Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 13: Lập đông (5)
Sau khi Ôn Lĩnh Viễn trông thấy cô thì nở nụ cười, anh đứng tại chỗ chờ cô bước qua.
Bó hoa anh đang cầm gồm bách hợp, cát cánh, hoa cúc và hoa bạch đàn, chúng được gói bằng giấy gói màu xanh đậm, trông nhỏ gọn mà tinh xảo. Cách phối màu này trông có vẻ đặc biệt tươi tắn trong một đêm lạnh đầu đông.
Ôn Lĩnh Viễn nói: “Tôi không gọi được cho cháu.”
“A.” Ninh Tê móc di động ở trong túi áo khoác ra mới phát hiện nó vẫn đang trong chế độ máy bay.
Tô Vũ Nùng đi tới nhẹ nhàng ôm vai Ninh Tê: “Vậy tớ đi trước nhé.”
Ôn Lĩnh Viễn nói: “Trời mưa khó bắt xe, tôi tiện đường chở cháu về luôn nhé?”
Tô Vũ Nùng cười lắc đầu: “Không được không được đâu ạ, hôm nay ba cháu tới đón cháu rồi.” Vừa nói cô vừa nháy mắt với Ninh Tê rồi đi mất.
Trong tay Ninh Tê đang cầm một cái túi rất lớn, bên trong là giày cao gót và chiếc váy được đựng trong túi chống bụi.
Ôn Lĩnh Viễn đưa hoa cho Ninh Tê rồi nhận lấy túi trong tay cô, sau đó hai người cùng đi về phía cửa.
Trên đường chật cứng xe đang đậu, người xe tấp nập, lại gặp phải trời mưa nên gần như khó mà cất bước. Xe Ôn Lĩnh Viễn đậu khá xa, ở cuối con đường ngay trước cổng trường.
Ninh Tê vừa đi vừa cúi đầu nhìn đường, sợ nếu dẫm phải viên gạch bị lồi lên thì sẽ bị vấy nước bẩn.
Chợt nghe thấy Ôn Lĩnh Viễn nói: “Chúc mừng cháu.”
Ninh Tê yên lặng đáp “vâng” một tiếng.
Có phải mình đã quá được voi đòi tiên rồi không? Cô nhìn người mặc áo len, quần jeans và giày bên cạnh một cái, đột nhiên nghĩ như vậy.
Thật ra chỉ cần anh tới là tốt rồi, nào ngờ đến khi thật sự nhìn thấy anh thì lại hy vọng anh đến sớm một chút, chí ít thì có thể trông thấy lúc cô mặc chiếc váy kia.
Khi sắp đi tới chỗ đậu xe, Ninh Tê nghe thấy ở phía sau có người gọi mình bèn quay đầu lại, nhìn thấy ở bên kia đường có một nam sinh đang nhiệt tình vẫy tay với cô.
Không phải Ninh Tê chưa từng gặp qua tình huống làm như quen để bắt chuyện như thế này nên cô chỉ liếc một cái rồi lại đi tiếp.
Nam sinh vất vả băng qua đường giữa dòng người đông đúc và khói xe, khi sang đến nơi thì vỗ lên vai cô một cái, “Cậu không nhận ra tôi à?”
Ninh Tê nhíu mày quay đầu lại, lúc sắp nổi cáu thì trông thấy mặt của nam sinh, cô không khỏi ngẩn người một lát: “Tô Dục Thanh?”
“Xem ra cậu vẫn còn tí lương tâm.” Vóc dáng Tô Dục Thanh rất cao, cậu khoác chiếc áo bóng chày, mái tóc cắt ngắn cũn. Khi cậu cười rộ lên trông hết sức cởi mở, đích thị là một nam sinh với khí chất trời trong vào một buổi chiều đầu hè.
Cậu là người bạn khác giới cùng lứa hiếm hoi mà Ninh Tê không ghét. Ninh Tê và cậu là bạn học thời trung học cơ sở, do thành tích thi của hai người chênh lệch khá nhiều nên mới vào hai trường cấp ba khác nhau, cùng bởi vì vậy mà càng ngày càng ít liên lạc.
“Cậu đến trường của bọn tôi làm gì thế?”
“Cố ý đến nghe cậu hát đó.”
“Thôi bớt đi.”
Tô Dục Thanh cười nói: “Thật ra tôi tới dự lễ cưới của họ hàng ở một khách sạn gần đây. Sau khi ăn tối xong tôi tới trường của cậu đi dạo thì nghe nói có cuộc thi hát nên mới đi hóng hớt — chúc mừng chúc mừng nha.”
Ninh Tê cũng cười một tiếng: “Bọn họ đều nói tôi dùng quy tắc ngầm đó.”
“Cả trường chỉ có cậu hát có cảm xúc và không làm ra vẻ thôi, nếu tôi mà là giám khảo thì cũng cho cậu điểm cao nhất.”
Ôn Lĩnh Viễn vẫn luôn kiên nhẫn đứng chờ bên cạnh, Ninh Tê nhớ ra phải giới thiệu bèn nói với Tô Dục Thanh: “Đây là… bạn của ba tôi, Ôn Lĩnh Viễn.”
Tô Dục Thanh gật đầu nói: “Chào chú chào chú, cháu là bạn học thời cấp hai của Ninh Tê, tên là Tô Dục Thanh ạ.”
Ôn Lĩnh Viễn khẽ mỉm cười, “Chào cháu.”
Có lẽ Tô Dục Thanh cũng đoán ra rằng họ còn có hẹn nên nói với Ninh Tê: “Tôi phải về đây, có gì liên lạc qua WeChat nhé.”
Sau khi lên xe, Ôn Lĩnh Viễn mở máy sưởi, rồi lại mở cần gạt nước để quét hết nước mưa và sương mù trên cửa sổ đi.
“Cháu ăn tối chưa?”
Ninh Tê lắc đầu.
“Vậy chúng ta đi ăn một ít nhé.”
“Hôm nay chú lại tăng ca à?”
Ôn Lĩnh Viễn nói: “Lúc sắp tan tầm thì có một bệnh nhân từ vùng khác đến, mà trời lại đang mưa nên không thể chặn người ta ngoài cửa được.”
Phía trước vẫn đang kẹt cứng nên xe chỉ có thể chạy chầm chậm. Có lẽ là vì độ ấm trong xe đã tăng lên nên không cảm thấy lạnh đến vậy, cảm xúc buồn bã của Ninh Tê cũng dần dần tan biến.
Cô cúi đầu mới phát hiện mình vẫn đang ôm bó hoa, bèn cười một tiếng, nói câu cảm ơn: “Tuy chú không đến kịp buổi diễn nhưng tôi vẫn rất vui, vốn dĩ tôi cho rằng chú sẽ không tới.”
Do tình hình giao thông phức tạp nên Ôn Lĩnh Viễn vẫn luôn chăm chú nhìn phía trước, lúc này mới dời mắt liếc cô một cái, cười nói: “Ai nói tôi không đến kịp?”
Ninh Tê ngơ ngẩn.
“Vì không gọi được cho cháu nên sau khi buổi diễn kết thúc tôi mới đứng chờ ngoài cổng.”
Giọng điệu của Ôn Lĩnh Viễn không giống như đang nói giỡn, nhưng mà Ninh Tê vẫn không tin lắm: “Chú có xem buổi diễn thật à?”
“Lúc tôi tới thì đến lượt người thứ ba lên sân khấu, người đó hát bài 《Bắc Kinh Bắc Kinh》, tôi có nhớ lầm không?” Dẫu bị nghi ngờ là nói dối anh cũng không giận mà dùng tình tiết để tự chứng minh.
“Hóa ra chú thật sự có xem.” Ninh Tê cảm thấy kinh ngạc lẫn vui mừng, rồi lại cảm thấy tiếc nuối, nếu biết anh ở dưới nghe thì có lẽ cô sẽ nhập tâm hơn một tí rồi, “… Tôi hát không tốt lắm.”
“Vậy ư? Trái lại tôi đồng ý với đánh giá của bạn học cháu đấy.”
Có cảm xúc mà không làm ra vẻ ư? Ninh Tê nói: “Chắc do hai người ngồi xem chăm chú chứ tôi cũng không nhớ trạng thái lúc mình hát là gì.”
Cô hát một ca khúc Quảng Đông, là bài 《Đường Cùng》 của Quan Thục Di mà Ôn Lĩnh Viễn đã từng nghe qua: “Không còn tình cảm xưa cũ bên kia bờ, Cô Tô có tiếng chuông, trái tim bàng hoàng chỉ có thể chấp nhận. Dẫu có trốn đến đâu thì lòng vẫn không thể yên ổn.” Giọng cô không ma mị như Quan Thục Di mà trong hơn, nghe có hơi giống Ngô Vũ Phi. Cô không thể kiểm soát những bi thương ở độ tuổi thiếu niên, nếu cố gắng biểu hiện mạnh mẽ thì trái lại như đang làm ra vẻ, như thế sẽ không khiến người nghe cảm thấy xúc động, bởi thế nên như vừa rồi sẽ càng thích hợp hơn.
“Đã là con người thì đều sẽ chủ quan. Không bằng cháu cứ bình thản tiếp nhận lời khen đi.”
Ninh Tê cười.
“Cháu học thanh nhạc, vậy sau này có định phát triển theo con đường này không?”
Ninh Tê chớp mắt một cái: “Ơ, chú tưởng tôi học thanh nhạc hả?”
Ôn Lĩnh Viễn quay đầu nhìn cô: “Chẳng lẽ không phải à?”
Ninh Tê ngồi thẳng người, cầm bó hoa giả làm microphone, ho nhẹ một tiếng rồi bắt đầu tường thuật rõ ràng từng chữ: “Chào buổi tối, hôm nay là ngày 21 tháng 11, hoan nghênh ngài đã đón xem chương trình tin tức buổi tối. Tại cuộc thi hát lần thứ tám của trường trung học số 9, bạn học Ninh Tê cũng chính là bản thân tôi đây đã giành được giải quán quân một lần nữa và thành công bảo vệ ngôi vương, đây cũng là lần thứ ba bạn học Ninh Tê đạt được giải thưởng này. Trong buổi phỏng vấn sau cuộc thi, bạn học Ninh Tê đã nói trong bài phát biểu nhận giải rằng: Bạn ấy không cảm ơn sự đào tạo của giáo viên thanh nhạc, cũng không cảm ơn sự ủng hộ của các bạn học cùng lớp vì bạn ấy học ngành phát thanh viên nên không hề liên quan gì đến thanh nhạc.”
Ôn Lĩnh Viễn cười không ngừng được.
Ninh Tê thả lỏng lại, thoải mái dựa vào ghế: “Bây giờ tôi tin là chú thật sự cảm thấy tôi hát hay rồi.”
“Nếu như cháu chưa từng được huấn luyện chuyên nghiệp, vậy thì tôi chỉ có thể nói là…”
“Ăn gian giọng?” Ninh Tê cười nói: “Tiểu Vũ nói tôi như vậy đấy. Có lẽ âm sắc đặc biệt cũng là một ưu thế. Tiểu Vũ nói nếu tôi thật sự không lăn lộn trong ngành kia được thì có thể tung hoành trong giới âm nhạc.”
“Nếu đây là thứ cháu thích thì chưa chắc đã không thể.”
Ninh Tê nhún vai, “Tôi còn chưa biết mình thích làm cái gì nữa.”
“Vậy không bằng chúng ta nghĩ chuyện bây giờ đi, chẳng hạn như là, cháu muốn ăn cái gì?”
“Tôi muốn ăn sandwich.” Ninh Tê nhìn anh, cả gan bổ sung một câu, “Do chú làm.”
Ôn Lĩnh Viễn cười nói: “Hôm nay đã trễ thế này rồi, không cần phải thử thách tài nấu nướng của tôi đâu. Cháu đổi món khác đi.”
“Vậy tôi muốn ăn Haidilao [*], chúng ta mua takeaway rồi đến Thanh Hạnh Đường ăn.”
[*] Haidilao là hệ thống chuỗi cửa hàng lẩu được thành lập vào năm 1994 tại thành phố Giản Dương, tỉnh Tứ Xuyên, phục vụ trực tiếp xuyên tỉnh lớn, tích hợp các đặc tính của lẩu từ khắp nơi trên thế giới.
Ôn Lĩnh Viễn nhìn cô một cái: “Tại sao không ăn trong quán?”
“Tôi không biết nữa, chắc là vì lạnh quá nên tôi không có tâm trạng ngồi ngoài quán chăng. Mỗi khi trời mưa thế này tôi chỉ muốn ở trong nhà ăn mấy món nóng hổi thôi.”
“Hình như tôi cũng hơi hiểu suy nghĩ của cháu rồi.” Ôn Lĩnh Viễn mở khóa điện thoại rồi đưa cho cô, “Vậy cháu order đi.”
Nhưng Ninh Tê không nhận: “Tôi mời chú, cho tôi mời một lần đi, tôi là quán quân mà.”
Ôn Lĩnh Viễn cũng không tranh với cô.
Để vào Thanh Hạnh Đường vào ban đêm thì phải đi vào từ cửa sau nằm gần đường cái — cái bố cục khiến người ta phải hoang mang, cửa chính của Thanh Hạnh Đường nằm ở mặt sau của tòa nhà, còn cửa sau lại nằm ở mặt trước của tòa nhà.
Lúc Ninh Tê thắc mắc, Ôn Lĩnh Viễn giải thích: “Nguyên nhân rất phức tạp. Cửa chính của Thanh Hạnh Đường vốn dĩ hướng về phía đường cái. Sau này, các tòa nhà hai bên được mở rộng ra và sự quy hoạch thành phố đã khiến con đường thay đổi thành bố cục hiện tại. Nếu muốn sửa lại hướng của cửa chính thì họ yêu cầu phải mua hết các cửa hàng ở mặt tiền rồi sửa thông với nhau. Tôi đã từng bàn bạc với chủ của các cửa hàng đó rồi, cháu đoán xem thế nào?”
“Họ trả giá?”
Ôn Lĩnh Viễn gật đầu, “Thế nên không cần phải quá chấp nhất. Cửa hướng về phía nào thì cũng chỉ là cái hình thức thôi.”
Cửa sau là một cánh cửa sắt nhỏ nằm giữa hai cửa hàng, ban ngày đều được khóa lại. Vừa bước vào là nhà kho của Thanh Hạnh Đường, khi đi vào trong, qua một cái hành lang, bên trái là phòng bếp, còn bên phải là phòng nghỉ của nhân viên. Phòng bếp chủ yếu được sử dụng để sắc thuốc cho bệnh nhân, đồng thời cũng được trang bị những đồ dùng cơ bản như tủ lạnh, lò vi sóng để cho nhân viên sử dụng.
Ôn Lĩnh Viễn bật đèn lên: “Cháu muốn ăn ở đâu? Phòng nghỉ của nhân viên hay là phòng trà?”
“Phòng nghỉ đi.” Ninh Tê khó mà nói thật ra cô muốn lên lầu ăn, nhưng như thế sẽ làm cho cả phòng toàn mùi lẩu và Ôn Lĩnh Viễn sẽ không thể nghỉ ngơi được.
Ôn Lĩnh Viễn bật điều hòa trong phòng nghỉ, sau đó đi vào phòng bếp. Ninh Tê ngồi một hồi thì thấy chán nên cũng vào phòng bếp xem.
Ôn Lĩnh Viễn khoanh tay đứng trước bệ bếp, ánh đèn nhàn nhạt chiếu lên vai anh, mà anh thì đang… ngẩn người?
Ninh Tê đột nhiên la lên một tiếng.
Nào biết chỉ nghe thấy Ôn Lĩnh Viễn cười, hoàn toàn không bị cô dọa.
Ninh Tê nhún nhún vai, đi đến bên cạnh anh.
Nơi này không giống với căn bếp gia đình thông thường. Nó có tận bảy tám cái bếp ga, trên đó là những nồi đất dùng để sắc thuốc. Trải qua năm này tháng nọ, căn phòng này cũng ngập tràn mùi thuốc.
“Châm cứu thì tôi tin, nhưng mà uống thuốc bắc… thật sự có tác dụng sao?”
Có lẽ Ôn Lĩnh Viễn đã gặp phải câu hỏi này vô số lần nên cả giọng điệu lẫn sắc mặt đều rất bình thản: “Đông y là một loại khoa học thực nghiệm, bây giờ cái nó còn thiếu là hệ thống hóa lý luận thiết lập và kết hợp. Chắc cháu cũng biết chuyện Đồ U U đạt giải Nobel cho Artemisinin [*] nhỉ?”
[*] Đồ U U là một nhà nghiên cứu y học và y hóa Trung Quốc. Bà được biết tới nhiều nhất qua công trình chiết xuất thanh hao tố (artemisinin) từ cây thanh hao hoa vàng để phục vụ cho việc chữa trị sốt rét.
“Nhưng mà,” Ninh Tê sờ mũi một cái, “Tôi thấy có người nói việc phát hiện artemisinin cũng không thuộc về Đông y mà.”
Ôn Lĩnh Viễn cười một tiếng, “Mấy lời bàn luận như vậy không hiếm thấy, phía sau cũng có nguyên nhân rất phức tạp. Chỉ cần làm rõ một khái niệm thì có thể hình thành những nhận định của riêng mình — Trong khái niệm của rất nhiều người, Tây y tương đương với y học hiện đại, do đó họ mới cho rằng việc Đông y đối lập với Tây cũng tức là đối lập với y học hiện đại.”
“…… Hình như tôi vẫn chưa hiểu.”
“Giải phẫu, gây mê và phẫu thuật ngoại khoa… mà chúng ta đang nói đến bây giờ thuộc về phạm trù của y học hiện đại. Nhưng trước khi hình thành hệ thống y học hiện đại thì y học phương tây cũng đã trải qua một thời kỳ mông muội [*], tương tự như liệu pháp cầm máu, dùng hơi thủy ngân để trị bệnh giang mai vốn là sản phẩm của Tây y cổ đại.”
[*] Mông muội: ngu dại và tối tăm.
“Vì vậy, Tây y được chia thành Tây y cổ đại và Tây y hiện đại, còn Đông y được chia thành Đông y cổ đại và Đông y hiện đại. Cả Tây y hiện đại và Đông y hiện đại đều thuộc về y học hiện đại. Thế nên, việc phát hiện artemisinin cũng có thể xếp vào diện Đông y hiện đại.”
“Hóa ra còn có lý giải như vậy.”
“Vậy tại sao không mang tất cả dược liệu dựa theo phương pháp mà Đồ U U phát hiện ra artemisinin để tiến hành…” Ninh Tê cảm thấy ở đây phải dùng một từ ngữ chuyên môn nhưng cô không biết đó là gì.
“Sàng lọc bệnh lý và nghiệm chứng lâm sàng.” Ôn Lĩnh Viễn bổ sung thay cô, “Hiện đã có nhiều tổ chức và nhóm nghiên cứu khoa học thực hiện nghiên cứu này, ông nội của tôi cũng cung cấp tư liệu cho một vài tổ chức trong số đó. Nhưng nghiên cứu này đòi hỏi nhiều nhân lực, tài chính và thời gian, hơn nữa, nó cũng bị một vài tập đoàn lợi ích cản trở.”
“Tập đoàn lợi ích?”
Ôn Lĩnh Viễn cười lắc đầu, “Những thứ này không nói rõ được.”
“Nếu như, tôi chỉ nói là nếu một số phương thuốc mà mọi người đang sử dụng cho bệnh nhân bị làm giả thì Đông y, nói chính xác hơn là Đông y cổ đại há chẳng phải là…”
“Đây là một chuyện tốt. Sai lầm cũng là một phần trong sự tiến bộ của khoa học. Cũng giống như khi cháu làm bài vậy, loại bỏ một đáp án sai, cho dù vẫn chưa biết lựa chọn chính xác nhưng cũng đã cách đáp án đúng hơn một bước rồi.”
“Nhưng chú sẽ thất nghiệp đó.”
“Tôi đây cầu còn không được.”
Ninh Tê không ngờ sẽ có một ngày một người không thích đọc sách như cô lại thảo luận một đề tài vượt xa khỏi phạm vi nhận biết của cô với một người khác. Thế nên khi bình nước nóng đã tự động ngắt điện rồi mà họ vẫn không phát hiện ra.
Mãi đến khi có cuộc điện thoại gọi đến, Ninh Tê mới luống cuống tay chân lần tìm di động trong túi.
“Là người giao thức ăn.” Ninh Tê nói, “Anh ta đang đứng ở cửa hàng tiện lợi trên giao lộ, nói là không tìm được chỗ.”
“Để tôi đi lấy.”
Trong nháy mắt cửa sau mở ra, nghe thấy tiếng mưa gió, Ninh Tê đứng ở trong hành lang nhìn ra cửa một cái rồi lập tức quay về phòng nghỉ, cầm lấy cây dù ở trong thùng.
Lúc cô chạy đến cửa, Ôn Lĩnh Viễn vẫn chưa đi xa. Cô vội chạy tới đó, bung dù ra nhét vào tay anh.
Mặc dù có một chiếc bóng vừa phủ lên đỉnh đầu nhưng Ôn Lĩnh Viễn chắc chắn mình có nghe thấy tiếng bước chân dẫm lên nước, anh hơi kinh ngạc cúi đầu thì thấy đôi giày da của cô đã bị dính bùn, nhưng dường như cô chẳng hề để ý mà chỉ vội ngẩng đầu nhìn anh.
Một lát sau, Ôn Lĩnh Viễn thu hồi tầm mắt, cười nhạt, “Cảm ơn.”
Bó hoa anh đang cầm gồm bách hợp, cát cánh, hoa cúc và hoa bạch đàn, chúng được gói bằng giấy gói màu xanh đậm, trông nhỏ gọn mà tinh xảo. Cách phối màu này trông có vẻ đặc biệt tươi tắn trong một đêm lạnh đầu đông.
Ôn Lĩnh Viễn nói: “Tôi không gọi được cho cháu.”
“A.” Ninh Tê móc di động ở trong túi áo khoác ra mới phát hiện nó vẫn đang trong chế độ máy bay.
Tô Vũ Nùng đi tới nhẹ nhàng ôm vai Ninh Tê: “Vậy tớ đi trước nhé.”
Ôn Lĩnh Viễn nói: “Trời mưa khó bắt xe, tôi tiện đường chở cháu về luôn nhé?”
Tô Vũ Nùng cười lắc đầu: “Không được không được đâu ạ, hôm nay ba cháu tới đón cháu rồi.” Vừa nói cô vừa nháy mắt với Ninh Tê rồi đi mất.
Trong tay Ninh Tê đang cầm một cái túi rất lớn, bên trong là giày cao gót và chiếc váy được đựng trong túi chống bụi.
Ôn Lĩnh Viễn đưa hoa cho Ninh Tê rồi nhận lấy túi trong tay cô, sau đó hai người cùng đi về phía cửa.
Trên đường chật cứng xe đang đậu, người xe tấp nập, lại gặp phải trời mưa nên gần như khó mà cất bước. Xe Ôn Lĩnh Viễn đậu khá xa, ở cuối con đường ngay trước cổng trường.
Ninh Tê vừa đi vừa cúi đầu nhìn đường, sợ nếu dẫm phải viên gạch bị lồi lên thì sẽ bị vấy nước bẩn.
Chợt nghe thấy Ôn Lĩnh Viễn nói: “Chúc mừng cháu.”
Ninh Tê yên lặng đáp “vâng” một tiếng.
Có phải mình đã quá được voi đòi tiên rồi không? Cô nhìn người mặc áo len, quần jeans và giày bên cạnh một cái, đột nhiên nghĩ như vậy.
Thật ra chỉ cần anh tới là tốt rồi, nào ngờ đến khi thật sự nhìn thấy anh thì lại hy vọng anh đến sớm một chút, chí ít thì có thể trông thấy lúc cô mặc chiếc váy kia.
Khi sắp đi tới chỗ đậu xe, Ninh Tê nghe thấy ở phía sau có người gọi mình bèn quay đầu lại, nhìn thấy ở bên kia đường có một nam sinh đang nhiệt tình vẫy tay với cô.
Không phải Ninh Tê chưa từng gặp qua tình huống làm như quen để bắt chuyện như thế này nên cô chỉ liếc một cái rồi lại đi tiếp.
Nam sinh vất vả băng qua đường giữa dòng người đông đúc và khói xe, khi sang đến nơi thì vỗ lên vai cô một cái, “Cậu không nhận ra tôi à?”
Ninh Tê nhíu mày quay đầu lại, lúc sắp nổi cáu thì trông thấy mặt của nam sinh, cô không khỏi ngẩn người một lát: “Tô Dục Thanh?”
“Xem ra cậu vẫn còn tí lương tâm.” Vóc dáng Tô Dục Thanh rất cao, cậu khoác chiếc áo bóng chày, mái tóc cắt ngắn cũn. Khi cậu cười rộ lên trông hết sức cởi mở, đích thị là một nam sinh với khí chất trời trong vào một buổi chiều đầu hè.
Cậu là người bạn khác giới cùng lứa hiếm hoi mà Ninh Tê không ghét. Ninh Tê và cậu là bạn học thời trung học cơ sở, do thành tích thi của hai người chênh lệch khá nhiều nên mới vào hai trường cấp ba khác nhau, cùng bởi vì vậy mà càng ngày càng ít liên lạc.
“Cậu đến trường của bọn tôi làm gì thế?”
“Cố ý đến nghe cậu hát đó.”
“Thôi bớt đi.”
Tô Dục Thanh cười nói: “Thật ra tôi tới dự lễ cưới của họ hàng ở một khách sạn gần đây. Sau khi ăn tối xong tôi tới trường của cậu đi dạo thì nghe nói có cuộc thi hát nên mới đi hóng hớt — chúc mừng chúc mừng nha.”
Ninh Tê cũng cười một tiếng: “Bọn họ đều nói tôi dùng quy tắc ngầm đó.”
“Cả trường chỉ có cậu hát có cảm xúc và không làm ra vẻ thôi, nếu tôi mà là giám khảo thì cũng cho cậu điểm cao nhất.”
Ôn Lĩnh Viễn vẫn luôn kiên nhẫn đứng chờ bên cạnh, Ninh Tê nhớ ra phải giới thiệu bèn nói với Tô Dục Thanh: “Đây là… bạn của ba tôi, Ôn Lĩnh Viễn.”
Tô Dục Thanh gật đầu nói: “Chào chú chào chú, cháu là bạn học thời cấp hai của Ninh Tê, tên là Tô Dục Thanh ạ.”
Ôn Lĩnh Viễn khẽ mỉm cười, “Chào cháu.”
Có lẽ Tô Dục Thanh cũng đoán ra rằng họ còn có hẹn nên nói với Ninh Tê: “Tôi phải về đây, có gì liên lạc qua WeChat nhé.”
Sau khi lên xe, Ôn Lĩnh Viễn mở máy sưởi, rồi lại mở cần gạt nước để quét hết nước mưa và sương mù trên cửa sổ đi.
“Cháu ăn tối chưa?”
Ninh Tê lắc đầu.
“Vậy chúng ta đi ăn một ít nhé.”
“Hôm nay chú lại tăng ca à?”
Ôn Lĩnh Viễn nói: “Lúc sắp tan tầm thì có một bệnh nhân từ vùng khác đến, mà trời lại đang mưa nên không thể chặn người ta ngoài cửa được.”
Phía trước vẫn đang kẹt cứng nên xe chỉ có thể chạy chầm chậm. Có lẽ là vì độ ấm trong xe đã tăng lên nên không cảm thấy lạnh đến vậy, cảm xúc buồn bã của Ninh Tê cũng dần dần tan biến.
Cô cúi đầu mới phát hiện mình vẫn đang ôm bó hoa, bèn cười một tiếng, nói câu cảm ơn: “Tuy chú không đến kịp buổi diễn nhưng tôi vẫn rất vui, vốn dĩ tôi cho rằng chú sẽ không tới.”
Do tình hình giao thông phức tạp nên Ôn Lĩnh Viễn vẫn luôn chăm chú nhìn phía trước, lúc này mới dời mắt liếc cô một cái, cười nói: “Ai nói tôi không đến kịp?”
Ninh Tê ngơ ngẩn.
“Vì không gọi được cho cháu nên sau khi buổi diễn kết thúc tôi mới đứng chờ ngoài cổng.”
Giọng điệu của Ôn Lĩnh Viễn không giống như đang nói giỡn, nhưng mà Ninh Tê vẫn không tin lắm: “Chú có xem buổi diễn thật à?”
“Lúc tôi tới thì đến lượt người thứ ba lên sân khấu, người đó hát bài 《Bắc Kinh Bắc Kinh》, tôi có nhớ lầm không?” Dẫu bị nghi ngờ là nói dối anh cũng không giận mà dùng tình tiết để tự chứng minh.
“Hóa ra chú thật sự có xem.” Ninh Tê cảm thấy kinh ngạc lẫn vui mừng, rồi lại cảm thấy tiếc nuối, nếu biết anh ở dưới nghe thì có lẽ cô sẽ nhập tâm hơn một tí rồi, “… Tôi hát không tốt lắm.”
“Vậy ư? Trái lại tôi đồng ý với đánh giá của bạn học cháu đấy.”
Có cảm xúc mà không làm ra vẻ ư? Ninh Tê nói: “Chắc do hai người ngồi xem chăm chú chứ tôi cũng không nhớ trạng thái lúc mình hát là gì.”
Cô hát một ca khúc Quảng Đông, là bài 《Đường Cùng》 của Quan Thục Di mà Ôn Lĩnh Viễn đã từng nghe qua: “Không còn tình cảm xưa cũ bên kia bờ, Cô Tô có tiếng chuông, trái tim bàng hoàng chỉ có thể chấp nhận. Dẫu có trốn đến đâu thì lòng vẫn không thể yên ổn.” Giọng cô không ma mị như Quan Thục Di mà trong hơn, nghe có hơi giống Ngô Vũ Phi. Cô không thể kiểm soát những bi thương ở độ tuổi thiếu niên, nếu cố gắng biểu hiện mạnh mẽ thì trái lại như đang làm ra vẻ, như thế sẽ không khiến người nghe cảm thấy xúc động, bởi thế nên như vừa rồi sẽ càng thích hợp hơn.
“Đã là con người thì đều sẽ chủ quan. Không bằng cháu cứ bình thản tiếp nhận lời khen đi.”
Ninh Tê cười.
“Cháu học thanh nhạc, vậy sau này có định phát triển theo con đường này không?”
Ninh Tê chớp mắt một cái: “Ơ, chú tưởng tôi học thanh nhạc hả?”
Ôn Lĩnh Viễn quay đầu nhìn cô: “Chẳng lẽ không phải à?”
Ninh Tê ngồi thẳng người, cầm bó hoa giả làm microphone, ho nhẹ một tiếng rồi bắt đầu tường thuật rõ ràng từng chữ: “Chào buổi tối, hôm nay là ngày 21 tháng 11, hoan nghênh ngài đã đón xem chương trình tin tức buổi tối. Tại cuộc thi hát lần thứ tám của trường trung học số 9, bạn học Ninh Tê cũng chính là bản thân tôi đây đã giành được giải quán quân một lần nữa và thành công bảo vệ ngôi vương, đây cũng là lần thứ ba bạn học Ninh Tê đạt được giải thưởng này. Trong buổi phỏng vấn sau cuộc thi, bạn học Ninh Tê đã nói trong bài phát biểu nhận giải rằng: Bạn ấy không cảm ơn sự đào tạo của giáo viên thanh nhạc, cũng không cảm ơn sự ủng hộ của các bạn học cùng lớp vì bạn ấy học ngành phát thanh viên nên không hề liên quan gì đến thanh nhạc.”
Ôn Lĩnh Viễn cười không ngừng được.
Ninh Tê thả lỏng lại, thoải mái dựa vào ghế: “Bây giờ tôi tin là chú thật sự cảm thấy tôi hát hay rồi.”
“Nếu như cháu chưa từng được huấn luyện chuyên nghiệp, vậy thì tôi chỉ có thể nói là…”
“Ăn gian giọng?” Ninh Tê cười nói: “Tiểu Vũ nói tôi như vậy đấy. Có lẽ âm sắc đặc biệt cũng là một ưu thế. Tiểu Vũ nói nếu tôi thật sự không lăn lộn trong ngành kia được thì có thể tung hoành trong giới âm nhạc.”
“Nếu đây là thứ cháu thích thì chưa chắc đã không thể.”
Ninh Tê nhún vai, “Tôi còn chưa biết mình thích làm cái gì nữa.”
“Vậy không bằng chúng ta nghĩ chuyện bây giờ đi, chẳng hạn như là, cháu muốn ăn cái gì?”
“Tôi muốn ăn sandwich.” Ninh Tê nhìn anh, cả gan bổ sung một câu, “Do chú làm.”
Ôn Lĩnh Viễn cười nói: “Hôm nay đã trễ thế này rồi, không cần phải thử thách tài nấu nướng của tôi đâu. Cháu đổi món khác đi.”
“Vậy tôi muốn ăn Haidilao [*], chúng ta mua takeaway rồi đến Thanh Hạnh Đường ăn.”
[*] Haidilao là hệ thống chuỗi cửa hàng lẩu được thành lập vào năm 1994 tại thành phố Giản Dương, tỉnh Tứ Xuyên, phục vụ trực tiếp xuyên tỉnh lớn, tích hợp các đặc tính của lẩu từ khắp nơi trên thế giới.
Ôn Lĩnh Viễn nhìn cô một cái: “Tại sao không ăn trong quán?”
“Tôi không biết nữa, chắc là vì lạnh quá nên tôi không có tâm trạng ngồi ngoài quán chăng. Mỗi khi trời mưa thế này tôi chỉ muốn ở trong nhà ăn mấy món nóng hổi thôi.”
“Hình như tôi cũng hơi hiểu suy nghĩ của cháu rồi.” Ôn Lĩnh Viễn mở khóa điện thoại rồi đưa cho cô, “Vậy cháu order đi.”
Nhưng Ninh Tê không nhận: “Tôi mời chú, cho tôi mời một lần đi, tôi là quán quân mà.”
Ôn Lĩnh Viễn cũng không tranh với cô.
Để vào Thanh Hạnh Đường vào ban đêm thì phải đi vào từ cửa sau nằm gần đường cái — cái bố cục khiến người ta phải hoang mang, cửa chính của Thanh Hạnh Đường nằm ở mặt sau của tòa nhà, còn cửa sau lại nằm ở mặt trước của tòa nhà.
Lúc Ninh Tê thắc mắc, Ôn Lĩnh Viễn giải thích: “Nguyên nhân rất phức tạp. Cửa chính của Thanh Hạnh Đường vốn dĩ hướng về phía đường cái. Sau này, các tòa nhà hai bên được mở rộng ra và sự quy hoạch thành phố đã khiến con đường thay đổi thành bố cục hiện tại. Nếu muốn sửa lại hướng của cửa chính thì họ yêu cầu phải mua hết các cửa hàng ở mặt tiền rồi sửa thông với nhau. Tôi đã từng bàn bạc với chủ của các cửa hàng đó rồi, cháu đoán xem thế nào?”
“Họ trả giá?”
Ôn Lĩnh Viễn gật đầu, “Thế nên không cần phải quá chấp nhất. Cửa hướng về phía nào thì cũng chỉ là cái hình thức thôi.”
Cửa sau là một cánh cửa sắt nhỏ nằm giữa hai cửa hàng, ban ngày đều được khóa lại. Vừa bước vào là nhà kho của Thanh Hạnh Đường, khi đi vào trong, qua một cái hành lang, bên trái là phòng bếp, còn bên phải là phòng nghỉ của nhân viên. Phòng bếp chủ yếu được sử dụng để sắc thuốc cho bệnh nhân, đồng thời cũng được trang bị những đồ dùng cơ bản như tủ lạnh, lò vi sóng để cho nhân viên sử dụng.
Ôn Lĩnh Viễn bật đèn lên: “Cháu muốn ăn ở đâu? Phòng nghỉ của nhân viên hay là phòng trà?”
“Phòng nghỉ đi.” Ninh Tê khó mà nói thật ra cô muốn lên lầu ăn, nhưng như thế sẽ làm cho cả phòng toàn mùi lẩu và Ôn Lĩnh Viễn sẽ không thể nghỉ ngơi được.
Ôn Lĩnh Viễn bật điều hòa trong phòng nghỉ, sau đó đi vào phòng bếp. Ninh Tê ngồi một hồi thì thấy chán nên cũng vào phòng bếp xem.
Ôn Lĩnh Viễn khoanh tay đứng trước bệ bếp, ánh đèn nhàn nhạt chiếu lên vai anh, mà anh thì đang… ngẩn người?
Ninh Tê đột nhiên la lên một tiếng.
Nào biết chỉ nghe thấy Ôn Lĩnh Viễn cười, hoàn toàn không bị cô dọa.
Ninh Tê nhún nhún vai, đi đến bên cạnh anh.
Nơi này không giống với căn bếp gia đình thông thường. Nó có tận bảy tám cái bếp ga, trên đó là những nồi đất dùng để sắc thuốc. Trải qua năm này tháng nọ, căn phòng này cũng ngập tràn mùi thuốc.
“Châm cứu thì tôi tin, nhưng mà uống thuốc bắc… thật sự có tác dụng sao?”
Có lẽ Ôn Lĩnh Viễn đã gặp phải câu hỏi này vô số lần nên cả giọng điệu lẫn sắc mặt đều rất bình thản: “Đông y là một loại khoa học thực nghiệm, bây giờ cái nó còn thiếu là hệ thống hóa lý luận thiết lập và kết hợp. Chắc cháu cũng biết chuyện Đồ U U đạt giải Nobel cho Artemisinin [*] nhỉ?”
[*] Đồ U U là một nhà nghiên cứu y học và y hóa Trung Quốc. Bà được biết tới nhiều nhất qua công trình chiết xuất thanh hao tố (artemisinin) từ cây thanh hao hoa vàng để phục vụ cho việc chữa trị sốt rét.
“Nhưng mà,” Ninh Tê sờ mũi một cái, “Tôi thấy có người nói việc phát hiện artemisinin cũng không thuộc về Đông y mà.”
Ôn Lĩnh Viễn cười một tiếng, “Mấy lời bàn luận như vậy không hiếm thấy, phía sau cũng có nguyên nhân rất phức tạp. Chỉ cần làm rõ một khái niệm thì có thể hình thành những nhận định của riêng mình — Trong khái niệm của rất nhiều người, Tây y tương đương với y học hiện đại, do đó họ mới cho rằng việc Đông y đối lập với Tây cũng tức là đối lập với y học hiện đại.”
“…… Hình như tôi vẫn chưa hiểu.”
“Giải phẫu, gây mê và phẫu thuật ngoại khoa… mà chúng ta đang nói đến bây giờ thuộc về phạm trù của y học hiện đại. Nhưng trước khi hình thành hệ thống y học hiện đại thì y học phương tây cũng đã trải qua một thời kỳ mông muội [*], tương tự như liệu pháp cầm máu, dùng hơi thủy ngân để trị bệnh giang mai vốn là sản phẩm của Tây y cổ đại.”
[*] Mông muội: ngu dại và tối tăm.
“Vì vậy, Tây y được chia thành Tây y cổ đại và Tây y hiện đại, còn Đông y được chia thành Đông y cổ đại và Đông y hiện đại. Cả Tây y hiện đại và Đông y hiện đại đều thuộc về y học hiện đại. Thế nên, việc phát hiện artemisinin cũng có thể xếp vào diện Đông y hiện đại.”
“Hóa ra còn có lý giải như vậy.”
“Vậy tại sao không mang tất cả dược liệu dựa theo phương pháp mà Đồ U U phát hiện ra artemisinin để tiến hành…” Ninh Tê cảm thấy ở đây phải dùng một từ ngữ chuyên môn nhưng cô không biết đó là gì.
“Sàng lọc bệnh lý và nghiệm chứng lâm sàng.” Ôn Lĩnh Viễn bổ sung thay cô, “Hiện đã có nhiều tổ chức và nhóm nghiên cứu khoa học thực hiện nghiên cứu này, ông nội của tôi cũng cung cấp tư liệu cho một vài tổ chức trong số đó. Nhưng nghiên cứu này đòi hỏi nhiều nhân lực, tài chính và thời gian, hơn nữa, nó cũng bị một vài tập đoàn lợi ích cản trở.”
“Tập đoàn lợi ích?”
Ôn Lĩnh Viễn cười lắc đầu, “Những thứ này không nói rõ được.”
“Nếu như, tôi chỉ nói là nếu một số phương thuốc mà mọi người đang sử dụng cho bệnh nhân bị làm giả thì Đông y, nói chính xác hơn là Đông y cổ đại há chẳng phải là…”
“Đây là một chuyện tốt. Sai lầm cũng là một phần trong sự tiến bộ của khoa học. Cũng giống như khi cháu làm bài vậy, loại bỏ một đáp án sai, cho dù vẫn chưa biết lựa chọn chính xác nhưng cũng đã cách đáp án đúng hơn một bước rồi.”
“Nhưng chú sẽ thất nghiệp đó.”
“Tôi đây cầu còn không được.”
Ninh Tê không ngờ sẽ có một ngày một người không thích đọc sách như cô lại thảo luận một đề tài vượt xa khỏi phạm vi nhận biết của cô với một người khác. Thế nên khi bình nước nóng đã tự động ngắt điện rồi mà họ vẫn không phát hiện ra.
Mãi đến khi có cuộc điện thoại gọi đến, Ninh Tê mới luống cuống tay chân lần tìm di động trong túi.
“Là người giao thức ăn.” Ninh Tê nói, “Anh ta đang đứng ở cửa hàng tiện lợi trên giao lộ, nói là không tìm được chỗ.”
“Để tôi đi lấy.”
Trong nháy mắt cửa sau mở ra, nghe thấy tiếng mưa gió, Ninh Tê đứng ở trong hành lang nhìn ra cửa một cái rồi lập tức quay về phòng nghỉ, cầm lấy cây dù ở trong thùng.
Lúc cô chạy đến cửa, Ôn Lĩnh Viễn vẫn chưa đi xa. Cô vội chạy tới đó, bung dù ra nhét vào tay anh.
Mặc dù có một chiếc bóng vừa phủ lên đỉnh đầu nhưng Ôn Lĩnh Viễn chắc chắn mình có nghe thấy tiếng bước chân dẫm lên nước, anh hơi kinh ngạc cúi đầu thì thấy đôi giày da của cô đã bị dính bùn, nhưng dường như cô chẳng hề để ý mà chỉ vội ngẩng đầu nhìn anh.
Một lát sau, Ôn Lĩnh Viễn thu hồi tầm mắt, cười nhạt, “Cảm ơn.”
Bình luận facebook