Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 138
Người làm hoa đăng không hổ có tay nghề tổ truyền, làm một chùm đèn tây hành phục ma. Chùm đèn cao tới bảy trượng, chia làm tám tầng. Tầng dưới cùng là bốn thầy trò Đường Tăng dắt bạch long mã hành lễ, chỗ khác vẽ trọng sơn ác thủy.
Bắt đầu từ tầng thứ hai là các yêu ma quỷ quái dẫn theo một chúng tiểu yêu chặn giết bốn thầy trò Đường Tăng. Có kim giác Đại vương, có hồng hài nhi, có Bạch Cốt Tinh, có sư tử tinh chín đầu. Tầng trên cùng là Tây Thiên Lôi Âm Tự, Như Lai phật tổ ngồi trên cao, đôi mắt tựa nhắm mà không nhắm, im lặng nhìn quần ma loạn vũ phía dưới.
Lúc hoa đăng xoay tròn, thầy trò Đường Tăng cũng chuyển động theo, trèo đèo lội suối, không ngừng đi về phía tây theo hoa đăng, một đường trảm yêu trừ ma, cuối cùng tới Lôi Âm Tự.
Kiếp trước Quỳnh Nương từng thấy đèn này, đó là chùm đèn màu được Thái Tử phủ triển lãm không biết vào một ngày nào đó.
Cũng chờ sư phó hoa đăng làm xong Quỳnh Nương mới nhớ ra, không khỏi thổn thức cảm khái.
Ngày mười lăm tháng giêng, ngoài đèn treo tường trong nhà ra, nàng còn sai người đưa đèn màu đến đường cái kinh thành, dựa vào vị trí được sai dịch kinh thành phân chia theo lệ thường mọi năm, đặt đèn màu cực lớn này lên vị trí Lang Vương phủ.
Sắc trời vừa chuyển tối liền đích thân đốt hoa đăng, ở dưới nhìn một lúc mới lên kiệu, được Thúy Ngọc và một nhóm thị vệ hộ tống, đi chậm dọc theo phố dài rộn ràng nhốn nháo, ngắm nhìn hoa đăng của phủ trạch các đại thần.
Lang Vương vốn không muốn để nàng lên phố ngắm hoa đèn, nhưng Quỳnh Nương vừa đấm vừa xoa mới làm hắn dao động, hắn bắt nàng ngồi trong kiệu để tránh bị xô đẩy đụng vào làm thương hài nhi.
Nhưng ngồi kiệu xem đèn không nhìn gần được, cũng bỏ lỡ vô số đố đèn.
Quỳnh Nương xem không đã, nghĩ muốn xuống kiệu, nhưng Sở quản gia vội vàng ngăn cản: “Trước khi vào cung bồi Hoàng Thượng đốt đèn trong cung, Vương gia đã dặn dò tiểu nhân, tuyệt đối không thể để Vương phi xuống kiệu xem đèn. Dù là dưới chân thiên tử cũng có người này người nọ. Mấy năm vừa rồi cứ đến lúc này là có lừa đảo tìm cơ hội bắt cóc nữ tử hài đồng ở một mình. Nếu Vương phi bị kinh hách, thân xảy ra chuyện, xương cốt già của tiểu nhân sẽ bị Vương gia đập đi rồi ném vào bếp lò làm củi đốt đấy ạ!”
Nghe quản gia nói xong, tâm trạng hứng khởi ham chơi hiếm có của Quỳnh Nương chỉ có thể xoá bỏ. Đã không xem được thì không cần mệt kiệu phu chen tới lách đi nữa, nàng phân phó đi vòng đến trà lâu bên đường đã đặt chỗ, ngồi trên lầu cao nhìn xuống cảnh dưới, nếu đói bụng thì phân phó tôi tớ xuống phố mua đồ ăn vặt.
Ngày tết ăn quá nhiều dầu mỡ, ngược lại thấy đồ ăn vặt của phố phường có vẻ đáng yêu hơn. Một chén ruột vịt nóng hổi chua cay vừa phải ăn với bánh hình lưỡi vị hạt mè là ngon nhất, vừa nãy Hỉ Thước cùng xuống lầu với tôi tớ còn mua một gói bánh mềm chiên dầu vừa mới ra nồi, ngoài ra còn có thêm khoai nướng nóng hổi.
Đây đều là đồ ăn vặt phố phường mà Vương gia có đầu lưỡi phú quý khinh thường ăn, nhưng Quỳnh Nương lại ăn rất vui vẻ, nhân lúc Vương gia không có ở đây thì ăn cho đã ghiền.
Ăn xong bụng hơi căng, Quỳnh Nương dừng lại, nhìn đám đông đang ngắm đèn dưới lầu.
Hai bên đường có rất nhiều đèn màu của nhà vương hầu, cái nào cho thấy khí thế của phủ ấy, thậm chí có cả vật xa xỉ như lụa màu, viên ngọc lưu ly để tăng thêm trang trí, sợ đứng sau người ta. Chỉ có vị trí của Lưu Hi An Nghiệp vương phủ bị bãi bỏ ngôi vị Thái Tử là vắng vẻ, treo đèn ngựa trắng trên đầu theo cầm tinh năm nay.
Nhưng mà hình như thợ thủ công cũng không để tâm, ngựa cực không có tinh thần, như lừa như la, trông chẳng ra gì. Trên lưng ngựa còn xếp đèn màu cưỡi ngựa xem hoa, giống Lão Câu mang nặng không thể khởi hành.
Khắp đường đều là đèn vô cùng tinh xảo, đèn của An Nghiệp vương phủ rất không thu hút, thế cho nên người ngắm đèn ngựa trắng cũng thưa thớt không chen chúc.
Quỳnh Nương thổn thức cảm khái, đang muốn dời tầm mắt sang nơi khác lại thấy một người đứng lặng trước đèn ngựa trắng chăm chú nhìn thật lâu.
Bóng dáng người nọ vô cùng quen thuộc, không phải là đại ca Liễu Tương Cư của nàng sao?
Quỳnh Nương phất tay gọi Hỉ Thước tới, hỏi nàng ấy trên đèn của An Nghiệp vương phủ viết gì.
Vừa nãy Hỉ Thước xuống lầu ngắm mỗi cái một lần, mơ hồ có chút ấn tượng, không nhớ đố đèn nhưng nhớ rõ người trông coi đèn màu của An Nghiệp vương phủ nói đó là câu thơ tự tay Vương phi viết.
Quỳnh Nương im lặng, nàng biết suy nghĩ lúc này trong lòng đại ca, ánh mắt lưu chuyển, đột nhiên nàng nhìn thấy bóng dáng Vân Hi đứng trên tửu lâu nơi góc phố.
An Nghiệp Vương phi cũng đang nhìn thiếu niên lang đứng trước đèn ngựa trắng, vẻ mặt tiêu điều, gương mặt ẩn trong góc khuất của ánh đèn, cách một phố, cách cả một đời, chung quy là tất cả không thể quay lại như trước nữa.
Quỳnh Nương yên lặng thở dài, không biết Vân Hi có hối hận về quyết định thuận theo lựa chọn của gia tộc hay không?
Đúng vào lúc này, trên phố đột nhiên truyền đến một tiếng rối loạn, có phụ nhân lớn tiếng khóc kêu.
Hoá ra vừa nãy phụ nhân này mua kẹo cho tiểu nhi, lúc quay người lại, tiểu nhi phía sau đã biến mất. Có người bán hàng rong mắt sắc, vừa rồi thoáng nhìn thấy một nam từ nhỏ gầy bế hài tử của nàng ta lên quẹo vào ngõ nhỏ bên cạnh.
Lúc ngón tay của tiểu thương hướng vào ngõ nhỏ, Liễu Tương Cư đã sải bước vội chạy vào đó.
Thông thường vào kinh bắt cóc hài tử đều không phải một người gây án. Quỳnh Nương thấy ca ca đuổi theo, sợ hắn bị hại bèn bảo thị vệ xuống lầu đi cùng.
Mà đúng vào lúc này một con phố khác thông hướng với ngõ nhỏ lại bùng nổ, có thể nghe thấy tiếng một đám người gây rối hô quát ẩu đả.
Quỳnh Nương cực kỳ lo lắng, nhón mũi chân dõi mắt trông về phía xa cũng không thấy rõ lắm, nàng bèn bảo người tìm phủ doãn kinh thành nhanh chóng phái nha dịch đến bình ổn rối loạn, lại sợ bọn bắt cóc nhân lúc náo động mang theo hài tử chạy trốn nên lệnh cho số thị vệ còn lại lấp kín hai đoạn phố xá và các đầu hẻm, chỉ cần có người dẫn theo hài tử thì không cho đi.
Người không đủ, Thường Tiến dứt khoát móc một mũi tên xuyên tầng mây từ trong eo ra, “vèo” một tiếng mang theo ánh đỏ huýt vang, xông thẳng lên trời, gọi ba sở nhân mã của kinh thành đến.
Lúc nha dịch phủ doãn dẫn người chạy tới, toàn bộ phố xá đã bị ba sở quân lính Lang Vương chưởng quản khống chế.
Cũng đã tìm được ngọn nguồn rối loạn, hoá ra mấy kẻ bắt cóc này đã thuê một viện riêng trong ngõ nhỏ trên phố xá náo nhiệt của kinh thành.
Đầu hẻm có bắt cóc đồng hương chuyên gác, nhóm bắt cóc còn lại rải rác ở trên phố, tìm cơ hội bắt hài tử và tiểu nương về.
Kiếm được nhiều tiền nhất thật ra là bắt cóc cô nương. Kinh thành là nơi phú quý, các cô nương hơi giàu có một chút ai nấy cũng trắng nõn trắng nà, mi thanh mục tú, thêm nữa nói khẩu âm kinh thành càng là thượng phẩm.
Cô nương như vậy bán cho phú hộ thôn quê quả thực là cung không đủ cầu. Mà thanh lâu hồng quán càng chỉ tên muốn loại mặt hàng kinh thành ôm khách không mang theo phong trần này.
Cho nên ngày nào phố xá các nơi có hội đèn lồng, người có tiền đều phái ba năm bà tử tôi tớ ra coi chừng cô nương và hài tử nhà mình.
Bởi vì những kẻ đó vô cùng càn rỡ, nếu gặp được nữ từ mạo mĩ, thấy bên người nhà bên cạnh nàng ấy không nhiều lắm, thậm chí bắt cóc trắng trợn, cao giọng quát đây là tiểu thiếp nhà mình trộm trốn đi, ai dám lo chuyện bao đồng thì rút đao ra tiếp đón.
Có điều hôm nay mấy tên bắt cóc tìm nguồn cung cấp trong kinh thành bị mù, theo dõi một cô nương dáng người cao gầy.
Cô nương kia thật sự có mỹ sắc không thể nhìn nhiều, tuy da hơi đen nhưng mặt mày diễm lệ, dáng người yểu điệu, là viên trân châu đen loé sáng làm người nhìn không rời được mắt.
Hơn nữa cô nương này cũng lớn mật, một người bên cạnh cũng chẳng có, một mình giơ khoai nướng vừa đi vừa ăn.
Mặt hàng cực phẩm dễ xuống tay thế này, sao lừa đảo có thể bỏ qua?
Cho nên tìm cơ hội, ba người cùng nhau kéo cô nương kia vào ngõ nhỏ chặn miệng, trói tay lại, sau đó dùng áo choàng dài bọc đầu và thân mình, làm bộ là người nhà bị bệnh cấp tính, một mạch kéo về viện riêng.
Theo lý mà nói, đêm nay cũng thu hoạch không ít, hội đèn lồng sắp kết thúc, đã bắt được năm cô nương, một hài tử.
Dựa theo kinh nghiệm bình thường, bây giờ trên phố trong chợ đều đang tìm người, nha dịch cũng xuất động rồi, bọn bắt cóc không ra ngoài nữa, chỉ an tâm chờ đến hết tết sẽ có quan sai nhận hối lộ cho bọn họ thông đường, mấy chiếc xe ngựa ra khỏi kinh thành.
Trong một đám người đó có một kẻ kiểm tra hàng, muốn nhân cơ hội cởi bỏ y phục trên người các cô nương để chiếm chút tiện nghi, không biết thế nào mà cô nương da đen dáng người cao gầy lại cởi được dây thừng trói chặt tay chân mình, rút chủy thủ ra, giơ tay chém xuống cắt đứt vận mệnh của gã kia.
Lúc ấy hắn đau đến nỗi trợn trắng mắt, hét thảm một tiếng dẫn bà tử và mấy hán tử đến.
Bọn họ đè người quen rồi, tay chân có lực, làm việc âm ngoan, theo lý mà nói thu thập một tiểu cô nương là không thành vấn đề.
Nhưng không biết cô nương xinh xắn kia biết biến dạ xoa gì mà còn âm ngoan hơn bọn hắn, chủy thủ tấc ngắn ra chiêu từng đao đến chỗ yếu của con người, trong chốc lát, mấy người kia đều trở thành hồ lô máu, nháo nhào chen chúc chạy ra khỏi viện, kêu khóc cứu mạng.
Nhưng ngoài viện còn có mấy hán tử đang chờ, ngăn chặn bọn họ, cầm côn bổng định đánh đòn hiểm.
Trong đó có một kẻ về muộn, đang ôm một hài tử gào khóc trong ngực. Hắn vốn chuẩn bị về viện mà thấy tình hình không đúng nên ôm hài tử chạy, nhưng chỉ trong chốc lát thôi mà đầy đường đều là quan sai ba quận. Hắn xoay vài vòng đã bị Liễu Tương Cư đuổi đến chặn lại.
Nhưng xưa nay Liễu Tương Cư trầm ổn, lại sợ nhận sai người nên chỉ kéo cổ áo gã đó hỏi tiểu nhi kia, nó có quen biết người này không.
Tiểu nhi kia bị dọa khóc, chỉ biết to mồm khóc gọi mẫu thân.
Cô nương đó lau máu trên tay đi đến, thảnh thơi nói: “Ngươi đã thích xen vào việc của người khác thì phải có ánh mắt, người này một tay ôm hài tử, một tay bịt mồm, chỉ thiếu việc bóp hài nhi không thở nổi nữa thôi. Đứa nhỏ này giãy giụa làm vạt áo lỏng ra, bụng cũng lộ hết ra ngoài rồi mà hắn cũng mặc kệ. Nếu là hài tử của mình thì sao lại để nó lạnh như vậy? Lịch sự văn nhã hỏi cái đầu ấy!”
Nói rồi một tay đoạt lại hài tử, nhấc chân dài đá gãy cằm gã kia, đỡ phải nghe gã nói dối.
Liễu Tương Cư hoảng hốt, hắn thấy sao cô nương mặt mày xinh xắn, miệng anh đào nhỏ này lại quen mắt thế nhỉ?
Bắt đầu từ tầng thứ hai là các yêu ma quỷ quái dẫn theo một chúng tiểu yêu chặn giết bốn thầy trò Đường Tăng. Có kim giác Đại vương, có hồng hài nhi, có Bạch Cốt Tinh, có sư tử tinh chín đầu. Tầng trên cùng là Tây Thiên Lôi Âm Tự, Như Lai phật tổ ngồi trên cao, đôi mắt tựa nhắm mà không nhắm, im lặng nhìn quần ma loạn vũ phía dưới.
Lúc hoa đăng xoay tròn, thầy trò Đường Tăng cũng chuyển động theo, trèo đèo lội suối, không ngừng đi về phía tây theo hoa đăng, một đường trảm yêu trừ ma, cuối cùng tới Lôi Âm Tự.
Kiếp trước Quỳnh Nương từng thấy đèn này, đó là chùm đèn màu được Thái Tử phủ triển lãm không biết vào một ngày nào đó.
Cũng chờ sư phó hoa đăng làm xong Quỳnh Nương mới nhớ ra, không khỏi thổn thức cảm khái.
Ngày mười lăm tháng giêng, ngoài đèn treo tường trong nhà ra, nàng còn sai người đưa đèn màu đến đường cái kinh thành, dựa vào vị trí được sai dịch kinh thành phân chia theo lệ thường mọi năm, đặt đèn màu cực lớn này lên vị trí Lang Vương phủ.
Sắc trời vừa chuyển tối liền đích thân đốt hoa đăng, ở dưới nhìn một lúc mới lên kiệu, được Thúy Ngọc và một nhóm thị vệ hộ tống, đi chậm dọc theo phố dài rộn ràng nhốn nháo, ngắm nhìn hoa đăng của phủ trạch các đại thần.
Lang Vương vốn không muốn để nàng lên phố ngắm hoa đèn, nhưng Quỳnh Nương vừa đấm vừa xoa mới làm hắn dao động, hắn bắt nàng ngồi trong kiệu để tránh bị xô đẩy đụng vào làm thương hài nhi.
Nhưng ngồi kiệu xem đèn không nhìn gần được, cũng bỏ lỡ vô số đố đèn.
Quỳnh Nương xem không đã, nghĩ muốn xuống kiệu, nhưng Sở quản gia vội vàng ngăn cản: “Trước khi vào cung bồi Hoàng Thượng đốt đèn trong cung, Vương gia đã dặn dò tiểu nhân, tuyệt đối không thể để Vương phi xuống kiệu xem đèn. Dù là dưới chân thiên tử cũng có người này người nọ. Mấy năm vừa rồi cứ đến lúc này là có lừa đảo tìm cơ hội bắt cóc nữ tử hài đồng ở một mình. Nếu Vương phi bị kinh hách, thân xảy ra chuyện, xương cốt già của tiểu nhân sẽ bị Vương gia đập đi rồi ném vào bếp lò làm củi đốt đấy ạ!”
Nghe quản gia nói xong, tâm trạng hứng khởi ham chơi hiếm có của Quỳnh Nương chỉ có thể xoá bỏ. Đã không xem được thì không cần mệt kiệu phu chen tới lách đi nữa, nàng phân phó đi vòng đến trà lâu bên đường đã đặt chỗ, ngồi trên lầu cao nhìn xuống cảnh dưới, nếu đói bụng thì phân phó tôi tớ xuống phố mua đồ ăn vặt.
Ngày tết ăn quá nhiều dầu mỡ, ngược lại thấy đồ ăn vặt của phố phường có vẻ đáng yêu hơn. Một chén ruột vịt nóng hổi chua cay vừa phải ăn với bánh hình lưỡi vị hạt mè là ngon nhất, vừa nãy Hỉ Thước cùng xuống lầu với tôi tớ còn mua một gói bánh mềm chiên dầu vừa mới ra nồi, ngoài ra còn có thêm khoai nướng nóng hổi.
Đây đều là đồ ăn vặt phố phường mà Vương gia có đầu lưỡi phú quý khinh thường ăn, nhưng Quỳnh Nương lại ăn rất vui vẻ, nhân lúc Vương gia không có ở đây thì ăn cho đã ghiền.
Ăn xong bụng hơi căng, Quỳnh Nương dừng lại, nhìn đám đông đang ngắm đèn dưới lầu.
Hai bên đường có rất nhiều đèn màu của nhà vương hầu, cái nào cho thấy khí thế của phủ ấy, thậm chí có cả vật xa xỉ như lụa màu, viên ngọc lưu ly để tăng thêm trang trí, sợ đứng sau người ta. Chỉ có vị trí của Lưu Hi An Nghiệp vương phủ bị bãi bỏ ngôi vị Thái Tử là vắng vẻ, treo đèn ngựa trắng trên đầu theo cầm tinh năm nay.
Nhưng mà hình như thợ thủ công cũng không để tâm, ngựa cực không có tinh thần, như lừa như la, trông chẳng ra gì. Trên lưng ngựa còn xếp đèn màu cưỡi ngựa xem hoa, giống Lão Câu mang nặng không thể khởi hành.
Khắp đường đều là đèn vô cùng tinh xảo, đèn của An Nghiệp vương phủ rất không thu hút, thế cho nên người ngắm đèn ngựa trắng cũng thưa thớt không chen chúc.
Quỳnh Nương thổn thức cảm khái, đang muốn dời tầm mắt sang nơi khác lại thấy một người đứng lặng trước đèn ngựa trắng chăm chú nhìn thật lâu.
Bóng dáng người nọ vô cùng quen thuộc, không phải là đại ca Liễu Tương Cư của nàng sao?
Quỳnh Nương phất tay gọi Hỉ Thước tới, hỏi nàng ấy trên đèn của An Nghiệp vương phủ viết gì.
Vừa nãy Hỉ Thước xuống lầu ngắm mỗi cái một lần, mơ hồ có chút ấn tượng, không nhớ đố đèn nhưng nhớ rõ người trông coi đèn màu của An Nghiệp vương phủ nói đó là câu thơ tự tay Vương phi viết.
Quỳnh Nương im lặng, nàng biết suy nghĩ lúc này trong lòng đại ca, ánh mắt lưu chuyển, đột nhiên nàng nhìn thấy bóng dáng Vân Hi đứng trên tửu lâu nơi góc phố.
An Nghiệp Vương phi cũng đang nhìn thiếu niên lang đứng trước đèn ngựa trắng, vẻ mặt tiêu điều, gương mặt ẩn trong góc khuất của ánh đèn, cách một phố, cách cả một đời, chung quy là tất cả không thể quay lại như trước nữa.
Quỳnh Nương yên lặng thở dài, không biết Vân Hi có hối hận về quyết định thuận theo lựa chọn của gia tộc hay không?
Đúng vào lúc này, trên phố đột nhiên truyền đến một tiếng rối loạn, có phụ nhân lớn tiếng khóc kêu.
Hoá ra vừa nãy phụ nhân này mua kẹo cho tiểu nhi, lúc quay người lại, tiểu nhi phía sau đã biến mất. Có người bán hàng rong mắt sắc, vừa rồi thoáng nhìn thấy một nam từ nhỏ gầy bế hài tử của nàng ta lên quẹo vào ngõ nhỏ bên cạnh.
Lúc ngón tay của tiểu thương hướng vào ngõ nhỏ, Liễu Tương Cư đã sải bước vội chạy vào đó.
Thông thường vào kinh bắt cóc hài tử đều không phải một người gây án. Quỳnh Nương thấy ca ca đuổi theo, sợ hắn bị hại bèn bảo thị vệ xuống lầu đi cùng.
Mà đúng vào lúc này một con phố khác thông hướng với ngõ nhỏ lại bùng nổ, có thể nghe thấy tiếng một đám người gây rối hô quát ẩu đả.
Quỳnh Nương cực kỳ lo lắng, nhón mũi chân dõi mắt trông về phía xa cũng không thấy rõ lắm, nàng bèn bảo người tìm phủ doãn kinh thành nhanh chóng phái nha dịch đến bình ổn rối loạn, lại sợ bọn bắt cóc nhân lúc náo động mang theo hài tử chạy trốn nên lệnh cho số thị vệ còn lại lấp kín hai đoạn phố xá và các đầu hẻm, chỉ cần có người dẫn theo hài tử thì không cho đi.
Người không đủ, Thường Tiến dứt khoát móc một mũi tên xuyên tầng mây từ trong eo ra, “vèo” một tiếng mang theo ánh đỏ huýt vang, xông thẳng lên trời, gọi ba sở nhân mã của kinh thành đến.
Lúc nha dịch phủ doãn dẫn người chạy tới, toàn bộ phố xá đã bị ba sở quân lính Lang Vương chưởng quản khống chế.
Cũng đã tìm được ngọn nguồn rối loạn, hoá ra mấy kẻ bắt cóc này đã thuê một viện riêng trong ngõ nhỏ trên phố xá náo nhiệt của kinh thành.
Đầu hẻm có bắt cóc đồng hương chuyên gác, nhóm bắt cóc còn lại rải rác ở trên phố, tìm cơ hội bắt hài tử và tiểu nương về.
Kiếm được nhiều tiền nhất thật ra là bắt cóc cô nương. Kinh thành là nơi phú quý, các cô nương hơi giàu có một chút ai nấy cũng trắng nõn trắng nà, mi thanh mục tú, thêm nữa nói khẩu âm kinh thành càng là thượng phẩm.
Cô nương như vậy bán cho phú hộ thôn quê quả thực là cung không đủ cầu. Mà thanh lâu hồng quán càng chỉ tên muốn loại mặt hàng kinh thành ôm khách không mang theo phong trần này.
Cho nên ngày nào phố xá các nơi có hội đèn lồng, người có tiền đều phái ba năm bà tử tôi tớ ra coi chừng cô nương và hài tử nhà mình.
Bởi vì những kẻ đó vô cùng càn rỡ, nếu gặp được nữ từ mạo mĩ, thấy bên người nhà bên cạnh nàng ấy không nhiều lắm, thậm chí bắt cóc trắng trợn, cao giọng quát đây là tiểu thiếp nhà mình trộm trốn đi, ai dám lo chuyện bao đồng thì rút đao ra tiếp đón.
Có điều hôm nay mấy tên bắt cóc tìm nguồn cung cấp trong kinh thành bị mù, theo dõi một cô nương dáng người cao gầy.
Cô nương kia thật sự có mỹ sắc không thể nhìn nhiều, tuy da hơi đen nhưng mặt mày diễm lệ, dáng người yểu điệu, là viên trân châu đen loé sáng làm người nhìn không rời được mắt.
Hơn nữa cô nương này cũng lớn mật, một người bên cạnh cũng chẳng có, một mình giơ khoai nướng vừa đi vừa ăn.
Mặt hàng cực phẩm dễ xuống tay thế này, sao lừa đảo có thể bỏ qua?
Cho nên tìm cơ hội, ba người cùng nhau kéo cô nương kia vào ngõ nhỏ chặn miệng, trói tay lại, sau đó dùng áo choàng dài bọc đầu và thân mình, làm bộ là người nhà bị bệnh cấp tính, một mạch kéo về viện riêng.
Theo lý mà nói, đêm nay cũng thu hoạch không ít, hội đèn lồng sắp kết thúc, đã bắt được năm cô nương, một hài tử.
Dựa theo kinh nghiệm bình thường, bây giờ trên phố trong chợ đều đang tìm người, nha dịch cũng xuất động rồi, bọn bắt cóc không ra ngoài nữa, chỉ an tâm chờ đến hết tết sẽ có quan sai nhận hối lộ cho bọn họ thông đường, mấy chiếc xe ngựa ra khỏi kinh thành.
Trong một đám người đó có một kẻ kiểm tra hàng, muốn nhân cơ hội cởi bỏ y phục trên người các cô nương để chiếm chút tiện nghi, không biết thế nào mà cô nương da đen dáng người cao gầy lại cởi được dây thừng trói chặt tay chân mình, rút chủy thủ ra, giơ tay chém xuống cắt đứt vận mệnh của gã kia.
Lúc ấy hắn đau đến nỗi trợn trắng mắt, hét thảm một tiếng dẫn bà tử và mấy hán tử đến.
Bọn họ đè người quen rồi, tay chân có lực, làm việc âm ngoan, theo lý mà nói thu thập một tiểu cô nương là không thành vấn đề.
Nhưng không biết cô nương xinh xắn kia biết biến dạ xoa gì mà còn âm ngoan hơn bọn hắn, chủy thủ tấc ngắn ra chiêu từng đao đến chỗ yếu của con người, trong chốc lát, mấy người kia đều trở thành hồ lô máu, nháo nhào chen chúc chạy ra khỏi viện, kêu khóc cứu mạng.
Nhưng ngoài viện còn có mấy hán tử đang chờ, ngăn chặn bọn họ, cầm côn bổng định đánh đòn hiểm.
Trong đó có một kẻ về muộn, đang ôm một hài tử gào khóc trong ngực. Hắn vốn chuẩn bị về viện mà thấy tình hình không đúng nên ôm hài tử chạy, nhưng chỉ trong chốc lát thôi mà đầy đường đều là quan sai ba quận. Hắn xoay vài vòng đã bị Liễu Tương Cư đuổi đến chặn lại.
Nhưng xưa nay Liễu Tương Cư trầm ổn, lại sợ nhận sai người nên chỉ kéo cổ áo gã đó hỏi tiểu nhi kia, nó có quen biết người này không.
Tiểu nhi kia bị dọa khóc, chỉ biết to mồm khóc gọi mẫu thân.
Cô nương đó lau máu trên tay đi đến, thảnh thơi nói: “Ngươi đã thích xen vào việc của người khác thì phải có ánh mắt, người này một tay ôm hài tử, một tay bịt mồm, chỉ thiếu việc bóp hài nhi không thở nổi nữa thôi. Đứa nhỏ này giãy giụa làm vạt áo lỏng ra, bụng cũng lộ hết ra ngoài rồi mà hắn cũng mặc kệ. Nếu là hài tử của mình thì sao lại để nó lạnh như vậy? Lịch sự văn nhã hỏi cái đầu ấy!”
Nói rồi một tay đoạt lại hài tử, nhấc chân dài đá gãy cằm gã kia, đỡ phải nghe gã nói dối.
Liễu Tương Cư hoảng hốt, hắn thấy sao cô nương mặt mày xinh xắn, miệng anh đào nhỏ này lại quen mắt thế nhỉ?