Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 411
Dương Hạo xuống xe bộ hành lên núi.khi cách ngọc tháp không xa, hắn mở to mắt vô cùng ngạc nhiên.trước đó hắn đã từng được nghe qua việc ngọc tháp được xây dựng lại thành một ngôi miếu nhưng không thể ngờ rằng nó lại to lớn như thế.
Trước kia khi lấy danh nghĩa tu bổ lại ngọn tháp, Dương Hạo làm công trình thổ mộc đã san bằng đỉnh núi, bây giờ nhìn lại cả đỉnh núi đã được san bằng thành sân sau của ngôi miếu, nhiều công trình lộng lẫy, nguy nga được xây dựng sát dựa váo núi. Nhìn từ xa sau núi giống như có rất nhiều ngôi miếu nhỏ, tại đây vẫn đang thi công liên tục. Vì phải làm công trình thổ mộc nên khó tránh cậu của Đường Diễm Diễm là Lý Ngọc Xương ở đây mà rất khó gặp.Thì ra ngọc tháp ở trung tâm đỉnh núi đã trở thành hậu viện ngôi đền.
Phạm Tư Kỳ nói: “Đại nhân, phủ đệ của hoạt phật gọi là nang khiêm. Các nang khiêm này căn cứ vào vị trí cao thấp của hoạt phật mà chia thành to nhỏ khác nhau; còn phải tính toán xem giáo đồ nhiều hay ít, của cải vật chất có dư dật hay không. Nang khiêm lớn nhất vốn ở trong Thổ Phồn cảnh, nhưng ở đây chiến tranh xảy ra liên tục, ngay cả nang khiêm của hoạt phật cũng bị tàn phá, đợi ngôi miếu sau núi xây xong thì nang khiêm Lô Châu của ta sẽ là ngôi chùa lớn nhất ở vùng Tây Bắc này.
Dương Hạo mỉm cười gật đầu nói: “Kế này thật hay, cao tăng phật môn vốn không ham tiền tài tửu sắc, lại lấy việc truyền bá kinh đạo làm nhiệm vụ chính, vô cùng coi trọng danh tiếng。 Những việc này chắc chắn sẽ tốn nhiều tiền của nếu không thì Hoạt Phật đã không phải dời nhà như vậy. Việc xây dựng ngôi chùa mật tông lớn nhất thiên hạ đã biến Lô Châu trở thành vùng đất thánh phật giáo, thu hút vô số tín đồ quy tâm, chỗ tiền này bỏ ra cũng rất đáng.”
Phạm Tư Kỳ cười nói: “Lô Châu chúng ta cũng không phải đóng góp gì nhiều, khi tin sắp xây dựng ngôi chùa lớn nhất được truyền đi thì lão bá tánh Hồi Hất, Thổ phồn và vùng quản hạt khương Trại lần lượt tới cúng tiến. Họ nói chỉ là quyên chút ít dầu hương cúng tiến lên hoạt phật, để cầu mong được hưởng phú quý thái bình.bây giờ họ quyên góp toàn bộ, đặt hết hy vọng lên Lô Châu chúng ta dùng kim quang bảo vệ của phật giáo để che trở cho hàng vạn tín đồ. Hai năm trở lại đây, Lô Châu với Tạp Hồ Chư Khương luôn bình yên không có chiến loạn, một mặt là do trước đây đại nhân đã dùng tâm huyết để tạo lập binh uy, sau đó Lô Châu lại diễn tập binh võ uy hiếp Thổ Phồn và nguyên nhân nữa chính là sự việc trên.”
Dương Hạo nhớn lông mày nói: “Kế sách thật lợi hại, ta đã biến Lô Châu trở thành một trung tâm thương nghiệp của tam phiên, thương nhân từ khắp nơi đổ về họ đã biến Lô Châu trở thành thành thánh. Vùng Tây Bắc của nhất thể chính giáo nhanh chóng tạo lập được địa vị thống trị to lớn. Hây! Lẽ nào lại là chủ ý của hắn ta”. Hắn ta vẫn chưa lộ diện mà, rốt cuộc còn chịu đựng đến lúc nào đây?”
“Ngươi không xuất hiện nhưng hãy để xem ai hơn ai.” Dương hạo mỉm cười.
Lúc này Thái Nhiên nói: “Vào thôi, chúng ta vào lễ phật”
Nang khiêm của Đạt thố Hoạt phật được chia ra là thượng viện, trung viện và hạ viện, quy mô rất lớn đẹp lộng lẫy. Chỉ ở thượng viện đã có tam tiến viện lạc, điện vũ thì vô số. Dương Hạo vừa bước vào thượng viện đã được một vị thượng sư đứng ở đó từ lâu dẫn đường theo lối đi giữa hai bên tường của cung điện hướng về phía hậu viện, còn các vị quan viên vẫn đứng ở bên ngoài cửa núi đợi.
ở chính giữa hậu viện của chính điện cung Ung Đức là con đường thông ra phía trung viện, trái phải mỗ bên đều có hai khoa viện, giữa mỗi khoa viện đều có một lầu gỗ hai tầng, phía bên trái của khoa viện là Hạ Giang của Hoạt Phật, phía bên phải là đông cung của người. Tùy thuộc vào thời tiết các mùa hạ đông mà ở những nơi khác nhau.
Vị thượng sư đó dẫn Dương Hạo leo lên lầu bên trái, bước vào phòng chính của lầu hai chỉ thấy trong phòng bầy đầy những bức bình phong được chạm khắc bằng gỗ cây thanh đàn, trên bình phong vẽ nhiều hình họa về câu chuyện phật giáo, còn có ghế ngồi, cơ án làm bằng gỗ cây thanh đàn và gỗ hoa lê. Một người đã già mặc tăng y màu đỏ đang ngồi phia sau cơ án, nhìn dáng vẻ đã ngoài lục tuần, thân hình cao lớn, mặt mũi hồng hào, nhìn thấy Dương Hạo đi vào liền mỉm cười đưa tay ra vẫy rồi nói: “Thái úy, mời ngồi’
Dương Hạo hành lễ sau đó ngồi xuống chỗ dành cho khách, vị thượng sư hành lễ với Hoạt Phật, cúi lạy rồi từ từ lui ra ngoài. Một người rón rén bước vào, bưng hai ly trà mời Hoạt Phật và Dương Hạo, rồi lại nhẹ nhàng đi ra.
Đạt Thố Hoạt Phật mở cửa nhìn về phía núi rồi nói: “Bổn tọa từ khi chủ trì ngọc tự đã nghe danh tháu úy từ lâu, hôm nay lần đầu gặp mặt mà có cảm giác như đã quen từ lâu. Từ trước tới nay Tây Bắc chiến sự liên miên không thể sinh sống ổn định như chiến tranh giữa Thổ Phồn với Hồi Hất, giữa Thổ Phồn, Hồi Hất với Đảng Hạng, giữa Đảng Hạng với Đảng Hạng rồi giữa Phủ Châu với Lân Châu cứ liên tiếp không ngừng khiến lão bá tánh lưu lạc không chốn nương thân, người xuất gia như chúng ta thực không thể yên lòng. Bổn tọa hưởng hương hỏa của lão bá tánh,s ao có thể chịu được cảnh lão bá tánh Tây Bắc rơi vào biển khổ như vậy. Thái úy có lòng từ bi hãy lấy đại uy đức của mình để thống nhất tây vực, bình định chiến loạn. Bổn tọa muốn biết nếu có một ngày thái úy trở thành quân chủ các dân tộc tây bắc thì thái úy sẽ làm gì?’
Dương Hạo lúc này hơi bối rối nhưng nhanh chóng lấy lại tinh thần nói: “nếu các bộ tộc tây bắc có thể thống nhất đươc, diệt trừ được chiến loạn thì lão bá tánh ắt có thể an cư lạc nghiệp.Đây chính là công đức vô thượng. Hoạt Phật với công đức to lớn của người cùng với sự tương trợ của bản quan chắc chắn Tây Bắc sẽ trở thành vùng Tây vực của Hoạt Phật, thống nhất mật giáo, càng tạo điều kiện cho việc truyền bá phật pháp, lúc đó hoạt phật có tấm lòng từ bi, tín đồ khắp thiên hạ sẽ chịu ơn huệ to lớn của người.
Ánh mắt Hoạt Phật vẫn mở nhỏ không hề thay đổi sắc thái.
Khi đó mật giáo thịnh hành khắp thiên hạ, Giang Nam Lý Dục cũng rất sung bái mật giáo, hắn ta mỗi hôm sau khi bế triều đều cùng tiểu chu hậu thay tăng y, lấy đồ để lễ bái phật. Ngô Việt Quốc Vương cũng cho xây dựng đạo trường, mời đại sư mật giáo vào ở. Trong biên giới Tống quốc có không ít cao tăng mật giáo, Tống quốc vẫn thực hiện theo lễ cũ của nhà Đường để thưởng cho cao tăng mật giáo cửu đỉnh đức cao vọng trọng; còn ở Khiết Đan và vùng Tây Bắc thì việc truyền bá đạo giáo lại càng không cần phải nói đến, có điều tín đồ mật giáo lực lượng rất lớn nhưng liên kết lại rời rạc. Lúc này lãnh tụ của mật giáo là các Hoạt Phật, giữa những Hoạt Phật này không có phụ thuộc gì, giới quy giới luật, phật pháp mật tông cũng có sự khác nhau, nếu có thể trở thành hoạt phật thống nhất mật tông, điều đó đối với một tăng nhân mà nói thì đó quả là công đức và vinh dự vô cùng to lớn, nhưng điều đó cũng không hề khiến Đạt Thố Hoạt Phật động lòng.
Dương Hạo lại nói: “Nếu bản quan có thể thống nhất tây vực, sẽ ủng hộ hoạt phật phát triển phật pháp, bổn quan sẽ cho xây dựng kinh dịch viện để dịch mật kinh, xuất bản kinh trường,khiến người dân ai nấy đều nhất loạt tôn trọng mật tăng,tạo điều kiện thuận lợi nhất để truyền bá đạo giáo. Nhưng nay vì chiến loạn, vấn đề về lương thực vẫn là quan trọng nhất nên việc truyền bá đạo giáo gặp nhiều khó khăn, nếu có thể thống nhất tây bắc, bổn quan sẽ chú trọng mở rộng phát triển thương nghiệp. Khi đó mật giáo trung thổ ta sẽ theo con đường này mà truyền bá sang tây phương, phát triển khắp thiên hạ, không biết hoạt phật thấy thế nào?”
Đạt Thố Hoạt Phật nét mặt có chút thay đổi, ông nhắm mắt lại một lúc rồi mở ra mỉm cười nói: “Thái úy có chí nguyện to lớn, nhưng đạo giáo chúng ta chỉ tôn đạo pháp mahagiala, mãkhabala.
Thần hộ pháp tối cao của mật tông là Đại Hắc Thiên,đó cũng là mahagiala, mãkhagiala.Mật giáo thấy rằng hắn ta chính là phần phẫn lộ trong tâm từ bi được hóa sinh từ chữ “kiện” trong lục tự chân ngôn trong tâm quan thế âm bồ tát. ánh sáng xanh đen bao quanh cơ thể trông rất đáng sợ vì vậy gọi là Đại Hắc Thiên. Hắn ta là người được kính trọng nhất trong số những thần hộ pháp của mật giáo. Hình tượng tuy rất hung dữ nhưng là tam bảo để bảo vệ ngũ chúng. Theo truyền thuyết nếu cúng tế vị thần này sẽ có được thêm uy đức, hành sự thuận lợi, đồng thời hắn ta còn là thần thi phúc có thể mang lại phú quý cho thế gian, thậm chí là cả quan vị và bổng lộc…
Đạt Thố Hoạt Phật đã gọi hắn ta là Đại Hắc Thiên vì thứ nhất hắn ta là thần hộ pháp,thứ 2 nếu cúng tế vị thần này sẽ có được uy đức, làm ăn thuận lợi, thứ 3 là vị thần này có thể mang lại phú quý, quan vị và bổng lộc cho thế gian.
Đáng tiếc là Dương Hạo chỉ hiểu được một phần ba trong số những gi hắn ta nói chỉ hiểu được chí tôn hộ pháp. Biết được mình đã có được sự chấp nhận của Hoạt Phật, lấy đó làm điều kiện để xây dựng mối quan hệ đồng minh giữa hai người. Hắn nói:“Dương Hạo nguyện cùng với Hoạt Phật cùng tôn cùng vinh xây dựng đại nghiệp”
Hoạt Phật mỉm cười bưng ly trà lên:“Thái úy, mời”
Hoạt Phật là chủ trì của tự, vì vậy về y, thực hay lễ nghĩa nghênh tiếp hàng ngày cũng đều rất nghiêm. Hoạt Phật thăng tọa cũng là một sự kiện vô cùng quan trọng. Khi tiếng hiệu trống chiêng vang lên thì các tín đồ đang tập trung trong đại điện lập tức yên lặng, bọn họ đến từ nhiều nơi khác nhau với đây để bái phật. Có thể đứng ở đây vào thời khắc này đều là những nhân vật có máu mặt, nhưng ở đây họ chỉ là những tín đồ trung thành; tiếng chiêng vừa vang lên thì đều thành tâm nhất loạt quỳ xuống.
Dương Hạo lại ra trước cửa cung Ung Đức, được thượng sư dẫn đường hướng về phía thượng viện, bước vào chính điện cung Ung Đức, ở giữa chính điện là một bảo tọa cao 3 thước rộng 4 thước, toàn bộ đều làm bằng đồng vàng; 4 mặt đều có 9 con rồng vàng, bên trên đều trạm rất nhiều hoa, rồng, sư tử bằng bạc; trên tọa có trưng bày pháp y, pháp khí bên phải, trái của bảo tọa đều có những cây cột lớn bên trên có khắc 4 con rồng vàng, phía dưới là 8 con sư tử bằng đồng trông giống như thật. Trên điện có treo bộ đèn màu kích thước to nhỏ khác nhau, lung linh huyền ảo, bốn bên đều treo tranh thêu nhiều màu sắc, tổng có khoảng hơn 200 pho tượng phật bằng đồng vàng, phong cách có khác biệt với phật giáo đại thừa trung nguyên.
Đạt Thố Hoạt Phật, đội ngũ tăng, mặc y tăng ngồi trên bảo tọa, nhìn về phía Dương Hạo. Dương Hạo không đợi người chỉ dẫn liền bước lên dọc 6 chữ nguyền rủa Đại Minh.
Đạt Thố Hoạt Phật ngồi trên bảo tọa thân thái vững trãi như núi. Dương Hạo bước tới trước mặt, chắp tay cúi lưng quì xuống bái lạy Hoạt Phật 3 lễ.
Mộc Vũ lúc này đang đứng trước cửa điện, nhìn thấy như vậy 2 bên lông mày đang cong hình kiếm bỗng thẳng ra, giơ tay rút đao, Diệp Đại Thiếu đứng bên cạnh nhìn thấy vậy liền giữ chặt tay hắn nói nhẹ:“Người muốn làm gì vậy?”.
Mộc Vũ từ trước tới nay đền ở bên cạnh Dương Hạo, đặc biệt tối qua Dương Hạo còn tha cho tỉ tỉ và tỉ phu của hắn ta, không những không phạt tội cũng không tước đi binh quyền, Mộc Vũ vô cùng cảm kích xem hắn ta như cha mẹ của mình vậy.Nhìn đại nhân phải hành lễ trước hòa thượng Tây vực thấy vô cùng tức giận, mặt đỏ tưng bừng, phẫn nộ nói:“Con lừa hói này vô lễ, đại nhân của chúng ta là Tiết độ Hằng Sơn, là thái úy đương triều, đến ngay cả khi gặp hoàng thượng cũng không cần phải hành lễ như vậy. Đại nhân bái hắn ta thì hắn cũng phải bái lạy đại nhân, đằng này lại ngông ngênh nhận của đại nhân ta 3 lễ, để ta đi lấy cái đầu chó của hắn, xem hắn còn dám ngông ngênh như vậy không.”
Bích Túc ăn vận gọn gàng đang đứng ở bên cạnh nói:“ Người đại nhân bái lạy không phải là hắn”
Mục Vũ hỏi lại:“Thế là thế nào?”
Mộc Bằng Vũ từ từ nói:“Đại nhân bái lạy phật có quyền thế trí cao vô thượng, là tấm lòng của mấy mươi vận lão bá tánh Hồi Hất, Thổ phồn, Hán, Khương Tây Bắc”
Mục Vũ không hiểu được hết, chỉ hiểu rằng đại nhân làm như vậy là có dụng ý, chắc không phải chịu thiệt, vì thế dần dần nuốt cơn tức và cất dao đi.
Dương Hạo hành lễ xong đứng dậy, lập tức có người dâng lên Cáp Đạt. Dương Hạo đưa hai tay ra nhận lấy, đưa lên qua đỉnh đầu rồi cúi lưng xuống đi về phía Đạt Thố Hoạt Phật.
Khuôn mặt vốn gầy guộc của Hoạt Phật lúc này mới hơi tươi tỉnh, người đưa tay ra nhận Cáp Đạt mà Dương Hạo dâng lên rồi đứng dậy. Từ bên trái bảo tọa bước xuống năm bậc, từ từ tiến về phía Dương Hạo, hai tay bê Cáp Đạt đưa lại cho Dương Hạo.
Dương Hạo sớm biết lễ nghĩa liền cúi xuống nhận lễ, tiếp nhận Cáp Đạt. Hoạt Phật để Cáp Đạt lên trên cổ Dương Hạo, cười nói:“ Đi theo ta”. Nói xong Hoạt Phật liền quay người về phía bảo tọa, Dương Hạo chắp hai tay từng bước từng bước theo sau. Chúng cao tăng thượng sư trong điện và quan lại ở Lô Châu đều vô cùng kinh ngạc, còn nhiều tín đồ thì càng lo sợ hơn không biết vì sao, chỉ thấy hai người vai sát vai ngồi trên bảo tọa, Đạt Thố Hoạt Phật liền hướng về phía cao tăng tín đồ nói:“Bổn tọa nhận thấy, Dương thái úy tài vật vô số, chuẩn thế linh thần, giáo pháp ta chỉ tôn hộ pháp Mahagiala, Maxkhabala phổ độ chúng sinh, cứu thế hồng trần. Tính phật căn linh không mất đi, tìm tới trước xa giá của bổn tọa khiến bổn tọa nhận Dương thái úy làm môn đồ, tự hiệu là Cụ Bá, chỉ là hộ pháp phủ đỉnh khai chí, chỉ ra những sai lầm. Bổn tọa tu luyện là lai thể pháp, còn Dương thái úy tu luyện là thần gian pháp có thể nói là khác đường đi nhưng cùng chung một đích. Đó đều là phật pháp vô thượng, tu hành thành quả, không cao không thấp, có thể coi là thượng sư của nhau không phải hành lễ đệ tử”
Dưới điện bỗng ồn ào
“Cương kim cống bảo quả nhiên là cương kim cống bảo chuyển thế linh”
“makhagiala...”
“makhabala...”
“Hoạt Phật Tây Vực ta có đến hơn trăm người, cương kim cống bảo chuyển thế linh thân chỉ tìm đến Đạt Thố Hoạt Phật để học hỏi mở mang trí tuệ, quả nhiên Đạt Thố Hoạt Phật thần thông quảng đại, đaọ hành thâm hậu”
Thượng sư cao tăng, tín đồ khắp nơi đều lần lượt bái lạy. Phạm Tư Kì, Lâm Bằng Vũ cùng nhiều người khác thở phào nhẹ nhõm cũng cúi xuống bái lễ
Tin Dương Hạo Lô Châu là kim cương cống bảo chuyển thế được truyền đi như gió. Có tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn. Chẳng bao lâu Lô Châu đã là một nơi vô cùng quan trọng trong lòng hàng vạn lão bá tánh Tây Bắc. Điều này có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao vị thế chính trị của Lô Châu.
Dương Hạo đã giành được cái khó giành nhất của đất Tạp Hồ Tây Bắc này, đó là lòng dân. Nhưng cũng không thể phá vỡ cái cơ sở không tốt để đưa mật giáo vượt lên trên chính quyền, phải tranh thủ khi lực lượng của mật giáo đang hùng hậu mạnh mẽ, nhưng Hoạt Phật mật tông không có cách nào để thống nhất chế ngự được lực lượng to lớn như vậy. Vì thế nhu cầu cấp thiết là phải có được sự ủng hộ mạnh mẽ của chính quyền, cùng tạo dựng đồng minh với Đạt Thố Hoạt Phật, chính quyền và giáo quyền cần có sự tách biệt rõ ràng. Lợi dụng uy thế đó trong khi lòng người vẫn đang ủng hộ, nha phủ Lô Châu lại được thăng cấp đã cho xây dựng Tiết Lập phủ.
Công Tôn Khánh được mời ra nghe tuyên đọc chiếu mệnh ban thưởng hai tinh nhị tiết, có được tinh tiết này là có được chuyên quyền quân sự. Phía trước nha phủ dựng lên lục cán đai mâu, ở phía Tây lại dựng Bạch Hổ tiết đường uy thế rất hùng mạnh.
Tiết độ sứ tập trung quân, dân, tài ba quyền chính trong tay, toàn quyền nắm giữ bộ hạ. Có thể điều động binh lính bất cứ lúc nào không cần đến lệnh của triều đình. Trong nội hạt có thể nhận được cung ứng về tiền của và lương thực, khống chế thuế. Vốn dĩ những việc này thuộc về quản lí dân sự mà chính phủ trung ương nhận mệnh, quan lại tài chính vì thế trở thành người dưới quyền mà hắn có thể tự bổ nhiệm. Tiết độ sứ chỉ nắm binh quyền điều đó không đáng sợ, vấn đề quan trọng là hắn ta có thể khống chế được dân chính và tài chính của cả nội hạt. Chính hai điều này đã giúp tiết độ sứ nắm chắc được binh quyền, có thể không ngừng mở rộng quân binh
Từ khi thái tổ kế vị để cắt bổ đi quyền vây binh và nhiều tệ nạn khác đã sử dụng nhiều chính sách linh hoạt để làm giảm đi quân quyền, chính quyền, tài quyền của tiết độ sứ. Càn Đức năm thứ 3 Triệu Khuông Dận hạ lệnh tăng cường quyền lực cho chuyển vận sứ, tiền thuế thu được ở các địa phương ngoài việc sử dụng cho quân phí hằng ngày thì toàn bộ đều chuyển về trung ương, tước bỏ đi quyền tự sử lí tiền thuế của tiết độ sứ. Cũng trong năm đó lệnh cho Châu phủ phải phái hết tinh binh lên trung ương giảm bớt binh quyền ở địa phương.
Sau khi bình định Kinh Hồ người đã hạ lệnh các châu phủ Kinh Hồ thuộc về triều đình chứ không thuộc về tiết độ sứ nữa, đồng thời rất nhiều quan lại được bổ nhiệm khiến tiết độ sứ không được phái ra ngoài mà chỉ ở lại kinh sư hoặc giả có được phái ra ngoài thì cũng chỉ ở những vùng nội hạt, những địa phương lân cận thuộc về triều đình hay những nơi mà Triệu Khuông Dận có quyền uy tối cao mà thôi. Vì thế tiết độ ở các địa phương ắt sẽ không dám lạm quyền. Phương pháp tập quyền mà Triệu Khuông Dận sử dụng rất ôn hòa và tiệm tiến.
Trên danh nghĩa thì tiết độ sứ vẫn giữ quyền lực rất lớn, chỉ có điều bọn họ sẽ không có cơ hội để thực sự được nắm giữ quyền lực này, tiết độ sứ cuối cùng trở thành hư danh. Trên danh vận cũng không còn nắm quyền lực về quân, chính, tài quyền nữa.
Sau khi Triệu Quang Nghĩa kế vị tròn một năm hạ lệnh tất cả quân binh và thuộc hạ của tiết độ sứ đều thuộc về triều đình lấy thần triều bổ nhiệm tri châu tri phủ.
Giờ đây Dương Hạo đã dành được phần lớn ưu thế Lô Châu cách Lân Châu hai châu, trời ở trên cao, hoàng đế thì ở xa, lại không chịu sự quản chế của bất kì châu phủ nào, vì thế có thể nắm giữ được quyền lực trên cả thực tế và danh nghĩa. Chiến loạn khắp nơi, trong thời thế loạn lạc, anh hùng xuất hiện khắp tứ phương. Trong đó có Thảo Đầu Vương, hắn ta là tiết độ một phương cũng là hoàng đế trên nước đó rồi.
Quan lại của tiết độ sứ có phó sứ, chi sứ, hành quân tư mã, phán quan, thôi quan...Tướng tá gồm: át nha, ngu hầu, binh mã sứ, tiết độ sứ, phó đại sứ biết rõ từng người tiết độ sự, hành quân tư mã, phán quan, chi sứ, thôi quan, tuần quan, nha chùy.Tiết độ phó sứ có mười người, quán dịch tuần quan bốn người, phủ viện pháp trực quan, yếu tịch, trục yếu thân sự mỗi chức vụ một người, tùy quân bốn người.
Về căn bản Triệu Quang Nghĩa chưa thực hiện kế hoạch để Dương Hạo sống sót trở về Tây Bắc. Vì vậy hắn ta không những khảng khái rộng lượng mà ngay cả quan sát sứ, chi độ sứ cũng không hề phái đi chỉ là trên chiếu thư nói một câu do hắn ta biết phủ châu sự. Lúc này Dương Hạo có thể chọn ra một tiết độ sứ trong số những thuộc hạ của mình, nhưng vì vừa mới nhận chức nên không dám lạm quyền chỉ có thể xin chỉ thị từ triều đình. Dương Hạo lần này trở về không muốn chịu sự khống chế của Triệu Quang Nghĩa nữa mà tự mình kiêm quan sát sứ và chỉ độ sứ, lại lập doanh điền, chiêu quá, khiển vận phán quan, tuần quan mỗi chức một người. Lúc này trên danh phận lẫn luật pháp hắn ta đều hợp lí để nắm toàn bộ đại quyền của đất Lô Châu trong tay, trên địa vị ngang bằng với Triết thị ở phủ châu, Dương thị ở Lân Châu, Lí thị ở Hạ Châu trấn giữ một phương.
Dương Hạo giành được tiên cơ, đoàng hoàng trở thành tiết soái, thuộc hạ đều có định chế, nhưng từ đó quan lại thuộc hạ của hắn ta có hạn. Từ một phủ nha đã có thể trở thành một tiết trấn, rất nhiều chức quan vẫn còn trống nhưng Dương Hạo không vội bổ sung thêm, chi bằng cứ để trống một số chức quan, Lô Châu bé như vậy cũng không cần quá nhiều quan lại. Tiếp đó hắn ta tạo dựng thế lực mạnh hơn nữa cho đến khi có được Ngân Châu có thế ngang bằng với Tây Bắc tam phiên, có những chức quan trống như thế này còn sợ gì tướng sĩ không tận tâm tận lực.
Còn Công Tôn Khánh vì đã hết giá trị lợi dụng nên Dương Hạo đã sai trở về Dịch Châu tiếp nhận tướng ngu hầu phò tá quan trùy Mộc Tắc phu. Lần này từ Phan về kinh, thiên uy của hắn ta khó có thể đoán trước được. Nhưng Công Tôn Quyền vốn là thư sinh bất lực phản kháng, gia tộc lại ở Biện Lương cũng không dám phản kháng chỉ biết lấy đầu ra để tiếp nhận, số mệnh không thể đoán trước được.
Còn Dương Hạo từ khi là cương kim cống bảo chuyển thế linh thân, makhagiala hộ pháp tái thế, tiết độ Hằng Sơn tiến hành khai nha kiếm phủ tập trung vào quyền thế, tiếp tục nghênh tiếp hắn ta còn có phủ cốc Chiết Ngự Huân, Lân Châu Dương Sùng đích thân đến Lô Châu bái kiến chúc mừng. Hai vị tiết độ sứ này chỉ tới đất Minh thôi đã làm cho 4 phương phải chấn động, Tây Bắc vốn có tam thuộc quốc giờ lại có thêm một Dương Hạo nữa. Dương Hạo vừa khai nha kiếm phủ thì trong số tam thuộc quốc đã có hai vị đích thân đến để chúc mừng, điều đó có ý nghĩa gì? Điều đó cho thấy chỉ trong một thời gian ngắn Dương Hạo đã định vị được địa vị của mình ở Tây Bắc, tin tức này đã nhanh chóng được truyền tới Hạ Châu và Biện Lương. Triệu Quang Nghĩa ở Biện Lương không biết sẽ cảm thấy chấn động như thế nào, ít nhất đối với Hạ Châu bốn bề đều là địch mà nói thì Dương Hạo bỗng nhiên nổi lên như thế cũng chẳng phải tốt lành gì
Tới hội kiến Dương Hạo còn có tiết độ hai châu, Lân Phủ, Thất thị Đảng Hạng cũng bí mật phái tín sứ đến, Đạt Thố Hoạt Phật còn phái đệ tử là Xích Bang Tùng tặng Dương Hạo lễ vật lớn. Xích Bang Tùng là người đứng đầu bộ lạc lớn nhất trong số những bộ lạc ở Thổ Phồn, Thổ Phồn ngày nay đã khác xa nhiều với khi xưa rồi nhưng rải rác trở thành nhiều bộ lạc riêng rẽ với nhau, võ lực của họ vẫn rất mạnh.
Còn người đã lâu chưa lộ mặt Đinh Thừa Tông khi đó cũng mang 2 món lễ vật bí mật, xuất hiện ở Lỗ Vĩ cách phủ Lô Châu đến trăm dặm.
Trước kia khi lấy danh nghĩa tu bổ lại ngọn tháp, Dương Hạo làm công trình thổ mộc đã san bằng đỉnh núi, bây giờ nhìn lại cả đỉnh núi đã được san bằng thành sân sau của ngôi miếu, nhiều công trình lộng lẫy, nguy nga được xây dựng sát dựa váo núi. Nhìn từ xa sau núi giống như có rất nhiều ngôi miếu nhỏ, tại đây vẫn đang thi công liên tục. Vì phải làm công trình thổ mộc nên khó tránh cậu của Đường Diễm Diễm là Lý Ngọc Xương ở đây mà rất khó gặp.Thì ra ngọc tháp ở trung tâm đỉnh núi đã trở thành hậu viện ngôi đền.
Phạm Tư Kỳ nói: “Đại nhân, phủ đệ của hoạt phật gọi là nang khiêm. Các nang khiêm này căn cứ vào vị trí cao thấp của hoạt phật mà chia thành to nhỏ khác nhau; còn phải tính toán xem giáo đồ nhiều hay ít, của cải vật chất có dư dật hay không. Nang khiêm lớn nhất vốn ở trong Thổ Phồn cảnh, nhưng ở đây chiến tranh xảy ra liên tục, ngay cả nang khiêm của hoạt phật cũng bị tàn phá, đợi ngôi miếu sau núi xây xong thì nang khiêm Lô Châu của ta sẽ là ngôi chùa lớn nhất ở vùng Tây Bắc này.
Dương Hạo mỉm cười gật đầu nói: “Kế này thật hay, cao tăng phật môn vốn không ham tiền tài tửu sắc, lại lấy việc truyền bá kinh đạo làm nhiệm vụ chính, vô cùng coi trọng danh tiếng。 Những việc này chắc chắn sẽ tốn nhiều tiền của nếu không thì Hoạt Phật đã không phải dời nhà như vậy. Việc xây dựng ngôi chùa mật tông lớn nhất thiên hạ đã biến Lô Châu trở thành vùng đất thánh phật giáo, thu hút vô số tín đồ quy tâm, chỗ tiền này bỏ ra cũng rất đáng.”
Phạm Tư Kỳ cười nói: “Lô Châu chúng ta cũng không phải đóng góp gì nhiều, khi tin sắp xây dựng ngôi chùa lớn nhất được truyền đi thì lão bá tánh Hồi Hất, Thổ phồn và vùng quản hạt khương Trại lần lượt tới cúng tiến. Họ nói chỉ là quyên chút ít dầu hương cúng tiến lên hoạt phật, để cầu mong được hưởng phú quý thái bình.bây giờ họ quyên góp toàn bộ, đặt hết hy vọng lên Lô Châu chúng ta dùng kim quang bảo vệ của phật giáo để che trở cho hàng vạn tín đồ. Hai năm trở lại đây, Lô Châu với Tạp Hồ Chư Khương luôn bình yên không có chiến loạn, một mặt là do trước đây đại nhân đã dùng tâm huyết để tạo lập binh uy, sau đó Lô Châu lại diễn tập binh võ uy hiếp Thổ Phồn và nguyên nhân nữa chính là sự việc trên.”
Dương Hạo nhớn lông mày nói: “Kế sách thật lợi hại, ta đã biến Lô Châu trở thành một trung tâm thương nghiệp của tam phiên, thương nhân từ khắp nơi đổ về họ đã biến Lô Châu trở thành thành thánh. Vùng Tây Bắc của nhất thể chính giáo nhanh chóng tạo lập được địa vị thống trị to lớn. Hây! Lẽ nào lại là chủ ý của hắn ta”. Hắn ta vẫn chưa lộ diện mà, rốt cuộc còn chịu đựng đến lúc nào đây?”
“Ngươi không xuất hiện nhưng hãy để xem ai hơn ai.” Dương hạo mỉm cười.
Lúc này Thái Nhiên nói: “Vào thôi, chúng ta vào lễ phật”
Nang khiêm của Đạt thố Hoạt phật được chia ra là thượng viện, trung viện và hạ viện, quy mô rất lớn đẹp lộng lẫy. Chỉ ở thượng viện đã có tam tiến viện lạc, điện vũ thì vô số. Dương Hạo vừa bước vào thượng viện đã được một vị thượng sư đứng ở đó từ lâu dẫn đường theo lối đi giữa hai bên tường của cung điện hướng về phía hậu viện, còn các vị quan viên vẫn đứng ở bên ngoài cửa núi đợi.
ở chính giữa hậu viện của chính điện cung Ung Đức là con đường thông ra phía trung viện, trái phải mỗ bên đều có hai khoa viện, giữa mỗi khoa viện đều có một lầu gỗ hai tầng, phía bên trái của khoa viện là Hạ Giang của Hoạt Phật, phía bên phải là đông cung của người. Tùy thuộc vào thời tiết các mùa hạ đông mà ở những nơi khác nhau.
Vị thượng sư đó dẫn Dương Hạo leo lên lầu bên trái, bước vào phòng chính của lầu hai chỉ thấy trong phòng bầy đầy những bức bình phong được chạm khắc bằng gỗ cây thanh đàn, trên bình phong vẽ nhiều hình họa về câu chuyện phật giáo, còn có ghế ngồi, cơ án làm bằng gỗ cây thanh đàn và gỗ hoa lê. Một người đã già mặc tăng y màu đỏ đang ngồi phia sau cơ án, nhìn dáng vẻ đã ngoài lục tuần, thân hình cao lớn, mặt mũi hồng hào, nhìn thấy Dương Hạo đi vào liền mỉm cười đưa tay ra vẫy rồi nói: “Thái úy, mời ngồi’
Dương Hạo hành lễ sau đó ngồi xuống chỗ dành cho khách, vị thượng sư hành lễ với Hoạt Phật, cúi lạy rồi từ từ lui ra ngoài. Một người rón rén bước vào, bưng hai ly trà mời Hoạt Phật và Dương Hạo, rồi lại nhẹ nhàng đi ra.
Đạt Thố Hoạt Phật mở cửa nhìn về phía núi rồi nói: “Bổn tọa từ khi chủ trì ngọc tự đã nghe danh tháu úy từ lâu, hôm nay lần đầu gặp mặt mà có cảm giác như đã quen từ lâu. Từ trước tới nay Tây Bắc chiến sự liên miên không thể sinh sống ổn định như chiến tranh giữa Thổ Phồn với Hồi Hất, giữa Thổ Phồn, Hồi Hất với Đảng Hạng, giữa Đảng Hạng với Đảng Hạng rồi giữa Phủ Châu với Lân Châu cứ liên tiếp không ngừng khiến lão bá tánh lưu lạc không chốn nương thân, người xuất gia như chúng ta thực không thể yên lòng. Bổn tọa hưởng hương hỏa của lão bá tánh,s ao có thể chịu được cảnh lão bá tánh Tây Bắc rơi vào biển khổ như vậy. Thái úy có lòng từ bi hãy lấy đại uy đức của mình để thống nhất tây vực, bình định chiến loạn. Bổn tọa muốn biết nếu có một ngày thái úy trở thành quân chủ các dân tộc tây bắc thì thái úy sẽ làm gì?’
Dương Hạo lúc này hơi bối rối nhưng nhanh chóng lấy lại tinh thần nói: “nếu các bộ tộc tây bắc có thể thống nhất đươc, diệt trừ được chiến loạn thì lão bá tánh ắt có thể an cư lạc nghiệp.Đây chính là công đức vô thượng. Hoạt Phật với công đức to lớn của người cùng với sự tương trợ của bản quan chắc chắn Tây Bắc sẽ trở thành vùng Tây vực của Hoạt Phật, thống nhất mật giáo, càng tạo điều kiện cho việc truyền bá phật pháp, lúc đó hoạt phật có tấm lòng từ bi, tín đồ khắp thiên hạ sẽ chịu ơn huệ to lớn của người.
Ánh mắt Hoạt Phật vẫn mở nhỏ không hề thay đổi sắc thái.
Khi đó mật giáo thịnh hành khắp thiên hạ, Giang Nam Lý Dục cũng rất sung bái mật giáo, hắn ta mỗi hôm sau khi bế triều đều cùng tiểu chu hậu thay tăng y, lấy đồ để lễ bái phật. Ngô Việt Quốc Vương cũng cho xây dựng đạo trường, mời đại sư mật giáo vào ở. Trong biên giới Tống quốc có không ít cao tăng mật giáo, Tống quốc vẫn thực hiện theo lễ cũ của nhà Đường để thưởng cho cao tăng mật giáo cửu đỉnh đức cao vọng trọng; còn ở Khiết Đan và vùng Tây Bắc thì việc truyền bá đạo giáo lại càng không cần phải nói đến, có điều tín đồ mật giáo lực lượng rất lớn nhưng liên kết lại rời rạc. Lúc này lãnh tụ của mật giáo là các Hoạt Phật, giữa những Hoạt Phật này không có phụ thuộc gì, giới quy giới luật, phật pháp mật tông cũng có sự khác nhau, nếu có thể trở thành hoạt phật thống nhất mật tông, điều đó đối với một tăng nhân mà nói thì đó quả là công đức và vinh dự vô cùng to lớn, nhưng điều đó cũng không hề khiến Đạt Thố Hoạt Phật động lòng.
Dương Hạo lại nói: “Nếu bản quan có thể thống nhất tây vực, sẽ ủng hộ hoạt phật phát triển phật pháp, bổn quan sẽ cho xây dựng kinh dịch viện để dịch mật kinh, xuất bản kinh trường,khiến người dân ai nấy đều nhất loạt tôn trọng mật tăng,tạo điều kiện thuận lợi nhất để truyền bá đạo giáo. Nhưng nay vì chiến loạn, vấn đề về lương thực vẫn là quan trọng nhất nên việc truyền bá đạo giáo gặp nhiều khó khăn, nếu có thể thống nhất tây bắc, bổn quan sẽ chú trọng mở rộng phát triển thương nghiệp. Khi đó mật giáo trung thổ ta sẽ theo con đường này mà truyền bá sang tây phương, phát triển khắp thiên hạ, không biết hoạt phật thấy thế nào?”
Đạt Thố Hoạt Phật nét mặt có chút thay đổi, ông nhắm mắt lại một lúc rồi mở ra mỉm cười nói: “Thái úy có chí nguyện to lớn, nhưng đạo giáo chúng ta chỉ tôn đạo pháp mahagiala, mãkhabala.
Thần hộ pháp tối cao của mật tông là Đại Hắc Thiên,đó cũng là mahagiala, mãkhagiala.Mật giáo thấy rằng hắn ta chính là phần phẫn lộ trong tâm từ bi được hóa sinh từ chữ “kiện” trong lục tự chân ngôn trong tâm quan thế âm bồ tát. ánh sáng xanh đen bao quanh cơ thể trông rất đáng sợ vì vậy gọi là Đại Hắc Thiên. Hắn ta là người được kính trọng nhất trong số những thần hộ pháp của mật giáo. Hình tượng tuy rất hung dữ nhưng là tam bảo để bảo vệ ngũ chúng. Theo truyền thuyết nếu cúng tế vị thần này sẽ có được thêm uy đức, hành sự thuận lợi, đồng thời hắn ta còn là thần thi phúc có thể mang lại phú quý cho thế gian, thậm chí là cả quan vị và bổng lộc…
Đạt Thố Hoạt Phật đã gọi hắn ta là Đại Hắc Thiên vì thứ nhất hắn ta là thần hộ pháp,thứ 2 nếu cúng tế vị thần này sẽ có được uy đức, làm ăn thuận lợi, thứ 3 là vị thần này có thể mang lại phú quý, quan vị và bổng lộc cho thế gian.
Đáng tiếc là Dương Hạo chỉ hiểu được một phần ba trong số những gi hắn ta nói chỉ hiểu được chí tôn hộ pháp. Biết được mình đã có được sự chấp nhận của Hoạt Phật, lấy đó làm điều kiện để xây dựng mối quan hệ đồng minh giữa hai người. Hắn nói:“Dương Hạo nguyện cùng với Hoạt Phật cùng tôn cùng vinh xây dựng đại nghiệp”
Hoạt Phật mỉm cười bưng ly trà lên:“Thái úy, mời”
Hoạt Phật là chủ trì của tự, vì vậy về y, thực hay lễ nghĩa nghênh tiếp hàng ngày cũng đều rất nghiêm. Hoạt Phật thăng tọa cũng là một sự kiện vô cùng quan trọng. Khi tiếng hiệu trống chiêng vang lên thì các tín đồ đang tập trung trong đại điện lập tức yên lặng, bọn họ đến từ nhiều nơi khác nhau với đây để bái phật. Có thể đứng ở đây vào thời khắc này đều là những nhân vật có máu mặt, nhưng ở đây họ chỉ là những tín đồ trung thành; tiếng chiêng vừa vang lên thì đều thành tâm nhất loạt quỳ xuống.
Dương Hạo lại ra trước cửa cung Ung Đức, được thượng sư dẫn đường hướng về phía thượng viện, bước vào chính điện cung Ung Đức, ở giữa chính điện là một bảo tọa cao 3 thước rộng 4 thước, toàn bộ đều làm bằng đồng vàng; 4 mặt đều có 9 con rồng vàng, bên trên đều trạm rất nhiều hoa, rồng, sư tử bằng bạc; trên tọa có trưng bày pháp y, pháp khí bên phải, trái của bảo tọa đều có những cây cột lớn bên trên có khắc 4 con rồng vàng, phía dưới là 8 con sư tử bằng đồng trông giống như thật. Trên điện có treo bộ đèn màu kích thước to nhỏ khác nhau, lung linh huyền ảo, bốn bên đều treo tranh thêu nhiều màu sắc, tổng có khoảng hơn 200 pho tượng phật bằng đồng vàng, phong cách có khác biệt với phật giáo đại thừa trung nguyên.
Đạt Thố Hoạt Phật, đội ngũ tăng, mặc y tăng ngồi trên bảo tọa, nhìn về phía Dương Hạo. Dương Hạo không đợi người chỉ dẫn liền bước lên dọc 6 chữ nguyền rủa Đại Minh.
Đạt Thố Hoạt Phật ngồi trên bảo tọa thân thái vững trãi như núi. Dương Hạo bước tới trước mặt, chắp tay cúi lưng quì xuống bái lạy Hoạt Phật 3 lễ.
Mộc Vũ lúc này đang đứng trước cửa điện, nhìn thấy như vậy 2 bên lông mày đang cong hình kiếm bỗng thẳng ra, giơ tay rút đao, Diệp Đại Thiếu đứng bên cạnh nhìn thấy vậy liền giữ chặt tay hắn nói nhẹ:“Người muốn làm gì vậy?”.
Mộc Vũ từ trước tới nay đền ở bên cạnh Dương Hạo, đặc biệt tối qua Dương Hạo còn tha cho tỉ tỉ và tỉ phu của hắn ta, không những không phạt tội cũng không tước đi binh quyền, Mộc Vũ vô cùng cảm kích xem hắn ta như cha mẹ của mình vậy.Nhìn đại nhân phải hành lễ trước hòa thượng Tây vực thấy vô cùng tức giận, mặt đỏ tưng bừng, phẫn nộ nói:“Con lừa hói này vô lễ, đại nhân của chúng ta là Tiết độ Hằng Sơn, là thái úy đương triều, đến ngay cả khi gặp hoàng thượng cũng không cần phải hành lễ như vậy. Đại nhân bái hắn ta thì hắn cũng phải bái lạy đại nhân, đằng này lại ngông ngênh nhận của đại nhân ta 3 lễ, để ta đi lấy cái đầu chó của hắn, xem hắn còn dám ngông ngênh như vậy không.”
Bích Túc ăn vận gọn gàng đang đứng ở bên cạnh nói:“ Người đại nhân bái lạy không phải là hắn”
Mục Vũ hỏi lại:“Thế là thế nào?”
Mộc Bằng Vũ từ từ nói:“Đại nhân bái lạy phật có quyền thế trí cao vô thượng, là tấm lòng của mấy mươi vận lão bá tánh Hồi Hất, Thổ phồn, Hán, Khương Tây Bắc”
Mục Vũ không hiểu được hết, chỉ hiểu rằng đại nhân làm như vậy là có dụng ý, chắc không phải chịu thiệt, vì thế dần dần nuốt cơn tức và cất dao đi.
Dương Hạo hành lễ xong đứng dậy, lập tức có người dâng lên Cáp Đạt. Dương Hạo đưa hai tay ra nhận lấy, đưa lên qua đỉnh đầu rồi cúi lưng xuống đi về phía Đạt Thố Hoạt Phật.
Khuôn mặt vốn gầy guộc của Hoạt Phật lúc này mới hơi tươi tỉnh, người đưa tay ra nhận Cáp Đạt mà Dương Hạo dâng lên rồi đứng dậy. Từ bên trái bảo tọa bước xuống năm bậc, từ từ tiến về phía Dương Hạo, hai tay bê Cáp Đạt đưa lại cho Dương Hạo.
Dương Hạo sớm biết lễ nghĩa liền cúi xuống nhận lễ, tiếp nhận Cáp Đạt. Hoạt Phật để Cáp Đạt lên trên cổ Dương Hạo, cười nói:“ Đi theo ta”. Nói xong Hoạt Phật liền quay người về phía bảo tọa, Dương Hạo chắp hai tay từng bước từng bước theo sau. Chúng cao tăng thượng sư trong điện và quan lại ở Lô Châu đều vô cùng kinh ngạc, còn nhiều tín đồ thì càng lo sợ hơn không biết vì sao, chỉ thấy hai người vai sát vai ngồi trên bảo tọa, Đạt Thố Hoạt Phật liền hướng về phía cao tăng tín đồ nói:“Bổn tọa nhận thấy, Dương thái úy tài vật vô số, chuẩn thế linh thần, giáo pháp ta chỉ tôn hộ pháp Mahagiala, Maxkhabala phổ độ chúng sinh, cứu thế hồng trần. Tính phật căn linh không mất đi, tìm tới trước xa giá của bổn tọa khiến bổn tọa nhận Dương thái úy làm môn đồ, tự hiệu là Cụ Bá, chỉ là hộ pháp phủ đỉnh khai chí, chỉ ra những sai lầm. Bổn tọa tu luyện là lai thể pháp, còn Dương thái úy tu luyện là thần gian pháp có thể nói là khác đường đi nhưng cùng chung một đích. Đó đều là phật pháp vô thượng, tu hành thành quả, không cao không thấp, có thể coi là thượng sư của nhau không phải hành lễ đệ tử”
Dưới điện bỗng ồn ào
“Cương kim cống bảo quả nhiên là cương kim cống bảo chuyển thế linh”
“makhagiala...”
“makhabala...”
“Hoạt Phật Tây Vực ta có đến hơn trăm người, cương kim cống bảo chuyển thế linh thân chỉ tìm đến Đạt Thố Hoạt Phật để học hỏi mở mang trí tuệ, quả nhiên Đạt Thố Hoạt Phật thần thông quảng đại, đaọ hành thâm hậu”
Thượng sư cao tăng, tín đồ khắp nơi đều lần lượt bái lạy. Phạm Tư Kì, Lâm Bằng Vũ cùng nhiều người khác thở phào nhẹ nhõm cũng cúi xuống bái lễ
Tin Dương Hạo Lô Châu là kim cương cống bảo chuyển thế được truyền đi như gió. Có tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn. Chẳng bao lâu Lô Châu đã là một nơi vô cùng quan trọng trong lòng hàng vạn lão bá tánh Tây Bắc. Điều này có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao vị thế chính trị của Lô Châu.
Dương Hạo đã giành được cái khó giành nhất của đất Tạp Hồ Tây Bắc này, đó là lòng dân. Nhưng cũng không thể phá vỡ cái cơ sở không tốt để đưa mật giáo vượt lên trên chính quyền, phải tranh thủ khi lực lượng của mật giáo đang hùng hậu mạnh mẽ, nhưng Hoạt Phật mật tông không có cách nào để thống nhất chế ngự được lực lượng to lớn như vậy. Vì thế nhu cầu cấp thiết là phải có được sự ủng hộ mạnh mẽ của chính quyền, cùng tạo dựng đồng minh với Đạt Thố Hoạt Phật, chính quyền và giáo quyền cần có sự tách biệt rõ ràng. Lợi dụng uy thế đó trong khi lòng người vẫn đang ủng hộ, nha phủ Lô Châu lại được thăng cấp đã cho xây dựng Tiết Lập phủ.
Công Tôn Khánh được mời ra nghe tuyên đọc chiếu mệnh ban thưởng hai tinh nhị tiết, có được tinh tiết này là có được chuyên quyền quân sự. Phía trước nha phủ dựng lên lục cán đai mâu, ở phía Tây lại dựng Bạch Hổ tiết đường uy thế rất hùng mạnh.
Tiết độ sứ tập trung quân, dân, tài ba quyền chính trong tay, toàn quyền nắm giữ bộ hạ. Có thể điều động binh lính bất cứ lúc nào không cần đến lệnh của triều đình. Trong nội hạt có thể nhận được cung ứng về tiền của và lương thực, khống chế thuế. Vốn dĩ những việc này thuộc về quản lí dân sự mà chính phủ trung ương nhận mệnh, quan lại tài chính vì thế trở thành người dưới quyền mà hắn có thể tự bổ nhiệm. Tiết độ sứ chỉ nắm binh quyền điều đó không đáng sợ, vấn đề quan trọng là hắn ta có thể khống chế được dân chính và tài chính của cả nội hạt. Chính hai điều này đã giúp tiết độ sứ nắm chắc được binh quyền, có thể không ngừng mở rộng quân binh
Từ khi thái tổ kế vị để cắt bổ đi quyền vây binh và nhiều tệ nạn khác đã sử dụng nhiều chính sách linh hoạt để làm giảm đi quân quyền, chính quyền, tài quyền của tiết độ sứ. Càn Đức năm thứ 3 Triệu Khuông Dận hạ lệnh tăng cường quyền lực cho chuyển vận sứ, tiền thuế thu được ở các địa phương ngoài việc sử dụng cho quân phí hằng ngày thì toàn bộ đều chuyển về trung ương, tước bỏ đi quyền tự sử lí tiền thuế của tiết độ sứ. Cũng trong năm đó lệnh cho Châu phủ phải phái hết tinh binh lên trung ương giảm bớt binh quyền ở địa phương.
Sau khi bình định Kinh Hồ người đã hạ lệnh các châu phủ Kinh Hồ thuộc về triều đình chứ không thuộc về tiết độ sứ nữa, đồng thời rất nhiều quan lại được bổ nhiệm khiến tiết độ sứ không được phái ra ngoài mà chỉ ở lại kinh sư hoặc giả có được phái ra ngoài thì cũng chỉ ở những vùng nội hạt, những địa phương lân cận thuộc về triều đình hay những nơi mà Triệu Khuông Dận có quyền uy tối cao mà thôi. Vì thế tiết độ ở các địa phương ắt sẽ không dám lạm quyền. Phương pháp tập quyền mà Triệu Khuông Dận sử dụng rất ôn hòa và tiệm tiến.
Trên danh nghĩa thì tiết độ sứ vẫn giữ quyền lực rất lớn, chỉ có điều bọn họ sẽ không có cơ hội để thực sự được nắm giữ quyền lực này, tiết độ sứ cuối cùng trở thành hư danh. Trên danh vận cũng không còn nắm quyền lực về quân, chính, tài quyền nữa.
Sau khi Triệu Quang Nghĩa kế vị tròn một năm hạ lệnh tất cả quân binh và thuộc hạ của tiết độ sứ đều thuộc về triều đình lấy thần triều bổ nhiệm tri châu tri phủ.
Giờ đây Dương Hạo đã dành được phần lớn ưu thế Lô Châu cách Lân Châu hai châu, trời ở trên cao, hoàng đế thì ở xa, lại không chịu sự quản chế của bất kì châu phủ nào, vì thế có thể nắm giữ được quyền lực trên cả thực tế và danh nghĩa. Chiến loạn khắp nơi, trong thời thế loạn lạc, anh hùng xuất hiện khắp tứ phương. Trong đó có Thảo Đầu Vương, hắn ta là tiết độ một phương cũng là hoàng đế trên nước đó rồi.
Quan lại của tiết độ sứ có phó sứ, chi sứ, hành quân tư mã, phán quan, thôi quan...Tướng tá gồm: át nha, ngu hầu, binh mã sứ, tiết độ sứ, phó đại sứ biết rõ từng người tiết độ sự, hành quân tư mã, phán quan, chi sứ, thôi quan, tuần quan, nha chùy.Tiết độ phó sứ có mười người, quán dịch tuần quan bốn người, phủ viện pháp trực quan, yếu tịch, trục yếu thân sự mỗi chức vụ một người, tùy quân bốn người.
Về căn bản Triệu Quang Nghĩa chưa thực hiện kế hoạch để Dương Hạo sống sót trở về Tây Bắc. Vì vậy hắn ta không những khảng khái rộng lượng mà ngay cả quan sát sứ, chi độ sứ cũng không hề phái đi chỉ là trên chiếu thư nói một câu do hắn ta biết phủ châu sự. Lúc này Dương Hạo có thể chọn ra một tiết độ sứ trong số những thuộc hạ của mình, nhưng vì vừa mới nhận chức nên không dám lạm quyền chỉ có thể xin chỉ thị từ triều đình. Dương Hạo lần này trở về không muốn chịu sự khống chế của Triệu Quang Nghĩa nữa mà tự mình kiêm quan sát sứ và chỉ độ sứ, lại lập doanh điền, chiêu quá, khiển vận phán quan, tuần quan mỗi chức một người. Lúc này trên danh phận lẫn luật pháp hắn ta đều hợp lí để nắm toàn bộ đại quyền của đất Lô Châu trong tay, trên địa vị ngang bằng với Triết thị ở phủ châu, Dương thị ở Lân Châu, Lí thị ở Hạ Châu trấn giữ một phương.
Dương Hạo giành được tiên cơ, đoàng hoàng trở thành tiết soái, thuộc hạ đều có định chế, nhưng từ đó quan lại thuộc hạ của hắn ta có hạn. Từ một phủ nha đã có thể trở thành một tiết trấn, rất nhiều chức quan vẫn còn trống nhưng Dương Hạo không vội bổ sung thêm, chi bằng cứ để trống một số chức quan, Lô Châu bé như vậy cũng không cần quá nhiều quan lại. Tiếp đó hắn ta tạo dựng thế lực mạnh hơn nữa cho đến khi có được Ngân Châu có thế ngang bằng với Tây Bắc tam phiên, có những chức quan trống như thế này còn sợ gì tướng sĩ không tận tâm tận lực.
Còn Công Tôn Khánh vì đã hết giá trị lợi dụng nên Dương Hạo đã sai trở về Dịch Châu tiếp nhận tướng ngu hầu phò tá quan trùy Mộc Tắc phu. Lần này từ Phan về kinh, thiên uy của hắn ta khó có thể đoán trước được. Nhưng Công Tôn Quyền vốn là thư sinh bất lực phản kháng, gia tộc lại ở Biện Lương cũng không dám phản kháng chỉ biết lấy đầu ra để tiếp nhận, số mệnh không thể đoán trước được.
Còn Dương Hạo từ khi là cương kim cống bảo chuyển thế linh thân, makhagiala hộ pháp tái thế, tiết độ Hằng Sơn tiến hành khai nha kiếm phủ tập trung vào quyền thế, tiếp tục nghênh tiếp hắn ta còn có phủ cốc Chiết Ngự Huân, Lân Châu Dương Sùng đích thân đến Lô Châu bái kiến chúc mừng. Hai vị tiết độ sứ này chỉ tới đất Minh thôi đã làm cho 4 phương phải chấn động, Tây Bắc vốn có tam thuộc quốc giờ lại có thêm một Dương Hạo nữa. Dương Hạo vừa khai nha kiếm phủ thì trong số tam thuộc quốc đã có hai vị đích thân đến để chúc mừng, điều đó có ý nghĩa gì? Điều đó cho thấy chỉ trong một thời gian ngắn Dương Hạo đã định vị được địa vị của mình ở Tây Bắc, tin tức này đã nhanh chóng được truyền tới Hạ Châu và Biện Lương. Triệu Quang Nghĩa ở Biện Lương không biết sẽ cảm thấy chấn động như thế nào, ít nhất đối với Hạ Châu bốn bề đều là địch mà nói thì Dương Hạo bỗng nhiên nổi lên như thế cũng chẳng phải tốt lành gì
Tới hội kiến Dương Hạo còn có tiết độ hai châu, Lân Phủ, Thất thị Đảng Hạng cũng bí mật phái tín sứ đến, Đạt Thố Hoạt Phật còn phái đệ tử là Xích Bang Tùng tặng Dương Hạo lễ vật lớn. Xích Bang Tùng là người đứng đầu bộ lạc lớn nhất trong số những bộ lạc ở Thổ Phồn, Thổ Phồn ngày nay đã khác xa nhiều với khi xưa rồi nhưng rải rác trở thành nhiều bộ lạc riêng rẽ với nhau, võ lực của họ vẫn rất mạnh.
Còn người đã lâu chưa lộ mặt Đinh Thừa Tông khi đó cũng mang 2 món lễ vật bí mật, xuất hiện ở Lỗ Vĩ cách phủ Lô Châu đến trăm dặm.
Bình luận facebook