Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Tắt đèn - Chương 13 - 14 - 15 - 16
Chương 13
Thằng nhỏ ở nhà ngang lên với rá cơm nguội đầy ụ. Nghị Quế bảo mẹ con Chị Dậu bắt đàn chó con thả sang đầu thềm bên này. Tất tả hắn chạy luồn ra, bưng lấy rá cơm súc cho mỗi con một bát. Chị Dậu nói thật, bốn con chó con đều biết ăn cả rồi. Riêng con chó cái, hình như vừa mệt vừa lo, chỉ ăn nhỏ nhẻ vài miếng lại nghĩ.
Bằng cái sắc mặt ôn hòa dễ dãi, Nghị Quế nhìn vào chị Dậu:
- Con chó cái nhà mày mua ở đâu thế?
- Bẩm của mẹ con mua ở Lầu cai đem về cho con!
- Ừ, có thế chứ! Chắc là giống chó mông tự, chứ ở nhà quê làm gì có thứ chó này!
Mụ Nghị đon đả kể công:
- Bởi thấy nhiều người mách rằng nhà nó có con chó cái khôn lắm, cho nên sáng ngày tôi mới cố mua lấy được. Chứ bỗng không, ai có động rồ mà chuốc đàn chó vừa mới mở mắt? Thế còn bốn con chó con thế nào?
Nghị Quế lẩm bẩm gật đầu:
- Đẹp cả! Bốn con bốn kiểu: một con huyền đề, một con lốt hổ, một con đen tuyền, một con tứ túc mai hoá. Con nào cũng cúp tai, ngắn mặt, mắt xếch lá đề, đẹp lắm!
Vừa nói, hắn vừa tung tăng đi vào trong sập. Vẫn cái kiểu ngồi bắt chân kiểu chữ Ngũ, hắn vít lấy xe điếu ống, hút một hơi thuốc lào, rồi hắn rung đùi ra bộ đắc ý:
- Biết cái gì vất vả cái ấy! Ông Phủ Đăng, ông Nghị Bùi, ông Phán Tiên, và ông Cửu Xung trên tỉnh, các ông ấy đều biết tôi xem chó rành lắm, ông nào cũng khẩn khoản nhờ tôi mua hộ. Tôi định khi nào bốn con chó này khá lớn, thì cho mỗi người một con. Nhưng lại tiếc con chó đẹp tuyền, muốn để nhà nuôi. Vì giống chó ấy lợi chủ, nuôi nó trong nhà làm ăn thịnh vượng…
Mụ Nghị ngắt lời bằng giọng nói nửa thật nửa đùa:
- Chả có của đâu mà cho. Ai muốn được giống chó tốt, phải có tiền đây cho tôi, không thì tôi để nuôi ráo!
- Nhà đã mười bốn con chó cả thảy, nuôi làm gì nữa? Cơm đâu!
- Tôi nuôi để nó coi nhà. Nuôi chó còn hơn là nuôi đứa ở. Nhà rộng thênh thang thế này, mười mấy con chó, nhiều gì?
Rồi mụ cười ròn khanh khách và chõ vào mặt chị Dậu:
- Cơm chó nhà tao cũng tốn bằng mấy cơm ngườí của nhà mày đấy.
Chị Dậu nhường như tủi thân, cúi xuống gạt thầm nước mắt, chị không biết nói thế nào.
Mấy con chó con thôi ăn, kéo nhau trở lại chỗ con chó cái, bỏ dở cả mấy đống cơm.
Nghị Quế sai thằng nhỏ hốt hết vào rá, đưa cho cái Tý. Ra giọng nhân từ ông đại biểu của dân bảo đứa con nít khốn nạn:
- Con bé kia! Cầm lấy rá cơm ăn đi, kẻo phí của trời. Ăn bốc cũng được, không phải đũa bát.
Nước mắt chảy ra như mưa, cái Tý ngần ngại nhìn rá cơm nguội, không muốn chìa tay ra đón.
Ông đại biểu cho dân hầm hầm nét mặt:
- Mày không ăn thừa cơm chó phải không?
Bà Nghị nổi cơn tam bành:
- Mẹ mày dạy mày thế đấy chứ? Con ranh con! Ở đây với bà mà mày cứ giữ cái thói khoảnh ấy, thì bà dần từng cái xương. Này bà bảo cho mà biết: mày ăn cơm chó nhà bà cũng chưa đáng đâu. Con chó nhà bà còn được mấy chục, con người như mày, bà chỉ mua có một đồng đấy thôi. Đừng khoảnh với bà!
Nghị Quế hạch lạc chị Dậu:
- Con mẹ khốn nạn! Mày ngồi giương mắt ra đấy, không biết bảo con làm sao. Hay mày sợ con phải ăn cơm chó thì mày xấu hổ?
Dường như thương mẹ bị quở, cái Tý vội vàng đón lấy rá cơm. Rụt rè nó bốc một nắm bỏ vào miệng, uể oải nhai như bò nhai trấu.
Mụ Nghị nghiến răng kèn kẹt và chỉ vào mặt con bé:
- Bà truyền đời báo danh cho mày, tự giờ đến mai, phải ăn hết cái rá cơm ấy, rồi mới được ăn cơm khác!
Chị Dậu chỉ gục đầu vào cột, nức nở khóc thầm. Nghị Quế quát hỏi:
- Thế, con mẹ kia có lấy tiền không? Hay còn tiếc con tiếc chó?
Chị Dậu vội chùi nước mắt đứng dậy:
- Bẩm cụ…
Không để cho chị nói hết, Nghị Quế giục vợ:
- Bà trả tiền cho nó về đi, để nó ngồi mãi ở đây tôi không chịu được!
Cái chuông trong hòm leng keng kêu một hồi đài, mụ Nghị cầm hai chuỗi chinh quăng tọt ra thềm:
- Đấy, tiền đấy!
Chị Dậu lom khom cúi nhặt tiền, toan tình cởi ra đếm lại. Mụ Nghị sa sả:
- Không ai thèm làm thiếu đồng hồ nào! Không phải đếm chác gì nữa!
Chị Dậu giắt tiền vào lưng, rồi chị sụt sùi bảo với cái Tý:
- Thôi con ở đây hầu hạ hai cụ, u về nhé!
Cái Tý ôm chầm lấy mẹ và khóc như mưa như gió:
- U đừng về vội! U hãy ngồi đây với con lúc nữa.
Nghị Quế đùng đùng đứng dậy, giơ cái bàn tay hộ pháp tát cho con bé một cái đánh đốp, và hắn hét lên như ông đại tướng trong rạp tuồng:
- Thằng nhỏ lôi cổ nó xuống nhà bếp kia…
Tức thì cái Tý liền phải lìa mẹ ra xềnh xệch theo tay cậu hầu cận của ông Dân biểu xuống thềm. Bộ mặt bồ nhếch bồ nhác ngoảnh lại với cái miệng mếu xệch, nó nhìn theo mẹ và nói bằng giọng nức nở:
- Ngày mai u đem thằng Dần sang đây chơi với con nhé, con nhớ em lắm.
Hai cái bầu vú đầy sữa mẩy găng, sữa ở trong vú rỉ ra, ướt đầm cả một lần yếm, làm cho chị Dậu bồn cồn xót ruột về con bé ở nhà. Bởi vì theo sự kinh nghiệm của đàn bà con mọn, những lúc xa con, sữa chảy như thế, ấy là đứa con vắng mẹ đã đói và đương gào khóc đòi bú. Chị không dám nghĩ đến cái Tý nữa, sấp ngửa chị cắp cái rổ, cái mẹt và cái mê nón tất tả ra cổng thôn Đoài.
Mặt trời đã lặn xuống tận mặt đất. Đàn quạ khoang dập dùi là xuống các bãi tha mạ Còi lá dứa của lũ mục đồng rối rít thúc trâu bò về nghĩ.
Tới làng Đông xá, trời nhá nhem. Trong đình vắng tanh vắng ngắt. Đàn dơi bắt muỗi xập xè bay khắp lòng đình.
Ngọn đèn dầu ta loe trên hương án cố sức phun những ánh sáng úa vàng, soi cho mấy nén hương đen lù mù cháy ở dưới cửa võng. Cả mấy gian đình chỉ còn sự tối tăm giúp sức cho sự kinh trợn. Người ta đã đem hết tiếng ầm ầm vào nhà Lý trưởng từ lâu.
Chừng cũng đoán biết như vậy, chị Dậu lủi thủi theo chỗ có tiếng tù và rúc hồí đi vào.
Dưới ánh lửa sáng quắc của ngọn đèn hai giây, quang cảnh trong nhà Lý trưởng lúc này cũng như quang cảnh ngoài đình lúc nãy. Anh Dậu và bọn trai đình thiếu sưu đều giơ khuỷu tay cho sợi dây thừng buộc vào cột nhà. Đàn ông, đàn bà chờ đợi nộp thuế còn lố nhố suốt một bực cửa.
Lính cơ, Cai lệ vẫn nằm chầu Chánh tổng ở bên bàn đèn, thủ quỹ, Thư ký, Chánh hội, Phó hội và chức dịch ngổn ngang ngồi ở cạnh những cuốn sổ sách bề bộn.
Cái mặt bồ hôi nước mắt vừa ló vào thềm, chị Dậu liền được mấy ông chức dịch nhao nhao thét hỏi:
- Đã bán được con rồi chớ! Đem tiền nộp sưu, mau lên.
- Thưa đã!
Vừa nói, chị vừa giở chuỗi tiền chinh giắt ở dải lưng và tám hào con, tiền bán khoai mà chị vẫn khư khư buộc đầu dải yếm. Bớt lại một hào, chị sẽ đón dén đặt hai đồng bẩy lên trước Lý trưởng:
- Thưa ông, nhà cháu không kịp đi đổi tiền giấy, xin ông làm ơn nhận cho
Lý trưởng cầm chuỗi tiền chinh đưa cho thủ quỹ đếm lại và bảo chị Dậu:
- Mỗi đồng phải các ba xu, bỏ luôn ra đây, tao nhận cho. Nhưng sao lại có hai đồng bẩy hào?
Ngơ ngác, chị Dậu vừa đưa đồng hào để trả tiền các, vừa đáp bằng giọng lớ ngớ:
- Thưa ông, cháu tưởng năm nay sưu bổ mỗi xuất chỉ có bấy nhiêu.
- Phải rồi. Tiền sưu năm nay mỗi xuất chỉ có hai đồng bảy hào. Nhưng nhà mầy nộp hai suất, nghe không? Một suất của chồng mày, một suất nữa của thằng Hợi.
- Thưa ông chú nó chết hồi tháng giêng rồi mà. Nhà con vẫn còn chưa khai tử hay sao?
Lý trưởng phát gắt:
- Khai tử rồi cũng phải đống sưu. Ai bảo nó không chết từ hồi tháng mười năm ngoái?
Chị càng ngẩn ngơ ra bộ không hiểu, như có ý ngờ người ta ăn hiếp nhà mình:
- Thưa ông người chết đã gần năm tháng, sao lại còn phải đóng sưu?
Lý trưởng quát:
- Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không biết.
Thư ký dõng dạc cắt nghĩa:
- Chết cũng không trốn được sưu nhà nước! Là vì thằng em chồng chị mới chết tháng giêng An nam, mà sổ thông quí của làng đã làm từ đầu năm tây, tức là tháng một An nam năm ngoái. Sổ ấy có tên thằng Hợi, lúc ấy nó còn chưa chết, khi đệ lên tỉnh, tòa Sứ cứ theo số đinh trong sổ mà làm bài chỉ đưa sang sở Kho Bạc, rồi đến kỳ thuế, sở kho bạc lại cứ theo đúng số thuế ghi trong bài chỉ mà thu. Nó chết tháng giêng, chứ dẫu nó chết tháng chạp cũng vậy, bài chỉ làm rồi, người ta không có chữa lại bao giờ, khai tử hay chẳng khai tử mặc kệ! Bởi thế, bài chỉ làng ta năm nay vẫn không trừ được số sưu của thằng Hợi nhà chị. Nó chết, vợ con chưa có ông Lý trưởng cứ lấy vào thân nhân, chồng chị không nộp cho nó thì ai nộp?
Chị Dậu dở nói dở khóc:
- Cháu là đàn bà, biết đâu việc quan như thế. Khốn nạn, chú nó chết đi, nhà cháu thật như mất cánh tay phải! Còn nó, chúng cháu có đâu đến nỗi khổ sở như này? Bây giờ nó đã chẳng may thiệt phận, đành rằng xuất sưu của nó, nhà cháu phải đóng, nhưng cháu xin các ông cho khất đến mai. Hôm nay cháu hãy đóng trước một suất, các ông tha cho nhà cháu về, kẻo người yếu đau bị trói cả ngày, không khéo chết mất.
Lý trưởng trừng mắt:
- Chết thì ông chôn! Mày tưởng chồng mày chết mà ông sợ à? Muốn chồng khỏi trói, về đem nốt hai đồng bẩy nữa ra đây. Nếu không thì ông còn trói, ông trói cho đến bao giờ đủ sưu mà thôi.
Chị Dậu chừng như uất quá, ngồi sụp xuống chỗ cạnh chồng, chị khóc tru tréo:
- Trời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai, mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay? Ai ngờ lại còn xuất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở trời? Tôi biết đâm đầu vào đâu cho được hai đồng bẩy bạc bây giờ?
Cai lệ ngồi phắt trở dậy gân cổ thét ra:
- Chỗ mày kêu khóc đấy à, con mẹ kia? Muốn sống thì câm cái mồm, không thì ông sẽ cho một trận nữa!
Anh Dậu run run khuyên vợ:
- Thôi, u nó đi về với con, kẻo có hai đứa ở nhà nó khóc hết hơi. Mặc tôi ở đây, bị trói thêm một đêm nữa cũng chẳng chết nào. Đừng nói nữa người ta đánh đập khổ thân.
Chị Dậu vẫn không dứt được cơn hậm hực.
Thủ quỹ vừa đếm xong hai chuỗi tiền chinh, hắn gọi chị Dậu và bảo:
- Này chị kia, đừng khóc nữa, vào đây mà xem, mỗi đồng thiếu mất bốn xu đây này! Một hào của chị đưa trả tiền các trừ vào chỗ này hết tám xu rồi, còn thiếu bốn xu nữa nhé.
Chị Dậu lại mếu:
- Khốn nạn! Tôi vẫn chắc mẩm còn thừa một hào, đem về đong gạo cho con ăn. Bây giờ hết cả vẫn chưa đủ! Gớm! Cái bà Nghị, giàu thế mà còn làm điêu!
Rồi chị cứ rũ rượi ngồi khóc.
Anh Dậu thiết tha giục:
- Thôi u nó nghe tôi, có thương tôi thì hãy đi về với con. Đừng cứ ngồi đây mà khóc cho tôi càng thêm não ruột.
Các bạn bị trói của anh Dậu ra ý thương hại và hỏi:
- Con bé lớn chị đã bán rồi, hai đứa bé còn ở nhà với ai?
Chị Dậu sụt sịt đáp:
- Anh em chúng nó ở nhà với nhau, chớ có ai đâu các bác?
Những người ấy ra ý áy náy:
- Khốn nạn! Thằng bé lên năm phải giữ con bé lên hai! Tội nghiệp quá!
- Cứ như các ông ấy phải vừa mới nói đó, thì người chết rồi cũng phải đóng sưu. Vậy là nhà chị vẫn thiếu một suất sưu nữa. Nếu không có tiền đem nộp, dẫu chị ở đây đến sáng cũng không thể xin cho anh ấy được khỏi trói đâu. Nói lắm mỏi miệng, ai thương? Thà chị về với các cháu cho khỏi khổ thân con trẻ.
- Phải, bác ấy nói phải. Hãy cứ đành lòng để mặc anh ấy ngồi đây, chị về mà nghỉ với con. Chứ chị ở đây chẳng qua chỉ thêm đau lòng, ích gì? Rồi nhịn chẳng được, ngứa mồm nói một vài câu, lại tổ làm cho anh ấy phải đòn.
Bấy nhiêu lời diễn thuyết tuy chứa chan những giọng tử tế, nhưng không giúp cho chị Dậu tí gì vì ý chị cũng nghĩ như người ta nói. Buồn rầu chị sẽ ghé vào tai chồng:
- Cái Tý để phần thầy em một đĩa khoai đấy. Tôi bưng sang đây cho nhé!
Anh Dậu lắc đầu:
- Miệng tôi đắng lắm, không thể ăn gì bây giờ. U nó cứ về với con. Không phải lo đến sự ăn uống của tôi.
Chào chồng bằng hai hàng nước mắt, chị Dậu lủi thủi ra với cái mẹt, cái rổ, và cái mê nón.
Chương 15
Vầng trăng đã vượt khỏi ngọn tre. Mặt nước các ao đã lóng lánh như nồi vàng đường chẩy. Trong mấy bụi cây rậm rạp, tiếng quốc kêu khi thưa khi nhặt, khắc khoải hòa với tiếng rền rĩ rên khóc của giun, dế vườn hoang.
Tuy mới chập tối, các nhà đã đóng cửa im ỉm, không đâu còn một chút đèn lửa. Những kẻ cầy sâu cuốc bẫm suốt ngày mệt nhọc, khi ấy đều phải trả nợ mắt để nuôi lấy sức làm việc cho ngày mai. Trừ xóm Lý trưởng, các xóm khác đều im phăng phắc như cánh đồng không, nếu thỉnh thoảng không có tiếng chó sủa bọn người người đi thúc sưu và tiếng xay lúa giã gạo ở mấy nhà hàng xay hàng xáo.
Chị Dậu về đến đầu nhà đã nghe tiếng khóc khàn khàn của hai đứa trẻ.
Sấp ngửa, chị chạy vào cổng, quẳng cả rổ mẹt, mê nón xuống sàn, rồi vội vàng chị vào trong nhà.
Thằng Dần vẫn ngồi cạnh em, hai mắt sưng húp, mặt mũi xám mét như đứa vừa bị ngã ao, hãy còn kinh khiếp chưa hoàn hồn. Nó không thể tỏ chút dấu mừng rỡ khi thấy mẹ về, tuy sự ấy là sự đáng mừng rỡ của nó. Trái lại, nó càng ra bộ tủi thân và òa lên khóc như muốn nhắc cho mẹ biết những nỗi lo sợ từ nãy đến giờ. Nhưng hình như trong lúc mẹ nó đi vắng, nó đã kêu gào nhiều quá, cổ rát, hơi hết, nó chỉ có thể đưa ra cái tiếng khô khan như người khóc thầm.
Chị Dậu không kịp hỏi đến thằng bé ấy, hốt hoảng chị vớ lấy con bé con. Trời ơi, một sự ghê gớm kinh sợ.
Đôi mắt nó mọng đỏ như quả nhót. Mồm mép, chân tay, lưng, bụng, cổ áo, tay áo của nó bê bết một lượt cứt với nước đái, đầm lầm hòa nhau. Nó khóc nhưng không ra tiếng, chỉ có cái miệng hông hốc há ra như miệng cà mè. Sẽ sàng, chị Dậu nhắc nó ra cạnh vại nước, tắm rửa qua loa cho sạch dơ bẩn, rồi chị bồng nó lên lòng. Lần này không còn thì giờ vắt bỏ sữa chua, chị vội vạch yếm lôi cái đầu vú ấn vào miệng nó. Vừa cho con bé này bú, chị vừa lật đật trở vào đón thằng bé kia.
Thằng bé ấy lệch thệch ra đến giọt thềm, nó vẫn khóc nức, khóc nở, thân hình lem luốc như cái tượng đá vừa đào ở dưới lỗ lên.
Giắt nó một lần nữa chị ra vại nước. Một tay bế con bé con, một tay chị vừa giội nước và vừa kỳ cọ cho thằng bé lớn. Rồi hai tay hai đứa chị ẵm chúng nó vào trong cái phản cập kênh.
Chiếc chiếu ở đấy lúc chiều chị đã đem giải xuống đất để đặt cái Tỉu, và đã bị nó đái ỉa đầm đìa. Thằng Dần phải đứng xuống phản, để chị bồng con em bó vào buồng, cuốn lấy chiếc chiếu trong giường và trải ra đó.
Từ sáng đến giờ chị chỉ long đong chạy đi, chạy về chưa được ăn uống miếng gì. Chừng như cũng đã đói và mệt. Uể oải chị ngả lưng xuống chiếu. Hai đứa con gối đầu vào hai cánh tay.
Cái Tỉu đã hơi tĩnh, vừa bú nó vừa mân mê nghịch cái bầu vú của mẹ. Lâu lậu nó lại thổn thức vài tiếng. Thằng Dần tan cơn nức nở, lại cứ ra rả kêu đói và kè nhè giục mẹ mua gạo nấu cơm.
Trong óc chị Dậu vẫn còn đĩa khoai cái Tý cất trên bàn thờ. Nhổm dậy, chị định nhắc xuống cho thằng bé này ăn nốt. Nhưng món lương thực ấy đã bị chuột tha gần hết, chỉ còn ba bốn mẩu con.
Thằng Dần giơ tay xua lấy xua để:
- Con không ăn. Đĩa khoai ấy của thầy con đấy. Lúc nãy chị Tý đã bảo đứa nào ăn vèn của thầy chi. ấy không chơi với. Con chả ăn, chị ấy mắng con.
Thế là nó lại nhớ đến cái Tý. Sửng sốt nó hỏi:
- Bây giờ chị Tý đâu rồi? Sao u không đem chị ấy về đây với con?
Nước mắt chị Dậu lại theo lời nói ngây ngô của thằng bé ngây thơ ứa ra chứa chan. Đặt mấy củ khoai xuống phản, chị ôm đầu nó vào nách, xoa xoa xuýt xuýt, chị ngọt ngào dỗ dành:
- Chị Tý ở nhà cụ Nghị. U đã bán cho cụ Nghị ấy rồi, đem về thế nào được nữa?
Thằng Dần tru tréo:
- Con không! Nào! Lúc chiều con đã bảo u lấy được tiền rồi thì đem chị ấy về đây với con kia mà! Sao u lại để chị ấy ngủ ở bên ấy?
- Nhưng mà cụ ấy không cho nó về, thì u làm thế nào được? Thôi, con ăn mấy củ khoai cho đỡ đói, rồi nằm ngủ đi, mai kia u đưa sang chơi với chị.
- Con không mai kia! Nào! Nào! U phải đem ngay chị ấy về đây bây giờ, để chị ấy ngủ với con.
Chị Dậu sụt sùi sẽ gạt nước mắt:
- Đêm nay con hãy ngủ tạm với u… Con ngủ với u chóng u yêu, nhỉ!
- Con không ngủ với u nào! Con thèm vào chơi với u nữa. U bán chị Tý đi rồi! Chốc nữa thầy về, con mách thầy cho!
Rồi nó gào khóc rầm rĩ, nhất định bắt mẹ phải đem cái Tý về ngaỵ Chị Dậu hết ngọt lại xẵng, hết xẵng lại ngọt, nào dỗ, nào rứ, nào dọa, nào mắng, giở đã hết cách, nó vẫn không nín. Chị đành mặc cho nó khóc, rồi chị cũng khóc như nó.
Thấy chị khóc nó càng khóc dữ. Lăn đùng ra phản. nó đập hai chân xuống phản đành đạch, và cứ lảm nhảm gọi mãi chị về với em. Chán chê, ê ẩm, hình như nó đã mệt lử, tiếng khóc dần dần nhỏ sẽ. Một lát sau, nó chỉ ủn ỉn. Hai mắt thiu thiu nhắm lại, hơi thở đưa ra phì phò. Nó ngủ.
Cái Tỉu cũng nghỉ mút sữa. Đầu vú ở miệng con bé từ từ buột ra. Rồi đôi mắt lờ đờ, con này cũng sắp sửa ngủ. Chị Dậu đón dén ngả lưng xuống chiếu, chực lừa cái Tỉu.
Muỗi bay vo vo và đốt vào chân nhoi nhói. Chị sè sẽ giơ tay phe phảy, không dám cựa mạnh, sợ hai đứa con thức dậy.
Cái Tỉu ngủ im. Thằng Dần bỗng cười khanh khách và nói léo xéo:
- A a! Chị Tý đã về. Chị vào ăn cơm, cơm sới rồi đấy.
Rồi nó im. Rồi nó thổn thức, rồi nó lại nói:
- Bây giờ chị phải ở nhà với em, đừng sang cụ Nghị nữa nhé! Em nhớ chị quá!
Thình lình nó ngồi phắt dậy, ngơ ngác nhìn ra ngoài sân và bỡ ngỡ, nó hỏi chị Dậu:
- Chị Tý đâu rồi? Chị Tý em đau rồi hử u?
Chớp mắt một cái, hình như nó chợt nghĩ ra cái gì, ngó vào tận mặt chị Dậu, nó khóc hu hu:
- U vẫn chưa đem chị Tý về đây cho con kia ư? Con bắt đền đấy? Con bắt đền u đấy. Sao u lại bán chị ấy của con? U đi dậy đi! Đi dậy sang gọi chị Tý về đi! Sao u cứ nằm mãi? Con không cho u nằm nữa!
Chị Dậu ró ráy nhắc cánh tay ra, đặt đầu cái Tỉu xuống phản. Ngồi dậy, chị bế thằng Dần vào lòng. Trong nhà tuy không có đèn, ánh sáng ngoài cửa soi vào, còn đủ sức sáng để chị nhìn thấy bộ mặt rầu rỉ của nó. Nó vẫn khóc, vẫn ủn ỉn bắt mẹ đi gọi cái Tý.
- Con hãy nín đi, cho em nó ngủ, để u ẵm con đi chơi.
Nó không nín lại càng khóc thêm. Xếch nó lên vai, chị Dậu với mấy mẫu khoai trong đĩa, rồi chị bồng nó ra thềm.
Trước thềm, sáng như ban ngày.
Chương 16
Vầng trăng thăm thẳm từ trên đỉnh đầu chiếu xuống. Bầu trời vắt như một khối thủy tinh. Gió nồm từ các ngọn cây đưa lại hiu hiu. Bóng lá tre in dưới sân rêu luôn luôn lay động như đám bèo nổi trên mặt sóng.
Thằng Dần gục vào mẹ và khóc ti tỉ, chốc chốc lại thúc giục mẹ đi tìm chị nó. Chừng như thương con đói quá, không thể ngủ được, chị Dậu tỉ mỉ bóc sạch cả mấy mẫu khoai và dỗ nó ăn. Nhưng nó khăng khăng một mực để phần cho thầy. Nó lại thiu thiu buồn ngủ.
Bồng nó vào trong nhà, chị Dậu sè sẽ tìm cái quạt nan và sè sẽ đuổi muỗi cho con bé con. Rồi chị lại ẵm nó ra ngoài sân.
Đi đi lại lại dưới bóng trăng, chị vừa vỗ về thằng bé, vừa rầu rĩ cất cái giọng thê thảm ru cho nó ngủ.
Ánh trăng nhòm vào cặp mắt dưng dưng nước mắt, nhắc lại cho chị cái đời ngây thơ của chị ngày xưa.
Phải, trong hồi chị còn ngây thơ, còn độ lên sáu, bẩy, tuy không sung sướng cho lắm, nhưng cũng được cha mẹ nuông chiều. Bấy giờ, chị chỉ ăn rồi chơi, chưa phải ẵm em, chưa phải quét nhà, đun bếp như cái Tý nhà chị bây giờ. Những đem trời khô, trăng sáng như đêm nay, chị vẫn luôn luôn được nô đùa với trẻ con hàng xóm. Chúng nó đã giở ra với chị biết bao là trò mua vui. Nào nhảy nô, nào hú tìm, nào đánh rồng rắn…
Những cuộc vui ấy chị vẫn còn nhớ rành rành. qua tuổi trẻ con đến khi mười bốn, mười lăm, chị vẫn được sẵn cơm ăn, sẵn việc làm, chưa hề phải lam lũ. Không biết tội nợ vì đâu, và từ khi lấy chồng đến giờ, tình cảnh nhà chị cứ mỗi ngày thấy mỗi khổ thêm. Hết năm ấy sang năm khác, vợ chồng đầu tắt mặt tối, không dám chơi không ngày nào. Thế mà vần cứ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Bao nhiêu công trình khó nhọc, bao nhiêu thuốc cam thuốc sài, nuôi từ hòn máu nuôi đi, mới được đứa con bảy tuổi. Bây giờ chỉ vì một xuất tiền sưu, đã phải rứt ruột đem nó đi bán, lại đèo thêm hai gánh khoai và năm con chó nữa, cũng vẫn chưa đủ. Chồng vẫn bị đánh bị trói suốt ngày suốt đêm. Không biết trong lúc đau ốm, lại bị hành hạ như thế, anh ấy có thể sống được đến mai hay không. Và ngày mai chạy đâu cho ra hai đồng bảy bạc để chuộc chồng về? Nếu không lo đủ được số tiền ấy, số phận anh ấy sẽ ra sao? Vả lo được đủ tiền chuộc được chồng về đi nữa, cũng đã thiệt mất một đứa con rồi, sau này còn có ngày nào đem được nó về nhà nữa không? Từ chiều đến giờ nó ăn với ai, nó ngủ với ai?
Thế rồi chị trở vào thềm, rũ rượi ngồi tựa cột hiên, nước mắt rơi xuống lã chã. Bóng trăng chênh chếch nhòm vào trong thềm. Bụi tre trước nhà, con cú sắp đi kiếm mồi, báo hiệu bằng những tiếng ghê sợ buồn rầu, có thể tưởng như ma quỷ, yêu quái. Mấy con cò ngủ giật mình thức giấc, phành phạch vỗ cánh, tự trong bóng tối bay ra. Các nhà láng giềng, gà gáy te te. Trống canh ngoài đình gắt gỏng điểm dịp ba tiếng.
Cái Tỉu cựa dậy và khóc lu loa. Chị Dậu se sẽ đứng lên toan và ru con bé ấy, thằng Dần ở trên vai chị lại cũng thức nốt. Nó mở choàng mắt, và nó nói luôn cái câu vẫn nói trong mọi đêm:
- Chị Tý đem em đi đái!
Chị Dậu vội bế nó đến cổng, tức thì nó đã nghĩ ra, và nói luôn câu khác:
- Con không khiến u! Chị Tý kia! Con không khiến u mang con đi đái. Nào! Nào!
Rồi nó kêu gào bỏng giọng và nó giẫy giụa ở trên sườn mẹ. Cái Tỉu trong nhà vẫn khóc như beo như ngắt. Luống cuống, chị phải đặt vội thằng này xuống đất, để vào đón con bé kia. Quả nhiên nó đã chờ choạng lăn ra dề phản, chút nữa thì ngã. Sấp ngửa nhắc con bé ấy, chị lại tất tả ra sân để ẩm thằng bé kia. Lại, hai nách hai con, chị bế chúng nó vào ngồi trong chõng. Cái Tỉu đã phải im khóc vì một bầu vú của mẹ lấp kín mồm miệng. Thằng Dần vẫn cứ ra rả:
- U đưa con đi tìm chị Tý, mau lên!
Chị Dậu dở khóc dở mếu:
- Đêm khuya rồi, gà gáy nửa đêm rồi. Ra đường ngáo nó cắn cho, con ạ.
- Ngáo cắn chết thì thôi! Con không cần. Con cứ đi tìm chị Tý, để chị ấy về ngủ với con! U phải đưa con đi ngay bây giờ!
Chị Dậu ngồi ỳ không biết nói sao. Nó thục tay vào trong yếm mẹ, lôi tuột đầu vú ở miệng cái Tỉu cà nó vừa khóc vừa mắng con này:
- Ông không cho mày bú nữa. Nhả ra! Nhả ra để u đưa ông đi tìm chị Tý.
Cái Tỉu lại khóc ngằn ngặt. Thằng bé lớn vẫn cứ núc nã, thúc thả, nó kéo tóc, nó kéo tai, nó lôi cổ áo của mẹ, bắt mẹ phải đứng dậy đi ngay.
Thì mẹ nó vẫn phải chiều nó. Bởi vì nó yêu chị nó, nó thương chị nó, nó nhớ chị nó mọi đêm hai chị em nó vẫn nằm với nhau và chị nó vẫn nghêu ngao hát cho nó nghe. Bây giờ tự nhiên mất chị nó, phải bồn cồn nóng nẩy, muốn được thấy chị ngay lúc bấy giờ, cho nên nó phải làm tình làm tội cái người đã đem chị nó di bán. Sự quấy nhiễu của nó là vô tội. Đối với mẹ nó, nó vẫn có lý và vẫn đáng thương.
Vầng trăng lui xuống phía sau lũy tre. Mặt đường khuất dưới bóng lá khoang khuếch chỗ vàng chỗ đen giống như bức tranh thủy mạc. Những nhà cạnh đường hãy còn ngủ im thin thít.
Chị Dậu với cái Tỉu ở sườn này, thằng Dần ở sườn kia, lẽo đẽo đi hết ngò này sang ngõ khác. Hai đứa nín im, cái Tỉu còn bận nhai bầu vú chẩy nhão, thằng Dần tìm hy vọng sẽ được thấy chị.
Trời khuya, canh vắng, ba mẹ con thơ thẩn ôm nhau trên đường, chị Dậu thấy mình là người điên rồ. Mấy lần chị toan quay về ngõ nhà, thằng Dần nhất định không nghe, nó bắt chị cứ phải điên rồ như thề.
Bờ rào sột soạt, đàn chó của nhà bên đường sủa vang, mấy con chó khác của các nhà khác lần lượt sủa theo. Những người gần đấy chợt tan giấc ngủ, choàng dậy kêu trộm rầm rĩ. Ngoài đình và ở các điếm, hiệu sừng hiệu ốc nhất tề thổi lên tu tu.
Tiếng chó sủa, tiếng người thét, tiếng hiệu rúc hồi, báo động suốt cả mấy xóm.
Thằng nhỏ ở nhà ngang lên với rá cơm nguội đầy ụ. Nghị Quế bảo mẹ con Chị Dậu bắt đàn chó con thả sang đầu thềm bên này. Tất tả hắn chạy luồn ra, bưng lấy rá cơm súc cho mỗi con một bát. Chị Dậu nói thật, bốn con chó con đều biết ăn cả rồi. Riêng con chó cái, hình như vừa mệt vừa lo, chỉ ăn nhỏ nhẻ vài miếng lại nghĩ.
Bằng cái sắc mặt ôn hòa dễ dãi, Nghị Quế nhìn vào chị Dậu:
- Con chó cái nhà mày mua ở đâu thế?
- Bẩm của mẹ con mua ở Lầu cai đem về cho con!
- Ừ, có thế chứ! Chắc là giống chó mông tự, chứ ở nhà quê làm gì có thứ chó này!
Mụ Nghị đon đả kể công:
- Bởi thấy nhiều người mách rằng nhà nó có con chó cái khôn lắm, cho nên sáng ngày tôi mới cố mua lấy được. Chứ bỗng không, ai có động rồ mà chuốc đàn chó vừa mới mở mắt? Thế còn bốn con chó con thế nào?
Nghị Quế lẩm bẩm gật đầu:
- Đẹp cả! Bốn con bốn kiểu: một con huyền đề, một con lốt hổ, một con đen tuyền, một con tứ túc mai hoá. Con nào cũng cúp tai, ngắn mặt, mắt xếch lá đề, đẹp lắm!
Vừa nói, hắn vừa tung tăng đi vào trong sập. Vẫn cái kiểu ngồi bắt chân kiểu chữ Ngũ, hắn vít lấy xe điếu ống, hút một hơi thuốc lào, rồi hắn rung đùi ra bộ đắc ý:
- Biết cái gì vất vả cái ấy! Ông Phủ Đăng, ông Nghị Bùi, ông Phán Tiên, và ông Cửu Xung trên tỉnh, các ông ấy đều biết tôi xem chó rành lắm, ông nào cũng khẩn khoản nhờ tôi mua hộ. Tôi định khi nào bốn con chó này khá lớn, thì cho mỗi người một con. Nhưng lại tiếc con chó đẹp tuyền, muốn để nhà nuôi. Vì giống chó ấy lợi chủ, nuôi nó trong nhà làm ăn thịnh vượng…
Mụ Nghị ngắt lời bằng giọng nói nửa thật nửa đùa:
- Chả có của đâu mà cho. Ai muốn được giống chó tốt, phải có tiền đây cho tôi, không thì tôi để nuôi ráo!
- Nhà đã mười bốn con chó cả thảy, nuôi làm gì nữa? Cơm đâu!
- Tôi nuôi để nó coi nhà. Nuôi chó còn hơn là nuôi đứa ở. Nhà rộng thênh thang thế này, mười mấy con chó, nhiều gì?
Rồi mụ cười ròn khanh khách và chõ vào mặt chị Dậu:
- Cơm chó nhà tao cũng tốn bằng mấy cơm ngườí của nhà mày đấy.
Chị Dậu nhường như tủi thân, cúi xuống gạt thầm nước mắt, chị không biết nói thế nào.
Mấy con chó con thôi ăn, kéo nhau trở lại chỗ con chó cái, bỏ dở cả mấy đống cơm.
Nghị Quế sai thằng nhỏ hốt hết vào rá, đưa cho cái Tý. Ra giọng nhân từ ông đại biểu của dân bảo đứa con nít khốn nạn:
- Con bé kia! Cầm lấy rá cơm ăn đi, kẻo phí của trời. Ăn bốc cũng được, không phải đũa bát.
Nước mắt chảy ra như mưa, cái Tý ngần ngại nhìn rá cơm nguội, không muốn chìa tay ra đón.
Ông đại biểu cho dân hầm hầm nét mặt:
- Mày không ăn thừa cơm chó phải không?
Bà Nghị nổi cơn tam bành:
- Mẹ mày dạy mày thế đấy chứ? Con ranh con! Ở đây với bà mà mày cứ giữ cái thói khoảnh ấy, thì bà dần từng cái xương. Này bà bảo cho mà biết: mày ăn cơm chó nhà bà cũng chưa đáng đâu. Con chó nhà bà còn được mấy chục, con người như mày, bà chỉ mua có một đồng đấy thôi. Đừng khoảnh với bà!
Nghị Quế hạch lạc chị Dậu:
- Con mẹ khốn nạn! Mày ngồi giương mắt ra đấy, không biết bảo con làm sao. Hay mày sợ con phải ăn cơm chó thì mày xấu hổ?
Dường như thương mẹ bị quở, cái Tý vội vàng đón lấy rá cơm. Rụt rè nó bốc một nắm bỏ vào miệng, uể oải nhai như bò nhai trấu.
Mụ Nghị nghiến răng kèn kẹt và chỉ vào mặt con bé:
- Bà truyền đời báo danh cho mày, tự giờ đến mai, phải ăn hết cái rá cơm ấy, rồi mới được ăn cơm khác!
Chị Dậu chỉ gục đầu vào cột, nức nở khóc thầm. Nghị Quế quát hỏi:
- Thế, con mẹ kia có lấy tiền không? Hay còn tiếc con tiếc chó?
Chị Dậu vội chùi nước mắt đứng dậy:
- Bẩm cụ…
Không để cho chị nói hết, Nghị Quế giục vợ:
- Bà trả tiền cho nó về đi, để nó ngồi mãi ở đây tôi không chịu được!
Cái chuông trong hòm leng keng kêu một hồi đài, mụ Nghị cầm hai chuỗi chinh quăng tọt ra thềm:
- Đấy, tiền đấy!
Chị Dậu lom khom cúi nhặt tiền, toan tình cởi ra đếm lại. Mụ Nghị sa sả:
- Không ai thèm làm thiếu đồng hồ nào! Không phải đếm chác gì nữa!
Chị Dậu giắt tiền vào lưng, rồi chị sụt sùi bảo với cái Tý:
- Thôi con ở đây hầu hạ hai cụ, u về nhé!
Cái Tý ôm chầm lấy mẹ và khóc như mưa như gió:
- U đừng về vội! U hãy ngồi đây với con lúc nữa.
Nghị Quế đùng đùng đứng dậy, giơ cái bàn tay hộ pháp tát cho con bé một cái đánh đốp, và hắn hét lên như ông đại tướng trong rạp tuồng:
- Thằng nhỏ lôi cổ nó xuống nhà bếp kia…
Tức thì cái Tý liền phải lìa mẹ ra xềnh xệch theo tay cậu hầu cận của ông Dân biểu xuống thềm. Bộ mặt bồ nhếch bồ nhác ngoảnh lại với cái miệng mếu xệch, nó nhìn theo mẹ và nói bằng giọng nức nở:
- Ngày mai u đem thằng Dần sang đây chơi với con nhé, con nhớ em lắm.
Hai cái bầu vú đầy sữa mẩy găng, sữa ở trong vú rỉ ra, ướt đầm cả một lần yếm, làm cho chị Dậu bồn cồn xót ruột về con bé ở nhà. Bởi vì theo sự kinh nghiệm của đàn bà con mọn, những lúc xa con, sữa chảy như thế, ấy là đứa con vắng mẹ đã đói và đương gào khóc đòi bú. Chị không dám nghĩ đến cái Tý nữa, sấp ngửa chị cắp cái rổ, cái mẹt và cái mê nón tất tả ra cổng thôn Đoài.
Mặt trời đã lặn xuống tận mặt đất. Đàn quạ khoang dập dùi là xuống các bãi tha mạ Còi lá dứa của lũ mục đồng rối rít thúc trâu bò về nghĩ.
Tới làng Đông xá, trời nhá nhem. Trong đình vắng tanh vắng ngắt. Đàn dơi bắt muỗi xập xè bay khắp lòng đình.
Ngọn đèn dầu ta loe trên hương án cố sức phun những ánh sáng úa vàng, soi cho mấy nén hương đen lù mù cháy ở dưới cửa võng. Cả mấy gian đình chỉ còn sự tối tăm giúp sức cho sự kinh trợn. Người ta đã đem hết tiếng ầm ầm vào nhà Lý trưởng từ lâu.
Chừng cũng đoán biết như vậy, chị Dậu lủi thủi theo chỗ có tiếng tù và rúc hồí đi vào.
Dưới ánh lửa sáng quắc của ngọn đèn hai giây, quang cảnh trong nhà Lý trưởng lúc này cũng như quang cảnh ngoài đình lúc nãy. Anh Dậu và bọn trai đình thiếu sưu đều giơ khuỷu tay cho sợi dây thừng buộc vào cột nhà. Đàn ông, đàn bà chờ đợi nộp thuế còn lố nhố suốt một bực cửa.
Lính cơ, Cai lệ vẫn nằm chầu Chánh tổng ở bên bàn đèn, thủ quỹ, Thư ký, Chánh hội, Phó hội và chức dịch ngổn ngang ngồi ở cạnh những cuốn sổ sách bề bộn.
Cái mặt bồ hôi nước mắt vừa ló vào thềm, chị Dậu liền được mấy ông chức dịch nhao nhao thét hỏi:
- Đã bán được con rồi chớ! Đem tiền nộp sưu, mau lên.
- Thưa đã!
Vừa nói, chị vừa giở chuỗi tiền chinh giắt ở dải lưng và tám hào con, tiền bán khoai mà chị vẫn khư khư buộc đầu dải yếm. Bớt lại một hào, chị sẽ đón dén đặt hai đồng bẩy lên trước Lý trưởng:
- Thưa ông, nhà cháu không kịp đi đổi tiền giấy, xin ông làm ơn nhận cho
Lý trưởng cầm chuỗi tiền chinh đưa cho thủ quỹ đếm lại và bảo chị Dậu:
- Mỗi đồng phải các ba xu, bỏ luôn ra đây, tao nhận cho. Nhưng sao lại có hai đồng bẩy hào?
Ngơ ngác, chị Dậu vừa đưa đồng hào để trả tiền các, vừa đáp bằng giọng lớ ngớ:
- Thưa ông, cháu tưởng năm nay sưu bổ mỗi xuất chỉ có bấy nhiêu.
- Phải rồi. Tiền sưu năm nay mỗi xuất chỉ có hai đồng bảy hào. Nhưng nhà mầy nộp hai suất, nghe không? Một suất của chồng mày, một suất nữa của thằng Hợi.
- Thưa ông chú nó chết hồi tháng giêng rồi mà. Nhà con vẫn còn chưa khai tử hay sao?
Lý trưởng phát gắt:
- Khai tử rồi cũng phải đống sưu. Ai bảo nó không chết từ hồi tháng mười năm ngoái?
Chị càng ngẩn ngơ ra bộ không hiểu, như có ý ngờ người ta ăn hiếp nhà mình:
- Thưa ông người chết đã gần năm tháng, sao lại còn phải đóng sưu?
Lý trưởng quát:
- Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không biết.
Thư ký dõng dạc cắt nghĩa:
- Chết cũng không trốn được sưu nhà nước! Là vì thằng em chồng chị mới chết tháng giêng An nam, mà sổ thông quí của làng đã làm từ đầu năm tây, tức là tháng một An nam năm ngoái. Sổ ấy có tên thằng Hợi, lúc ấy nó còn chưa chết, khi đệ lên tỉnh, tòa Sứ cứ theo số đinh trong sổ mà làm bài chỉ đưa sang sở Kho Bạc, rồi đến kỳ thuế, sở kho bạc lại cứ theo đúng số thuế ghi trong bài chỉ mà thu. Nó chết tháng giêng, chứ dẫu nó chết tháng chạp cũng vậy, bài chỉ làm rồi, người ta không có chữa lại bao giờ, khai tử hay chẳng khai tử mặc kệ! Bởi thế, bài chỉ làng ta năm nay vẫn không trừ được số sưu của thằng Hợi nhà chị. Nó chết, vợ con chưa có ông Lý trưởng cứ lấy vào thân nhân, chồng chị không nộp cho nó thì ai nộp?
Chị Dậu dở nói dở khóc:
- Cháu là đàn bà, biết đâu việc quan như thế. Khốn nạn, chú nó chết đi, nhà cháu thật như mất cánh tay phải! Còn nó, chúng cháu có đâu đến nỗi khổ sở như này? Bây giờ nó đã chẳng may thiệt phận, đành rằng xuất sưu của nó, nhà cháu phải đóng, nhưng cháu xin các ông cho khất đến mai. Hôm nay cháu hãy đóng trước một suất, các ông tha cho nhà cháu về, kẻo người yếu đau bị trói cả ngày, không khéo chết mất.
Lý trưởng trừng mắt:
- Chết thì ông chôn! Mày tưởng chồng mày chết mà ông sợ à? Muốn chồng khỏi trói, về đem nốt hai đồng bẩy nữa ra đây. Nếu không thì ông còn trói, ông trói cho đến bao giờ đủ sưu mà thôi.
Chị Dậu chừng như uất quá, ngồi sụp xuống chỗ cạnh chồng, chị khóc tru tréo:
- Trời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai, mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay? Ai ngờ lại còn xuất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở trời? Tôi biết đâm đầu vào đâu cho được hai đồng bẩy bạc bây giờ?
Cai lệ ngồi phắt trở dậy gân cổ thét ra:
- Chỗ mày kêu khóc đấy à, con mẹ kia? Muốn sống thì câm cái mồm, không thì ông sẽ cho một trận nữa!
Anh Dậu run run khuyên vợ:
- Thôi, u nó đi về với con, kẻo có hai đứa ở nhà nó khóc hết hơi. Mặc tôi ở đây, bị trói thêm một đêm nữa cũng chẳng chết nào. Đừng nói nữa người ta đánh đập khổ thân.
Chị Dậu vẫn không dứt được cơn hậm hực.
Thủ quỹ vừa đếm xong hai chuỗi tiền chinh, hắn gọi chị Dậu và bảo:
- Này chị kia, đừng khóc nữa, vào đây mà xem, mỗi đồng thiếu mất bốn xu đây này! Một hào của chị đưa trả tiền các trừ vào chỗ này hết tám xu rồi, còn thiếu bốn xu nữa nhé.
Chị Dậu lại mếu:
- Khốn nạn! Tôi vẫn chắc mẩm còn thừa một hào, đem về đong gạo cho con ăn. Bây giờ hết cả vẫn chưa đủ! Gớm! Cái bà Nghị, giàu thế mà còn làm điêu!
Rồi chị cứ rũ rượi ngồi khóc.
Anh Dậu thiết tha giục:
- Thôi u nó nghe tôi, có thương tôi thì hãy đi về với con. Đừng cứ ngồi đây mà khóc cho tôi càng thêm não ruột.
Các bạn bị trói của anh Dậu ra ý thương hại và hỏi:
- Con bé lớn chị đã bán rồi, hai đứa bé còn ở nhà với ai?
Chị Dậu sụt sịt đáp:
- Anh em chúng nó ở nhà với nhau, chớ có ai đâu các bác?
Những người ấy ra ý áy náy:
- Khốn nạn! Thằng bé lên năm phải giữ con bé lên hai! Tội nghiệp quá!
- Cứ như các ông ấy phải vừa mới nói đó, thì người chết rồi cũng phải đóng sưu. Vậy là nhà chị vẫn thiếu một suất sưu nữa. Nếu không có tiền đem nộp, dẫu chị ở đây đến sáng cũng không thể xin cho anh ấy được khỏi trói đâu. Nói lắm mỏi miệng, ai thương? Thà chị về với các cháu cho khỏi khổ thân con trẻ.
- Phải, bác ấy nói phải. Hãy cứ đành lòng để mặc anh ấy ngồi đây, chị về mà nghỉ với con. Chứ chị ở đây chẳng qua chỉ thêm đau lòng, ích gì? Rồi nhịn chẳng được, ngứa mồm nói một vài câu, lại tổ làm cho anh ấy phải đòn.
Bấy nhiêu lời diễn thuyết tuy chứa chan những giọng tử tế, nhưng không giúp cho chị Dậu tí gì vì ý chị cũng nghĩ như người ta nói. Buồn rầu chị sẽ ghé vào tai chồng:
- Cái Tý để phần thầy em một đĩa khoai đấy. Tôi bưng sang đây cho nhé!
Anh Dậu lắc đầu:
- Miệng tôi đắng lắm, không thể ăn gì bây giờ. U nó cứ về với con. Không phải lo đến sự ăn uống của tôi.
Chào chồng bằng hai hàng nước mắt, chị Dậu lủi thủi ra với cái mẹt, cái rổ, và cái mê nón.
Chương 15
Vầng trăng đã vượt khỏi ngọn tre. Mặt nước các ao đã lóng lánh như nồi vàng đường chẩy. Trong mấy bụi cây rậm rạp, tiếng quốc kêu khi thưa khi nhặt, khắc khoải hòa với tiếng rền rĩ rên khóc của giun, dế vườn hoang.
Tuy mới chập tối, các nhà đã đóng cửa im ỉm, không đâu còn một chút đèn lửa. Những kẻ cầy sâu cuốc bẫm suốt ngày mệt nhọc, khi ấy đều phải trả nợ mắt để nuôi lấy sức làm việc cho ngày mai. Trừ xóm Lý trưởng, các xóm khác đều im phăng phắc như cánh đồng không, nếu thỉnh thoảng không có tiếng chó sủa bọn người người đi thúc sưu và tiếng xay lúa giã gạo ở mấy nhà hàng xay hàng xáo.
Chị Dậu về đến đầu nhà đã nghe tiếng khóc khàn khàn của hai đứa trẻ.
Sấp ngửa, chị chạy vào cổng, quẳng cả rổ mẹt, mê nón xuống sàn, rồi vội vàng chị vào trong nhà.
Thằng Dần vẫn ngồi cạnh em, hai mắt sưng húp, mặt mũi xám mét như đứa vừa bị ngã ao, hãy còn kinh khiếp chưa hoàn hồn. Nó không thể tỏ chút dấu mừng rỡ khi thấy mẹ về, tuy sự ấy là sự đáng mừng rỡ của nó. Trái lại, nó càng ra bộ tủi thân và òa lên khóc như muốn nhắc cho mẹ biết những nỗi lo sợ từ nãy đến giờ. Nhưng hình như trong lúc mẹ nó đi vắng, nó đã kêu gào nhiều quá, cổ rát, hơi hết, nó chỉ có thể đưa ra cái tiếng khô khan như người khóc thầm.
Chị Dậu không kịp hỏi đến thằng bé ấy, hốt hoảng chị vớ lấy con bé con. Trời ơi, một sự ghê gớm kinh sợ.
Đôi mắt nó mọng đỏ như quả nhót. Mồm mép, chân tay, lưng, bụng, cổ áo, tay áo của nó bê bết một lượt cứt với nước đái, đầm lầm hòa nhau. Nó khóc nhưng không ra tiếng, chỉ có cái miệng hông hốc há ra như miệng cà mè. Sẽ sàng, chị Dậu nhắc nó ra cạnh vại nước, tắm rửa qua loa cho sạch dơ bẩn, rồi chị bồng nó lên lòng. Lần này không còn thì giờ vắt bỏ sữa chua, chị vội vạch yếm lôi cái đầu vú ấn vào miệng nó. Vừa cho con bé này bú, chị vừa lật đật trở vào đón thằng bé kia.
Thằng bé ấy lệch thệch ra đến giọt thềm, nó vẫn khóc nức, khóc nở, thân hình lem luốc như cái tượng đá vừa đào ở dưới lỗ lên.
Giắt nó một lần nữa chị ra vại nước. Một tay bế con bé con, một tay chị vừa giội nước và vừa kỳ cọ cho thằng bé lớn. Rồi hai tay hai đứa chị ẵm chúng nó vào trong cái phản cập kênh.
Chiếc chiếu ở đấy lúc chiều chị đã đem giải xuống đất để đặt cái Tỉu, và đã bị nó đái ỉa đầm đìa. Thằng Dần phải đứng xuống phản, để chị bồng con em bó vào buồng, cuốn lấy chiếc chiếu trong giường và trải ra đó.
Từ sáng đến giờ chị chỉ long đong chạy đi, chạy về chưa được ăn uống miếng gì. Chừng như cũng đã đói và mệt. Uể oải chị ngả lưng xuống chiếu. Hai đứa con gối đầu vào hai cánh tay.
Cái Tỉu đã hơi tĩnh, vừa bú nó vừa mân mê nghịch cái bầu vú của mẹ. Lâu lậu nó lại thổn thức vài tiếng. Thằng Dần tan cơn nức nở, lại cứ ra rả kêu đói và kè nhè giục mẹ mua gạo nấu cơm.
Trong óc chị Dậu vẫn còn đĩa khoai cái Tý cất trên bàn thờ. Nhổm dậy, chị định nhắc xuống cho thằng bé này ăn nốt. Nhưng món lương thực ấy đã bị chuột tha gần hết, chỉ còn ba bốn mẩu con.
Thằng Dần giơ tay xua lấy xua để:
- Con không ăn. Đĩa khoai ấy của thầy con đấy. Lúc nãy chị Tý đã bảo đứa nào ăn vèn của thầy chi. ấy không chơi với. Con chả ăn, chị ấy mắng con.
Thế là nó lại nhớ đến cái Tý. Sửng sốt nó hỏi:
- Bây giờ chị Tý đâu rồi? Sao u không đem chị ấy về đây với con?
Nước mắt chị Dậu lại theo lời nói ngây ngô của thằng bé ngây thơ ứa ra chứa chan. Đặt mấy củ khoai xuống phản, chị ôm đầu nó vào nách, xoa xoa xuýt xuýt, chị ngọt ngào dỗ dành:
- Chị Tý ở nhà cụ Nghị. U đã bán cho cụ Nghị ấy rồi, đem về thế nào được nữa?
Thằng Dần tru tréo:
- Con không! Nào! Lúc chiều con đã bảo u lấy được tiền rồi thì đem chị ấy về đây với con kia mà! Sao u lại để chị ấy ngủ ở bên ấy?
- Nhưng mà cụ ấy không cho nó về, thì u làm thế nào được? Thôi, con ăn mấy củ khoai cho đỡ đói, rồi nằm ngủ đi, mai kia u đưa sang chơi với chị.
- Con không mai kia! Nào! Nào! U phải đem ngay chị ấy về đây bây giờ, để chị ấy ngủ với con.
Chị Dậu sụt sùi sẽ gạt nước mắt:
- Đêm nay con hãy ngủ tạm với u… Con ngủ với u chóng u yêu, nhỉ!
- Con không ngủ với u nào! Con thèm vào chơi với u nữa. U bán chị Tý đi rồi! Chốc nữa thầy về, con mách thầy cho!
Rồi nó gào khóc rầm rĩ, nhất định bắt mẹ phải đem cái Tý về ngaỵ Chị Dậu hết ngọt lại xẵng, hết xẵng lại ngọt, nào dỗ, nào rứ, nào dọa, nào mắng, giở đã hết cách, nó vẫn không nín. Chị đành mặc cho nó khóc, rồi chị cũng khóc như nó.
Thấy chị khóc nó càng khóc dữ. Lăn đùng ra phản. nó đập hai chân xuống phản đành đạch, và cứ lảm nhảm gọi mãi chị về với em. Chán chê, ê ẩm, hình như nó đã mệt lử, tiếng khóc dần dần nhỏ sẽ. Một lát sau, nó chỉ ủn ỉn. Hai mắt thiu thiu nhắm lại, hơi thở đưa ra phì phò. Nó ngủ.
Cái Tỉu cũng nghỉ mút sữa. Đầu vú ở miệng con bé từ từ buột ra. Rồi đôi mắt lờ đờ, con này cũng sắp sửa ngủ. Chị Dậu đón dén ngả lưng xuống chiếu, chực lừa cái Tỉu.
Muỗi bay vo vo và đốt vào chân nhoi nhói. Chị sè sẽ giơ tay phe phảy, không dám cựa mạnh, sợ hai đứa con thức dậy.
Cái Tỉu ngủ im. Thằng Dần bỗng cười khanh khách và nói léo xéo:
- A a! Chị Tý đã về. Chị vào ăn cơm, cơm sới rồi đấy.
Rồi nó im. Rồi nó thổn thức, rồi nó lại nói:
- Bây giờ chị phải ở nhà với em, đừng sang cụ Nghị nữa nhé! Em nhớ chị quá!
Thình lình nó ngồi phắt dậy, ngơ ngác nhìn ra ngoài sân và bỡ ngỡ, nó hỏi chị Dậu:
- Chị Tý đâu rồi? Chị Tý em đau rồi hử u?
Chớp mắt một cái, hình như nó chợt nghĩ ra cái gì, ngó vào tận mặt chị Dậu, nó khóc hu hu:
- U vẫn chưa đem chị Tý về đây cho con kia ư? Con bắt đền đấy? Con bắt đền u đấy. Sao u lại bán chị ấy của con? U đi dậy đi! Đi dậy sang gọi chị Tý về đi! Sao u cứ nằm mãi? Con không cho u nằm nữa!
Chị Dậu ró ráy nhắc cánh tay ra, đặt đầu cái Tỉu xuống phản. Ngồi dậy, chị bế thằng Dần vào lòng. Trong nhà tuy không có đèn, ánh sáng ngoài cửa soi vào, còn đủ sức sáng để chị nhìn thấy bộ mặt rầu rỉ của nó. Nó vẫn khóc, vẫn ủn ỉn bắt mẹ đi gọi cái Tý.
- Con hãy nín đi, cho em nó ngủ, để u ẵm con đi chơi.
Nó không nín lại càng khóc thêm. Xếch nó lên vai, chị Dậu với mấy mẫu khoai trong đĩa, rồi chị bồng nó ra thềm.
Trước thềm, sáng như ban ngày.
Chương 16
Vầng trăng thăm thẳm từ trên đỉnh đầu chiếu xuống. Bầu trời vắt như một khối thủy tinh. Gió nồm từ các ngọn cây đưa lại hiu hiu. Bóng lá tre in dưới sân rêu luôn luôn lay động như đám bèo nổi trên mặt sóng.
Thằng Dần gục vào mẹ và khóc ti tỉ, chốc chốc lại thúc giục mẹ đi tìm chị nó. Chừng như thương con đói quá, không thể ngủ được, chị Dậu tỉ mỉ bóc sạch cả mấy mẫu khoai và dỗ nó ăn. Nhưng nó khăng khăng một mực để phần cho thầy. Nó lại thiu thiu buồn ngủ.
Bồng nó vào trong nhà, chị Dậu sè sẽ tìm cái quạt nan và sè sẽ đuổi muỗi cho con bé con. Rồi chị lại ẵm nó ra ngoài sân.
Đi đi lại lại dưới bóng trăng, chị vừa vỗ về thằng bé, vừa rầu rĩ cất cái giọng thê thảm ru cho nó ngủ.
Ánh trăng nhòm vào cặp mắt dưng dưng nước mắt, nhắc lại cho chị cái đời ngây thơ của chị ngày xưa.
Phải, trong hồi chị còn ngây thơ, còn độ lên sáu, bẩy, tuy không sung sướng cho lắm, nhưng cũng được cha mẹ nuông chiều. Bấy giờ, chị chỉ ăn rồi chơi, chưa phải ẵm em, chưa phải quét nhà, đun bếp như cái Tý nhà chị bây giờ. Những đem trời khô, trăng sáng như đêm nay, chị vẫn luôn luôn được nô đùa với trẻ con hàng xóm. Chúng nó đã giở ra với chị biết bao là trò mua vui. Nào nhảy nô, nào hú tìm, nào đánh rồng rắn…
Những cuộc vui ấy chị vẫn còn nhớ rành rành. qua tuổi trẻ con đến khi mười bốn, mười lăm, chị vẫn được sẵn cơm ăn, sẵn việc làm, chưa hề phải lam lũ. Không biết tội nợ vì đâu, và từ khi lấy chồng đến giờ, tình cảnh nhà chị cứ mỗi ngày thấy mỗi khổ thêm. Hết năm ấy sang năm khác, vợ chồng đầu tắt mặt tối, không dám chơi không ngày nào. Thế mà vần cứ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Bao nhiêu công trình khó nhọc, bao nhiêu thuốc cam thuốc sài, nuôi từ hòn máu nuôi đi, mới được đứa con bảy tuổi. Bây giờ chỉ vì một xuất tiền sưu, đã phải rứt ruột đem nó đi bán, lại đèo thêm hai gánh khoai và năm con chó nữa, cũng vẫn chưa đủ. Chồng vẫn bị đánh bị trói suốt ngày suốt đêm. Không biết trong lúc đau ốm, lại bị hành hạ như thế, anh ấy có thể sống được đến mai hay không. Và ngày mai chạy đâu cho ra hai đồng bảy bạc để chuộc chồng về? Nếu không lo đủ được số tiền ấy, số phận anh ấy sẽ ra sao? Vả lo được đủ tiền chuộc được chồng về đi nữa, cũng đã thiệt mất một đứa con rồi, sau này còn có ngày nào đem được nó về nhà nữa không? Từ chiều đến giờ nó ăn với ai, nó ngủ với ai?
Thế rồi chị trở vào thềm, rũ rượi ngồi tựa cột hiên, nước mắt rơi xuống lã chã. Bóng trăng chênh chếch nhòm vào trong thềm. Bụi tre trước nhà, con cú sắp đi kiếm mồi, báo hiệu bằng những tiếng ghê sợ buồn rầu, có thể tưởng như ma quỷ, yêu quái. Mấy con cò ngủ giật mình thức giấc, phành phạch vỗ cánh, tự trong bóng tối bay ra. Các nhà láng giềng, gà gáy te te. Trống canh ngoài đình gắt gỏng điểm dịp ba tiếng.
Cái Tỉu cựa dậy và khóc lu loa. Chị Dậu se sẽ đứng lên toan và ru con bé ấy, thằng Dần ở trên vai chị lại cũng thức nốt. Nó mở choàng mắt, và nó nói luôn cái câu vẫn nói trong mọi đêm:
- Chị Tý đem em đi đái!
Chị Dậu vội bế nó đến cổng, tức thì nó đã nghĩ ra, và nói luôn câu khác:
- Con không khiến u! Chị Tý kia! Con không khiến u mang con đi đái. Nào! Nào!
Rồi nó kêu gào bỏng giọng và nó giẫy giụa ở trên sườn mẹ. Cái Tỉu trong nhà vẫn khóc như beo như ngắt. Luống cuống, chị phải đặt vội thằng này xuống đất, để vào đón con bé kia. Quả nhiên nó đã chờ choạng lăn ra dề phản, chút nữa thì ngã. Sấp ngửa nhắc con bé ấy, chị lại tất tả ra sân để ẩm thằng bé kia. Lại, hai nách hai con, chị bế chúng nó vào ngồi trong chõng. Cái Tỉu đã phải im khóc vì một bầu vú của mẹ lấp kín mồm miệng. Thằng Dần vẫn cứ ra rả:
- U đưa con đi tìm chị Tý, mau lên!
Chị Dậu dở khóc dở mếu:
- Đêm khuya rồi, gà gáy nửa đêm rồi. Ra đường ngáo nó cắn cho, con ạ.
- Ngáo cắn chết thì thôi! Con không cần. Con cứ đi tìm chị Tý, để chị ấy về ngủ với con! U phải đưa con đi ngay bây giờ!
Chị Dậu ngồi ỳ không biết nói sao. Nó thục tay vào trong yếm mẹ, lôi tuột đầu vú ở miệng cái Tỉu cà nó vừa khóc vừa mắng con này:
- Ông không cho mày bú nữa. Nhả ra! Nhả ra để u đưa ông đi tìm chị Tý.
Cái Tỉu lại khóc ngằn ngặt. Thằng bé lớn vẫn cứ núc nã, thúc thả, nó kéo tóc, nó kéo tai, nó lôi cổ áo của mẹ, bắt mẹ phải đứng dậy đi ngay.
Thì mẹ nó vẫn phải chiều nó. Bởi vì nó yêu chị nó, nó thương chị nó, nó nhớ chị nó mọi đêm hai chị em nó vẫn nằm với nhau và chị nó vẫn nghêu ngao hát cho nó nghe. Bây giờ tự nhiên mất chị nó, phải bồn cồn nóng nẩy, muốn được thấy chị ngay lúc bấy giờ, cho nên nó phải làm tình làm tội cái người đã đem chị nó di bán. Sự quấy nhiễu của nó là vô tội. Đối với mẹ nó, nó vẫn có lý và vẫn đáng thương.
Vầng trăng lui xuống phía sau lũy tre. Mặt đường khuất dưới bóng lá khoang khuếch chỗ vàng chỗ đen giống như bức tranh thủy mạc. Những nhà cạnh đường hãy còn ngủ im thin thít.
Chị Dậu với cái Tỉu ở sườn này, thằng Dần ở sườn kia, lẽo đẽo đi hết ngò này sang ngõ khác. Hai đứa nín im, cái Tỉu còn bận nhai bầu vú chẩy nhão, thằng Dần tìm hy vọng sẽ được thấy chị.
Trời khuya, canh vắng, ba mẹ con thơ thẩn ôm nhau trên đường, chị Dậu thấy mình là người điên rồ. Mấy lần chị toan quay về ngõ nhà, thằng Dần nhất định không nghe, nó bắt chị cứ phải điên rồ như thề.
Bờ rào sột soạt, đàn chó của nhà bên đường sủa vang, mấy con chó khác của các nhà khác lần lượt sủa theo. Những người gần đấy chợt tan giấc ngủ, choàng dậy kêu trộm rầm rĩ. Ngoài đình và ở các điếm, hiệu sừng hiệu ốc nhất tề thổi lên tu tu.
Tiếng chó sủa, tiếng người thét, tiếng hiệu rúc hồi, báo động suốt cả mấy xóm.
Bình luận facebook