riêng của bà ta.
- Con chó ấy làm sao?
- Chết rồi! Nó chết vì thương chủ nó.
- Ai nói với bà như vậy?
- Mọi người đều đang nói về chuyện này. Con chó ấy cả tuần không ăn uống gì. Hôm nay, hai học sinh trong trường đã phát hiện ra nó chết ở bãi biển, đúng chỗ chủ nó đã chết.
- Chính ở chỗ ấy ư?
Trong óc tôi lóe lên một cảm giác mơ hồ - đó dứt khoát là chuyện lớn rồi đây! Chó chết, như vậy cũng là hợp với bản tính trung thành và thân thiện của loài chó. Nhưng sao lại ở đúng chỗ đó? Vì sao một bãi biển hoang vu lại nguy hiểm đối với cả một con chó? Lẽ nào nó cũng phải chết bởi kẻ hận thù kia? Đúng vậy, cảm giác còn rất mơ hồ, nhưng đã dần hình thành trong óc tôi một cách suy nghĩ mới. Vài phút sau, tôi đi thẳng vào trường học, tìm thấy ông hiệu trưởng Harold ở trong phòng làm việc. Theo yêu cầu của tôi, ông cho gọi hai học sinh đã phát hiện ra con chó chết đến.
- Đúng vậy! Con chó nằm chết trên bờ hồ nước ấy. - Một cậu học sinh khẳng định - Hẳn là nó đi tìm dấu chân của chủ nó.
Tôi nhìn con chó trung thành đang nằm trên chiếc thảm để ở giữa sân. Người nó cứng đờ, hai mắt lồi ra, bốn chân co rúm lại, biểu hiện sự đau đớn cực độ.
Sau đó, tôi đi ra chỗ hồ bơi. Mặt trời đã xuống núi, những vách đá vôi ngả bóng đen sì, phủ kín mặt hồ, khiến mặt nước xám xịt. Nơi này thật lạnh lẽo, chỉ có hai con chim đang bay trên trời, vừa bay vừa cất tiếng kêu. Trong ánh nắng chiều yếu ớt, tôi nhận ra dấu chân con chó nhỏ còn in trên cát, xung quanh hòn đá nơi chủ nó để chiếc khăn. Tôi đứng đó suy nghĩ rất lâu, trong lúc bóng đêm càng lúc càng dày thêm. Trong đầu tôi, những ý tưởng đang cuồn cuộn chảy. Rõ ràng tôi muốn tìm kiếm cái gì đó rất quan trọng và tôi biết nó đang ở đâu đây, mặc dù không sao tìm ra được gì. Đó là cảm giác của tôi khi đứng ở một nơi đầy tử khí này. Cuối cùng, tôi đành quay trở về nhà.
Đi hết con đường mòn, đột nhiên, một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi như ánh chớp, tôi nhớ ngay ra một điều quan trọng mà tôi đã khổ sở tìm kiếm suốt bao lâu. Trong đầu tôi chứa đựng cả một khối tri thức mới, tuy không theo trật tự nào nhưng lại rất cần thiết cho công việc của mình. Óc tôi như một gian kho chứa, trong đó có rất nhiều túi, khiến ngay cả tôi cũng chỉ có khái niệm mơ hồ về chúng. Tôi luôn nghĩ, trong đó ắt có thứ rất quan trọng đối với vụ án, dẫu nó vẫn chỉ lờ mờ thoắt ẩn thoắt hiện. Nhưng tôi biết mình sẽ có cách làm nó hiện rõ ra. Rất kỳ bí và thật khó tin, nhưng lại luôn có thể. Tôi cần phải kiểm chứng về điều này.
Trong nhà tôi có một căn gác xép chứa đầy sách vở. Tôi quay về và leo ngay lên đó, lục lọi cả giờ đồng hồ. Sau cùng, tôi cầm một cuốn sách có bìa màu cà phê, chữ in nhũ rồi đi ra. Tôi vội vã lật giở tới chương mà tôi nhớ. Đây đúng là một giả thuyết có phần không tưởng, nhưng tôi không thể không làm rõ khả năng đó, vì nếu không tôi sẽ không thể nào yên tâm được. Tôi ngủ rất muộn và nôn nóng chờ sự việc sẽ diễn ra vào ngày mai.
Thế nhưng công việc lại gặp một số trở ngại khá rắc rối. Tôi vừa vội vàng uống xong tách trà buổi sáng, định ra bãi biển thì viên cảnh sát Bardle ở Sở Cảnh sát tới - một người đàn ông rắn rỏi, đứng đắn nhưng hơi đần độn.
Anh ta có vẻ lúng túng đề nghị với tôi:
- Hôm nay, tôi đến đây chỉ là thăm viếng không chính thức và cũng không muốn nói nhiều. Nhưng thực sự là chúng tôi không có cách gì giải quyết vụ án này. Vấn đề là, liệu tôi có nên bắt ông ta?
- Anh định nói là bắt Murdoch phải không?
- Đúng. Nghĩ đi nghĩ lại, thực sự chẳng còn ai khác. Chúng tôi đã khoanh vùng rất hẹp các nghi can rồi, nếu không phải ông ta thì là ai?
- Anh có chứng cớ gì để buộc tội ông ta không?
Quá trình thu thập chứng cứ của anh ta giống với những giả thuyết vốn đeo bám tôi. Trước tiên là tính cách ngang ngạnh và những bí mật xung quanh Murdoch. Sự nóng giận bột phát biểu hiện ra khi ông ta quẳng con chó qua cửa sổ. Thêm nữa, trước đây ông ta đã cãi cọ với McPherson, và còn có thể căm hận vì anh ta theo đuổi tiểu thư nhà ông Bellamy nữa… Anh ta nắm chắc tất cả những vấn đề quan trọng nhưng chẳng có gì mới, trừ một điểm đó là Murdoch hình như đang chuẩn bị rời khỏi nơi này.
- Đã có tất cả những chứng cứ bất lợi đối với ông ta như vậy, mà nếu để ông ta đi thì tôi sẽ rơi vào tình cảnh thế nào đây?
- Giả thiết của anh có những lỗ hổng rất lớn. - Tôi phân tích - Sáng hôm xảy ra sự việc, ông ta có thể đưa ra những chứng cứ ngoại phạm. Ông ta đang giảng toán cho học sinh tới phút chót. Ngoài ra chớ quên rằng, ông ta không thể một chọi một với một người rất khỏe như McPherson để hành hung được. Cuối cùng là vấn đề hung khí dùng để ra tay nữa.
- Ngoài loại roi mềm ra thì còn có thể là gì khác?
- Anh đã khám nghiệm kỹ các vết thương chưa?
- Tôi đã xem xét rồi, bác sĩ pháp y cũng đã khám nghiệm rất kỹ.
- Nhưng tôi đã dùng kính lúp để quan sát thật kỹ lại, thấy chúng có những điểm rất khác biệt. - Tôi đến bàn lấy ra một bức ảnh phóng to - Đây là phương pháp mà tôi dùng để xử lý các vụ án loại này.
- Thưa ngài, ngài làm việc quả là rất hoàn hảo.
- Nếu không thì tôi đã không thành thám tử! Thôi, chúng ta hãy cùng xem kỹ các vết thương quanh vai phải nhé. Anh xem có gì đặc biệt nào?
- Không, tôi không thấy gì cả.
- Rõ ràng là độ sâu của vết thương không đều nhau. Đây là điểm có rỉ máu, kia là điểm không rỉ máu. Vết thương ở đây cũng vậy. Anh nói xem, thế là thế nào?
- Tôi nghĩ chẳng ra! Còn ngài?
- Có thể tôi biết mà cũng có thể không. Không lâu nữa, tôi nghĩ sẽ đưa ra đáp án chính xác. Một khi mô tả được dụng cụ gây ra vết thương, thì sẽ tìm được ra hung thủ ngay.
- Tôi có một ví dụ hơi thô thiển. - Viên cảnh sát gợi ý - Nếu đặt một tấm lưới bị nung đỏ lên lưng thì điểm gây chảy máu sẽ là các nút giao nhau của các sợi dây đan lưới…
- Hoặc chúng ta có thể nói một cách xác đáng hơn, đó là một loại roi gồm chín sợi bằng da, trên đó có rất nhiều những nút rắn chắc chăng?
- Quá đúng! Ngài Sherlock Holmes, ngài nói rất đúng! - Nhưng cũng có thể không hoàn toàn như vậy. Dù gì đi nữa, hoàn toàn chưa đủ chứng cứ để bắt người. Ngoài ra, còn câu nói của nạn nhân trước khi tắt thở: “Bờm sư tử” nữa chứ.
- Tôi đã cố suy đoán, liệu có phải là Ian...?
- Tôi cũng đã nghĩ tới, nhưng nghe thì không thấy giống chút nào! Tiếng nói của anh ta mà tai tôi ghi nhận, tôi khẳng định đó là từ “Bờm sư tử”.
- Ngài có giả thiết nào khác không, thưa ngài Sherlock Holmes?
- Cũng có, nhưng tôi đang tìm cách kiểm chứng chắc chắn đã. Trước đó, tôi không muốn bàn tới.
- Vậy khi nào thì có thể tìm được?
- Sau một giờ nữa, mà có lẽ không đến một giờ đâu… Viên cảnh sát gãi gãi cằm, nhìn tôi bán tín bán nghi:
- Tôi rất hy vọng hiểu được cách nghĩ trong đầu ngài, ngài Holmes ạ! Phải chăng là những chiếc thuyền cá kia?
- Không đâu, lúc ấy chúng ở cách nơi xảy ra án mạng rất xa.
- Vậy có phải là Bellamy và đứa con trai to lớn của ông ta chăng? Họ chẳng có chút cảm tình nào với nạn nhân cả.
- Không. Trước khi chưa làm rõ, tôi sẽ không nói gì cả. - Tôi cười trừ - Thưa ngài cảnh sát, nếu 12 giờ trưa nay ngài tới chỗ tôi…
Chúng tôi chuẩn bị chia tay thì có một sự việc hãi hùng xảy ra. Nhưng đó cũng chính là khởi điểm để kết thúc vụ án này.
Cửa nhà tôi đột nhiên mở tung ra, Murdoch loạng choạng bước vào, mặt cắt không còn giọt máu, đầu tóc rối bù, áo quần xộc xệch, đôi tay dài gầy gò bám chặt lấy cái bàn, miễn cưỡng đứng lên:
- Rượu brandy! Brandy! Mau mang đến đây!
Ông ta thở hổn hển, nói xong thì khe khẽ rên lên, rồi ngã xuống chiếc ghế tràng kỷ.
Tiếp sau đó, ông hiệu trưởng Harold cũng thở hổn hển chạy vào với bộ quần áo nhàu nhĩ như Murdoch và đầu cũng không đội mũ, vẻ mặt hốc hác.
- Mau đem brandy ra đi! - Ông hiệu trưởng gào lên - Ông ta suýt chết. Tất cả những gì tôi có thể làm là đưa ông ta tới đây. Ông ta đã ngất hai lần trên đường đi rồi…
Sau khi uống nửa cốc rượu nóng, sự việc đã thay đổi một cách kỳ diệu. Murdoch chống một tay, nâng người lên, cởi bỏ áo ngoài:
- Mau đem thuốc đến! Thuốc phiện, dầu thoa! - Ông ta hét toáng - Cái gì cũng được. Mau mau chấm dứt cơn đau vô hạn này đi cho tôi!
Nhìn vết thương trên lưng Murdoch, chúng tôi cùng thốt lên những tiếng kêu hãi hùng. Trên vai ông ta toàn là những vết thương hình lưới sưng mọng ngang dọc, giống hệt những vết thương gây ra cái chết của McPherson.
Sự đau đớn đó thật ghê sợ, bởi ông ta chốc chốc lại thở dốc, mặt tái mét, hai tay cào ngực, trán đẫm mồ hôi. Ông ta có thể chết bất cứ lúc nào. Mỗi lần cho uống rượu brandy là ông ta đều tỉnh lại. Lấy tăm bông chấm dầu cải bôi lên vết thương, có vẻ như làm dịu bớt sự đau đớn của những vết thương bí hiểm này. Cuối cùng, ông ta ngả đầu xuống gối, chút sức lực sót lại dường như bị dốc cạn làm ông ta nửa tỉnh nửa mê, nhưng ít ra cũng không cảm thấy đau đớn nữa. Chúng tôi không thể hỏi ông ta được điều gì.
Một lát sau, ông hiệu trưởng Harold nói với tôi:
- Lạy Chúa! Việc gì vậy, hả ngài Sherlock Holmes? Cuối cùng là chuyện gì vậy?
- Ông phát hiện ra ông ta ở đâu?
- Ngay trên bãi biển, ở chính nơi McPherson chết. Nếu tim ông ta cũng yếu như McPherson thì ông ta cũng chết lâu rồi! Trên đường, đã hai lần tôi ngỡ là ông ta… đi rồi.
- Ông thấy ông ta trên bãi biển ư?
- Khi tôi nghe thấy tiếng kêu của ông ta, tôi đang đi trên con đường nhỏ chỗ vách đá. Ông ta đứng ở mép nước, người lắc la lắc lư như say rượu. Tôi vội chạy tới khoác cho ông ta cái áo rồi đỡ ông ta dậy, dìu về đây. Vì Chúa, Sherlock Holmes, ngài hãy nhanh nhanh nghĩ ra cách gì đó để làm sáng tỏ vụ này đi! Không thể ở đây được nữa rồi! Lẽ nào một người tiếng tăm như ngài lại không có cách gì ư?
- Tôi nghĩ là mình có cách đấy. Ông và cả ngài cảnh sát nữa, hãy đi với tôi! Hãy xem ta có bắt được hung thủ hay không.
Để Murdoch cho bà quản gia chăm sóc, ba chúng tôi cùng tới cái đầm chết người kia, khăn và quần áo của Murdoch vẫn còn để cả đống trên hòn đá. Tôi từ từ đi quanh hồ, hai người bám sát sau tôi. Phần lớn cái đầm này rất nông, nhưng chỗ sâu nhất chừng năm thước lại ở ngay dưới mỏm đá nơi mà vách đá bờ biển lượn lõm vào khoảng 1-1,5m. Đây là nơi người ta thường tới bởi vì nước ở đây trong vắt như pha lê. Dưới vách núi là những hòn đá xếp thành dãy dài. Tôi đi dọc theo những mỏm đá, quan sát rất kỹ chỗ nước sâu. Chính ở nơi sâu nhất đó, tôi đã thấy cái mà tôi cần tìm. Tôi reo lên đắc thắng:
- Sứa độc Cyanea! Cyanea! Mau lại đây xem “Bờm sư tử”!
Quả thật con sứa độc này trông giống như một túm lông bờm của sư tử bị nhổ ra. Nó cuộn lại như một trái bóng nằm trên thềm đá ở sâu dưới mặt nước chừng 1m. Nó động đậy theo làn sóng, dưới đám lông màu vàng còn có rất nhiều tua màu trắng. Nó co vào, giãn ra một cách nặng nề và chậm chạp.
- Con vật gây ra tội ác đây rồi, phải tiêu diệt nó đi thôi! - Tôi hét to - Mau đến giúp tôi một tay, Harold!
Phía trên vách đá vừa may có một hòn đá rất to, chúng tôi cố sức đẩy nó xuống. “Ùm” một cái, nó đã bị lăn xuống nước. Sau khi sóng lặng, chúng tôi nhìn thấy hòn đá to ấy đang nằm đè lên trên một mỏm đá ở dưới đáy hồ, con sứa độc bị ép chặt bên dưới. Một lớp dầu đặc từ dưới đó chảy loang ra, dần dần nổi lên trên mặt nước.
- Hừ! Chuyện này ngoài sức tưởng tượng của tôi, làm khó cho tôi mãi! - Viên cảnh sát cũng kêu lên - Thưa ngài Sherlock Holmes, đó là con gì vậy? Tôi chưa thấy nó bao giờ cả. Con vật này từ đâu tới chứ không có ở vùng Sussex này.
- Không có nó càng tốt. - Tôi nói - Có lẽ cơn bão Tây Nam đã thổi nó dạt vào đây. Mời hai vị theo tôi về nhà, tôi sẽ đọc cho hai vị nghe câu chuyện hãi hùng của một người lần đầu tiên gặp nó, một tai ương khủng khiếp của biển cả.
Trở về văn phòng, chúng tôi thấy Murdoch đã dần hồi phục và ngồi lên được. Ông ta vẫn thấy mắt hoa, đầu váng, thi thoảng vẫn bị co giật vì quá đau đớn. Ông ta lắp bắp nói mình chẳng hiểu việc gì đã xảy ra, chỉ thấy người lúc ấy đột nhiên đau đớn đến tận xương tủy vì bị các móc nhọn quất vào mình, phải cố hết sức mới leo lên bờ được.
- Tôi có một cuốn sách. - Tôi giải thích - Lần đầu tiên nói rõ được một việc tưởng chừng không bao giờ làm rõ. Cuốn sách có tên là “Bên ngoài nhà”, của một nhà nghiên cứu sinh vật nổi tiếng. Ông kể rằng có một lần ông đã gặp loài vật khủng khiếp ấy, độc tính của nó chẳng kém gì chất độc của loài rắn đeo kính, nhưng mức độ gây đau đớn còn lớn hơn rất nhiều. Vì vậy ông ta đã miêu tả tỉ mỉ về Cyanea Capillata, tên đầy đủ của con quái vật giết người này. Tôi xin trích đọc một đoạn:
“Khi người bơi gặp phải một khối tròn, trơn mềm, màu hung, giống như đám lông bờm sư tử điểm bạc, thì phải hết sức cảnh giác, vì đó chính là loài sứa độc Cyanea Capillata”.
“Tác giả kể về việc chính ông đã một lần gặp loài vật này khi đi tắm trên biển Kent. Ông thấy nó tỏa ra những “cái vòi” dạng sợi trong suốt hầu như không nhìn thấy được, dài tới 5m. Tất cả những ai chạm vào nó đều gặp nguy hiểm chết người, dù là ở xa, chính ông cũng suýt mất mạng.”
“Những tua dạng sợi đó tạo ra những vết hằn đỏ trên da, nhìn kỹ thấy giống như ban đỏ, mỗi nốt ban giống như một mũi kim bị nung đỏ châm vào dây thần kinh”.
“Ông giải thích rằng, thậm chí một vết thương nhỏ nhất cũng gây đau đớn khủng khiếp, những đau đớn khó nói thành lời. “Đau lan ra cả vùng ngực, như bị đạn bắn vào. Tim đột nhiên ngừng đập, sau đó lại đập như điên loạn, cứ như chực nhảy ra khỏi lồng ngực vậy.” Ông gần như đã chết, mặc dù chỉ chạm vào những vòi độc đó ở trong nước biển đang có sóng, chứ không phải ở trong đầm nước phẳng lặng. Ông nói, sau khi bị trúng độc, ông không nhận ra mặt mình nữa: sắc mặt nhợt nhạt, nhăn nhúm khác thường, chẳng ra hình dạng gì cả. Ông ấy vội tu cả chai rượu brandy và có lẽ vì vậy mà thoát chết”.
Quay sang ông thanh tra, tôi nói:
- Anh hãy cầm tạm cuốn sách này, trong đó đã miêu tả đầy đủ tấn bi kịch của McPherson rồi.
- Đồng thời, nó cũng xóa sạch những nghi ngờ đối với tôi. - Murdoch nói xen vào, khuôn mặt tuy vô cùng đau đớn nhưng vẫn để lộ nụ cười châm biếm - Thưa ngài cảnh sát, tôi không trách ngài, cũng không trách ngài Holmes đây, bởi sự nghi ngờ của các vị là hoàn toàn có thể hiểu được…
- Không đúng, thưa ông Murdoch. Tôi đã bắt tay vào phá vụ án này rồi. Nếu tôi ra bờ biển sớm hơn một chút, theo kế hoạch đã định, thì có thể đã tránh được tai nạn này cho ông.
- Nhưng thưa ngài, làm sao ngài biết được?
- Tôi là người thích đọc đủ các loại sách, nhớ dai dẳng những chi tiết kỳ dị trong đầu. Mấy tiếng “Bờm sư tử” của McPherson cứ ám ảnh tôi mãi. Tôi nhớ rằng đã đọc nó ở trong một cuốn sách nào đó. Các ngài thấy đấy, chỉ vài chữ đó thôi cũng đã đủ miêu tả về loài vật khủng khiếp ấy. Tôi tin rằng, khi McPherson nhìn thấy nó là lúc nó đang nổi trên mặt nước, anh ta chỉ kịp nhớ ra duy nhất cái tên đó để cảnh báo chúng ta.
- Như vậy, ít nhất là tôi cũng đã được chứng minh sự trong sạch của mình. - Murdoch từ từ đứng dậy - Nhưng tôi còn có đôi câu muốn được giải thích, bởi tôi biết các ngài đã điều tra chuyện gì về tôi rồi. Tôi thực sự yêu cô gái đó, nhưng từ khi cô ấy chọn McPherson, ý nguyện duy nhất của tôi là giúp cô ấy tìm được hạnh phúc. Tôi tình nguyện tránh sang một bên, làm người liên lạc cho họ; tôi đã chuyển thư cho họ. Bởi với tôi, cô ấy là người thân cận nhất, nên tôi đã vội vã đến gặp và báo cho cô ấy tin dữ về cái chết của anh bạn trẻ của tôi. Cô ấy không muốn tiết lộ cho các ngài biết về quan hệ giữa chúng tôi, vì sợ các ngài không hiểu được sự thành thật của tôi mà còn gây thêm rắc rối nữa. Xin lỗi các ngài, giờ tôi xin phép về trường, tôi muốn nghỉ ngơi…
Một lúc sau, Harold cũng ra về. Ông ta bắt tay tôi, xin lỗi về những phiền phức do vụ án gây ra cho tôi. Còn thanh tra cảnh sát thì chân thành nói lời cảm ơn:
- Thật tuyệt! Tôi có nghe nói nhiều về ngài mà vẫn chưa tin. Nhưng nay thì tôi đã hoàn toàn bị khuất phục. Thật kỳ diệu!
Tôi buộc phải từ chối lời khen:
- Phải chi xác của McPherson ở dưới nước thì tôi đã nghĩ ngay tới con sứa độc mà không chậm chạp như vậy trong việc phá án. Chính cái khăn lau đã làm tôi bị lạc hướng, vì tôi nghĩ anh ta không nhảy xuống dưới nước. Tại sao ngay lúc ấy tôi không nghĩ ra là anh ta bị một con vật dưới nước tấn công nhỉ? Dù sao tôi cũng đã để mất phương hướng. Ông thanh tra, thường thì tôi luôn qua mặt các ông, nhưng lần này con sứa độc đã phục thù giúp các ông rồi.