Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 02 - Phần 2
Bà Hudson bước vào, trong tay cầm một chiếc khay có đựng danh thiếp của một phụ nữ. Holmes nhấc tấm danh thiếp lên và trên mặt anh lộ ra một thoáng hy vọng. Anh nói với bà Hudson:
- Hãy mời phu nhân Hilda Trelawney Hope vào!
Tôi từng nghe lời ca tụng phu nhân Hilda là người phụ nữ đẹp nhất London. Nhưng cho dù đã nghe qua hay nhìn ảnh, tôi vẫn không thể tưởng tượng được bà ấy lại lộng lẫy đến thế. Tuy nhiên, vào buổi sáng mùa thu hôm đó, ấn tượng đầu tiên về người phụ nữ ấy lại không phải là vẻ đẹp kiêu sa. Cho dù khuôn mặt của bà thật kiều diễm, nhưng vì quá kích động mà trở nên trắng bệch, đôi môi quyến rũ mím chặt lại. Vì thế, khi bà bước vào phòng, ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi là bà ta đang vô cùng sợ hãi.
- Thưa ông Holmes, chồng tôi có lẽ đã đến đây phải không?
- Vâng, thưa bà.
- Ông Holmes! Xin đừng nói với chồng tôi về việc tôi đến đây hôm nay.
Holmes gật đầu một cách lạnh lùng:
- Thưa bà, bà làm tôi thật khó nghĩ. Xin mời bà ngồi và nói cho tôi biết yêu cầu của bà. Song tôi e không thể đồng ý với đòi hỏi kỳ lạ của bà.
Phu nhân Hilda đi về phía góc phòng, rồi ngồi quay lưng lại của sổ.
- Ông Holmes! Tôi sẽ thẳng thắn với ông, vì vậy tôi hy vọng ông cũng thế. Tôi biết, tối qua ở nhà tôi đã mất một tài liệu gì đó. Nhưng vì đây là vấn đề chính trị, nên chồng tôi đã không nói gì với tôi. Ngoài một số chính trị gia ra, thì ông là người duy nhất biết mọi chuyện. Vậy xin ông hãy cho tôi biết những gì đã xảy ra và hậu quả của nó như thế nào. Ông đừng vì việc đó ảnh hưởng đến chồng tôi mà không nói với tôi.
- Xin lỗi bà. Tôi không thể trả lời câu hỏi của bà được.
Bà ta thở dài rồi đưa tay ôm mặt:
- Nếu ông không muốn nói thì thôi. Nhưng mong ông vui lòng trả lời một câu hỏi khác.
- Xin bà cứ nói. - Holmes trầm ngâm đáp.
- Vụ việc này có làm ảnh hưởng đến sự nghiệp chính trị của chồng tôi không?
- Thưa bà, nếu việc này không được giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng.
- Lạy chúa! - Phu nhân Hilda rầu rĩ - Hậu quả sẽ ra sao?
- Thưa bà, câu hỏi đó tôi không thể trả lời được.
- Nếu thế, tôi cũng không làm mất thời gian của ông nữa. Ông Holmes, tôi không trách ông đã quá cẩn trọng, và tôi tin rằng ông cũng không nghĩ xấu về tôi. Bởi tôi chỉ mong được chia sẻ gánh nặng với chồng tôi mà thôi. Một lần nữa, xin ông đừng nói với ông ấy về cuộc nói chuyện hôm nay!
Ra đến cửa, bà ta còn quay đầu lại nhìn chúng tôi một lần nữa, khuôn mặt đẹp đầy xúc động, đôi mắt mở to sợ sệt và đôi môi tái nhợt. Rồi bà ta biến mất rất nhanh.
Suốt ba ngày sau đó, Holmes tỏ ra rất ít nói. Anh đi đi về về, hút thuốc liên tục, cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo một chút rồi lại buông xuống. Anh chìm đắm vào những suy tưởng của mình mà chả thiết đến cơm nước, cũng như trả lời những câu hỏi vu vơ của tôi. Điều đó cho thấy công việc điều tra đang tiến hành không được thuận lợi cho lắm. Anh không nói nhiều về vụ án này. Tôi cũng chỉ biết được tin tức vụ án qua những mẩu tin chắp vá trên báo, như việc bắt giữ John Mitton, người hầu nam của nạn nhân quá cố. Nhưng sau đó anh ta cũng đã được thả. Người ta đã đưa ra phán đoán rằng đây là một vụ giết người có chủ đích, nhưng không thể làm rõ các tình tiết cũng như không bắt được thủ phạm. Động cơ giết người không rõ ràng. Các đồ đạc quý giá và tài liệu trong nhà đều không bị lấy đi. Sau khi nghiên cứu kỹ những thư từ của nạn nhân thì biết được ông ta là một người rất quan tâm đến những vấn đề chính trị quốc tế. Ông ta viết khá nhiều, thư từ trao đổi nhiều vô kể. Ông ta có quan hệ đặc biệt với một số nhà lãnh đạo danh tiếng của vài quốc gia. Còn về quan hệ nam nữ thì khá phức tạp, tuy nhiên, không có mối quan hệ nào lâu bền. Ông ta cũng không có lối sống quá đặc biệt. Cái chết của ông ta vẫn là một nghi vấn đầy bí ẩn. Và điều gì có liên quan đến anh hầu Mitton kia?
Còn về vụ bắt Mitton, theo tôi, đó chỉ là một hành động đánh lừa để chúng ta biết việc điều tra vẫn đang tiếp tục. Tối hôm vụ án xảy ra, Mitton có đi thăm một người bạn, việc này đã được xác nhận chắc chắn. Anh ta thực sự xúc động trước tấn thảm kịch bất ngờ. Một vài vật dụng nhỏ như dao cạo râu được tìm thấy trong vali của Mitton. Nhưng anh ta cũng đã nói rõ đây là quà của ông chủ. Bà quản gia Pringle đã xác nhận điều này. Bà cũng cho biết, hôm đó bà đi ngủ và không hề nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Nếu có khách đến thì chắc chắn ông chủ sẽ đích thân ra mở cửa.
Mãi đến buổi sáng ngày thứ tư, báo chí mới đăng tải một bức điện báo rất dài phát đi từ Paris, bức điện hầu như đã giải quyết mọi vấn đề. Nguyên văn của nó như sau: “Cảnh sát Paris dường như đã vén được bức màn bí mật về cái chết thảm thương của ngài Eduardo Lucas. - Tờ “Daily Telegraph” viết - Độc giả hẳn còn nhớ vụ án mạng thảm khốc xảy ra với ngài Lucas tại nhà riêng, trong tuần này. Người hầu phòng của ngài đã bị tình nghi, nhưng quá trình điều tra cho thấy, anh này vô tội.
Hôm qua, một vài người hầu đã trình báo với cảnh sát Paris về những hành vi bất thường của phu nhân Henri Fournaye của họ. Bà ta đang sống ở một căn hộ nhỏ trên đường Austerlitz. Khám nghiệm của các nhân viên y tế cho thấy, bà Fournaye từ lâu đã mắc chứng nóng giận không kiềm chế được. Theo điều tra, bà Henri đã quay về Paris từ London vào thứ ba vừa rồi. Có nhiều cơ sở để chứng minh rằng, chuyến đi này của bà ta có liên quan mật thiết đến vụ án mạng tại Westminster. Đối chiếu và phân tích các bức ảnh cho thấy, trên thực tế Henri Fournaye và Eduardo Lucas là một. Không rõ vì lý do gì mà ông Lucas phải sống một cuộc sống hai mặt ở London và Paris. Bà Fournaye là người vùng Creole, mắc chứng động kinh, nên rất dễ bị kích động. Có lẽ vì quá ghen tuông mà bà ta trở nên điên loạn, và đó là nguyên nhân dẫn đến cái chết làm kinh động cả thành London. Trước mắt, hành vi của bà ta trong đêm thứ hai vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, vào sáng sớm thứ ba, có một người phụ nữ rất giống bà Fournaye đã xuất hiện trên sân ga Charing Cross với vẻ mặt rồ dại và những cử chỉ điên loạn, nên đã bị mọi người chú ý. Vì thế, rất có thể là bà đã giết ông Lucas trong trạng thái không tỉnh táo, hoặc do hành vi giết người này mà trở nên điên loạn. Hiện tại, bà vẫn chưa thể nhớ hết những việc xảy ra trong quá khứ; bác sĩ cũng nói điều này là không thể. Có người đã làm chứng, vào buổi tối thứ hai, một người phụ nữ nào đó đã đứng trên đường Godolphin mấy tiếng liền, và nhìn chăm chú vào nhà của ngài Lucas. Có lẽ người phụ nữ đó chính là bà Fournaye”.
Tôi đọc hết bài báo cho Holmes nghe, khi anh đã dùng xong bữa điểm tâm.
- Anh nghĩ gì về bài báo này?
Holmes đứng dậy đi đi lại lại trong phòng, trầm ngâm nói:
- Thật ra, những tin tức đến từ Paris không có ích gì cho chúng ta cả!
- Nhưng đã làm sáng tỏ được cái chết của ngài Lucas đấy chứ?
- Cái chết của Lucas chỉ là một phần rất nhỏ so với nhiệm vụ của chúng ta. Mục đích của chúng ta là phải tìm ra bức thư để cứu cả châu Âu khỏi một cuộc chiến tranh. Trong ba ngày qua, chỉ có một việc đáng quan tâm nhất là chưa có việc gì xảy ra. Cả châu Âu vẫn chưa có dấu hiệu bất an. Lẽ nào bức thư đã bị thất lạc? Không, điều này là không thể. Vậy, nếu nó chưa mất, thì giờ đang ở đâu? Ai đang giữ bức thư? Và tại sao phải làm vậy? Cái chết của Lucas và việc bức thư bị mất có liên quan gì với nhau? Có phải Lucas bị giết đúng vào buổi tối bị mất lá thư? Ông ta đã nhận được bức thư chưa? Nếu đã nhận rồi thì sao lại không tìm thấy trong đống tài liệu ở nhà ấy? Phải chăng bà vợ điên khùng của ông ta đã lấy nó đi? Tôi có thể tìm thấy nó mà không làm cho cảnh sát Pháp nghi ngờ được chăng? Nếu tôi thành công trong vụ án này, thì sự nghiệp của tôi sẽ vô cùng hiển hách. À mà lại có tin tức mới rồi! - Anh bóc vội bức thư vừa nhận trên tay, rồi cười nói với tôi: - Hình như Lestrade đã tìm ra được điều gì đó thú vị thì phải. Watson, chúng ta hãy cùng đến tu viện Westminster nào!
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy hiện trường vụ án. Ngôi nhà khá cao và xây dựng rất kiên cố, hợp lý, thoáng đãng, nhưng không đẹp lắm. Một cảnh sát ra đón và mời chúng tôi vào phòng. Chúng tôi bước tới và thấy trong phòng ngoài vết máu hiện rõ trên tấm thảm ra thì không còn dấu vết nào khác. Tấm thảm làm bằng nỉ dày được trải ngay giữa phòng; nền nhà gỗ ghép được lau sáng bóng. Trên tường treo bộ sưu tập các loại vũ khí nổi tiếng của nạn nhân, con dao hung khí cũng là một trong số đó. Một chiếc bàn viết cổ rất đắt tiền đặt cạnh cửa sổ. Đồ đạc trang trí trong phòng như tranh sơn dầu, những tấm thảm nhỏ và các vật treo trên tường đều rất đẹp, trang nhã và đắt tiền. Lestrade hỏi Holmes:
- Ông đã đọc được tin từ Paris chưa?
Holmes gật đầu. Lestrade nói tiếp:
- Những người bạn Pháp của chúng ta đã tìm được những tình tiết quý giá. Tôi thấy họ nói rất có lý. Đó là một vị khách ngoài ý muốn. Vì ông Lucas không thể để vợ đứng ở ngoài được, nên đành phải mời bà ta vào nhà. Bà Lucas chắc đã nói về những chuyện ong bướm của ông ta, và rồi không kìm nổi, đã xông tới xỉ vả chồng. Rồi vớ lấy con dao treo trên tường, bà ta xông vào đâm chồng. Tuy nhiên, không phải chỉ một nhát dao đã khiến nạn nhân mất mạng. Ông có thể nhìn thấy cái ghế đổ ở bên cạnh, một tay Lucas còn nắm chặt chân ghế. Ông ta muốn dùng cái ghế để ngăn bà Lucas lại.
Holmes mở to mắt, nhướn cao hàng lông mày:
- Vậy các ông còn cần đến tôi làm gì?
- Bởi vì tôi phát hiện ra một chi tiết nữa rất khác thường. Sáng nay tôi đã cho tiến hành mai táng nạn nhân, vụ án cũng có thể khép lại. Vì thế chúng tôi chuẩn bị thu dọn hiện trường. Tấm thảm không dính chặt xuống nền nhà như thường thấy. Và khi nâng tấm thảm lên, chúng tôi thấy…
- Thấy gì? Các ông thấy cái gì? - Holmes hỏi dồn dập, chứng tỏ anh rất quan tâm đến việc này.
- Ông có thấy vết máu trên tấm thảm này không? Đáng lẽ phải có một lượng máu đáng kể thấm qua thảm chứ?
- Đúng! Lẽ ra phải thế.
- Nhưng trên sàn gỗ, ngay chỗ tấm thảm đè lên, lại không có vết máu nào. Ông không cảm thấy kỳ lạ sao? - Vừa nói Lestrade vừa lật tấm thảm cho chúng tôi xem - Đáng lẽ vết máu trên tấm thảm và trên sàn phải ở cùng một chỗ, chắc chắn phải để lại dấu vết chứ. Đúng là có hai vết máu, nhưng vị trí vết máu thứ hai không trùng với vết máu thứ nhất, ông có thể thấy rất rõ. - Nói rồi, Lestrade lại lật một mặt khác của tấm thảm lên, ngay lập tức chúng tôi nhìn thấy một vết máu nâu thẫm trên nền gỗ - Ông Holmes, ông nghĩ sao về chuyện này?
- Rất đơn giản, hai vết máu vốn trùng nhau, nhưng đã có người thay đổi vị trí tấm thảm. Tấm thảm hình vuông, lại không cố định nên việc di chuyển rất dễ dàng.
- Cảnh sát chúng tôi cũng tự biết những điều đó chứ, vấn đề là ai đã dịch chuyển và tại sao lại dịch chuyển nó?
Tôi hiểu được vẻ mặt trầm ngâm của Holmes lúc này, nó cho thấy anh đang rất xúc động. Lát sau, Holmes mới hỏi:
- Các ông luôn cho cảnh sát túc trực ở hiện trường phải không?
- Vâng.
- Hãy làm theo lời tôi, tra hỏi anh ta tới nơi tới chốn, có lẽ anh ta sẽ thú nhận thôi. Đừng hỏi anh ta có cho ai vào không, mà nói chúng ta biết có người đã vào phòng. Hãy ép anh ta nói ra và khẳng định chỉ có thành thật thì anh ta mới có hy vọng được tha thứ. Ông hãy làm đi, chúng tôi không chứng kiến việc đó đâu!
- Tôi thề là sẽ bắt anh ta nói ra sự thật. - Ông ta chạy sang phòng bên cạnh. Và ngay sau đó, chúng tôi nghe thấy tiếng quát tháo ầm ĩ.
Lestrade đi rồi, Holmes tỏ ra rất kích động, anh cuống quýt:
- Watson, hãy xem này! - Anh nhanh chóng lật phăng tấm thảm lên, quỳ xuống gõ gõ lên sàn, dùng tay lần từng ô vuông gỗ lát sàn. Đột nhiên một miếng ván lát bật lên, để lộ ra một cái hộp bí mật. Holmes vội đưa tay vào tìm kiếm, thế nhưng sau khi lôi chiếc hộp ra, anh rên lên vì tức giận và thất vọng: Cái hộp bí mật trống không!
- Nhanh lên Watson, phải đặt tấm thảm lại chỗ cũ !
Khi chúng tôi vừa lắp xong tấm ván sàn, trải tấm thảm lên như cũ, thì cũng là lúc nghe thấy tiếng của Lestrade. Khi ông ta bước vào thì Holmes đã tựa vào lò sưởi với vẻ kiên nhẫn, cố ghìm những cái ngáp dài.
- Xin lỗi để ông đợi lâu, ông Holmes. MacPherson! Vào đây! Và hãy nói rõ cho chúng tôi nghe cái việc ngu ngốc mà cậu đã làm.
Chàng cảnh sát to cao chúng tôi gặp ngoài cửa vừa nãy lầm lũi bước vào, mặt đầy vẻ hối hận:
- Thưa ngài, quả thật tôi không có ý làm việc gì xấu cả. Tối hôm qua có một phụ nữ trẻ rẽ vào đây. Bà ta nói mình tìm nhầm nhà. Chúng tôi có nói chuyện với nhau một lúc. Suốt ngày đứng một mình quả là khá buồn…
- Được rồi. Còn sau đó thì sao?
- Bà ta muốn ngó qua hiện trường vụ án một chút, vì bà ta bảo đã đọc về vụ án mà báo chí đã đưa tin và thấy rất tò mò. Đó là một phụ nữ vô cùng xinh đẹp và rất duyên dáng, nên tôi nghĩ, để cho bà ta ngó qua một chút chắc không có chuyện gì. Nào ngờ vừa nhìn thấy vết máu thì bà ta đã quỵ xuống, bất tỉnh. Tôi chạy vội vào bếp mang ra ít nước, nhưng bà ta vẫn không tỉnh lại. Tôi chạy ngay ra ngoài mua một chai rượu brandy. Nhưng lúc tôi quay lại thì bà ta đã biến mất rồi. Có lẽ bà ta thấy xấu hổ khi gặp lại tôi…
- Thế không ai động đến tấm thảm chứ?
- Lúc tôi quay lại, tấm thảm đã hơi bị xê dịch một chút. Tôi đoán có lẽ do bà ta đã ngã lên đó, mà tấm thảm lại không được cố định, nên mới vậy. Vì thế, tôi đã đặt nó ngay ngắn trở lại.
Lestrade nói giọng đe dọa:
- MacPherson, cậu tưởng hành vi bỏ bê vị trí canh gác của cậu có thể che mắt được mọi người sao? Vừa vào tôi đã nhận ra ngay có người đã vào phòng. Thật may là không mất gì. Nếu không thì coi như cậu toi đời rồi. Ông Holmes, rất tiếc là tôi đã gọi ông tới đây vì một việc không đâu này. Nhưng tôi cho rằng vết máu thứ hai, vết không trùng lên vết thứ nhất, sẽ khiến ông quan tâm.
- Người phụ nữ đó chỉ đến đây một lần thôi sao? - Holmes hỏi lại lần nữa.
- Vâng, đúng một lần.
- Tên bà ta là gì?
- Tôi không biết. Bà ta nói là đi tìm nhà nhưng vào nhầm. Bà ta rất nhã nhặn và lịch sự.
- Bà ta rất xinh đẹp?
- Vâng, bà ta quả là một phụ nữ vô cùng duyên dáng và quyến rũ.
- Bà ta ăn mặc ra sao? Lúc đó là mấy giờ?
- Bà ta ăn mặc rất lịch sự và trang nhã. Tôi còn nhớ đó là một bộ váy dài chấm đất. Khi tôi mua rượu trở lại thì đèn phố đã bật sáng.
- Rất tốt. Watson, đi thôi! Chúng ta phải đến một nơi khác để giải quyết một việc rất quan trọng.
- Hãy mời phu nhân Hilda Trelawney Hope vào!
Tôi từng nghe lời ca tụng phu nhân Hilda là người phụ nữ đẹp nhất London. Nhưng cho dù đã nghe qua hay nhìn ảnh, tôi vẫn không thể tưởng tượng được bà ấy lại lộng lẫy đến thế. Tuy nhiên, vào buổi sáng mùa thu hôm đó, ấn tượng đầu tiên về người phụ nữ ấy lại không phải là vẻ đẹp kiêu sa. Cho dù khuôn mặt của bà thật kiều diễm, nhưng vì quá kích động mà trở nên trắng bệch, đôi môi quyến rũ mím chặt lại. Vì thế, khi bà bước vào phòng, ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi là bà ta đang vô cùng sợ hãi.
- Thưa ông Holmes, chồng tôi có lẽ đã đến đây phải không?
- Vâng, thưa bà.
- Ông Holmes! Xin đừng nói với chồng tôi về việc tôi đến đây hôm nay.
Holmes gật đầu một cách lạnh lùng:
- Thưa bà, bà làm tôi thật khó nghĩ. Xin mời bà ngồi và nói cho tôi biết yêu cầu của bà. Song tôi e không thể đồng ý với đòi hỏi kỳ lạ của bà.
Phu nhân Hilda đi về phía góc phòng, rồi ngồi quay lưng lại của sổ.
- Ông Holmes! Tôi sẽ thẳng thắn với ông, vì vậy tôi hy vọng ông cũng thế. Tôi biết, tối qua ở nhà tôi đã mất một tài liệu gì đó. Nhưng vì đây là vấn đề chính trị, nên chồng tôi đã không nói gì với tôi. Ngoài một số chính trị gia ra, thì ông là người duy nhất biết mọi chuyện. Vậy xin ông hãy cho tôi biết những gì đã xảy ra và hậu quả của nó như thế nào. Ông đừng vì việc đó ảnh hưởng đến chồng tôi mà không nói với tôi.
- Xin lỗi bà. Tôi không thể trả lời câu hỏi của bà được.
Bà ta thở dài rồi đưa tay ôm mặt:
- Nếu ông không muốn nói thì thôi. Nhưng mong ông vui lòng trả lời một câu hỏi khác.
- Xin bà cứ nói. - Holmes trầm ngâm đáp.
- Vụ việc này có làm ảnh hưởng đến sự nghiệp chính trị của chồng tôi không?
- Thưa bà, nếu việc này không được giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng.
- Lạy chúa! - Phu nhân Hilda rầu rĩ - Hậu quả sẽ ra sao?
- Thưa bà, câu hỏi đó tôi không thể trả lời được.
- Nếu thế, tôi cũng không làm mất thời gian của ông nữa. Ông Holmes, tôi không trách ông đã quá cẩn trọng, và tôi tin rằng ông cũng không nghĩ xấu về tôi. Bởi tôi chỉ mong được chia sẻ gánh nặng với chồng tôi mà thôi. Một lần nữa, xin ông đừng nói với ông ấy về cuộc nói chuyện hôm nay!
Ra đến cửa, bà ta còn quay đầu lại nhìn chúng tôi một lần nữa, khuôn mặt đẹp đầy xúc động, đôi mắt mở to sợ sệt và đôi môi tái nhợt. Rồi bà ta biến mất rất nhanh.
Suốt ba ngày sau đó, Holmes tỏ ra rất ít nói. Anh đi đi về về, hút thuốc liên tục, cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo một chút rồi lại buông xuống. Anh chìm đắm vào những suy tưởng của mình mà chả thiết đến cơm nước, cũng như trả lời những câu hỏi vu vơ của tôi. Điều đó cho thấy công việc điều tra đang tiến hành không được thuận lợi cho lắm. Anh không nói nhiều về vụ án này. Tôi cũng chỉ biết được tin tức vụ án qua những mẩu tin chắp vá trên báo, như việc bắt giữ John Mitton, người hầu nam của nạn nhân quá cố. Nhưng sau đó anh ta cũng đã được thả. Người ta đã đưa ra phán đoán rằng đây là một vụ giết người có chủ đích, nhưng không thể làm rõ các tình tiết cũng như không bắt được thủ phạm. Động cơ giết người không rõ ràng. Các đồ đạc quý giá và tài liệu trong nhà đều không bị lấy đi. Sau khi nghiên cứu kỹ những thư từ của nạn nhân thì biết được ông ta là một người rất quan tâm đến những vấn đề chính trị quốc tế. Ông ta viết khá nhiều, thư từ trao đổi nhiều vô kể. Ông ta có quan hệ đặc biệt với một số nhà lãnh đạo danh tiếng của vài quốc gia. Còn về quan hệ nam nữ thì khá phức tạp, tuy nhiên, không có mối quan hệ nào lâu bền. Ông ta cũng không có lối sống quá đặc biệt. Cái chết của ông ta vẫn là một nghi vấn đầy bí ẩn. Và điều gì có liên quan đến anh hầu Mitton kia?
Còn về vụ bắt Mitton, theo tôi, đó chỉ là một hành động đánh lừa để chúng ta biết việc điều tra vẫn đang tiếp tục. Tối hôm vụ án xảy ra, Mitton có đi thăm một người bạn, việc này đã được xác nhận chắc chắn. Anh ta thực sự xúc động trước tấn thảm kịch bất ngờ. Một vài vật dụng nhỏ như dao cạo râu được tìm thấy trong vali của Mitton. Nhưng anh ta cũng đã nói rõ đây là quà của ông chủ. Bà quản gia Pringle đã xác nhận điều này. Bà cũng cho biết, hôm đó bà đi ngủ và không hề nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Nếu có khách đến thì chắc chắn ông chủ sẽ đích thân ra mở cửa.
Mãi đến buổi sáng ngày thứ tư, báo chí mới đăng tải một bức điện báo rất dài phát đi từ Paris, bức điện hầu như đã giải quyết mọi vấn đề. Nguyên văn của nó như sau: “Cảnh sát Paris dường như đã vén được bức màn bí mật về cái chết thảm thương của ngài Eduardo Lucas. - Tờ “Daily Telegraph” viết - Độc giả hẳn còn nhớ vụ án mạng thảm khốc xảy ra với ngài Lucas tại nhà riêng, trong tuần này. Người hầu phòng của ngài đã bị tình nghi, nhưng quá trình điều tra cho thấy, anh này vô tội.
Hôm qua, một vài người hầu đã trình báo với cảnh sát Paris về những hành vi bất thường của phu nhân Henri Fournaye của họ. Bà ta đang sống ở một căn hộ nhỏ trên đường Austerlitz. Khám nghiệm của các nhân viên y tế cho thấy, bà Fournaye từ lâu đã mắc chứng nóng giận không kiềm chế được. Theo điều tra, bà Henri đã quay về Paris từ London vào thứ ba vừa rồi. Có nhiều cơ sở để chứng minh rằng, chuyến đi này của bà ta có liên quan mật thiết đến vụ án mạng tại Westminster. Đối chiếu và phân tích các bức ảnh cho thấy, trên thực tế Henri Fournaye và Eduardo Lucas là một. Không rõ vì lý do gì mà ông Lucas phải sống một cuộc sống hai mặt ở London và Paris. Bà Fournaye là người vùng Creole, mắc chứng động kinh, nên rất dễ bị kích động. Có lẽ vì quá ghen tuông mà bà ta trở nên điên loạn, và đó là nguyên nhân dẫn đến cái chết làm kinh động cả thành London. Trước mắt, hành vi của bà ta trong đêm thứ hai vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, vào sáng sớm thứ ba, có một người phụ nữ rất giống bà Fournaye đã xuất hiện trên sân ga Charing Cross với vẻ mặt rồ dại và những cử chỉ điên loạn, nên đã bị mọi người chú ý. Vì thế, rất có thể là bà đã giết ông Lucas trong trạng thái không tỉnh táo, hoặc do hành vi giết người này mà trở nên điên loạn. Hiện tại, bà vẫn chưa thể nhớ hết những việc xảy ra trong quá khứ; bác sĩ cũng nói điều này là không thể. Có người đã làm chứng, vào buổi tối thứ hai, một người phụ nữ nào đó đã đứng trên đường Godolphin mấy tiếng liền, và nhìn chăm chú vào nhà của ngài Lucas. Có lẽ người phụ nữ đó chính là bà Fournaye”.
Tôi đọc hết bài báo cho Holmes nghe, khi anh đã dùng xong bữa điểm tâm.
- Anh nghĩ gì về bài báo này?
Holmes đứng dậy đi đi lại lại trong phòng, trầm ngâm nói:
- Thật ra, những tin tức đến từ Paris không có ích gì cho chúng ta cả!
- Nhưng đã làm sáng tỏ được cái chết của ngài Lucas đấy chứ?
- Cái chết của Lucas chỉ là một phần rất nhỏ so với nhiệm vụ của chúng ta. Mục đích của chúng ta là phải tìm ra bức thư để cứu cả châu Âu khỏi một cuộc chiến tranh. Trong ba ngày qua, chỉ có một việc đáng quan tâm nhất là chưa có việc gì xảy ra. Cả châu Âu vẫn chưa có dấu hiệu bất an. Lẽ nào bức thư đã bị thất lạc? Không, điều này là không thể. Vậy, nếu nó chưa mất, thì giờ đang ở đâu? Ai đang giữ bức thư? Và tại sao phải làm vậy? Cái chết của Lucas và việc bức thư bị mất có liên quan gì với nhau? Có phải Lucas bị giết đúng vào buổi tối bị mất lá thư? Ông ta đã nhận được bức thư chưa? Nếu đã nhận rồi thì sao lại không tìm thấy trong đống tài liệu ở nhà ấy? Phải chăng bà vợ điên khùng của ông ta đã lấy nó đi? Tôi có thể tìm thấy nó mà không làm cho cảnh sát Pháp nghi ngờ được chăng? Nếu tôi thành công trong vụ án này, thì sự nghiệp của tôi sẽ vô cùng hiển hách. À mà lại có tin tức mới rồi! - Anh bóc vội bức thư vừa nhận trên tay, rồi cười nói với tôi: - Hình như Lestrade đã tìm ra được điều gì đó thú vị thì phải. Watson, chúng ta hãy cùng đến tu viện Westminster nào!
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy hiện trường vụ án. Ngôi nhà khá cao và xây dựng rất kiên cố, hợp lý, thoáng đãng, nhưng không đẹp lắm. Một cảnh sát ra đón và mời chúng tôi vào phòng. Chúng tôi bước tới và thấy trong phòng ngoài vết máu hiện rõ trên tấm thảm ra thì không còn dấu vết nào khác. Tấm thảm làm bằng nỉ dày được trải ngay giữa phòng; nền nhà gỗ ghép được lau sáng bóng. Trên tường treo bộ sưu tập các loại vũ khí nổi tiếng của nạn nhân, con dao hung khí cũng là một trong số đó. Một chiếc bàn viết cổ rất đắt tiền đặt cạnh cửa sổ. Đồ đạc trang trí trong phòng như tranh sơn dầu, những tấm thảm nhỏ và các vật treo trên tường đều rất đẹp, trang nhã và đắt tiền. Lestrade hỏi Holmes:
- Ông đã đọc được tin từ Paris chưa?
Holmes gật đầu. Lestrade nói tiếp:
- Những người bạn Pháp của chúng ta đã tìm được những tình tiết quý giá. Tôi thấy họ nói rất có lý. Đó là một vị khách ngoài ý muốn. Vì ông Lucas không thể để vợ đứng ở ngoài được, nên đành phải mời bà ta vào nhà. Bà Lucas chắc đã nói về những chuyện ong bướm của ông ta, và rồi không kìm nổi, đã xông tới xỉ vả chồng. Rồi vớ lấy con dao treo trên tường, bà ta xông vào đâm chồng. Tuy nhiên, không phải chỉ một nhát dao đã khiến nạn nhân mất mạng. Ông có thể nhìn thấy cái ghế đổ ở bên cạnh, một tay Lucas còn nắm chặt chân ghế. Ông ta muốn dùng cái ghế để ngăn bà Lucas lại.
Holmes mở to mắt, nhướn cao hàng lông mày:
- Vậy các ông còn cần đến tôi làm gì?
- Bởi vì tôi phát hiện ra một chi tiết nữa rất khác thường. Sáng nay tôi đã cho tiến hành mai táng nạn nhân, vụ án cũng có thể khép lại. Vì thế chúng tôi chuẩn bị thu dọn hiện trường. Tấm thảm không dính chặt xuống nền nhà như thường thấy. Và khi nâng tấm thảm lên, chúng tôi thấy…
- Thấy gì? Các ông thấy cái gì? - Holmes hỏi dồn dập, chứng tỏ anh rất quan tâm đến việc này.
- Ông có thấy vết máu trên tấm thảm này không? Đáng lẽ phải có một lượng máu đáng kể thấm qua thảm chứ?
- Đúng! Lẽ ra phải thế.
- Nhưng trên sàn gỗ, ngay chỗ tấm thảm đè lên, lại không có vết máu nào. Ông không cảm thấy kỳ lạ sao? - Vừa nói Lestrade vừa lật tấm thảm cho chúng tôi xem - Đáng lẽ vết máu trên tấm thảm và trên sàn phải ở cùng một chỗ, chắc chắn phải để lại dấu vết chứ. Đúng là có hai vết máu, nhưng vị trí vết máu thứ hai không trùng với vết máu thứ nhất, ông có thể thấy rất rõ. - Nói rồi, Lestrade lại lật một mặt khác của tấm thảm lên, ngay lập tức chúng tôi nhìn thấy một vết máu nâu thẫm trên nền gỗ - Ông Holmes, ông nghĩ sao về chuyện này?
- Rất đơn giản, hai vết máu vốn trùng nhau, nhưng đã có người thay đổi vị trí tấm thảm. Tấm thảm hình vuông, lại không cố định nên việc di chuyển rất dễ dàng.
- Cảnh sát chúng tôi cũng tự biết những điều đó chứ, vấn đề là ai đã dịch chuyển và tại sao lại dịch chuyển nó?
Tôi hiểu được vẻ mặt trầm ngâm của Holmes lúc này, nó cho thấy anh đang rất xúc động. Lát sau, Holmes mới hỏi:
- Các ông luôn cho cảnh sát túc trực ở hiện trường phải không?
- Vâng.
- Hãy làm theo lời tôi, tra hỏi anh ta tới nơi tới chốn, có lẽ anh ta sẽ thú nhận thôi. Đừng hỏi anh ta có cho ai vào không, mà nói chúng ta biết có người đã vào phòng. Hãy ép anh ta nói ra và khẳng định chỉ có thành thật thì anh ta mới có hy vọng được tha thứ. Ông hãy làm đi, chúng tôi không chứng kiến việc đó đâu!
- Tôi thề là sẽ bắt anh ta nói ra sự thật. - Ông ta chạy sang phòng bên cạnh. Và ngay sau đó, chúng tôi nghe thấy tiếng quát tháo ầm ĩ.
Lestrade đi rồi, Holmes tỏ ra rất kích động, anh cuống quýt:
- Watson, hãy xem này! - Anh nhanh chóng lật phăng tấm thảm lên, quỳ xuống gõ gõ lên sàn, dùng tay lần từng ô vuông gỗ lát sàn. Đột nhiên một miếng ván lát bật lên, để lộ ra một cái hộp bí mật. Holmes vội đưa tay vào tìm kiếm, thế nhưng sau khi lôi chiếc hộp ra, anh rên lên vì tức giận và thất vọng: Cái hộp bí mật trống không!
- Nhanh lên Watson, phải đặt tấm thảm lại chỗ cũ !
Khi chúng tôi vừa lắp xong tấm ván sàn, trải tấm thảm lên như cũ, thì cũng là lúc nghe thấy tiếng của Lestrade. Khi ông ta bước vào thì Holmes đã tựa vào lò sưởi với vẻ kiên nhẫn, cố ghìm những cái ngáp dài.
- Xin lỗi để ông đợi lâu, ông Holmes. MacPherson! Vào đây! Và hãy nói rõ cho chúng tôi nghe cái việc ngu ngốc mà cậu đã làm.
Chàng cảnh sát to cao chúng tôi gặp ngoài cửa vừa nãy lầm lũi bước vào, mặt đầy vẻ hối hận:
- Thưa ngài, quả thật tôi không có ý làm việc gì xấu cả. Tối hôm qua có một phụ nữ trẻ rẽ vào đây. Bà ta nói mình tìm nhầm nhà. Chúng tôi có nói chuyện với nhau một lúc. Suốt ngày đứng một mình quả là khá buồn…
- Được rồi. Còn sau đó thì sao?
- Bà ta muốn ngó qua hiện trường vụ án một chút, vì bà ta bảo đã đọc về vụ án mà báo chí đã đưa tin và thấy rất tò mò. Đó là một phụ nữ vô cùng xinh đẹp và rất duyên dáng, nên tôi nghĩ, để cho bà ta ngó qua một chút chắc không có chuyện gì. Nào ngờ vừa nhìn thấy vết máu thì bà ta đã quỵ xuống, bất tỉnh. Tôi chạy vội vào bếp mang ra ít nước, nhưng bà ta vẫn không tỉnh lại. Tôi chạy ngay ra ngoài mua một chai rượu brandy. Nhưng lúc tôi quay lại thì bà ta đã biến mất rồi. Có lẽ bà ta thấy xấu hổ khi gặp lại tôi…
- Thế không ai động đến tấm thảm chứ?
- Lúc tôi quay lại, tấm thảm đã hơi bị xê dịch một chút. Tôi đoán có lẽ do bà ta đã ngã lên đó, mà tấm thảm lại không được cố định, nên mới vậy. Vì thế, tôi đã đặt nó ngay ngắn trở lại.
Lestrade nói giọng đe dọa:
- MacPherson, cậu tưởng hành vi bỏ bê vị trí canh gác của cậu có thể che mắt được mọi người sao? Vừa vào tôi đã nhận ra ngay có người đã vào phòng. Thật may là không mất gì. Nếu không thì coi như cậu toi đời rồi. Ông Holmes, rất tiếc là tôi đã gọi ông tới đây vì một việc không đâu này. Nhưng tôi cho rằng vết máu thứ hai, vết không trùng lên vết thứ nhất, sẽ khiến ông quan tâm.
- Người phụ nữ đó chỉ đến đây một lần thôi sao? - Holmes hỏi lại lần nữa.
- Vâng, đúng một lần.
- Tên bà ta là gì?
- Tôi không biết. Bà ta nói là đi tìm nhà nhưng vào nhầm. Bà ta rất nhã nhặn và lịch sự.
- Bà ta rất xinh đẹp?
- Vâng, bà ta quả là một phụ nữ vô cùng duyên dáng và quyến rũ.
- Bà ta ăn mặc ra sao? Lúc đó là mấy giờ?
- Bà ta ăn mặc rất lịch sự và trang nhã. Tôi còn nhớ đó là một bộ váy dài chấm đất. Khi tôi mua rượu trở lại thì đèn phố đã bật sáng.
- Rất tốt. Watson, đi thôi! Chúng ta phải đến một nơi khác để giải quyết một việc rất quan trọng.