-
Chương 11: Mộ hoang (Thượng)
“Thiên mục nhập quy tìm mộ hoang Tứ long vào nước đoạt phách hồn Bát phương tụ khí hồn không tán Bắc tôn long ngoan[1] trấn huyền hoàng.” Bầu trời đêm mùa đông đen đặc như ai đó vừa đánh vỡ cả một nghiên mực sóng sánh lên đó vậy, tối tới mức trông không rõ cảnh sắc xung quanh, tất cả chỉ là những đường viền mờ nhạt.
Tôi ngẩng cái đầu bù xù lên, lắc lắc cổ cho bớt mỏi, nhìn những bông hoa tuyết thưa thớt rơi bên ngoài, rồi lặng lẽ tan vào đêm tối, từ trắng chuyển sang đen, từ thực hóa thành hư. Nhìn một lúc, mắt mỏi rồi lại vội vàng chớp chớp mắt, cúi đầu chăm chú vào quyển sách trong tay.
Bạch Dực đang ngồi đối diện tôi, tay lật sách nhanh như máy, trên bàn làm việc của chúng tôi là từng đống từng đống sách, hình dáng đủ kiểu, nhưng tựu chung chỉ có một loại: sách bản đồ. Các loại bản đồ khác nhau trải la liệt trên sàn.
Trong góc phòng chất mấy cái tô mì ăn liền, mấy ngày nay đây là thứ duy nhất chúng tôi cho vào bụng. Đột nhiên Bạch Dực đập bàn một cái rầm, tôi ngẩng phắt đầu dậy, nhanh chóng bước qua chỗ anh ta, nhìn vào tấm bản đồ trong tay anh ta.
Anh ta hưng phấn nắm hai vai tôi lắc lắc:
“Tìm được rồi! Chính là chỗ này!”
Sau đó dùng ngón tay dí sát vào một điểm trên bản đồ. Tôi dụi dụi cặp mắt sung huyết đỏ ngầu, nhìn chằm chằm chỗ ngón tay anh ta chỉ một lát, rồi sau đó cũng hưng phấn đập bàn một cái rầm, kích động reo lên:
“Lão Bạch giỏi quá, đúng là tìm ra rồi!!”
Bạch Dực cười khoái chí, nắm lấy tờ giấy Tá Thọ bà giao cho chúng tôi đang để bên cạnh mà lắc qua lắc lại:
“Bà già này đúng là quá tàn bạo mà, ai đời chỗ quan trọng nhất lại vẽ sơ sài như vậy, hại chúng ta mấy ngày nay tìm như muốn điên mới tìm ra cái chỗ quỷ quái này!”
Tôi gật đầu hoàn toàn đồng ý, lần trước đến chợ quỷ thật đúng là đem can đảm bảy tám kiếp ra xài hết ráo, dạo này cứ nhìn thấy những bà lão mặc áo bông kiểu xưa là tự nhiên lại ớn lạnh bỏ chạy. Tuy nói cuối cùng cũng thoát khỏi chỗ quỷ quái đó, nhưng bà lão nọ lại ném cho chúng ta một câu đố khó khăn, muốn chúng ta tìm tới phần mộ không tên không tuổi kia.
Mà đầu mối duy nhất chỉ có mảnh giấy te tua như cái bánh tráng mẻ kia, trên đó chỉ xiên xiên xẹo xẹo vài nét như là một cái hồ, giữa hồ có một hòn đảo nhỏ hình dáng giống một con rùa, bốn phía núi non bao bọc, nhìn giống như một hồ nước ngọt trong đất liền.
Nhưng làm thế nào để tìm ra nó thì hoàn toàn không có chỉ dẫn, chỉ có 4 câu thơ ý nghĩa hàm hồ:
“Thiên mục nhập quy tìm mộ hoang.Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán.Bắc tôn long ngoan trấn huyền hoàng.”
Vì thế hai ngày nay chúng tôi gần như không ăn không ngủ vùi đầu đi tìm cái hồ không tên nọ, mãi cho tới lúc nãy Bạch Dực tìm ra. Tôi vuốt vuốt mặt, nhìn bản đồ, lòng vẫn chưa hoàn toàn yên tâm, vì vậy lại quay lại hỏi Bạch Dực:
“Sao anh dám chắc đây chính là cái hồ bà ta muốn chúng ta tới?”
Bạch Dực gỡ kính mắt xuống, nhéo nhéo sống mũi, nhìn sắc mặt anh ta cũng cực kỳ mệt mỏi, hiển nhiên mấy ngày nay đã vắt kiệt sức anh ta. Bạch Dực quay lại ngồi xuống, khép hờ hai mắt nói:
“Hình dáng rất giống nhau, hơn nữa cái hồ này có tên là hồ Thiên Mộ, Thiên Mộ với Thiên Mục, tám chín phần mười là nó đấy không sai đâu.”
Tôi cầm lấy bản đồ, tỉ mỉ so sánh với tờ giấy, đúng là cảm thấy cả hai hòn đảo nhỏ giữa hồ kia đều rất giống nhau, giống như một con rùa chúc đầu xuống nước. Cũng phù hợp với cụm từ “thiên mục nhập quy” trong bài thơ. Nhiệm vụ của chúng tôi lúc này chỉ là tới đó tìm một ngôi mộ hoang mà thôi. Tôi gật đầu, xếp bản đồ với tờ giấy lại với nhau, sau đó khẽ nói với Bạch Dực:
“Vậy chúng ta còn chờ gì nữa? Binh trọng thần tốc, đi nhanh là hơn!”
Bạch Dực nhìn ra ngoài trời:
“Mấy ngày nay trời đổ tuyết lớn quá, đường không dễ đi. Tôi nghĩ chúng ta nên chờ thêm vài ngày là hơn.”
Đúng vậy. Mấy năm nay khí hậu cực kỳ bất thường, phía nam không mấy khi đổ tuyết lại chợt hạ liên tục mấy trận tuyết rất to. Nhất là năm nay, mấy ngày trước nhiệt độ còn xấp xỉ 20 độ, hôm qua tự nhiên có một khối khí lạnh tràn về, đột nhiên đổ tuyết, tuyết rơi liên tục suốt mấy ngày, cho đến hôm nay thì ngoài trời đã đóng một lớp tuyết dày sụ.
Tôi nhíu mày lo lắng nhìn trời, trong lòng rất gấp, rất sợ đến đó quá muộn sẽ bị bà lão nọ tới trách tội, nhưng nhìn lớp tuyết dày ngoài cửa sổ lại cảm thấy ngần ngại. Tôi lắc đầu, chán nản quay lại chỗ ngồi, tới phiên Bạch Dực ra đứng cạnh cửa sổ nhìn trời mà nói:
“Thực ra cái hồ này cũng không xa, lúc này chúng ta cũng đang được nghỉ đông rảnh rỗi, cả đi lẫn về chắc cũng chỉ tốn vài ngày, nhưng mà…”
Anh ta quay lại nhìn tôi, vẻ mặt ngần ngừ như có gì đó muốn nói mà lại không dám, tôi ngẩng đầu nhìn anh ta:
“Lão Bạch, có gì thì nói đi, đừng úp mở nữa.”
Anh ta tiến tới trước mặt tôi, cúi người xuống, trịnh trọng vỗ vai tôi mà nói:
“Chỉ sợ cậu tiếc tiền vé xe lửa tốc hành thôi.”
Tôi nhất thời nghẹn họng không biết phải nói gì, cuối cùng nhảy dựng lên gạt tay Bạch Dực ra hùng hổ nói:
“Đừng cho ông đây là loại keo kiệt bủn xỉn! Tốc hành chứ gì! Có gì to tát đâu, mạng sống vẫn quan trọng hơn tiền chứ!”
Đúng là nhiều chí khí thì ít tài vận, tôi thầm nghĩ cứ thế này thì phỏng chừng bị Bạch Dực cười đến chết mất. Nhưng anh ta nhìn tôi tức đỏ cả mặt, cũng biết mình đùa hơi quá, nên ho khan một hai tiếng nói với tôi:
“Tiểu An, tôi chỉ đùa một chút thôi mà, để chúng ta thả lỏng tinh thần một chút, đừng quá lo lắng mà thôi. Bây giờ đi chuẩn bị đồ đạc đi, tôi đi đang ký vé xe. Nếu bà lão kia gấp đến thế thì việc này chắc cũng không tầm thường.”
Tôi đột nhiên nhớ ra, vội gọi Bạch Dực lại hỏi:
“Vậy anh xem lần này chúng ta có cần mang theo cái gì không? Theo cách bà ta nói thì chỗ đó có vẻ kinh khủng lắm, nói không chừng ngôi mộ hoang này là một ngôi mộ quỷ không chừng!”
Bạch Dực suy nghĩ một lát, cuối cùng vẫn quyết định lắc đầu:
“Bà ta tuy là một quỷ bà bà, nhưng tốt xấu vẫn được coi như bán thần, bà ta sẽ không vô duyên vô cớ bắt chúng ta đi tìm chết nữa đâu, hơn nữa chỗ đó cũng không phải nơi hoang vu không dấu chân người, cho dù có hơi bất thường một chút nhưng chắc không hại tới tính mạng chúng ta đâu.”
Tôi vẫn tiếp tục kèo nài:
“Nhưng cứ mang theo cái gì đó phòng thân cho chắc ăn chứ, nếu không tôi cứ thấy lo lo thế nào ấy.”
Anh ta nhìn tôi một lúc, sau đó bật cười:
“Tiểu An ơi là Tiểu An, vậy cậu tính mang theo cái gì nào? Dao à? Hay là súng? Gặp phải mấy thứ kia thì vũ khí cũng là vô dụng thôi!”
Tôi bị anh ta hỏi ngược lại nhất thời đớ người, muốn phản bác nhưng phát hiện mình hoàn toàn đuối lý. Bạch Dực nói đúng, nếu thực sự gặp quỷ thì có cho tôi một khẩu Desert Eagle[2] cũng chỉ là phí đạn mà thôi, hơn nữa tôi cơ bản là không biết dùng súng…
Tôi đành ngậm miệng lườm anh ta một cái, sau đó ngoan ngoãn đứng dậy đi thu dọn đồ du lịch. Buổi chiều ngày hôm sau, chúng tôi đã có mặt trên chuyến tàu tốc hành đến hồ Thiên Mộ, trên thềm ga còn đọng lại một lớp tuyết mỏng vừa rơi, hai bên đường tuyết chất thành đống vun cao, có đoạn đường còn đóng một lớp băng mỏng trơn trượt, không dễ đi chút nào.
Lúc này đã sắp tới cuối năm, số người về nhà mừng năm mới rất nhiều, nên xe lửa khá đông. Tôi và Bạch Dực vất vả lắm mới tìm tới chỗ ngồi của mình, ngồi đối diện nhau. Chỗ ngồi trên xe gần như đầy nhóc, hơn nữa cảm giác sắp được về nhà ai cũng hân hoan, nên hầu như người khách nào cũng thích trò chuyện rôm rả hăng hái, các loại phương ngôn khác nhau lẫn cùng một chỗ, nghe rất lạ tai.
Bạch Dực vẫn chuyên chú nghiên cứu tờ giấy của Tá Thọ bà và tấm bản đồ. Anh ta là một người cực kỳ tỉ mỉ cẩn thận, nhất định sẽ không bỏ qua bất kỳ một chi tiết nhỏ nhặt nào.
Nhưng thật không hiểu vì sao anh ta trải qua biết bao chuyện kỳ quái như thế rồi mà vẫn không bao giờ chịu mang theo các loại bùa hộ mệnh này nọ, cũng chẳng biết vì sao lần nào cũng bình an, hóa nguy thành yên. Đó là lý do tại sao tôi lại tin tưởng anh ta tới vậy.
Người như thế không cần nói gì, cho dù chỉ cần một ánh mắt của anh ta thôi cũng đủ cho người khác cảm thấy yên tâm. Tôi chống tay lên cằm nhìn ra ngoài cửa sổ, phong cảnh bên ngoài khá đơn điệu, chỉ thấy những hàng cây khẳng khiu chạy dài cùng với những cột cây số cùng cột điện lùi nhanh về phía sau. Nhiệt độ bên ngoài rất thấp, nhưng trong xe có hệ thống sưởi, vì thế cánh cửa sổ nhanh chóng bị phủ mờ bởi một lớp hơi nước dày, trông không rõ phong cảnh phía xa lắm.
Chán đến chết quay vào, cuối cùng tôi đành kéo cao cổ áo, vùi đầu vào lớp lông dày trên cổ áo mà bắt đầu lơ mơ ngủ. Lúc đang nửa tỉnh nữa mê, chợt có cảm giác như vừa bước vào một hang động, cửa hang bị bít kín, trong hang có một cái rương nhỏ bằng đồng, trên mặt rương bám đầy bụi, không biết đã nằm đó từ tháng nào năm nào.
Tôi từ từ tiến gần tới cái rương, nhưng từ khe rương đột nhiên trào ra…máu tươi, xung quanh tối đen như mực, chỉ có một sắc đỏ tươi quái dị tràn ra từ cái rương nọ. Tôi sợ hãi quay người định bỏ chạy, lại bất thần nhìn thấy Bạch Dực đứng chắn phía sau lưng, nhìn tôi cười một cách kỳ quái.
Khuôn mặt của anh ta dần dần nhòe đi, máu từ đuôi mắt và khóe miệng anh ta cũng chảy xuống…
Tôi kinh hoàng bật người tỉnh dậy, trước mắt vẫn là toa xe lửa tốc hành, Bạch Dực ngồi đối diện. Anh ta dường như cũng đã mệt mỏi nên đang gục đầu xuống ngủ gà ngủ gật.
Nhưng nhìn gương mặt của anh ta lúc này lại khiến tôi nhớ tới gương mặt của anh trong giấc mơ… đầu tôi lập tức đau thốn lên. Tôi nhúc nhích người, đứng dậy run rẩy đi tới chỗ toilet rửa mặt, dòng nước lạnh như băng khiến mặt tôi đau rát lên, nhưng cũng giúp tôi tỉnh táo hơn vài phần.
Ngẩng đầu lên nhìn chính mình trong gương, bọng mắt hơi sưng lên, quanh viền mắt là một vòng màu xanh đen chứng tỏ sự mệt mỏi của nhiều ngày mất ngủ liên tiếp, có lẽ vì thế mà gặp ác mộng chăng? Tôi nhếch miệng cười tự giễu với bản thân trong gương, nụ cười cứng ngắc.
Nói thật, cái cảm giác bất an kinh hoàng trong mơ vẫn còn đeo bám tôi, khiến cả người tôi lơ mơ như say rượu.
“Quên đi quên đi.”
Tôi lắc mạnh đầu, dùng tay áo lau vội mặt mũi rồi nhanh chóng quay về chỗ ngồi. Bạch Dực đã tỉnh, nhìn tôi chăm chú nói:
“Sao sắc mặt tệ vậy, không phải bị cảm đó chứ?”
Tôi nhíu nhíu mày xua tay với anh ta:
“Không sao, có lẽ hơi bị say xe chút thôi. Chờ xuống tới nơi đi qua đi lại một chút là ổn ấy mà.”
Hồ Thiên Mộ thực sự không cách nhà chúng tôi bao xa, chỉ cần đi hơn 3 tiếng đồng hồ là tới nơi. Vừa nhảy xuống xe, chúng tôi đã được chào đón bởi những cơn gió lạnh cắt da cắt thịt khiến cả người run bần bật lên.
Tuy nói khí hậu phía nam ấm áp hơn nhiều so với phương bắc, nhưng khi đến mùa đông thì cảm giác lạnh lẽo mà còn ẩm ướt ở đây thực ra đáng ngại hơn nhiều so với cái lạnh khô hanh ở trên vùng cao. Cảm giác này cứ như bị dao sắc cứa vào người vậy, cho dù có mặc dày tới đâu đi nữa thì vẫn thấy lạnh khó tả.
Bạch Dực chỉ vào cửa ra của nhà ga, nói với tôi:
“Đi tìm khách sạn trú tạm cái đã, ngày mai chúng ta hãy tới hồ Thiên Mộ.”
Tôi gật đầu, hơi thở thoát ra khỏi miệng thành một làn sương trắng toát, thật sự quá lạnh. Nơi này là một thị trấn cổ, khách du lịch tìm tới khá đông, nên khách sạn đâu đâu cũng có, vừa ra khỏi nhà ga đã nhìn thấy một đống bảng hiệu của đủ loại lữ quán.
Chúng tôi chọn một lữ quán gần hồ, ông chủ là dân bản xứ, làm việc rất nhanh nhẹn, nhanh chóng chuẩn bị phòng ốc cho chúng tôi. Sắp xếp chỗ ở xong xuôi, chúng tôi xuống nhà ăn dưới lầu chọn vài món ăn cho bữa tối, thì thấy ông chủ đang ngồi bên một cái bàn gần quầy hàng, bèn bước tối ngồi xuống bên cạnh ông ta nói chuyện phiếm, thuận tiện hỏi vài thông tin về hồ Thiên Mộ.
Ông chủ thuộc loại hiếu khách, chỉ cho chúng tôi rất nhiều danh lam thắng cảnh xung quanh để đi du ngoạn, Bạch Dực gắp một miếng rau, làm như vô tình mà hỏi:
“Tôi vừa thấy gần đây có một cái hồ lớn lắm, giữa hồ còn có một hòn đảo nhỏ, cảnh sắc cũng không tồi nhỉ.”
Ông chủ uống rượu nhà tự pha, miệng nồng nặc mùi rượu nói với chúng tôi:
“Mùa này không ra hồ được đâu, trời lạnh lắm, dưới hồ còn có rất nhiều xoáy nước ngầm, nhà đò quanh đây chỉ dám chở hai vị dạo vòng vòng bên ngoài thôi. Cái đảo đó cũng trống huơ trống hoác à, không có cảnh đẹp chi hết, khỏi lên chi cho mắc công.”
Dừng một chút để nhấp rượu xong, ông ta lại tiếp tục, lần này hạ giọng rất thấp:
“Còn nữa, người ta đồn là trên đảo có ma đó, cái hồ này cũng ghê lắm, không có ngư dân nào dám ra gần đảo bắt cá đâu!”
Tôi nhìn Bạch Dực, thấy anh ta nhíu mày, liền quay lại hỏi như thể đang hiếu kỳ:
“Ồ? Nói vậy là sao?”
Ông chủ rụt rụt cổ, nhìn xung quanh cẩn thận mấy lần rồi mới mở miệng:
“Có người bảo là ai dám chèo ra đó đều bị lật thuyền hết, lúc trước chết nhiều người lắm, có lẽ là do xoáy nước ngầm quá nhiều, cho nên bây giờ dân chèo đò chủ yếu chỉ phục vụ khách du lịch thôi, không dám ra đó bắt cá nữa đâu.”
Chúng tôi gật đầu, không hỏi thêm nữa mà chỉ nói chuyện phiếm cho qua thì giờ thôi. Sau khi ăn xong về lại phòng, Bạch Dực cũng vẫn giữ im lặng, chỉ chăm chú chuẩn bị phần hành lý cần thiết để ngày mai xuất phát. Tôi ngồi bên cạnh phụ anh ta một tay, nhưng trong đầu vẫn lẩn quẩn những lời ông chủ nói lúc nãy, liền nói với Bạch Dực:
“Lão Bạch, anh nghĩ lần này chúng ta đến đó có nguy hiểm lắm không? Xem ra chỗ đó thực sự rất quái dị đó.”
Bạch Dực thở dài trả lời:
“Tùy cơ ứng biến.”
Ngày hôm sau tôi và Bạch Dực dậy thật sớm ra thẳng hồ, lúc này đang giữa đông nên khách du hồ rất ít, những người chèo đò đều vắng khách, thấy hai chúng tôi mặc đồ như khách du lịch đều tiến tới chào mời. Nhưng chúng tôi vừa nói là muốn ra đảo thì mọi người lại đồng loạt xua tay từ chối.
Cứ như thế chúng tôi đi đến giữa trưa, hai chân cũng run run, vẫn không có ai dám chở chúng tôi tới đảo, chỉ còn biết nhìn ra hòn đảo nhỏ đầy tai ương kia mà lắc đầu.
Sau đó chúng tôi dần dần đi ra khỏi khu vực ngoạn cảnh, đến gần một chỗ nước cạn, chỗ này không được chăm chút gì, cả một cái cây cũng không có ai trồng, chỉ có một bãi đá trống trải. Hôm nay tuyết cuối cùng cũng đã ngừng, nhưng bầu trời vẫn nguyên vẻ ảm đạm như cũ, từng tầng mây dày nặng nề lững lờ, sắc trời tuyền một mà xám hiu quạnh, mà nước hồ phản chiếu sắc trời cũng hóa thành một màu chì nhàn nhạt, hoàn toàn không giống chút nào với những cụm từ hoa mỹ miêu tả Giang Nam nào là “ba quang lâm li, mỹ hảo tinh trí” gì gì đó.
Gió thổi bên hồ ào ạt, cuốn lấy những bông tuyết rơi bên mép nước, thổi bay mái tóc của tôi thành một đống mất trật tự. Tôi híp mắt lơ đãng nhìn về phía bên trái, lại kinh ngạc phát hiện ở dưới kè đá gần đó có bóng một chiếc thuyền.
Tôi kéo tay Bạch Dực vội vàng tới gần, chỉ là một đoạn đường ngắn, nhưng do tuyết đọng nên cũng suýt trượt chân té vài lần. Bạch Dực vừa kéo tay tôi lại vừa la lên:
“Từ từ thôi từ từ thôi, đừng để chưa kịp xuất phát đã té bổ nhào chứ!”
Tôi gật gật đầu nhưng vẫn không giảm tốc, cuối cùng cũng an toàn tới gần chỗ chiếc thuyền. Chiếc thuyền này tuy đã cũ, nhưng trông vẫn có vẻ khá chắc chắn. Trong khoang thuyền có đặt mấy tấm gỗ để thay bàn ghế, xem chừng đúng là thuyền dành cho khách du ngoạn.
Tôi nhìn bốn phía một chút, không thấy người chèo thuyền đâu, liền gấp gáp xát xát tay vào nhau nói với Bạch Dực:
“Lão Bạch, hay là bất quá thì chúng ta cứ mượn tạm cái thuyền này mà tự đi cho rồi? Viết thư lại cho chủ thuyền là được mà?”
Đang lúc Bạch Dực định mở miệng trả lời thì phía sau lưng chúng tôi chợt vang lên tiếng giày lạo xạo. Quay lại nhìn, thấy một người ăn mặc như dân chèo thuyền dẫn theo ba du khách nữa đi tới. Tự nhiên tôi nghĩ, sao mà khéo thế nhỉ? Bạch Dực lên tiếng trước:
“Sư phụ, có thể chở chúng tôi ra giữa hồ đến hòn đảo nhỏ kia có được không?”
Bác lái đò là một người đàn ông trung niên, da màu đồng khỏe mạnh do hàng ngày đều làm công việc phơi dưới nắng, gương mặt bình thường, nhưng bên trái chỗ dưới trán có một vết sẹo to bằng đồng tiền, thoạt nhìn đã biết là loại người quanh năm sống bằng nghề chài lưới.
Ông ta nhìn chúng tôi một chút, sau đó hiền hậu cười:
“Được thôi, vừa kịp lúc khai trương giúp tôi luôn.”
Ba du khách theo phía sau ông ta là ba thanh niên, hai nam một nữ, gật đầu với tôi và Bạch Dực coi như là chào hỏi rồi bước lên khoang thuyền trước. Tôi liếc nhìn Bạch Dực ra ý nói không ngờ còn có người khác dám tìm lên đảo, lúc này trời đã dần về chiều, hòn đảo nọ thực sự không thể coi như một danh lam thắng cảnh gì hấp dẫn lắm.
Trong lòng tôi còn hơi băn khoăn, nhưng cũng biết không thể trù trừ thêm nữa, bằng không trời sẽ tối, ngày hôm nay coi như uổng công. Bạch Dực dường như không lo lắng gì cả, thấy người lái đò đồng ý chở chúng tôi lên đảo liền lập tức tới bắt chuyện thương lượng tiền nong. Người lái đò có vẻ là một người thành thật, vì thế chuyện tiền bạc rất nhanh chóng được giải quyết, tôi và Bạch Dực nhanh chóng lên thuyền.
Thuyền nhẹ nhàng tách khỏi bến, bác lái đò này quả thực là một người lão luyện, tuy trên hồ sóng rất lớn mà xem ra con thuyền vẫn ổn định như cũ. Ba thanh niên ngồi hàng ghế đối diện với tôi và Bạch Dực có vẻ rất yên lặng, chỉ chăm chú nhìn cảnh sắc bên ngoài thuyền chứ không lên tiếng.
Tôi cũng không dám mạo muội bắt chuyện, bèn nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta dường như cũng bắt chước bọn họ mà nhìn ra cảnh vật bên ngoài.
Tôi nói thầm trong lòng:
“Chúng ta có phải là đi chơi thật đâu mà trông anh nhàn nhã thế không biết!”
Ba người kia làm thinh khiến tôi cũng tự nhiên cảm thấy lóng ngóng, không biết làm gì khác hơn là cũng nhìn ra ngoài cửa sổ. Lúc này mới thấy, khi đứng trên bờ thì không thể nhìn thấy hết được, hiện tại tiến vào lòng hồ mới phát hiện ra, phong cảnh ở đây quả thực rất đẹp.
Xung quanh là núi non trùng điệp, cho dù đang giữa mùa đông cũng vẫn giữ được một vẻ đẹp tráng lệ mà cô tĩnh, đó là một loại vẻ đẹp tú lệ uyển ước đặc thù mà chỉ có ở trời nước núi non chốn Giang Nam mới tồn tại mà thôi.
Nếu giả sử lúc này mà là giữa hè trời trong nắng ấm thì cảnh sắc chắc chắn còn đẹp không thể tả xiết hơn nữa. Chỉ có điều, phong cảnh tuy rất đẹp nhưng trong khoang thuyền lại yên tĩnh tới mức hơi ngột ngạt, chỉ có tiếng bác lái đò thỉnh thoảng vang lên thuyết minh một chút về phong cảnh xung quanh.
“Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán…”
Bạch Dực đột nhiên thì thầm hai câu thơ trên tờ giấy của Tá Thọ bà, tôi ngạc nhiên quay lại nhìn anh ta, lại phát hiện vẻ mặt anh ta dường như rất kinh hãi về cái gì đó. Vì thế tôi liền ghé sát mặt tới hỏi:
“Lão Bạch, anh làm sao vậy?”
Bạch Dực quay lại nhìn tôi thì thào:
“Tôi hiểu hai câu thơ này có ý gì rồi!”
Anh ta chỉ vào chỗ núi non xung quanh bảo tôi:
“Cậu xem, cái hồ này bị vây giữa bốn ngọn núi, giống hệt như bốn con rồng lớn vây quanh hồ vậy. Theo phong thủy mà nói thì cảnh tượng này hình thành nên một loại địa phương âm khí tích tụ nặng nề, không thoát ra ngoài được. Thế nhưng nếu thực là như thế thì chỗ này hẳn đã phải sớm xảy ra chuyện quái dị rồi mới phải, sao còn có thể bình yên tới giờ? Thật là kỳ quặc.”
Tôi gật đầu, địa thế ở đây nhìn kỹ thì quả thực giống như thế cục “tứ long vào nước” trong bài thơ, nhưng nếu là phong thủy hiểm ác như vậy thì chắc chắn không chỉ có hòn đảo nhỏ giữa hồ mới nguy hiểm, mà cả cái hồ này lẽ ra đã thành một bể âm khí dày đặc rồi mới phải.
Đột nhiên phía đuôi thuyền hơi rung lên, tôi vội vàng hỏi người chèo thuyền có chuyện gì, nhưng ông ta vẫn thoải mái trả lời:
“Không sao đâu, chúng ta vừa đụng phải xoáy nước ngầm đó mà, ở đây mấy thứ này nhiều lắm. Nhưng tôi đã chèo trên hồ này cả nửa đời người, quen thuộc từng xoáy nước ở đây rồi, yên tâm đi.”
Tôi thấy dáng dấp tự tin của ông ta cũng yên tâm mà gật đầu. Thuyền lại yên ổn tiến lên phía trước, người chèo thuyền nói thêm:
“Ở đây trước kia gọi là hồ Thiên Mục[3], vì càng gần giữa hồ xoáy nước càng nhiều. Sau cải cách, khu này thành chỗ du lịch rồi thì mọi người sợ cái tên kia không được may mắn nên sửa tên nó thành hồ Thiên Mộ.”
Ba thanh niên nọ cũng không có vẻ gì là sợ hãi khi thuyền chòng chành, chỉ thờ ơ nhìn bốn phía, dường như không thèm quan tâm tới mấy cái xoáy nước ngầm vậy. Lúc này tôi mới thấy y phục của bọn họ khá phong phanh, giống như trang phục mùa thu, hơn nữa dưới chân họ còn đọng lại một bãi nước, dường như là lúc nãy đi giữa tuyết bị tuyết bám vào quần áo, lúc này mới tan ra.
Tôi hơi rùng mình một cái, bọn họ không thấy lạnh à? Đột nhiên cô gái ngồi giữa chú ý thấy tôi đang quan sát bọn họ, liền ngẩng đầu lên nhìn tôi. Mặt không thể gọi là xinh đẹp hơn người, có vẻ hơi tròn, nói đúng ra là trông cả ba người đều có vẻ mập mạp.
Cô gái giật giật môi như đang nói cái gì, nhưng không có lời nào phát ra. Tôi muốn nghe rõ hơn những gì cô ta đang nói, thì cô ta đã quay mặt nhìn ra hồ. Người chèo thuyền hô to:
“Sắp tới nơi rồi, lúc mặt trời lặn tôi sẽ quay lại đây đón mọi người nhé.”
Chúng tôi đều gật đầu, ba người kia xuống thuyền trước, sau đó tôi và Bạch Dực cũng cùng nhau nhảy xuống, vẫy vẫy tay với người chèo thuyền. Ông ta cũng vẫy tay đáp lại, sắc trời mông lung khiến tầm nhìn bị hạn chế, chẳng mấy chốc mà bóng con thuyền đã khuất khỏi tầm mắt chúng tôi.
Quay đầu lại quan sát kĩ hòn đảo, tôi rùng mình phát hiện nơi này hoang vắng cực kỳ, dường như đã rất nhiều năm không có ai đặt chân tới, tuyết đọng lại từng lớp dày trên mặt đất, cây cối xơ xác trụi hết lá, một cơn gió thổi qua, từng đợt tuyết ầm ào rơi xuống.
Tôi nuốt nuốt nước miếng, nhìn nơi này mà trong lòng chợt dậy lên một nỗi bất an không tên, dường như hòn đảo này sinh ra một lực hấp dẫn nào đó đối với toàn bộ mọi thứ xung quanh, sự bất an của nó đến từ chính lực hấp dẫn này.
Bạch Dực vội vàng mở bản đồ và tờ giấy ra đối chiếu, xung quanh ngoại trừ tiếng nước đập vào bờ thì chỉ có tiếng bước chân của hai chúng tôi, còn ba người kia đã đi trước chúng tôi một quãng khá xa. Bọn họ không đi song song cạnh nhau mà lại đi thành hàng một, cúi thấp đầu, đi rất chậm, giống như một đám người hành hương quái dị.
Nếu không phải chúng tôi cần phải dừng lại kiểm tra bản đồ thường xuyên thì đã sớm bỏ bọn họ lại phía sau rồi. Bạch Dực nhìn quanh, rồi nhìn lại bản đồ một chút, sau đó nói với tôi:
“Sắp tới rồi, có lẽ nằm ngay trên đỉnh núi thôi, chúng ta trèo lên thôi.”
Tôi nhìn về phía đỉnh núi, chỗ nọ tĩnh lặng đến rợn người, ngay cả tiếng chim kêu vượn hót cũng không có, ba người nọ cũng đang thong thả tiến lên đỉnh núi, cho dù bị vấp phải đá hay quật phải cành cây vẫn thản nhiên như không. Tôi ngạc nhiên nhìn một chút, vậy mà cũng chịu nổi sao trời, vì thế liền kéo tay áo Bạch Dực nói nhỏ:
“Anh xem ba người kia kỳ quái quá.”
Bạch Dực ngơ ngác quay đầu lại, quái dị nhìn tôi một lát, sau đó nhẹ nhàng nói một câu:
“Ở đây còn ai khác nữa đâu…?” Tôi nhất thời ngẩn người ra, cái gì? Không còn ai khác, vậy… vậy ba người kia là… cái gì?!
Tôi run rẩy chỉ vào ba người đang đi phía trước:
“Ba người phía trước kìa… anh… anh không thấy sao?”
Bạch Dực cau mày:
“Không, ở đây chỉ có chúng ta thôi.”
Đột nhiên tôi cảm thấy tứ phía nhiệt độ như vừa hạ xuống dưới 0 độ, máu trong người cũng như bị đông cứng, chỉ có tiếng thở gấp và tiếng tim tôi đập như nổi trống trận. Thối lui mấy bước, tôi ngẩng đầu nhìn ba người kia, phát hiện cô gái quay lại nhìn tôi, giật giật môi, lần này tôi nhìn rất kỹ, cô ta đang nói:
“Trong số các người có một người là quỷ…”
Trong số chúng tôi có một người là quỷ, lẽ nào… lúc nãy khi đi qua xoáy nước ngầm tất cả chúng ta thực sự đã gặp nạn? Trong đó có một người đã chết? Bốn phía vẫn yên tĩnh đến quỷ dị, ba người kia vẫn bước chân đều đều, nhưng thế nào cũng không sao nhích về phía trước được, như thể bọn họ đang giẫm chân tại chỗ vậy. Mà Bạch Dực nhìn không thấy bọn họ sao?!
Tôi ngẩng cái đầu bù xù lên, lắc lắc cổ cho bớt mỏi, nhìn những bông hoa tuyết thưa thớt rơi bên ngoài, rồi lặng lẽ tan vào đêm tối, từ trắng chuyển sang đen, từ thực hóa thành hư. Nhìn một lúc, mắt mỏi rồi lại vội vàng chớp chớp mắt, cúi đầu chăm chú vào quyển sách trong tay.
Bạch Dực đang ngồi đối diện tôi, tay lật sách nhanh như máy, trên bàn làm việc của chúng tôi là từng đống từng đống sách, hình dáng đủ kiểu, nhưng tựu chung chỉ có một loại: sách bản đồ. Các loại bản đồ khác nhau trải la liệt trên sàn.
Trong góc phòng chất mấy cái tô mì ăn liền, mấy ngày nay đây là thứ duy nhất chúng tôi cho vào bụng. Đột nhiên Bạch Dực đập bàn một cái rầm, tôi ngẩng phắt đầu dậy, nhanh chóng bước qua chỗ anh ta, nhìn vào tấm bản đồ trong tay anh ta.
Anh ta hưng phấn nắm hai vai tôi lắc lắc:
“Tìm được rồi! Chính là chỗ này!”
Sau đó dùng ngón tay dí sát vào một điểm trên bản đồ. Tôi dụi dụi cặp mắt sung huyết đỏ ngầu, nhìn chằm chằm chỗ ngón tay anh ta chỉ một lát, rồi sau đó cũng hưng phấn đập bàn một cái rầm, kích động reo lên:
“Lão Bạch giỏi quá, đúng là tìm ra rồi!!”
Bạch Dực cười khoái chí, nắm lấy tờ giấy Tá Thọ bà giao cho chúng tôi đang để bên cạnh mà lắc qua lắc lại:
“Bà già này đúng là quá tàn bạo mà, ai đời chỗ quan trọng nhất lại vẽ sơ sài như vậy, hại chúng ta mấy ngày nay tìm như muốn điên mới tìm ra cái chỗ quỷ quái này!”
Tôi gật đầu hoàn toàn đồng ý, lần trước đến chợ quỷ thật đúng là đem can đảm bảy tám kiếp ra xài hết ráo, dạo này cứ nhìn thấy những bà lão mặc áo bông kiểu xưa là tự nhiên lại ớn lạnh bỏ chạy. Tuy nói cuối cùng cũng thoát khỏi chỗ quỷ quái đó, nhưng bà lão nọ lại ném cho chúng ta một câu đố khó khăn, muốn chúng ta tìm tới phần mộ không tên không tuổi kia.
Mà đầu mối duy nhất chỉ có mảnh giấy te tua như cái bánh tráng mẻ kia, trên đó chỉ xiên xiên xẹo xẹo vài nét như là một cái hồ, giữa hồ có một hòn đảo nhỏ hình dáng giống một con rùa, bốn phía núi non bao bọc, nhìn giống như một hồ nước ngọt trong đất liền.
Nhưng làm thế nào để tìm ra nó thì hoàn toàn không có chỉ dẫn, chỉ có 4 câu thơ ý nghĩa hàm hồ:
“Thiên mục nhập quy tìm mộ hoang.Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán.Bắc tôn long ngoan trấn huyền hoàng.”
Vì thế hai ngày nay chúng tôi gần như không ăn không ngủ vùi đầu đi tìm cái hồ không tên nọ, mãi cho tới lúc nãy Bạch Dực tìm ra. Tôi vuốt vuốt mặt, nhìn bản đồ, lòng vẫn chưa hoàn toàn yên tâm, vì vậy lại quay lại hỏi Bạch Dực:
“Sao anh dám chắc đây chính là cái hồ bà ta muốn chúng ta tới?”
Bạch Dực gỡ kính mắt xuống, nhéo nhéo sống mũi, nhìn sắc mặt anh ta cũng cực kỳ mệt mỏi, hiển nhiên mấy ngày nay đã vắt kiệt sức anh ta. Bạch Dực quay lại ngồi xuống, khép hờ hai mắt nói:
“Hình dáng rất giống nhau, hơn nữa cái hồ này có tên là hồ Thiên Mộ, Thiên Mộ với Thiên Mục, tám chín phần mười là nó đấy không sai đâu.”
Tôi cầm lấy bản đồ, tỉ mỉ so sánh với tờ giấy, đúng là cảm thấy cả hai hòn đảo nhỏ giữa hồ kia đều rất giống nhau, giống như một con rùa chúc đầu xuống nước. Cũng phù hợp với cụm từ “thiên mục nhập quy” trong bài thơ. Nhiệm vụ của chúng tôi lúc này chỉ là tới đó tìm một ngôi mộ hoang mà thôi. Tôi gật đầu, xếp bản đồ với tờ giấy lại với nhau, sau đó khẽ nói với Bạch Dực:
“Vậy chúng ta còn chờ gì nữa? Binh trọng thần tốc, đi nhanh là hơn!”
Bạch Dực nhìn ra ngoài trời:
“Mấy ngày nay trời đổ tuyết lớn quá, đường không dễ đi. Tôi nghĩ chúng ta nên chờ thêm vài ngày là hơn.”
Đúng vậy. Mấy năm nay khí hậu cực kỳ bất thường, phía nam không mấy khi đổ tuyết lại chợt hạ liên tục mấy trận tuyết rất to. Nhất là năm nay, mấy ngày trước nhiệt độ còn xấp xỉ 20 độ, hôm qua tự nhiên có một khối khí lạnh tràn về, đột nhiên đổ tuyết, tuyết rơi liên tục suốt mấy ngày, cho đến hôm nay thì ngoài trời đã đóng một lớp tuyết dày sụ.
Tôi nhíu mày lo lắng nhìn trời, trong lòng rất gấp, rất sợ đến đó quá muộn sẽ bị bà lão nọ tới trách tội, nhưng nhìn lớp tuyết dày ngoài cửa sổ lại cảm thấy ngần ngại. Tôi lắc đầu, chán nản quay lại chỗ ngồi, tới phiên Bạch Dực ra đứng cạnh cửa sổ nhìn trời mà nói:
“Thực ra cái hồ này cũng không xa, lúc này chúng ta cũng đang được nghỉ đông rảnh rỗi, cả đi lẫn về chắc cũng chỉ tốn vài ngày, nhưng mà…”
Anh ta quay lại nhìn tôi, vẻ mặt ngần ngừ như có gì đó muốn nói mà lại không dám, tôi ngẩng đầu nhìn anh ta:
“Lão Bạch, có gì thì nói đi, đừng úp mở nữa.”
Anh ta tiến tới trước mặt tôi, cúi người xuống, trịnh trọng vỗ vai tôi mà nói:
“Chỉ sợ cậu tiếc tiền vé xe lửa tốc hành thôi.”
Tôi nhất thời nghẹn họng không biết phải nói gì, cuối cùng nhảy dựng lên gạt tay Bạch Dực ra hùng hổ nói:
“Đừng cho ông đây là loại keo kiệt bủn xỉn! Tốc hành chứ gì! Có gì to tát đâu, mạng sống vẫn quan trọng hơn tiền chứ!”
Đúng là nhiều chí khí thì ít tài vận, tôi thầm nghĩ cứ thế này thì phỏng chừng bị Bạch Dực cười đến chết mất. Nhưng anh ta nhìn tôi tức đỏ cả mặt, cũng biết mình đùa hơi quá, nên ho khan một hai tiếng nói với tôi:
“Tiểu An, tôi chỉ đùa một chút thôi mà, để chúng ta thả lỏng tinh thần một chút, đừng quá lo lắng mà thôi. Bây giờ đi chuẩn bị đồ đạc đi, tôi đi đang ký vé xe. Nếu bà lão kia gấp đến thế thì việc này chắc cũng không tầm thường.”
Tôi đột nhiên nhớ ra, vội gọi Bạch Dực lại hỏi:
“Vậy anh xem lần này chúng ta có cần mang theo cái gì không? Theo cách bà ta nói thì chỗ đó có vẻ kinh khủng lắm, nói không chừng ngôi mộ hoang này là một ngôi mộ quỷ không chừng!”
Bạch Dực suy nghĩ một lát, cuối cùng vẫn quyết định lắc đầu:
“Bà ta tuy là một quỷ bà bà, nhưng tốt xấu vẫn được coi như bán thần, bà ta sẽ không vô duyên vô cớ bắt chúng ta đi tìm chết nữa đâu, hơn nữa chỗ đó cũng không phải nơi hoang vu không dấu chân người, cho dù có hơi bất thường một chút nhưng chắc không hại tới tính mạng chúng ta đâu.”
Tôi vẫn tiếp tục kèo nài:
“Nhưng cứ mang theo cái gì đó phòng thân cho chắc ăn chứ, nếu không tôi cứ thấy lo lo thế nào ấy.”
Anh ta nhìn tôi một lúc, sau đó bật cười:
“Tiểu An ơi là Tiểu An, vậy cậu tính mang theo cái gì nào? Dao à? Hay là súng? Gặp phải mấy thứ kia thì vũ khí cũng là vô dụng thôi!”
Tôi bị anh ta hỏi ngược lại nhất thời đớ người, muốn phản bác nhưng phát hiện mình hoàn toàn đuối lý. Bạch Dực nói đúng, nếu thực sự gặp quỷ thì có cho tôi một khẩu Desert Eagle[2] cũng chỉ là phí đạn mà thôi, hơn nữa tôi cơ bản là không biết dùng súng…
Tôi đành ngậm miệng lườm anh ta một cái, sau đó ngoan ngoãn đứng dậy đi thu dọn đồ du lịch. Buổi chiều ngày hôm sau, chúng tôi đã có mặt trên chuyến tàu tốc hành đến hồ Thiên Mộ, trên thềm ga còn đọng lại một lớp tuyết mỏng vừa rơi, hai bên đường tuyết chất thành đống vun cao, có đoạn đường còn đóng một lớp băng mỏng trơn trượt, không dễ đi chút nào.
Lúc này đã sắp tới cuối năm, số người về nhà mừng năm mới rất nhiều, nên xe lửa khá đông. Tôi và Bạch Dực vất vả lắm mới tìm tới chỗ ngồi của mình, ngồi đối diện nhau. Chỗ ngồi trên xe gần như đầy nhóc, hơn nữa cảm giác sắp được về nhà ai cũng hân hoan, nên hầu như người khách nào cũng thích trò chuyện rôm rả hăng hái, các loại phương ngôn khác nhau lẫn cùng một chỗ, nghe rất lạ tai.
Bạch Dực vẫn chuyên chú nghiên cứu tờ giấy của Tá Thọ bà và tấm bản đồ. Anh ta là một người cực kỳ tỉ mỉ cẩn thận, nhất định sẽ không bỏ qua bất kỳ một chi tiết nhỏ nhặt nào.
Nhưng thật không hiểu vì sao anh ta trải qua biết bao chuyện kỳ quái như thế rồi mà vẫn không bao giờ chịu mang theo các loại bùa hộ mệnh này nọ, cũng chẳng biết vì sao lần nào cũng bình an, hóa nguy thành yên. Đó là lý do tại sao tôi lại tin tưởng anh ta tới vậy.
Người như thế không cần nói gì, cho dù chỉ cần một ánh mắt của anh ta thôi cũng đủ cho người khác cảm thấy yên tâm. Tôi chống tay lên cằm nhìn ra ngoài cửa sổ, phong cảnh bên ngoài khá đơn điệu, chỉ thấy những hàng cây khẳng khiu chạy dài cùng với những cột cây số cùng cột điện lùi nhanh về phía sau. Nhiệt độ bên ngoài rất thấp, nhưng trong xe có hệ thống sưởi, vì thế cánh cửa sổ nhanh chóng bị phủ mờ bởi một lớp hơi nước dày, trông không rõ phong cảnh phía xa lắm.
Chán đến chết quay vào, cuối cùng tôi đành kéo cao cổ áo, vùi đầu vào lớp lông dày trên cổ áo mà bắt đầu lơ mơ ngủ. Lúc đang nửa tỉnh nữa mê, chợt có cảm giác như vừa bước vào một hang động, cửa hang bị bít kín, trong hang có một cái rương nhỏ bằng đồng, trên mặt rương bám đầy bụi, không biết đã nằm đó từ tháng nào năm nào.
Tôi từ từ tiến gần tới cái rương, nhưng từ khe rương đột nhiên trào ra…máu tươi, xung quanh tối đen như mực, chỉ có một sắc đỏ tươi quái dị tràn ra từ cái rương nọ. Tôi sợ hãi quay người định bỏ chạy, lại bất thần nhìn thấy Bạch Dực đứng chắn phía sau lưng, nhìn tôi cười một cách kỳ quái.
Khuôn mặt của anh ta dần dần nhòe đi, máu từ đuôi mắt và khóe miệng anh ta cũng chảy xuống…
Tôi kinh hoàng bật người tỉnh dậy, trước mắt vẫn là toa xe lửa tốc hành, Bạch Dực ngồi đối diện. Anh ta dường như cũng đã mệt mỏi nên đang gục đầu xuống ngủ gà ngủ gật.
Nhưng nhìn gương mặt của anh ta lúc này lại khiến tôi nhớ tới gương mặt của anh trong giấc mơ… đầu tôi lập tức đau thốn lên. Tôi nhúc nhích người, đứng dậy run rẩy đi tới chỗ toilet rửa mặt, dòng nước lạnh như băng khiến mặt tôi đau rát lên, nhưng cũng giúp tôi tỉnh táo hơn vài phần.
Ngẩng đầu lên nhìn chính mình trong gương, bọng mắt hơi sưng lên, quanh viền mắt là một vòng màu xanh đen chứng tỏ sự mệt mỏi của nhiều ngày mất ngủ liên tiếp, có lẽ vì thế mà gặp ác mộng chăng? Tôi nhếch miệng cười tự giễu với bản thân trong gương, nụ cười cứng ngắc.
Nói thật, cái cảm giác bất an kinh hoàng trong mơ vẫn còn đeo bám tôi, khiến cả người tôi lơ mơ như say rượu.
“Quên đi quên đi.”
Tôi lắc mạnh đầu, dùng tay áo lau vội mặt mũi rồi nhanh chóng quay về chỗ ngồi. Bạch Dực đã tỉnh, nhìn tôi chăm chú nói:
“Sao sắc mặt tệ vậy, không phải bị cảm đó chứ?”
Tôi nhíu nhíu mày xua tay với anh ta:
“Không sao, có lẽ hơi bị say xe chút thôi. Chờ xuống tới nơi đi qua đi lại một chút là ổn ấy mà.”
Hồ Thiên Mộ thực sự không cách nhà chúng tôi bao xa, chỉ cần đi hơn 3 tiếng đồng hồ là tới nơi. Vừa nhảy xuống xe, chúng tôi đã được chào đón bởi những cơn gió lạnh cắt da cắt thịt khiến cả người run bần bật lên.
Tuy nói khí hậu phía nam ấm áp hơn nhiều so với phương bắc, nhưng khi đến mùa đông thì cảm giác lạnh lẽo mà còn ẩm ướt ở đây thực ra đáng ngại hơn nhiều so với cái lạnh khô hanh ở trên vùng cao. Cảm giác này cứ như bị dao sắc cứa vào người vậy, cho dù có mặc dày tới đâu đi nữa thì vẫn thấy lạnh khó tả.
Bạch Dực chỉ vào cửa ra của nhà ga, nói với tôi:
“Đi tìm khách sạn trú tạm cái đã, ngày mai chúng ta hãy tới hồ Thiên Mộ.”
Tôi gật đầu, hơi thở thoát ra khỏi miệng thành một làn sương trắng toát, thật sự quá lạnh. Nơi này là một thị trấn cổ, khách du lịch tìm tới khá đông, nên khách sạn đâu đâu cũng có, vừa ra khỏi nhà ga đã nhìn thấy một đống bảng hiệu của đủ loại lữ quán.
Chúng tôi chọn một lữ quán gần hồ, ông chủ là dân bản xứ, làm việc rất nhanh nhẹn, nhanh chóng chuẩn bị phòng ốc cho chúng tôi. Sắp xếp chỗ ở xong xuôi, chúng tôi xuống nhà ăn dưới lầu chọn vài món ăn cho bữa tối, thì thấy ông chủ đang ngồi bên một cái bàn gần quầy hàng, bèn bước tối ngồi xuống bên cạnh ông ta nói chuyện phiếm, thuận tiện hỏi vài thông tin về hồ Thiên Mộ.
Ông chủ thuộc loại hiếu khách, chỉ cho chúng tôi rất nhiều danh lam thắng cảnh xung quanh để đi du ngoạn, Bạch Dực gắp một miếng rau, làm như vô tình mà hỏi:
“Tôi vừa thấy gần đây có một cái hồ lớn lắm, giữa hồ còn có một hòn đảo nhỏ, cảnh sắc cũng không tồi nhỉ.”
Ông chủ uống rượu nhà tự pha, miệng nồng nặc mùi rượu nói với chúng tôi:
“Mùa này không ra hồ được đâu, trời lạnh lắm, dưới hồ còn có rất nhiều xoáy nước ngầm, nhà đò quanh đây chỉ dám chở hai vị dạo vòng vòng bên ngoài thôi. Cái đảo đó cũng trống huơ trống hoác à, không có cảnh đẹp chi hết, khỏi lên chi cho mắc công.”
Dừng một chút để nhấp rượu xong, ông ta lại tiếp tục, lần này hạ giọng rất thấp:
“Còn nữa, người ta đồn là trên đảo có ma đó, cái hồ này cũng ghê lắm, không có ngư dân nào dám ra gần đảo bắt cá đâu!”
Tôi nhìn Bạch Dực, thấy anh ta nhíu mày, liền quay lại hỏi như thể đang hiếu kỳ:
“Ồ? Nói vậy là sao?”
Ông chủ rụt rụt cổ, nhìn xung quanh cẩn thận mấy lần rồi mới mở miệng:
“Có người bảo là ai dám chèo ra đó đều bị lật thuyền hết, lúc trước chết nhiều người lắm, có lẽ là do xoáy nước ngầm quá nhiều, cho nên bây giờ dân chèo đò chủ yếu chỉ phục vụ khách du lịch thôi, không dám ra đó bắt cá nữa đâu.”
Chúng tôi gật đầu, không hỏi thêm nữa mà chỉ nói chuyện phiếm cho qua thì giờ thôi. Sau khi ăn xong về lại phòng, Bạch Dực cũng vẫn giữ im lặng, chỉ chăm chú chuẩn bị phần hành lý cần thiết để ngày mai xuất phát. Tôi ngồi bên cạnh phụ anh ta một tay, nhưng trong đầu vẫn lẩn quẩn những lời ông chủ nói lúc nãy, liền nói với Bạch Dực:
“Lão Bạch, anh nghĩ lần này chúng ta đến đó có nguy hiểm lắm không? Xem ra chỗ đó thực sự rất quái dị đó.”
Bạch Dực thở dài trả lời:
“Tùy cơ ứng biến.”
Ngày hôm sau tôi và Bạch Dực dậy thật sớm ra thẳng hồ, lúc này đang giữa đông nên khách du hồ rất ít, những người chèo đò đều vắng khách, thấy hai chúng tôi mặc đồ như khách du lịch đều tiến tới chào mời. Nhưng chúng tôi vừa nói là muốn ra đảo thì mọi người lại đồng loạt xua tay từ chối.
Cứ như thế chúng tôi đi đến giữa trưa, hai chân cũng run run, vẫn không có ai dám chở chúng tôi tới đảo, chỉ còn biết nhìn ra hòn đảo nhỏ đầy tai ương kia mà lắc đầu.
Sau đó chúng tôi dần dần đi ra khỏi khu vực ngoạn cảnh, đến gần một chỗ nước cạn, chỗ này không được chăm chút gì, cả một cái cây cũng không có ai trồng, chỉ có một bãi đá trống trải. Hôm nay tuyết cuối cùng cũng đã ngừng, nhưng bầu trời vẫn nguyên vẻ ảm đạm như cũ, từng tầng mây dày nặng nề lững lờ, sắc trời tuyền một mà xám hiu quạnh, mà nước hồ phản chiếu sắc trời cũng hóa thành một màu chì nhàn nhạt, hoàn toàn không giống chút nào với những cụm từ hoa mỹ miêu tả Giang Nam nào là “ba quang lâm li, mỹ hảo tinh trí” gì gì đó.
Gió thổi bên hồ ào ạt, cuốn lấy những bông tuyết rơi bên mép nước, thổi bay mái tóc của tôi thành một đống mất trật tự. Tôi híp mắt lơ đãng nhìn về phía bên trái, lại kinh ngạc phát hiện ở dưới kè đá gần đó có bóng một chiếc thuyền.
Tôi kéo tay Bạch Dực vội vàng tới gần, chỉ là một đoạn đường ngắn, nhưng do tuyết đọng nên cũng suýt trượt chân té vài lần. Bạch Dực vừa kéo tay tôi lại vừa la lên:
“Từ từ thôi từ từ thôi, đừng để chưa kịp xuất phát đã té bổ nhào chứ!”
Tôi gật gật đầu nhưng vẫn không giảm tốc, cuối cùng cũng an toàn tới gần chỗ chiếc thuyền. Chiếc thuyền này tuy đã cũ, nhưng trông vẫn có vẻ khá chắc chắn. Trong khoang thuyền có đặt mấy tấm gỗ để thay bàn ghế, xem chừng đúng là thuyền dành cho khách du ngoạn.
Tôi nhìn bốn phía một chút, không thấy người chèo thuyền đâu, liền gấp gáp xát xát tay vào nhau nói với Bạch Dực:
“Lão Bạch, hay là bất quá thì chúng ta cứ mượn tạm cái thuyền này mà tự đi cho rồi? Viết thư lại cho chủ thuyền là được mà?”
Đang lúc Bạch Dực định mở miệng trả lời thì phía sau lưng chúng tôi chợt vang lên tiếng giày lạo xạo. Quay lại nhìn, thấy một người ăn mặc như dân chèo thuyền dẫn theo ba du khách nữa đi tới. Tự nhiên tôi nghĩ, sao mà khéo thế nhỉ? Bạch Dực lên tiếng trước:
“Sư phụ, có thể chở chúng tôi ra giữa hồ đến hòn đảo nhỏ kia có được không?”
Bác lái đò là một người đàn ông trung niên, da màu đồng khỏe mạnh do hàng ngày đều làm công việc phơi dưới nắng, gương mặt bình thường, nhưng bên trái chỗ dưới trán có một vết sẹo to bằng đồng tiền, thoạt nhìn đã biết là loại người quanh năm sống bằng nghề chài lưới.
Ông ta nhìn chúng tôi một chút, sau đó hiền hậu cười:
“Được thôi, vừa kịp lúc khai trương giúp tôi luôn.”
Ba du khách theo phía sau ông ta là ba thanh niên, hai nam một nữ, gật đầu với tôi và Bạch Dực coi như là chào hỏi rồi bước lên khoang thuyền trước. Tôi liếc nhìn Bạch Dực ra ý nói không ngờ còn có người khác dám tìm lên đảo, lúc này trời đã dần về chiều, hòn đảo nọ thực sự không thể coi như một danh lam thắng cảnh gì hấp dẫn lắm.
Trong lòng tôi còn hơi băn khoăn, nhưng cũng biết không thể trù trừ thêm nữa, bằng không trời sẽ tối, ngày hôm nay coi như uổng công. Bạch Dực dường như không lo lắng gì cả, thấy người lái đò đồng ý chở chúng tôi lên đảo liền lập tức tới bắt chuyện thương lượng tiền nong. Người lái đò có vẻ là một người thành thật, vì thế chuyện tiền bạc rất nhanh chóng được giải quyết, tôi và Bạch Dực nhanh chóng lên thuyền.
Thuyền nhẹ nhàng tách khỏi bến, bác lái đò này quả thực là một người lão luyện, tuy trên hồ sóng rất lớn mà xem ra con thuyền vẫn ổn định như cũ. Ba thanh niên ngồi hàng ghế đối diện với tôi và Bạch Dực có vẻ rất yên lặng, chỉ chăm chú nhìn cảnh sắc bên ngoài thuyền chứ không lên tiếng.
Tôi cũng không dám mạo muội bắt chuyện, bèn nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta dường như cũng bắt chước bọn họ mà nhìn ra cảnh vật bên ngoài.
Tôi nói thầm trong lòng:
“Chúng ta có phải là đi chơi thật đâu mà trông anh nhàn nhã thế không biết!”
Ba người kia làm thinh khiến tôi cũng tự nhiên cảm thấy lóng ngóng, không biết làm gì khác hơn là cũng nhìn ra ngoài cửa sổ. Lúc này mới thấy, khi đứng trên bờ thì không thể nhìn thấy hết được, hiện tại tiến vào lòng hồ mới phát hiện ra, phong cảnh ở đây quả thực rất đẹp.
Xung quanh là núi non trùng điệp, cho dù đang giữa mùa đông cũng vẫn giữ được một vẻ đẹp tráng lệ mà cô tĩnh, đó là một loại vẻ đẹp tú lệ uyển ước đặc thù mà chỉ có ở trời nước núi non chốn Giang Nam mới tồn tại mà thôi.
Nếu giả sử lúc này mà là giữa hè trời trong nắng ấm thì cảnh sắc chắc chắn còn đẹp không thể tả xiết hơn nữa. Chỉ có điều, phong cảnh tuy rất đẹp nhưng trong khoang thuyền lại yên tĩnh tới mức hơi ngột ngạt, chỉ có tiếng bác lái đò thỉnh thoảng vang lên thuyết minh một chút về phong cảnh xung quanh.
“Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán…”
Bạch Dực đột nhiên thì thầm hai câu thơ trên tờ giấy của Tá Thọ bà, tôi ngạc nhiên quay lại nhìn anh ta, lại phát hiện vẻ mặt anh ta dường như rất kinh hãi về cái gì đó. Vì thế tôi liền ghé sát mặt tới hỏi:
“Lão Bạch, anh làm sao vậy?”
Bạch Dực quay lại nhìn tôi thì thào:
“Tôi hiểu hai câu thơ này có ý gì rồi!”
Anh ta chỉ vào chỗ núi non xung quanh bảo tôi:
“Cậu xem, cái hồ này bị vây giữa bốn ngọn núi, giống hệt như bốn con rồng lớn vây quanh hồ vậy. Theo phong thủy mà nói thì cảnh tượng này hình thành nên một loại địa phương âm khí tích tụ nặng nề, không thoát ra ngoài được. Thế nhưng nếu thực là như thế thì chỗ này hẳn đã phải sớm xảy ra chuyện quái dị rồi mới phải, sao còn có thể bình yên tới giờ? Thật là kỳ quặc.”
Tôi gật đầu, địa thế ở đây nhìn kỹ thì quả thực giống như thế cục “tứ long vào nước” trong bài thơ, nhưng nếu là phong thủy hiểm ác như vậy thì chắc chắn không chỉ có hòn đảo nhỏ giữa hồ mới nguy hiểm, mà cả cái hồ này lẽ ra đã thành một bể âm khí dày đặc rồi mới phải.
Đột nhiên phía đuôi thuyền hơi rung lên, tôi vội vàng hỏi người chèo thuyền có chuyện gì, nhưng ông ta vẫn thoải mái trả lời:
“Không sao đâu, chúng ta vừa đụng phải xoáy nước ngầm đó mà, ở đây mấy thứ này nhiều lắm. Nhưng tôi đã chèo trên hồ này cả nửa đời người, quen thuộc từng xoáy nước ở đây rồi, yên tâm đi.”
Tôi thấy dáng dấp tự tin của ông ta cũng yên tâm mà gật đầu. Thuyền lại yên ổn tiến lên phía trước, người chèo thuyền nói thêm:
“Ở đây trước kia gọi là hồ Thiên Mục[3], vì càng gần giữa hồ xoáy nước càng nhiều. Sau cải cách, khu này thành chỗ du lịch rồi thì mọi người sợ cái tên kia không được may mắn nên sửa tên nó thành hồ Thiên Mộ.”
Ba thanh niên nọ cũng không có vẻ gì là sợ hãi khi thuyền chòng chành, chỉ thờ ơ nhìn bốn phía, dường như không thèm quan tâm tới mấy cái xoáy nước ngầm vậy. Lúc này tôi mới thấy y phục của bọn họ khá phong phanh, giống như trang phục mùa thu, hơn nữa dưới chân họ còn đọng lại một bãi nước, dường như là lúc nãy đi giữa tuyết bị tuyết bám vào quần áo, lúc này mới tan ra.
Tôi hơi rùng mình một cái, bọn họ không thấy lạnh à? Đột nhiên cô gái ngồi giữa chú ý thấy tôi đang quan sát bọn họ, liền ngẩng đầu lên nhìn tôi. Mặt không thể gọi là xinh đẹp hơn người, có vẻ hơi tròn, nói đúng ra là trông cả ba người đều có vẻ mập mạp.
Cô gái giật giật môi như đang nói cái gì, nhưng không có lời nào phát ra. Tôi muốn nghe rõ hơn những gì cô ta đang nói, thì cô ta đã quay mặt nhìn ra hồ. Người chèo thuyền hô to:
“Sắp tới nơi rồi, lúc mặt trời lặn tôi sẽ quay lại đây đón mọi người nhé.”
Chúng tôi đều gật đầu, ba người kia xuống thuyền trước, sau đó tôi và Bạch Dực cũng cùng nhau nhảy xuống, vẫy vẫy tay với người chèo thuyền. Ông ta cũng vẫy tay đáp lại, sắc trời mông lung khiến tầm nhìn bị hạn chế, chẳng mấy chốc mà bóng con thuyền đã khuất khỏi tầm mắt chúng tôi.
Quay đầu lại quan sát kĩ hòn đảo, tôi rùng mình phát hiện nơi này hoang vắng cực kỳ, dường như đã rất nhiều năm không có ai đặt chân tới, tuyết đọng lại từng lớp dày trên mặt đất, cây cối xơ xác trụi hết lá, một cơn gió thổi qua, từng đợt tuyết ầm ào rơi xuống.
Tôi nuốt nuốt nước miếng, nhìn nơi này mà trong lòng chợt dậy lên một nỗi bất an không tên, dường như hòn đảo này sinh ra một lực hấp dẫn nào đó đối với toàn bộ mọi thứ xung quanh, sự bất an của nó đến từ chính lực hấp dẫn này.
Bạch Dực vội vàng mở bản đồ và tờ giấy ra đối chiếu, xung quanh ngoại trừ tiếng nước đập vào bờ thì chỉ có tiếng bước chân của hai chúng tôi, còn ba người kia đã đi trước chúng tôi một quãng khá xa. Bọn họ không đi song song cạnh nhau mà lại đi thành hàng một, cúi thấp đầu, đi rất chậm, giống như một đám người hành hương quái dị.
Nếu không phải chúng tôi cần phải dừng lại kiểm tra bản đồ thường xuyên thì đã sớm bỏ bọn họ lại phía sau rồi. Bạch Dực nhìn quanh, rồi nhìn lại bản đồ một chút, sau đó nói với tôi:
“Sắp tới rồi, có lẽ nằm ngay trên đỉnh núi thôi, chúng ta trèo lên thôi.”
Tôi nhìn về phía đỉnh núi, chỗ nọ tĩnh lặng đến rợn người, ngay cả tiếng chim kêu vượn hót cũng không có, ba người nọ cũng đang thong thả tiến lên đỉnh núi, cho dù bị vấp phải đá hay quật phải cành cây vẫn thản nhiên như không. Tôi ngạc nhiên nhìn một chút, vậy mà cũng chịu nổi sao trời, vì thế liền kéo tay áo Bạch Dực nói nhỏ:
“Anh xem ba người kia kỳ quái quá.”
Bạch Dực ngơ ngác quay đầu lại, quái dị nhìn tôi một lát, sau đó nhẹ nhàng nói một câu:
“Ở đây còn ai khác nữa đâu…?” Tôi nhất thời ngẩn người ra, cái gì? Không còn ai khác, vậy… vậy ba người kia là… cái gì?!
Tôi run rẩy chỉ vào ba người đang đi phía trước:
“Ba người phía trước kìa… anh… anh không thấy sao?”
Bạch Dực cau mày:
“Không, ở đây chỉ có chúng ta thôi.”
Đột nhiên tôi cảm thấy tứ phía nhiệt độ như vừa hạ xuống dưới 0 độ, máu trong người cũng như bị đông cứng, chỉ có tiếng thở gấp và tiếng tim tôi đập như nổi trống trận. Thối lui mấy bước, tôi ngẩng đầu nhìn ba người kia, phát hiện cô gái quay lại nhìn tôi, giật giật môi, lần này tôi nhìn rất kỹ, cô ta đang nói:
“Trong số các người có một người là quỷ…”
Trong số chúng tôi có một người là quỷ, lẽ nào… lúc nãy khi đi qua xoáy nước ngầm tất cả chúng ta thực sự đã gặp nạn? Trong đó có một người đã chết? Bốn phía vẫn yên tĩnh đến quỷ dị, ba người kia vẫn bước chân đều đều, nhưng thế nào cũng không sao nhích về phía trước được, như thể bọn họ đang giẫm chân tại chỗ vậy. Mà Bạch Dực nhìn không thấy bọn họ sao?!
Bình luận facebook