Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Quyển 4 - Chương 117: Trùng trùng
Thế gia nhiều đời truyền lại, của cải đều rất nhiều, cơ hồ họ nào cũng có hàng loạt thôn trang và đất đai, từ thời Nguyên Hòa giá lương thực không ngừng giảm, để có thu nhập đều đều, các đại thế gia âm thầm theo thương, biến sự lén lút thời Vũ đế thành phong trào như hiện giờ. Việc này một mặt vô hình trung khiến thương hộ vốn ở mạt lưu bắt đầu tiến dần từng bước, một mặt cũng đang không ngừng ảnh hưởng đến thương hộ dân gian.
Đại Lương từ Thái tổ Hoàng đế đã bắt đầu có pháp lệnh, những người có công danh, vương công quý tộc, không được tranh lợi với dân, bởi vì thương một khi dính chữ “quan”, sẽ không còn là thương thuần túy, dù không chủ động ức hiếp người ta, cũng tất có tiểu nhân cậy thế.
Thù hận giữa cựu thế gia và tân quý tồn tại đã lâu, không phải chuyện của một triều một thời.
Lúc này tân quý lên đài, chẳng khác nào cá khô trở mình, không phải gió đông thổi bạt gió tây thì là gió tây thổi bạt gió đông, cựu thế gia dĩ nhiên phải dốc hết sức chèn ép. Thù mới hận cũ chất lại, khi quốc gia rối ren còn có thể bịt mũi vạn người một lòng, giờ đây man tộc cúi đầu, Giang Nam lại có thể bớt ra một tay, chiến cuộc có vẻ chẳng cấp bách lắm, liền lập tức bùng lên như đau đẻ vậy.
Nhạn vương sau khi về triều ngay cả hòa hoãn xung đột cũng không có, chờ y chính là cãi vã ỏm tỏi trên đại triều hội.
Cãi từ có nên hủy phong hỏa phiếu phiền toái lớn này hay không, đến đủ loại tệ đoan của tân lại trị, sau cùng công kích đến Ban vận hà. Kế đó lại cãi từ vương quyền đến dân quyền, từ trật tự dân thương sang gia pháp tổ tông, cuối cùng chiến hỏa không biết làm sao mà còn lan sang quân đội, bắt đầu từ chi phí của trú quân tứ cảnh trước mắt, như ngựa hoang thoát cương lao thẳng đến vấn đề Giang Nam rốt cuộc có nên tiếp tục đánh hay không – Đảng Phương Khâm xem như bắt được căn bản của Nhạn vương, nếu không phải mấy năm nay chi phí chiến tranh khổng lồ, quốc khố mỗi ngày đều đang kêu nghèo đến khàn cả giọng, Nhạn vương cũng chẳng nắm được cơ hội một lòng hướng về tiền, khuấy triều đình rối tung như vậy.
Có người của thế gia đứng ra gây chuyện: “Hoàng thượng, mười tám bộ lạc quy hàng, về sau chúng ta sẽ rất dư dả tử lưu kim, nguyên khí cảnh nội đã chậm rãi khôi phục, trong vòng dăm ba năm thật sự không nên khai chiến nữa. Thần thấy việc đàm hòa người Tây Dương gần đây trình lên cũng rất có thành ý, họ rút khỏi Trường Giang, trả lại đất đai chiếm đoạt, chỉ mở cảng Tây Dương ven bờ Đông Hải, phân tán trú quân đến mấy bến tàu chuyên môn mở ở vùng duyên hải, vừa có thể trả bách tính sự an bình, tương lai lại có thể làm trạm trung chuyển thông thương trên biển cho chúng ta, có gì là không thể? Cố soái bất phân tốt xấu một mực gây sự, không ngừng thêm điều kiện, cũng không tránh khỏi không hợp tình hợp lý.”
Đương nhiên lại có đảng Nhạn vương tiếp chiêu: “Ốc thổ ven bờ Đông Hải ta dựa vào cái gì mà phải cho lũ khỉ Tây Dương? Chúng ta không biết tự xây cảng à? Không có thương thuyền thương đội của mình chắc? Đất đai tổ tông để lại, ngài một câu vạch luôn cho người Tây Dương, cả triều trên dưới thật là không còn ai hào phóng hơn ngài!”
Phương Khâm tự mình ra trận, lái chủ đề “phản quốc thông địch” sắc bén đi, điềm tĩnh nói: “Người Tây Dương vượt trùng dương mà đến, phần lớn quân nhu tiếp viện sử dụng cần từ ngoài ngàn dặm cung ứng, binh dẫn tới lại là quân đội mỏi mệt xa xứ, theo thần thấy, thật sự không cần như lâm đại địch thái quá, cứ giả vờ đàm hòa trước thì có làm sao, chẳng cần tám năm mười năm, chính họ đã khó có thể tiếp tục. Cố soái cúc cung tận tụy vì Đại Lương ta, mấy năm nay cũng thương bệnh liên miên, chưa được sống mấy ngày yên tâm thoải mái, cho dù là thương mười vạn tướng sĩ tắm máu ngoài tiền tuyến, cũng nên ngưng chiến nghỉ ngơi – việc này có thể tái nghị sau, còn về phong hỏa phiếu, không biết Nhạn vương điện hạ… có kế hoạch gì?”
Nhạn vương bàng thính từ đầu đến giờ trực tiếp bị hắn lôi ra, ngẩng đầu nhìn Phương Khâm một cái: “Ta thấy tái nghị sau thì không cần đâu? Phong hỏa phiếu lấy ‘phong hỏa’ làm danh, xét đến cùng là chung một nhịp thở với chiến sự, chư vị đại nhân đã muốn cắt đất nuôi hổ lang, thì đợt phong hỏa phiếu thứ ba quả thật cũng chẳng có lý do để phát hành, triều đình lấy thuế má năm năm sau làm đảm bảo, chung quy có thể kiếm thêm một ít, đủ trả nợ rồi.”
Phương Khâm lắc đầu cười nói: “Nhạn vương nói dỗi rồi, lúc này đình chiến há là cắt đất nuôi hổ lang? Người Tây Dương đã liên tiếp bại lui, đây là biến tướng xin hàng, trên biển họ chẳng qua là một đám bèo không rễ, thật sự không thể tạo thành họa lớn trong lòng.”
Trường Canh cũng cười, không nóng không lạnh nói: “Phương đại nhân không ra khỏi nhà mà nắm rõ chuyện thiên hạ, thật khiến người ta cảm phục, xa tận ngàn dặm đã biết người Tây Dương là bèo không rễ, nhìn xa trông rộng như thế, chúng ta thật khó trông bóng lưng.”
Thấy hai người châm chọc nhau bằng giọng chúc tết, Lý Phong không thể không ra mặt: “Việc trong quân do người trong quân nói, trẫm triệu các ngươi đến, là để các ngươi bàn về phong hỏa phiếu việc khẩn cấp trước mắt, tranh cãi gì đến chiến trường Lưỡng Giang? Một chút sổ sách tính mãi chẳng ra, nhọc lòng trái lại nhiều – A Mân, ngươi cũng bớt nói vài câu đi.”
Hộ bộ Thị lang đúng lúc theo lời Hoàng thượng đứng ra nói: “Nhạn vương điện hạ mới từ Giang Bắc trở về, chỉ sợ vẫn chưa nắm rõ nguyên nhân đợt phong hỏa phiếu thứ ba bị tắc. Ngài cũng biết, văn võ bá quan triều ta tuy lương bổng hậu hơn tiền triều, dù sao còn có gia đình già trẻ, dựa vào bổng lộc ít ỏi duy trì chút thể diện mà thôi, há dám đại phú đại quý… Gặp lúc quốc gia khó khăn, thật sự là lực bất tòng tâm, từ sau khi việc mua phong hỏa phiếu đưa vào khảo hạch lại trị, bao nhiêu người táng gia bại sản? Trước mắt thật sự là một xu cũng chẳng moi ra được. Vương gia thường ngày rất thân với đám Đỗ Vạn Toàn cự cổ thương hội, ngài xem có thể do ngài ra mặt, trưng lần nữa từ họ không?”
Trường Canh còn khuya mới bước vào cái bẫy có thâm ý khác này, mặt không đổi sắc nói: “Trên đường về kinh ta đã bái phỏng đám người Đỗ công, hiện giờ các nơi nhà xưởng mới xây, thân là nghĩa thương, đôi khi lại không thể không trông nom nạn dân, chi tiêu rất nhiều, quá nửa thân gia đều đã đặt ở Ban vận hà, cho dù có lòng muốn hiến toàn bộ gia sản giúp nước, chẳng lẽ ngay cả bao nhiêu nạn dân khó khăn lắm mới ổn định cũng bỏ rơi luôn? Không giấu gì chư vị, Đỗ công nguyên nói với ta là, ông ấy thật sự cũng chẳng moi nổi một xu nữa.”
Phương Khâm không chịu buông tha y: “Chẳng lẽ điện hạ năm đó dốc hết sức thúc đẩy phong hỏa phiếu, không nghĩ đến để lại một đường lui?”
Trường Canh lạnh lùng nhìn hắn: “Phương đại nhân, hồi đó ta đã nói rất rõ, mượn tiền trước, chờ hai năm đến kỳ, quốc khố bớt căng, tự nhiên có thể xoay được, nếu thật sự nhất thời chưa kiếm ra, thì có thể thử dùng đợt phong hỏa phiếu thứ ba giải mối nguy sém lông mày – Lúc bấm tay tính tiền bạc chảy vào quốc khố Phương đại nhân đã tiếp chưởng Hộ bộ, không hề đưa ra dị nghị gì, hiện giờ ngài đi hỏi ta, bổn vương trái lại còn muốn thỉnh giáo đại nhân, hơn hai năm nay tiền tài ra vào Hộ bộ đều đã đi đường nào, vì sao lại thiếu nhiều đến thế?”
Phương Khâm rốt cuộc không nhịn được nổi giận: “Sổ sách đều có đó, nếu Nhạn vương nghi ngờ hạ quan, thì có thể đi kiểm tra!”
Trường Canh ngoài cười trong không cười nói: “Cũng đúng, chư vị đại nhân Hộ bộ không thể nào mà ngay cả tính toán sổ sách cũng làm không ổn, thế chắc hẳn là năm đó Phương đại nhân bị quỷ mê tâm khiếu, tính sai rồi?”
Lý Phong: “Đủ rồi!”
Phương Khâm vội tạ tội, Trường Canh hơi khom người, cố chấp đứng ở một bên, trên triều hội đa số thời gian y đều cực kỳ im lặng, có chuyện hầu hết là người dưới nói, rất ít đối đầu gay gắt với ai như thế, Phương Khâm không nhịn được nhìn y một cái, cứ cảm thấy rất không bình thường.
Nhất định là Nhạn vương đã sớm có chuẩn bị cho cục diện khó xử của phong hỏa phiếu, vì sao y thà cãi nhau trước mặt Hoàng thượng cũng không chịu đàng hoàng nói ra? Y đang chuẩn bị cái gì?
Đại triều hội tan rã trong không vui, Nhạn vương bị giữ lại, cùng Lý Phong một trước một sau trầm mặc đi, cái chân gãy của Lý Phong tuy đã khỏi, nhưng thủy chung là bệnh căn không dứt, đi nhanh sẽ hơi tập tễnh.
“Đi dạo hoa viên với trẫm một chút.” Lý Phong nói.
Vừa vặn, hôm nay Thái tử mới học xong, đang dẫn tam hoàng tử ra hoa viên chơi, thấy phụ thân và tiểu thúc thúc, vội chạy tới chào theo quy củ. Thái tử lớn hơn một tuổi cũng là lớn, hiện giờ đã hơi có dáng vẻ của tiểu thiếu niên, tam hoàng tử mới năm tuổi, đang thay răng, nói hơi lọt gió.
Lý Phong thấy Thái tử, đương nhiên phải trưng ra uy phong của người làm cha, thoạt đầu kiếm chuyện răn dạy Thái tử một phen, sau lại đanh mặt thẩm vấn việc học hành một hồi.
Thái tử mới đầu còn đáp rất tốt, cuối cùng ánh mắt cứ liếc sang đệ đệ, Lý Phong nhìn theo ánh mắt nó, tức khắc dở khóc dở cười.
Tam hoàng tử không răng còn chưa đến tuổi bị phụ thân tra hỏi, vốn im như thóc đứng ở một bên, sau đó bị Nhạn vương vẫy tay gọi đi. Nhạn vương dẫn nó đi ngồi bệt dưới đất chẳng chú trọng tẹo nào, thuận tay bứt vài cọng cỏ bện châu chấu. Trẻ con trong cung cấm đâu từng thấy mấy thứ nông thôn như vậy? Tam hoàng tử tròn mắt, ngốc nghếch thò đầu nhìn, chỉ chốc lát, đứa bé ấy tay trái cầm châu chấu cỏ, tay phải cầm cào cào cỏ, vui đến chẳng màng giấu cái răng cửa bị thiếu.
Lý Phong: “… Ham chơi mất cả ý chí, còn ra thể thống gì nữa!”
Hắn đanh mặt trừng Trường Canh một cái, lại đuổi hai đứa trẻ không muốn đi, Lý Phong nhìn thấy tam hoàng tử đằng xa nhón chân nhét một con cào cào vào tay Thái tử, Thái tử liền dắt nó bằng tay để không, đứa lớn dẫn đứa bé, trông như một đôi tiểu huynh đệ nhà bình thường vậy.
Thái tử tính tình ôn hòa, giống tổ phụ.
Lý Phong hiếm khi hơi động dung, lúc chuyển hướng sang Trường Canh, thần sắc cũng bất giác hòa nhã không ít, hỏi: “Lâu như vậy mà ngươi vẫn không định thành gia sao?”
Nét cười trên mặt Trường Canh lập tức nhạt đi.
Lý Phong nhận ra y không thích nhắc tới chuyện này, liền thở dài nói: “Hay đại ca làm chủ, cho ngươi nhận một đứa con thừa tự trong tộc, chờ tương lai lớn tuổi rồi, chung quy phải có một người hiếu thuận hầu hạ.”
Trường Canh dừng một chút, vân vê tay, trên ngón tay phảng phất còn lưu lại nhựa cây, y thoáng nhìn hướng tam hoàng tử đi, thần sắc tựa hồ khá ý động, song lát sau vẫn không gật đầu.
Trường Canh: “Đa tạ hoàng huynh, không cần đâu.”
“Đứa trẻ đi theo ngươi, tương lai thừa tước tập vị, không cần công lao đã ít nhất là một Quận vương, tiền đồ tốt, có cả tá người sẵn lòng cho.” Lý Phong nói, “Ngươi không cần lo lắng đoạt con người ta tổn âm đức.”
Trường Canh bỗng nhiên vái một cái nói: “Hoàng thượng, thần nguyện noi theo Thương Quân, không muốn liên lụy con cháu.”
Lý Phong khóe mắt hơi giật, quay người trầm mặc nhìn y.
Trường Canh khom lưng không chịu đứng lên, y thoạt nhìn trẻ tuổi hữu lực, nhưng lại cô tuyệt quạnh quẽ.
Nguyện noi theo Thương Quân – Muốn cải cách duy tân không từ thủ đoạn, bị người đời căm ghét khinh bỉ, ngũ xa phanh thây giữa chợ… Trở thành xỉ than thời đại này từng oanh oanh liệt liệt đốt qua.
Ngày đó tất cả nội thị đều bị đuổi đi thật xa, không ai biết huynh đệ Lý thị ở trong hoa viên nói những gì, từ chính ngọ đến tận tối, Nhạn vương mới rời cung.
Chỉ còn lại vài cọng cỏ bị nhổ để bện sâu, trụi lủi đứng đó.
Hôm sau, Giang Sung nhận được một chỉ thị của Nhạn vương – đừng cho An Định hầu về kinh, giặc có thể không đánh, nhưng nhất định phải giữ y lại Lưỡng Giang.
Mưa to Giang Nam hơi tàn khốc, mấy hôm trước còn nóng đến ngủ không nổi, đột nhiên một cơn mưa rào gió giật mà thay đổi hẳn, hơi ẩm có thể thấm vào xương cốt.
Nhã tiên sinh lau hơi nước trên mặt, rảo bước lên thập cấp, theo bậc thang sắt vươn ra trên xác ngoài xấu xí đáng sợ của hải quái Tây Dương mà đi lên đỉnh, có một lão nhân tóc bạc gai mắt đưa lưng lại, đang nhoài lên thứ gì đó, lưng như một đoạn nan tre đốt cong.
Nhã tiên sinh ho nhẹ một tiếng: “Bệ hạ, sao khuya thế này còn chưa nghỉ ngơi?”
“Người cao tuổi sẽ bị giấc ngủ vứt bỏ,” Giáo hoàng vẫy tay nói, “Lại đây, xem cái này.”
Đỉnh hải quái có một “thiên lý nhãn”, không phải món đồ chơi be bé có thể kẹp lên mũi, nó dài hơn ba thước, bằng đồng, bên ngoài có từng vòng như đốt tre, dùng một cái giá tam giác cố định chặt chẽ trên mặt đất, trên ống dài bằng đồng có từng vòng nấc khắc phức tạp, đều là văn tự Tây Dương.
Đây là “thiên lý nhãn” chân chính, có thể nhìn xa ngàn dặm.
Xuyên qua cái ống dài này, họ có thể từ trong đại hải quái trôi trên Đông Hải trông thấy cương thổ Đại Lương ở bờ bên kia.
Chỉ vài năm ngắn ngủi, ngàn dặm đất màu trầm tịch đối diện trong bóng đêm tăm tối bắt đầu sáng lên ánh lửa bất diệt – sáng nhất tập trung nhất là tháp theo dõi của trú quân, phía sau êm dịu hơn nhiều, là đèn canh gác của hàng loạt nhà xưởng mới dựng làm việc ban đêm, không có khí thế ngất trời, nhưng phân bố ở các nơi, như những vì sao lấp lánh.
Nhã tiên sinh lấy làm lạ hỏi: “Bệ hạ đang nhìn gì vậy? Quân địch có dị động sao?”
“Quân địch liên tục có dị động,” Giáo hoàng thấp giọng nói, “Những kẻ ở thánh địa trước là thần phục sự tham lam của mình, sau lại gửi gắm kỳ vọng không thực tế trên việc đàm hòa, mất đi tiên cơ, chỉ có thể một lui hai lui, hiện tại hạm chỉ huy rút về trên biển, qua một thời gian người Đại Lương rất có thể sẽ xuất binh cắt đứt tuyến tiếp viện nối với quốc nội của chúng ta, đến lúc đó không biết phải kết thúc làm sao.”
Nhã tiên sinh: “Chúng ta sở dĩ lui tới bờ biển không phải là có suy tính sao? Đến lúc đó quần đảo Đông Doanh có thể làm đường tiếp viện chuyên dụng… Chúng ta có thể đi từ ngoại hải, người Lương tuy nhái theo hổ sa giao cơ động chạy nhanh của chúng ta, nhưng thiết kế chỉnh thể hạm đội còn chưa thể thích ứng với tác chiến viễn hải.”
“Người Đông Doanh như một đám chó hoang, khi ngươi chiếm ưu thế, họ sẽ không chút do dự bám lấy đòi thịt thối, một khi ngươi thất thế, đừng hy vọng còn có thể được sự trung thành của họ.” Giáo hoàng khẽ thở dài, “Hơn nữa, kết luận thủy quân Đại Lương không thể thích ứng tác chiến viễn hải nhất định chuẩn xác sao? Mấy năm trước họ thậm chí còn chưa có một nhánh thủy quân ra dáng – Sao có thể kiến lập phần thắng của mình dưới giả thiết địch nhân yếu ớt?”
Nhã tiên sinh trầm mặc chốc lát: “Nhưng bệ hạ à, thánh sứ…”
“Ta tìm ngươi đến chính là vì chuyện này,” Giáo hoàng lấy từ trong lòng ra một phong thư, tay run như lá rụng mùa thu, thần sắc lại cực kỳ lạnh lùng cứng rắn, không thấy một chút ôn hòa hiền lành bình thường, “Từ trong nước đến, xem đi.”
Nhã tiên sinh nhanh chóng nhận lấy, sau đó biến sắc: “Đây… đây là thật ư?”
Giáo hoàng hạ giọng nói: “Thánh địa biến động rồi.”
Người của đảng bảo thủ ngồi trên cái ghế lạnh của đảng tự do, ngồi cầu bập bênh đến liệt nửa người, điều tạm khoảng vạn người ở mấy quốc gia phụ thuộc lấy danh nghĩa kháng nghị mà bức đến thánh địa, tạo hỗn loạn, phế truất Quốc vương, xử tử hơn ba mươi người trong quý tộc cũ bao quát người thừa kế thuận vị đệ nhất, ủng lập một Quốc vương nít ranh tội nghiệp đại bác bắn không tới.
Vài ngày sau, phái bảo hoàng chậm chạp phản kích, tân Quốc vương đội vương miện mới bảy ngày đã bị ép xuống đài.
Hiện tại chính đàn thánh địa cực kỳ không rõ, chuyện gì cũng có thể xảy ra, thánh sứ trung với lão Quốc vương đương nhiên mất đi quyền hành, mà phái bảo hoàng thì đang ra sức làm thân với tòa thánh bị lão Quốc vương lạnh nhạt nửa đời, trong thời gian ngắn sẽ không đến gây chuyện với họ.
Nhã tiên sinh tư duy cực kỳ nhạy bén, nháy mắt đã nghĩ thông các mấu chốt trong đó.
Giáo hoàng chợt quay người lại, đôi mắt như chim ưng nhìn hắn chằm chằm: “Đây là một cơ hội, ngươi hiểu chưa?”
Nhã tiên sinh kích động hạ giọng: “Thế thánh sứ…”
Giáo hoàng hơi gật đầu, vừa khiêm hòa vừa lãnh khốc nói: “Hắn không còn là thánh sứ nữa.”
Nhã tiên sinh hít sâu một hơi, bàn tay dưới cổ tay áo rườm rà siết chặt: “Tôi sẽ đi chuẩn bị luôn.”
“Jacob,” Giáo hoàng buông đôi tay già nua trong tay áo, đứng trước gió đêm, “Nếu chúng ta mất đi cơ hội lần này, về sau e là khó lòng bước lên mảnh đất này nữa, nó đã tỉnh rồi.”
Nhã tiên sinh ngoảnh đầu thoáng nhìn bờ biển xa xăm, nhớ lại đèn đuốc vừa nãy nhìn thấy, trong lòng e sợ, vội vàng rời khỏi.
Trong khi người Lương không hay biết gì, nội bộ quân Tây Dương đã xảy ra một cuộc “phản loạn” như mưa rào gió giật.
Từ khi nhận được tin tức tới từ thánh địa đến lúc thánh sứ quyết định đào vong, chỉ cách nhau chưa đầy một nén nhang, không thể nói là không quyết đoán kịp thời, đáng tiếc hắn không biết tin tức của mình bị người ta chặn, đã chậm. Từ lúc hắn dẫn tàn quân đào vong đến khi bị thân vệ quân của Giáo hoàng ôm cây đợi thỏ bí mật bắt giữ, cách nhau chưa đầy một nén nhang.
Thánh sứ và đám người liên can bị Nhã tiên sinh bắn chết tại chỗ, lập tức bố trí một hàng hải hạm, ra vẻ công thành lui thân, ém chặt tin tức thánh địa nội loạn, trong quân cảng Tây Dương yên bình, binh lính bình thường vẫn tuần tra theo lệ, họ chỉ biết thánh sứ đã bị gọi về thánh địa, sau này lại chỉ có một lão đại.
Giáo hoàng không thay đổi thái độ đàm hòa mềm mỏng với người Đại Lương, ngoài mặt vẫn lui bước dần từng chút, cho đến tiết Thu phân năm Long An thứ chín-
Một loạt đồ quân nhu tiếp viện của Tây Dương từ ngoại hải vận đến quân cảng Tây Dương, hàng loạt quân nhu và tử lưu kim như một đám quỷ ảnh đông nghìn nghịt, thần không biết quỷ không hay chuyển lên bờ Giang Nam đất sém chưa nguội.
Đại Lương từ Thái tổ Hoàng đế đã bắt đầu có pháp lệnh, những người có công danh, vương công quý tộc, không được tranh lợi với dân, bởi vì thương một khi dính chữ “quan”, sẽ không còn là thương thuần túy, dù không chủ động ức hiếp người ta, cũng tất có tiểu nhân cậy thế.
Thù hận giữa cựu thế gia và tân quý tồn tại đã lâu, không phải chuyện của một triều một thời.
Lúc này tân quý lên đài, chẳng khác nào cá khô trở mình, không phải gió đông thổi bạt gió tây thì là gió tây thổi bạt gió đông, cựu thế gia dĩ nhiên phải dốc hết sức chèn ép. Thù mới hận cũ chất lại, khi quốc gia rối ren còn có thể bịt mũi vạn người một lòng, giờ đây man tộc cúi đầu, Giang Nam lại có thể bớt ra một tay, chiến cuộc có vẻ chẳng cấp bách lắm, liền lập tức bùng lên như đau đẻ vậy.
Nhạn vương sau khi về triều ngay cả hòa hoãn xung đột cũng không có, chờ y chính là cãi vã ỏm tỏi trên đại triều hội.
Cãi từ có nên hủy phong hỏa phiếu phiền toái lớn này hay không, đến đủ loại tệ đoan của tân lại trị, sau cùng công kích đến Ban vận hà. Kế đó lại cãi từ vương quyền đến dân quyền, từ trật tự dân thương sang gia pháp tổ tông, cuối cùng chiến hỏa không biết làm sao mà còn lan sang quân đội, bắt đầu từ chi phí của trú quân tứ cảnh trước mắt, như ngựa hoang thoát cương lao thẳng đến vấn đề Giang Nam rốt cuộc có nên tiếp tục đánh hay không – Đảng Phương Khâm xem như bắt được căn bản của Nhạn vương, nếu không phải mấy năm nay chi phí chiến tranh khổng lồ, quốc khố mỗi ngày đều đang kêu nghèo đến khàn cả giọng, Nhạn vương cũng chẳng nắm được cơ hội một lòng hướng về tiền, khuấy triều đình rối tung như vậy.
Có người của thế gia đứng ra gây chuyện: “Hoàng thượng, mười tám bộ lạc quy hàng, về sau chúng ta sẽ rất dư dả tử lưu kim, nguyên khí cảnh nội đã chậm rãi khôi phục, trong vòng dăm ba năm thật sự không nên khai chiến nữa. Thần thấy việc đàm hòa người Tây Dương gần đây trình lên cũng rất có thành ý, họ rút khỏi Trường Giang, trả lại đất đai chiếm đoạt, chỉ mở cảng Tây Dương ven bờ Đông Hải, phân tán trú quân đến mấy bến tàu chuyên môn mở ở vùng duyên hải, vừa có thể trả bách tính sự an bình, tương lai lại có thể làm trạm trung chuyển thông thương trên biển cho chúng ta, có gì là không thể? Cố soái bất phân tốt xấu một mực gây sự, không ngừng thêm điều kiện, cũng không tránh khỏi không hợp tình hợp lý.”
Đương nhiên lại có đảng Nhạn vương tiếp chiêu: “Ốc thổ ven bờ Đông Hải ta dựa vào cái gì mà phải cho lũ khỉ Tây Dương? Chúng ta không biết tự xây cảng à? Không có thương thuyền thương đội của mình chắc? Đất đai tổ tông để lại, ngài một câu vạch luôn cho người Tây Dương, cả triều trên dưới thật là không còn ai hào phóng hơn ngài!”
Phương Khâm tự mình ra trận, lái chủ đề “phản quốc thông địch” sắc bén đi, điềm tĩnh nói: “Người Tây Dương vượt trùng dương mà đến, phần lớn quân nhu tiếp viện sử dụng cần từ ngoài ngàn dặm cung ứng, binh dẫn tới lại là quân đội mỏi mệt xa xứ, theo thần thấy, thật sự không cần như lâm đại địch thái quá, cứ giả vờ đàm hòa trước thì có làm sao, chẳng cần tám năm mười năm, chính họ đã khó có thể tiếp tục. Cố soái cúc cung tận tụy vì Đại Lương ta, mấy năm nay cũng thương bệnh liên miên, chưa được sống mấy ngày yên tâm thoải mái, cho dù là thương mười vạn tướng sĩ tắm máu ngoài tiền tuyến, cũng nên ngưng chiến nghỉ ngơi – việc này có thể tái nghị sau, còn về phong hỏa phiếu, không biết Nhạn vương điện hạ… có kế hoạch gì?”
Nhạn vương bàng thính từ đầu đến giờ trực tiếp bị hắn lôi ra, ngẩng đầu nhìn Phương Khâm một cái: “Ta thấy tái nghị sau thì không cần đâu? Phong hỏa phiếu lấy ‘phong hỏa’ làm danh, xét đến cùng là chung một nhịp thở với chiến sự, chư vị đại nhân đã muốn cắt đất nuôi hổ lang, thì đợt phong hỏa phiếu thứ ba quả thật cũng chẳng có lý do để phát hành, triều đình lấy thuế má năm năm sau làm đảm bảo, chung quy có thể kiếm thêm một ít, đủ trả nợ rồi.”
Phương Khâm lắc đầu cười nói: “Nhạn vương nói dỗi rồi, lúc này đình chiến há là cắt đất nuôi hổ lang? Người Tây Dương đã liên tiếp bại lui, đây là biến tướng xin hàng, trên biển họ chẳng qua là một đám bèo không rễ, thật sự không thể tạo thành họa lớn trong lòng.”
Trường Canh cũng cười, không nóng không lạnh nói: “Phương đại nhân không ra khỏi nhà mà nắm rõ chuyện thiên hạ, thật khiến người ta cảm phục, xa tận ngàn dặm đã biết người Tây Dương là bèo không rễ, nhìn xa trông rộng như thế, chúng ta thật khó trông bóng lưng.”
Thấy hai người châm chọc nhau bằng giọng chúc tết, Lý Phong không thể không ra mặt: “Việc trong quân do người trong quân nói, trẫm triệu các ngươi đến, là để các ngươi bàn về phong hỏa phiếu việc khẩn cấp trước mắt, tranh cãi gì đến chiến trường Lưỡng Giang? Một chút sổ sách tính mãi chẳng ra, nhọc lòng trái lại nhiều – A Mân, ngươi cũng bớt nói vài câu đi.”
Hộ bộ Thị lang đúng lúc theo lời Hoàng thượng đứng ra nói: “Nhạn vương điện hạ mới từ Giang Bắc trở về, chỉ sợ vẫn chưa nắm rõ nguyên nhân đợt phong hỏa phiếu thứ ba bị tắc. Ngài cũng biết, văn võ bá quan triều ta tuy lương bổng hậu hơn tiền triều, dù sao còn có gia đình già trẻ, dựa vào bổng lộc ít ỏi duy trì chút thể diện mà thôi, há dám đại phú đại quý… Gặp lúc quốc gia khó khăn, thật sự là lực bất tòng tâm, từ sau khi việc mua phong hỏa phiếu đưa vào khảo hạch lại trị, bao nhiêu người táng gia bại sản? Trước mắt thật sự là một xu cũng chẳng moi ra được. Vương gia thường ngày rất thân với đám Đỗ Vạn Toàn cự cổ thương hội, ngài xem có thể do ngài ra mặt, trưng lần nữa từ họ không?”
Trường Canh còn khuya mới bước vào cái bẫy có thâm ý khác này, mặt không đổi sắc nói: “Trên đường về kinh ta đã bái phỏng đám người Đỗ công, hiện giờ các nơi nhà xưởng mới xây, thân là nghĩa thương, đôi khi lại không thể không trông nom nạn dân, chi tiêu rất nhiều, quá nửa thân gia đều đã đặt ở Ban vận hà, cho dù có lòng muốn hiến toàn bộ gia sản giúp nước, chẳng lẽ ngay cả bao nhiêu nạn dân khó khăn lắm mới ổn định cũng bỏ rơi luôn? Không giấu gì chư vị, Đỗ công nguyên nói với ta là, ông ấy thật sự cũng chẳng moi nổi một xu nữa.”
Phương Khâm không chịu buông tha y: “Chẳng lẽ điện hạ năm đó dốc hết sức thúc đẩy phong hỏa phiếu, không nghĩ đến để lại một đường lui?”
Trường Canh lạnh lùng nhìn hắn: “Phương đại nhân, hồi đó ta đã nói rất rõ, mượn tiền trước, chờ hai năm đến kỳ, quốc khố bớt căng, tự nhiên có thể xoay được, nếu thật sự nhất thời chưa kiếm ra, thì có thể thử dùng đợt phong hỏa phiếu thứ ba giải mối nguy sém lông mày – Lúc bấm tay tính tiền bạc chảy vào quốc khố Phương đại nhân đã tiếp chưởng Hộ bộ, không hề đưa ra dị nghị gì, hiện giờ ngài đi hỏi ta, bổn vương trái lại còn muốn thỉnh giáo đại nhân, hơn hai năm nay tiền tài ra vào Hộ bộ đều đã đi đường nào, vì sao lại thiếu nhiều đến thế?”
Phương Khâm rốt cuộc không nhịn được nổi giận: “Sổ sách đều có đó, nếu Nhạn vương nghi ngờ hạ quan, thì có thể đi kiểm tra!”
Trường Canh ngoài cười trong không cười nói: “Cũng đúng, chư vị đại nhân Hộ bộ không thể nào mà ngay cả tính toán sổ sách cũng làm không ổn, thế chắc hẳn là năm đó Phương đại nhân bị quỷ mê tâm khiếu, tính sai rồi?”
Lý Phong: “Đủ rồi!”
Phương Khâm vội tạ tội, Trường Canh hơi khom người, cố chấp đứng ở một bên, trên triều hội đa số thời gian y đều cực kỳ im lặng, có chuyện hầu hết là người dưới nói, rất ít đối đầu gay gắt với ai như thế, Phương Khâm không nhịn được nhìn y một cái, cứ cảm thấy rất không bình thường.
Nhất định là Nhạn vương đã sớm có chuẩn bị cho cục diện khó xử của phong hỏa phiếu, vì sao y thà cãi nhau trước mặt Hoàng thượng cũng không chịu đàng hoàng nói ra? Y đang chuẩn bị cái gì?
Đại triều hội tan rã trong không vui, Nhạn vương bị giữ lại, cùng Lý Phong một trước một sau trầm mặc đi, cái chân gãy của Lý Phong tuy đã khỏi, nhưng thủy chung là bệnh căn không dứt, đi nhanh sẽ hơi tập tễnh.
“Đi dạo hoa viên với trẫm một chút.” Lý Phong nói.
Vừa vặn, hôm nay Thái tử mới học xong, đang dẫn tam hoàng tử ra hoa viên chơi, thấy phụ thân và tiểu thúc thúc, vội chạy tới chào theo quy củ. Thái tử lớn hơn một tuổi cũng là lớn, hiện giờ đã hơi có dáng vẻ của tiểu thiếu niên, tam hoàng tử mới năm tuổi, đang thay răng, nói hơi lọt gió.
Lý Phong thấy Thái tử, đương nhiên phải trưng ra uy phong của người làm cha, thoạt đầu kiếm chuyện răn dạy Thái tử một phen, sau lại đanh mặt thẩm vấn việc học hành một hồi.
Thái tử mới đầu còn đáp rất tốt, cuối cùng ánh mắt cứ liếc sang đệ đệ, Lý Phong nhìn theo ánh mắt nó, tức khắc dở khóc dở cười.
Tam hoàng tử không răng còn chưa đến tuổi bị phụ thân tra hỏi, vốn im như thóc đứng ở một bên, sau đó bị Nhạn vương vẫy tay gọi đi. Nhạn vương dẫn nó đi ngồi bệt dưới đất chẳng chú trọng tẹo nào, thuận tay bứt vài cọng cỏ bện châu chấu. Trẻ con trong cung cấm đâu từng thấy mấy thứ nông thôn như vậy? Tam hoàng tử tròn mắt, ngốc nghếch thò đầu nhìn, chỉ chốc lát, đứa bé ấy tay trái cầm châu chấu cỏ, tay phải cầm cào cào cỏ, vui đến chẳng màng giấu cái răng cửa bị thiếu.
Lý Phong: “… Ham chơi mất cả ý chí, còn ra thể thống gì nữa!”
Hắn đanh mặt trừng Trường Canh một cái, lại đuổi hai đứa trẻ không muốn đi, Lý Phong nhìn thấy tam hoàng tử đằng xa nhón chân nhét một con cào cào vào tay Thái tử, Thái tử liền dắt nó bằng tay để không, đứa lớn dẫn đứa bé, trông như một đôi tiểu huynh đệ nhà bình thường vậy.
Thái tử tính tình ôn hòa, giống tổ phụ.
Lý Phong hiếm khi hơi động dung, lúc chuyển hướng sang Trường Canh, thần sắc cũng bất giác hòa nhã không ít, hỏi: “Lâu như vậy mà ngươi vẫn không định thành gia sao?”
Nét cười trên mặt Trường Canh lập tức nhạt đi.
Lý Phong nhận ra y không thích nhắc tới chuyện này, liền thở dài nói: “Hay đại ca làm chủ, cho ngươi nhận một đứa con thừa tự trong tộc, chờ tương lai lớn tuổi rồi, chung quy phải có một người hiếu thuận hầu hạ.”
Trường Canh dừng một chút, vân vê tay, trên ngón tay phảng phất còn lưu lại nhựa cây, y thoáng nhìn hướng tam hoàng tử đi, thần sắc tựa hồ khá ý động, song lát sau vẫn không gật đầu.
Trường Canh: “Đa tạ hoàng huynh, không cần đâu.”
“Đứa trẻ đi theo ngươi, tương lai thừa tước tập vị, không cần công lao đã ít nhất là một Quận vương, tiền đồ tốt, có cả tá người sẵn lòng cho.” Lý Phong nói, “Ngươi không cần lo lắng đoạt con người ta tổn âm đức.”
Trường Canh bỗng nhiên vái một cái nói: “Hoàng thượng, thần nguyện noi theo Thương Quân, không muốn liên lụy con cháu.”
Lý Phong khóe mắt hơi giật, quay người trầm mặc nhìn y.
Trường Canh khom lưng không chịu đứng lên, y thoạt nhìn trẻ tuổi hữu lực, nhưng lại cô tuyệt quạnh quẽ.
Nguyện noi theo Thương Quân – Muốn cải cách duy tân không từ thủ đoạn, bị người đời căm ghét khinh bỉ, ngũ xa phanh thây giữa chợ… Trở thành xỉ than thời đại này từng oanh oanh liệt liệt đốt qua.
Ngày đó tất cả nội thị đều bị đuổi đi thật xa, không ai biết huynh đệ Lý thị ở trong hoa viên nói những gì, từ chính ngọ đến tận tối, Nhạn vương mới rời cung.
Chỉ còn lại vài cọng cỏ bị nhổ để bện sâu, trụi lủi đứng đó.
Hôm sau, Giang Sung nhận được một chỉ thị của Nhạn vương – đừng cho An Định hầu về kinh, giặc có thể không đánh, nhưng nhất định phải giữ y lại Lưỡng Giang.
Mưa to Giang Nam hơi tàn khốc, mấy hôm trước còn nóng đến ngủ không nổi, đột nhiên một cơn mưa rào gió giật mà thay đổi hẳn, hơi ẩm có thể thấm vào xương cốt.
Nhã tiên sinh lau hơi nước trên mặt, rảo bước lên thập cấp, theo bậc thang sắt vươn ra trên xác ngoài xấu xí đáng sợ của hải quái Tây Dương mà đi lên đỉnh, có một lão nhân tóc bạc gai mắt đưa lưng lại, đang nhoài lên thứ gì đó, lưng như một đoạn nan tre đốt cong.
Nhã tiên sinh ho nhẹ một tiếng: “Bệ hạ, sao khuya thế này còn chưa nghỉ ngơi?”
“Người cao tuổi sẽ bị giấc ngủ vứt bỏ,” Giáo hoàng vẫy tay nói, “Lại đây, xem cái này.”
Đỉnh hải quái có một “thiên lý nhãn”, không phải món đồ chơi be bé có thể kẹp lên mũi, nó dài hơn ba thước, bằng đồng, bên ngoài có từng vòng như đốt tre, dùng một cái giá tam giác cố định chặt chẽ trên mặt đất, trên ống dài bằng đồng có từng vòng nấc khắc phức tạp, đều là văn tự Tây Dương.
Đây là “thiên lý nhãn” chân chính, có thể nhìn xa ngàn dặm.
Xuyên qua cái ống dài này, họ có thể từ trong đại hải quái trôi trên Đông Hải trông thấy cương thổ Đại Lương ở bờ bên kia.
Chỉ vài năm ngắn ngủi, ngàn dặm đất màu trầm tịch đối diện trong bóng đêm tăm tối bắt đầu sáng lên ánh lửa bất diệt – sáng nhất tập trung nhất là tháp theo dõi của trú quân, phía sau êm dịu hơn nhiều, là đèn canh gác của hàng loạt nhà xưởng mới dựng làm việc ban đêm, không có khí thế ngất trời, nhưng phân bố ở các nơi, như những vì sao lấp lánh.
Nhã tiên sinh lấy làm lạ hỏi: “Bệ hạ đang nhìn gì vậy? Quân địch có dị động sao?”
“Quân địch liên tục có dị động,” Giáo hoàng thấp giọng nói, “Những kẻ ở thánh địa trước là thần phục sự tham lam của mình, sau lại gửi gắm kỳ vọng không thực tế trên việc đàm hòa, mất đi tiên cơ, chỉ có thể một lui hai lui, hiện tại hạm chỉ huy rút về trên biển, qua một thời gian người Đại Lương rất có thể sẽ xuất binh cắt đứt tuyến tiếp viện nối với quốc nội của chúng ta, đến lúc đó không biết phải kết thúc làm sao.”
Nhã tiên sinh: “Chúng ta sở dĩ lui tới bờ biển không phải là có suy tính sao? Đến lúc đó quần đảo Đông Doanh có thể làm đường tiếp viện chuyên dụng… Chúng ta có thể đi từ ngoại hải, người Lương tuy nhái theo hổ sa giao cơ động chạy nhanh của chúng ta, nhưng thiết kế chỉnh thể hạm đội còn chưa thể thích ứng với tác chiến viễn hải.”
“Người Đông Doanh như một đám chó hoang, khi ngươi chiếm ưu thế, họ sẽ không chút do dự bám lấy đòi thịt thối, một khi ngươi thất thế, đừng hy vọng còn có thể được sự trung thành của họ.” Giáo hoàng khẽ thở dài, “Hơn nữa, kết luận thủy quân Đại Lương không thể thích ứng tác chiến viễn hải nhất định chuẩn xác sao? Mấy năm trước họ thậm chí còn chưa có một nhánh thủy quân ra dáng – Sao có thể kiến lập phần thắng của mình dưới giả thiết địch nhân yếu ớt?”
Nhã tiên sinh trầm mặc chốc lát: “Nhưng bệ hạ à, thánh sứ…”
“Ta tìm ngươi đến chính là vì chuyện này,” Giáo hoàng lấy từ trong lòng ra một phong thư, tay run như lá rụng mùa thu, thần sắc lại cực kỳ lạnh lùng cứng rắn, không thấy một chút ôn hòa hiền lành bình thường, “Từ trong nước đến, xem đi.”
Nhã tiên sinh nhanh chóng nhận lấy, sau đó biến sắc: “Đây… đây là thật ư?”
Giáo hoàng hạ giọng nói: “Thánh địa biến động rồi.”
Người của đảng bảo thủ ngồi trên cái ghế lạnh của đảng tự do, ngồi cầu bập bênh đến liệt nửa người, điều tạm khoảng vạn người ở mấy quốc gia phụ thuộc lấy danh nghĩa kháng nghị mà bức đến thánh địa, tạo hỗn loạn, phế truất Quốc vương, xử tử hơn ba mươi người trong quý tộc cũ bao quát người thừa kế thuận vị đệ nhất, ủng lập một Quốc vương nít ranh tội nghiệp đại bác bắn không tới.
Vài ngày sau, phái bảo hoàng chậm chạp phản kích, tân Quốc vương đội vương miện mới bảy ngày đã bị ép xuống đài.
Hiện tại chính đàn thánh địa cực kỳ không rõ, chuyện gì cũng có thể xảy ra, thánh sứ trung với lão Quốc vương đương nhiên mất đi quyền hành, mà phái bảo hoàng thì đang ra sức làm thân với tòa thánh bị lão Quốc vương lạnh nhạt nửa đời, trong thời gian ngắn sẽ không đến gây chuyện với họ.
Nhã tiên sinh tư duy cực kỳ nhạy bén, nháy mắt đã nghĩ thông các mấu chốt trong đó.
Giáo hoàng chợt quay người lại, đôi mắt như chim ưng nhìn hắn chằm chằm: “Đây là một cơ hội, ngươi hiểu chưa?”
Nhã tiên sinh kích động hạ giọng: “Thế thánh sứ…”
Giáo hoàng hơi gật đầu, vừa khiêm hòa vừa lãnh khốc nói: “Hắn không còn là thánh sứ nữa.”
Nhã tiên sinh hít sâu một hơi, bàn tay dưới cổ tay áo rườm rà siết chặt: “Tôi sẽ đi chuẩn bị luôn.”
“Jacob,” Giáo hoàng buông đôi tay già nua trong tay áo, đứng trước gió đêm, “Nếu chúng ta mất đi cơ hội lần này, về sau e là khó lòng bước lên mảnh đất này nữa, nó đã tỉnh rồi.”
Nhã tiên sinh ngoảnh đầu thoáng nhìn bờ biển xa xăm, nhớ lại đèn đuốc vừa nãy nhìn thấy, trong lòng e sợ, vội vàng rời khỏi.
Trong khi người Lương không hay biết gì, nội bộ quân Tây Dương đã xảy ra một cuộc “phản loạn” như mưa rào gió giật.
Từ khi nhận được tin tức tới từ thánh địa đến lúc thánh sứ quyết định đào vong, chỉ cách nhau chưa đầy một nén nhang, không thể nói là không quyết đoán kịp thời, đáng tiếc hắn không biết tin tức của mình bị người ta chặn, đã chậm. Từ lúc hắn dẫn tàn quân đào vong đến khi bị thân vệ quân của Giáo hoàng ôm cây đợi thỏ bí mật bắt giữ, cách nhau chưa đầy một nén nhang.
Thánh sứ và đám người liên can bị Nhã tiên sinh bắn chết tại chỗ, lập tức bố trí một hàng hải hạm, ra vẻ công thành lui thân, ém chặt tin tức thánh địa nội loạn, trong quân cảng Tây Dương yên bình, binh lính bình thường vẫn tuần tra theo lệ, họ chỉ biết thánh sứ đã bị gọi về thánh địa, sau này lại chỉ có một lão đại.
Giáo hoàng không thay đổi thái độ đàm hòa mềm mỏng với người Đại Lương, ngoài mặt vẫn lui bước dần từng chút, cho đến tiết Thu phân năm Long An thứ chín-
Một loạt đồ quân nhu tiếp viện của Tây Dương từ ngoại hải vận đến quân cảng Tây Dương, hàng loạt quân nhu và tử lưu kim như một đám quỷ ảnh đông nghìn nghịt, thần không biết quỷ không hay chuyển lên bờ Giang Nam đất sém chưa nguội.
Bình luận facebook