-
Chương 2
Hai
Năm 581, triều nhà Trần
Mặt trời lên cao vượt qua thành Kinh Châu và tấm biển sơn đen ghi dòng chữ: “Cửa Sông”. Mặt trời chẻ đôi mây mù và ném những mũi lao ánh sáng của nó vào khu chợ. Năm này sang năm khác, thực phẩm ngày càng đắt và khách chỉ quen bu vào những sạp nhỏ. Họ giẫm đạp lên nhau và trả treo phun cả nước bọt vào nhau để rồi chẳng tìm được gì hợp với túi tiền của mình. Họ thất vọng đi lang thang ngoài đường, buông những lời lẽ chế giễu người này, người kia. Rồi đùng một cái, họ bổ nhào vào một lái buôn đang bán đổ bán tháo mọi thứ. Ôi thôi là tiếng nói, ôi thôi là tay nào tay nấy cố giơ cao. Người ta chen lấn rồi cãi cọ. Rau quả bay tới tấp giữa đám cãi cọ ồn ào.
Chàng thổi sáo đi bộ giữa đường. Chàng đi thẳng và cứ đi thẳng chẳng để ý gì. Đầu quấn vải màu tối, mặc một bộ quần áo cũ kĩ đã sờn màu, chàng bước đi trên đôi chân cao ráo, luôn giữ dáng thẳng, còn lưng hơi khòng. Những kẻ đói ăn và đang vội đi ngang qua chàng mà không hề xô đẩy chàng. Có lẽ họ nhìn thấy cây đàn cổ cầm chàng mang trên lưng nên hiểu rằng chàng kiếm sống bằng âm nhạc và đến chợ không phải để giành miếng ăn với họ. Có lẽ họ nhận ra trong bước chân chàng sự mệt mỏi và lạnh lùng của một kẻ tay trắng, có lẽ họ tránh đụng vào chàng để khỏi bị lây sự xúi quẩy và khốn khổ.
Gió vuốt nhẹ khuôn mặt chàng và gửi vào tai chàng một chuỗi âm thanh xì xào. Chàng mở mắt ra. Khu phố được bao quanh bởi những ngôi nhà mái ngói nâu đỏ dựng đứng giống như một con cá dữ câu được trên biển Hoàng Hải. Tiếng xì xầm của người, tiếng lăn bánh của xe hàng, tiếng lách cách của chai lọ, tiếng dao thớt và tiếng gà vịt bị cắt tiết vẳng lại, hòa vào nhau tồi tán ra làm thành một thứ âm nhạc chầm chậm, len lỏi trong đầu chàng rồi vào đến tận ngực. Chàng lắc lư cái đầu đánh nhịp.
- Thẩm Phong, không chào nhau một tiếng sao?
m nhạc ngưng bặt. Chàng quay lại.
Lưu Bé Bự, tay buôn đồ cổ, vẫy vẫy chàng ở trước cửa tiệm.
- Đến đây! Cạn chén trà nào!
Chàng ngập ngừng một thoáng rồi đi tới.
- Đã nói trăm nghìn lần, khi nào qua phố thì ghé đến đây. Lúc nào cũng có trà nóng nhé! Đến đây! Đến đây! Vào đây, nhanh nào!
Chàng theo chân Lưu Bé Bự lên lầu. Hai cô hầu gái nâng rèm lụa chào mời:
- Đại nhân, xin mời vào!
Đi qua cửa, Thẩm Phong cảm nhận được cái nhìn lén của hai cô hầu vào đôi giày dính đầy bùn của chàng. Đêm qua trên núi trời mưa. Để vào thành buổi sáng, chàng đã phải băng núi ban đêm. Mải mê lắng nghe tiếng oàm oạp của ếch nhái và tiếng vo ve của côn trùng khi đi qua rừng nên nhiều lần chàng bị trượt chân, ngã nhoài trong bóng tối.
Một tấm thảm bằng lụa và len màu đỏ son được trải trong phòng. Lưu Bé Bự chỉ cho chàng một chiếc ghế có gối thêu:
- Ngồi, ngồi đi!
Ngồi trên ghế, Thẩm Phong cởi giày. Đôi tất rách của chàng cũng bị những cô hầu nhìn soi mói. Họ thầm chế nhạo chàng. Lưu Bé Bự giả vờ không biết gì hết. Y ra lệnh mang trà đến. Thấy chàng đã yên vị, y nói lớn:
- Thẩm Phong, đưa ta xem vật báu này xem nào! Tên nó là gì?
Không chờ câu trả lời, tay buôn đồ cổ chụp lấy nhạc cụ, tháo sợi dây mảnh rồi lôi nhạc cụ ra khỏi bao. Y mang cây đàn ra chỗ có ánh sáng, mân mê trong đôi tay của mình để ngắm nghía hình dáng và màu sắc của nó.
- “Sóng cuộn”, - y đọc được ở mặt trong của thùng đàn.
Y đặt cây đàn cổ cầm lên đầu gối, dùng ngón trỏ gõ nhè nhẹ vào thân đàn.
Thẩm Phong thót cả tim khi Lưu Bé Bự đặt bàn tay thô lậu của y lên cây đàn. Chàng luôn thấy khó chịu khi người khác chạm vào những cây đàn của mình. Chàng nhìn ra chỗ khác và tập trung thưởng thức trà đã dọn ra.
Không cần xin phép chàng, tay buôn đồ cổ gảy lần lượt cả bảy dây đàn rồi bắt đầu chơi nhạc. Sau đó y hét lên:
- Tinh khiết! Sâu thẳm! Quả là đặc biệt. Thẩm Phong, cậu làm đàn còn giỏi hơn cả sư phụ của cậu đó!
Chàng trai trẻ nhấp một ngụm trà, không trả lời. Lưu Bé Bự cũng nâng chén, suy nghĩ một chốc rồi nói, giọng thương xót:
- Ông thợ đàn già nua khỏe không? Đã lâu rồi không thấy vào thành. Hay là lão ấy bệnh rồi?
- Sư phụ tôi vẫn khỏe, cảm ơn ông quan tâm.
- Thẩm Phong à, ta là bạn với sư phụ cậu từ lâu rồi, ta biết lão ấy từ triều trước kìa. Đừng có dối ta. Sao dạo gần đây đàn toàn do tay cậu làm cả chứ? Sư phụ cậu đâu? Lão bận đàm đạo với thầy pháp cả rồi sao?
- Ít có người đặt làm đàn. Tôi làm là đủ.
Lưu Bé Bự cười gian xảo.
- Ta đã nói với sư phụ của cậu rồi mà! Mà lão có nghe ta đâu kia chứ! Ở phương Bắc, các vương triều man rợ chém giết nhau mãi. Còn ở đây, xứ mình thì nội chiến tàn khốc quá. Hai bên dòng Dương Tử giờ chiến tranh kinh hoàng làm hỏng hết lỗ tai và bóp nghẹt hết tâm hồn rồi. Quý tộc chẳng còn dạy dỗ lũ trẻ nữa, còn người nghèo thì chết đói hay tòng quân cả rồi. Chả còn ai ham học đàn, học nhạc nữa. Trước đây, ta đón những văn nhân thi khách thượng hạng của xứ Trung Nguyên. Giờ thì chỉ có đám tiện dân hầu bao đầy vàng ngọc là lui tới chỗ ta thôi. Chúng nó mua hàng rồi chẳng quay lại nữa. Vì ngay sau đó chúng bị chém đầu cả rồi! Chẳng còn nhiều người đặt hàng nữa âu cũng là lẽ đương nhiên. Thiên hạ lầm than quá, lầm than quá. Thẩm Phong, cậu nghĩ gì vậy?
Chàng không nghĩ gì và cũng không bàn tán gì. Thiên hạ lầm than cũng như đôi giày cũ kĩ làm từ lông cừu mà chàng đi ngoài đường sá, cũng chẳng khác gì tình trạng của chàng. Chàng định đi nhưng tay buôn đồ cổ giữ chàng lại:
- Trước khi đi, hãy nghe ta nói. Sư phụ cậu già rồi. Kệ lão ấy nếu lão chẳng nghe ta nói. Còn cậu, cậu còn trẻ, cậu phải nghĩ tới tương lai của mình. Há chẳng phải cậu muốn lấy một cô vợ xinh đẹp, sinh hạ cho cậu con đàn cháu đống sao? Cuộc đời chốn sơn lâm mãi võ chả hấp dẫn gì những cô gái đâu. Rồi để ăn no mặc ấm thì cần phải có tiền. Phải trả tiền cho hết bà mai rồi tới gia quyến nữa. Không có tiền, cậu chỉ lấy được hạng đui què mẻ sứt hay điên điên khùng khùng thôi… Hoặc là không bao giờ cưới được vợ, vì giá phụ nữ tăng lên qua từng cuộc chiến tranh…
Ánh mắt chòng chọc của Lưu Bé Bự làm chàng đỏ mặt đến tận mang tai. Thẩm Phong có cảm giác Lưu Bé Bự đọc được từng giấc mơ ban đêm của chàng. Chàng nhấp thêm trà để xóa nỗi hoang mang. Nhưng giọng nói của tay buôn đồ cổ lại vang lên:
- Thời nay chẳng mấy ai biết nghe nhạc. Nghệ thuật chơi đàn cổ cầm tiêu biến rồi mà cái vinh dự có được một cây đàn thì vẫn còn. Những quan lại mới nổi và quan lại triều đình vốn ngày xưa chỉ là những kẻ hèn mạt, những ông hoàng này ngày xưa chổng mông cặm cụi ngoài đồng giờ lại đâm ra mê những đồ cổ còn sót lại qua nhiều cuộc chiến. Kẻ nào cũng mơ có được một cây đàn cổ cầm cổ trên bàn để ra vẻ quý phái và có học. Khi chúng mua đàn, chúng thích tán dương lẫn nhau. Vì chỉ có những kẻ giàu có và uy quyền nhất mới mua được đàn đắt nhất. Cách đây tám tháng, ta bán được một cây từ thời Tam Quốc mà theo truyền thuyết là cây đàn của tướng quân Chu Du nhà Đông Ngô. Cậu đoán giá chót xem bao nhiêu…
Khuôn mặt Lưu Bé Bự nhăn lại như bông hoa lài. Y ghé sát tai Thẩm Phong thì thầm:
- Không ít hơn một trăm lượng vàng ròng.
Lưu Bé Bự đứng dậy, đi ra phía sau tấm màn gió có bức vẽ thư pháp tuyệt đẹp khảm xà cừ, rồi đi ra với một hòm gỗ thếp màu tím có hoa bằng vàng trong tay. Y quỳ gối, cẩn thận đặt nó lên thảm, lấy đai chìa khóa trên thắt lưng rồi chọn một chiếc mở cái khóa. Y nhấc một vật được quấn nhiều lớp vải lên. Y nhẹ nhàng tháo băng vải, để lộ ra một cái bao tre hơi tã rồi lôi ra một cây đàn đầy cát có một góc đã hỏng.
- Một kỳ quan chứ hả? Đích thị là vậy! Này, chạm vào nó xem! - Lưu Bé Bự vừa nói the thé vừa đặt nó lên đầu gối của chàng thợ đàn trẻ.
Thẩm Phong thổi bụi trên mặt đàn rồi nâng vạt áo chùi từng chút. Thoạt nhìn, chàng nhận thấy đó là một cây đàn có nước sơn cũ lắm rồi, mang trên mình những vết rạn hình vảy cá. Chàng đem nó ra ánh sáng rồi quay ngược nó lại. Bên dưới, một cái tên được khắc theo kiểu khắc trên trống vàng đã bị phai đi nhiều. Duỗi thẳng tay cầm, chàng ngắm nghía nó ở xa một chút. Dù nhạc cụ đã được đẽo theo kiểu phổ thông nhất dưới thời Hán, nó vẫn không có được vẻ thanh thoát vốn có của thời ấy. Chàng trả nó lại cho Lưu Bé Bự mà không nói lời nào.
- Nhìn nó lần nữa đi. Chẳng thể ngắm được vẻ đẹp nào tương tự nó đâu. Nó là kỳ phẩm thời nhà Hán vinh hiển đó. Thật kỳ diệu, nó đã thoát khỏi những bộ tộc dã man cướp phá và sống sót qua chiến tranh! Cậu có biết nó thuộc về ai không? Thuộc về nàng Sái Văn Cơ, tác giả của Bi phẫn thi và Hồ già thập bát phách. Cậu không muốn thử âm thanh của nó hay sao? Cậu có muốn lên dây ngay tại chỗ không?
- Không. Không cần. - Thẩm Phong trả lời. - Cây đàn cổ cầm thời Hán giả sẽ tạo ra những âm thanh đục ngầu: nó dùng để trang hoàng bàn ăn hoặc để treo trên tường, không dành cho nghệ sĩ. Cảm ơn vì chén trà. Xin phép ông cho tôi được đi.
Khuôn mặt của tay buôn đồ cổ méo xệch. Y hết nhìn cây đàn rồi nhìn chàng thợ đàn trẻ tuổi. Bất thình lình, y bật cười.
- Được. Được lắm. Nó là đồ giả đó! Ta muốn thử mắt cậu thôi! Sư phụ của cậu nói với ta, lão đang nuôi dạy một thiên tài. Ta nghĩ lão bốc phét. Nhưng lão đã không dối ta! Thẩm Phong, ta cần cậu và cậu cần ta. Ta muốn cậu làm cho ta một cây đàn theo kiểu thời nhà Hán sao cho người ta không bao giờ nghi ngờ nó là đồ giả. Ta sẽ cho cậu một phần tư tài sản của ta.
Thẩm Phong nghiêng người lần nữa rồi đứng dậy.
- Xin thứ lỗi. Tôi phải đi.
Tay buôn đồ cổ nhảy phóc dậy, mặc dù y rất nặng nề, rồi biến mất sau tấm màn gió trước khi nhanh chóng trở lại.
- Hãy cầm lấy, một món quà. Cuốn Hồ già thập bát phách. Cẩn thận, nó đã được sao chép từ bản viết tay ở thư khố triều đình Đông Ngô. Trong số những phiên bản còn tồn tại, nó nổi tiếng là trung thành nhất với bản gốc.
Thẩm Phong muốn từ chối nhưng tay chàng đưa ra nhận cuốn sách dù không hề muốn. Chàng gần như giật nó từ tay gã buôn đồ cổ rồi cúi người thật thấp.
- Không cần cảm ơn, - Lưu Bé Bự hoan hỉ nói. - Hãy nghĩ tới đề nghị của ta. Chúng ta sẽ kiếm được rất nhiều tiền đó!
Nhìn chằm chằm khuôn mặt của người thợ đàn trẻ tuổi, y hớn hở nói đến bắn cả nước bọt:
- Con gái của nhà thơ vĩ đại Sái Ung là nàng Sái Văn Cơ từng bị người du mục bắt. Trong mười hai năm, nàng đã sống trong gió phương Bắc, giữa ngựa và cừu, nàng đã viết mười tám điệu phách cho đàn cổ cầm để thể hiện nỗi buồn và thương nhớ quê nhà. Nàng đã được Tào Tháo chuộc lại bằng một xe chở đầy vàng ngọc, châu báu cho người man di. Theo thiển ý của ta, một cây đàn nàng từng chơi chắc sẽ có giá ít nhất là hai trăm lượng vàng ròng. Được rồi… ta có một vụ hay hơn… Khi nàng Sái Văn Cơ trở về Trung Nguyên, nàng đã tặng cây đàn của nàng cho Tào Thực, là con thứ hai của Tào Tháo. Cũng là một nhà thơ nổi tiếng giống cha là Tào Tháo, Tào Thực bị anh mình là Tào Phi giết vì ghen tài. Tào Phi soán ngôi, lật đổ triều Hán, lập triều Tào Ngụy. Sau đó, cây đàn này đã thuộc về bộ sưu tập của các hoàng đế. Nhưng hỡi ôi, trong cuộc chinh phạt cuối cùng của người man di, nó đã bị một con hầu trong triều cướp mất rồi trốn thoát khi triều đình vượt sông Dương Tử. Một trăm năm sau, ta, nhà buôn đồ cổ họ Lưu, tìm được nó trong nhà một người nông dân. Sao ta lại nói nó thuộc về nàng Sái Văn Cơ ư? Nghe này Thẩm Phong và ghi nhớ trong lòng cậu, bởi vì trên lưng nó được khắc tên là…
Lưu Bé Bự ngừng lại, đằng hắng rồi vừa phủi phủi tay vừa nói tiếp:
- “Đàn du mục”! Cây đàn nào cùng tên, ta sẽ bán ba trăm lượng vàng! Nói xem, ta phải để dành một phần tư số tiền kiếm được cho kẻ môi giới, rồi ta đưa cậu một phần tư trong khoản còn lại, cậu sẽ có nhiều tiền vàng lắm đó. Lấy đó mà mua một ngôi nhà trong thành cho cậu và sư phụ của cậu, hầu gái và nô bộc sẽ vây quanh cậu, rồi cậu sẽ có một đám cưới đẹp như mơ.
Thẩm Phong ngập ngừng một thoáng rồi trả cuốn sách lại cho tay buôn đồ cổ.
- Tôi không thể. Sư phụ và tôi không phải là kẻ làm đồ giả. Chúng tôi không giữ được thanh danh nếu làm như vậy.
Một nụ cười nhếch mép hiện trên khuôn mặt của tay buôn đồ cổ nhưng y vẫn tiếp tục cười nói.
- Giữ cuốn sách đi. Cậu làm vậy khác gì sỉ nhục ta! Thậm chí, nếu cậu không làm cây đàn cho ta, thì hãy cứ giữ món quà này! Vì âm nhạc.
Tới cửa, y đưa tay phải lên che miệng rồi thì thầm:
- Đừng nói với ai nhé! Bí mật đấy. Đi đi, về nhanh lên. Đừng có ngớ ngẩn. Cậu đang ở tuổi lập thất. Sư phụ cậu sẽ rất vui nếu có cháu chắt đó!
Hai cô hầu trẻ cúi người nâng rèm cửa, tươi cười:
- Kính chào đại nhân!
Thẩm Phong đi xuống đường, Lưu Bé Bự đi theo.
- Bí mật là ở chỗ: Cổ nhân đã không ghi chú trong kinh thư nhà Hán hình dáng và những điểm đặc biệt của những cây đàn thuộc về nàng Sái Văn Cơ. Tùy cậu đấy…
Thẩm Phong đi giữa đường, giữa những tiếng ồn ào. Chàng sờ ngực mình. Cuốn sách nhạc vẫn ở đó, dính chặt vào ngực chàng. Như thể nó đánh thức chàng ra khỏi một giấc mơ hỗn loạn và không màu sắc; một cảm giác lạ lùng, sung sướng lẫn buồn bã, ghê tởm lẫn hy vọng choàng lấy chàng.
Những giọng nói lảo đảo, tung vào nhau, văng tục và đáp trả nhau. Những con buôn nay đây mai đó hết lời ca ngợi điều kỳ diệu ở những nồi niêu, xoong chảo, hũ lọ, vải vóc, đồ ăn thức uống, rồi thổi cả ống sáo để gây sự chú ý của khách. Những người bán hàng thuê những đứa trẻ con giọng còn thanh để chèo kéo người qua đường. Các nhà sư hành hương đi ngang qua thành thì gõ gõ chuông đồng. Ở một góc ngã tư, người làm xiếc nhào lộn theo nhịp trống hoặc đấu kiếm với nhau trong khi những đứa trẻ đánh cồng bằng đồng và xướng to công dụng của các loại thảo dược làm người chết bỗng sống lại và làm kẻ bất lực bỗng trở nên mạnh mẽ trên giường. Tất cả những âm thanh đó nhét đầy tai chàng. Như những trái chín bị một bàn tay vô hình vò nát, những âm thanh đó biến thành một ngụm rượu nhỏ thơm nồng.
Thẩm Phong không quen cô gái nào cả. Ở vùng núi Bắc, trong làng, phụ nữ giống hệt đàn ông. Họ còn mạnh khỏe hơn đàn ông, ngày ngày địu con trên lưng đi làm ruộng. Họ cắt tiết thỏ rừng và vặt lông gà lôi trước cửa nhà giữa một vũng máu tươi. Khi gặp mâu thuẫn với hàng xóm, họ phỉ báng nhau rồi ẩu đả. Khi đàn ông bị ngã xuống vực hay bị hổ báo tấn công, cũng chính họ sẽ cầm lấy cung tên và rìu. Những góa phụ có thể đi săn, đẽo gỗ, đi vào thành bán rau quả và thịt thú rừng săn được.
Cậu bé chơi với lũ con gái trong làng, thi xem ai tè xa nhất. Điểm khác biệt duy nhất là con trai có thể vẽ trên tường còn con gái chỉ được vẽ dưới đất. Từ mùa xuân đến những ngày cuối thu, cả làng giặt giũ và tắm táp dưới thác nước lớn. Những phụ nữ trần truồng mang hai bầu vú trước ngực, còn đàn ông có tới ba, nằm giữa hai chân.
Gần đây, chàng thợ đàn cảm thấy có chút buồn rầu vì một cảm giác lạ làm chàng bồn chồn mỗi khi chàng ở quá lâu trong làng dưới sự trông coi của sư phụ già nua. Ngay khi có thể là chàng nhảy vào thành, lòng tràn ngập niềm vui. Khi đã ở trong phố, bơi giữa đám người thành thị, chàng nhận ra rằng, sự phấn khích và chen lấn không thể nào cầm được cơn khát của chàng. Ngược lại, chúng còn làm chàng thèm khát hơn trong sự chờ đợi một cái gì không thể gọi tên và chưa từng biết.
Gió thổi vào mũi chàng một mùi hương dìu dịu. Đó không phải là mùi phấn hoa, cũng không phải mùi trái chín. Chàng nhìn quanh và phát hiện thấy một người xuất hiện. Nàng cưỡi lừa và có hai con hầu nhỏ mang đồ đạc theo hộ tống. Khoác áo gấm thêu hình bướm và mặc áo vải màu thiên thanh, nàng đội trên đầu một cái nón rơm thật lớn. Một tấm khăn voan dài bằng vải trong và mịn màu trắng che khuôn mặt nàng để làm mờ các nét trên khuôn mặt. Khi nàng đi ngang qua ánh nắng, khuôn mặt nàng chợt sáng bừng lên, để lộ cái mũi thon, cái miệng tròn trĩnh, cái cổ cao duyên dáng nghiêng về phía trước.
Chàng thợ đàn trẻ tuổi nhìn theo nàng không chớp mắt. Nàng nhúc nhích một chút trên lưng lừa. Nhanh như cắt nàng nhảy lên, nhảy xuống. Theo từng chuyển động nhịp nhàng của cơ thể, hai tay áo của nàng rung rung để lộ ra nhiều lớp áo bên trong, dưới lớp áo khoác ngoài. Thẩm Phong bước vội, vượt qua nàng, rồi quay lại để nhìn được rõ hơn. Nàng đi vào chỗ có bóng râm. Khuôn mặt nàng biến mất sau những nếp nhăn của tấm khăn voan. Nhưng chàng có cảm giác sau tấm voan trắng mờ, nàng đang nhìn chàng sâu thẳm và thì thầm với chàng: “Phụ nữ.”
Phụ nữ!
Chàng đỏ mặt quay đi và hòa lẫn vào đám đông. Thấp thoáng sau rừng những bờ vai và mũ nón, chàng thấy nàng đi xa. Nàng cũng đi vào giữa con đường. Trong ánh nắng, bóng nàng như phồng lên rồi biến mất trong một thế giới không bao giờ có thể tới gần được.
Đó là một kiều khách đang đến một buổi dạ tiệc.
Tiệm Lỗ Tứ nép mình bên tháp chuông. Ở cửa ra vào, một con khỉ ngồi bắt chấy ột con chó. Bên dưới lồng chim, một con mèo nâu duỗi người, kêu meo meo, xù lông khi Thẩm Phong đi ngang qua nó.
Lỗ Tứ là thương nhân bán nhạc cụ, gốc gác thuộc một bộ tộc phương Nam. Tổ tiên của ông ta không phải quý tộc gốc nhưng họ đã thành quý tộc khi làm quân sư ở sân Rồng nhà Đông Ngô thời Tam Quốc. Khi Tào Ngụy thâu tóm Đông Ngô sau tám mươi năm liên miên chiến tranh, gia đình Lỗ Tứ mất hết gia sản nhưng chuyện dòng họ này ai ai cũng biết. Từ đó, dòng họ Lỗ Tứ không còn nắm quyền hành nữa. Tuy nhiên, họ vẫn giữ mối quan hệ giao hảo với những quan lại mới, nhờ vào tiếng thơm của dòng họ mình.
Là người hoạt bát và nhiệt tình, ông ta có thể kể lại chuyện đời xưa của tất cả các triều đình đã đóng đô ở bờ Nam sông Dương Tử. Tài năng diễn thuyết của ông ta và kiến thức lịch sử về bờ Nam nuôi sống ông ta. Để bán được các nhạc cụ, ông ta tới nhà khách hàng, làm các cuộc tiệc tùng sôi nổi hẳn lên nhờ vào những lời đối đáp khôn khéo của mình. Ông ta kể hết những âm mưu của các hoàng thân đến những cuộc liên minh và chia rẽ giữa các quan lại thời chiến. Phe phẩy cây chổi phủi bụi bằng lông cứng, ông ta có thể mô tả những âm mưu, những phi vụ trong cấm cung và sự leo thang quân sự. Câu chuyện hay nhất của ông ta là về trận thủy chiến Xích Bích mà tổ tiên ông ta đã tham chiến. Mua nhạc cụ của Lỗ Tứ, tức là có được những linh hồn, những vương quốc đã mất. Thẩm Phong lên cầu thang. Những cánh cửa trượt mở rộng và cửa nhỏ bằng vải màu đã vén lên. Bên trong, trên một tấm sàn bằng gỗ đỏ, một vài nhạc cụ đặt trên những chiếc bàn thấp có chân được uốn cong mảnh khảnh. Một chiếc bình cao cắm một bông lan vàng trước một bức tranh phong cảnh.
Thẩm Phong đánh nhẹ chuông rồi ngồi bên bậc thềm. Dù Lỗ Tứ không có gốc gác là người thượng lưu ở Trung Nguyên và ông ta là con cái một người vô danh tiểu tốt được nhận làm quý tộc nhưng ông ta rất tự hào về thứ bậc được đức vua của vương quốc hiếu chiến Đông Ngô phong cho và rất ghét bị những kẻ bình dân xem như ngang hàng. Ông ta luôn bắt những người thợ đàn phải chờ ở cửa. Ở cuối phòng, một vách tường nhúc nhích và một bóng người cao cao dần hiện ra. Để thể hiện sự quý phái của mình, khuôn mặt Lỗ Tứ được đánh phấn trắng và đôi mắt viền đen. Bận một chiếc áo dày có tay áo rộng, ông ta di chuyển như đang bay. Ông ta cầm một cái que bằng ngọc thạch trắng đính lông chim cứng. Đó là cái chổi phủi bụi, vật đi liền với giới quý tộc.
Năm 581, triều nhà Trần
Mặt trời lên cao vượt qua thành Kinh Châu và tấm biển sơn đen ghi dòng chữ: “Cửa Sông”. Mặt trời chẻ đôi mây mù và ném những mũi lao ánh sáng của nó vào khu chợ. Năm này sang năm khác, thực phẩm ngày càng đắt và khách chỉ quen bu vào những sạp nhỏ. Họ giẫm đạp lên nhau và trả treo phun cả nước bọt vào nhau để rồi chẳng tìm được gì hợp với túi tiền của mình. Họ thất vọng đi lang thang ngoài đường, buông những lời lẽ chế giễu người này, người kia. Rồi đùng một cái, họ bổ nhào vào một lái buôn đang bán đổ bán tháo mọi thứ. Ôi thôi là tiếng nói, ôi thôi là tay nào tay nấy cố giơ cao. Người ta chen lấn rồi cãi cọ. Rau quả bay tới tấp giữa đám cãi cọ ồn ào.
Chàng thổi sáo đi bộ giữa đường. Chàng đi thẳng và cứ đi thẳng chẳng để ý gì. Đầu quấn vải màu tối, mặc một bộ quần áo cũ kĩ đã sờn màu, chàng bước đi trên đôi chân cao ráo, luôn giữ dáng thẳng, còn lưng hơi khòng. Những kẻ đói ăn và đang vội đi ngang qua chàng mà không hề xô đẩy chàng. Có lẽ họ nhìn thấy cây đàn cổ cầm chàng mang trên lưng nên hiểu rằng chàng kiếm sống bằng âm nhạc và đến chợ không phải để giành miếng ăn với họ. Có lẽ họ nhận ra trong bước chân chàng sự mệt mỏi và lạnh lùng của một kẻ tay trắng, có lẽ họ tránh đụng vào chàng để khỏi bị lây sự xúi quẩy và khốn khổ.
Gió vuốt nhẹ khuôn mặt chàng và gửi vào tai chàng một chuỗi âm thanh xì xào. Chàng mở mắt ra. Khu phố được bao quanh bởi những ngôi nhà mái ngói nâu đỏ dựng đứng giống như một con cá dữ câu được trên biển Hoàng Hải. Tiếng xì xầm của người, tiếng lăn bánh của xe hàng, tiếng lách cách của chai lọ, tiếng dao thớt và tiếng gà vịt bị cắt tiết vẳng lại, hòa vào nhau tồi tán ra làm thành một thứ âm nhạc chầm chậm, len lỏi trong đầu chàng rồi vào đến tận ngực. Chàng lắc lư cái đầu đánh nhịp.
- Thẩm Phong, không chào nhau một tiếng sao?
m nhạc ngưng bặt. Chàng quay lại.
Lưu Bé Bự, tay buôn đồ cổ, vẫy vẫy chàng ở trước cửa tiệm.
- Đến đây! Cạn chén trà nào!
Chàng ngập ngừng một thoáng rồi đi tới.
- Đã nói trăm nghìn lần, khi nào qua phố thì ghé đến đây. Lúc nào cũng có trà nóng nhé! Đến đây! Đến đây! Vào đây, nhanh nào!
Chàng theo chân Lưu Bé Bự lên lầu. Hai cô hầu gái nâng rèm lụa chào mời:
- Đại nhân, xin mời vào!
Đi qua cửa, Thẩm Phong cảm nhận được cái nhìn lén của hai cô hầu vào đôi giày dính đầy bùn của chàng. Đêm qua trên núi trời mưa. Để vào thành buổi sáng, chàng đã phải băng núi ban đêm. Mải mê lắng nghe tiếng oàm oạp của ếch nhái và tiếng vo ve của côn trùng khi đi qua rừng nên nhiều lần chàng bị trượt chân, ngã nhoài trong bóng tối.
Một tấm thảm bằng lụa và len màu đỏ son được trải trong phòng. Lưu Bé Bự chỉ cho chàng một chiếc ghế có gối thêu:
- Ngồi, ngồi đi!
Ngồi trên ghế, Thẩm Phong cởi giày. Đôi tất rách của chàng cũng bị những cô hầu nhìn soi mói. Họ thầm chế nhạo chàng. Lưu Bé Bự giả vờ không biết gì hết. Y ra lệnh mang trà đến. Thấy chàng đã yên vị, y nói lớn:
- Thẩm Phong, đưa ta xem vật báu này xem nào! Tên nó là gì?
Không chờ câu trả lời, tay buôn đồ cổ chụp lấy nhạc cụ, tháo sợi dây mảnh rồi lôi nhạc cụ ra khỏi bao. Y mang cây đàn ra chỗ có ánh sáng, mân mê trong đôi tay của mình để ngắm nghía hình dáng và màu sắc của nó.
- “Sóng cuộn”, - y đọc được ở mặt trong của thùng đàn.
Y đặt cây đàn cổ cầm lên đầu gối, dùng ngón trỏ gõ nhè nhẹ vào thân đàn.
Thẩm Phong thót cả tim khi Lưu Bé Bự đặt bàn tay thô lậu của y lên cây đàn. Chàng luôn thấy khó chịu khi người khác chạm vào những cây đàn của mình. Chàng nhìn ra chỗ khác và tập trung thưởng thức trà đã dọn ra.
Không cần xin phép chàng, tay buôn đồ cổ gảy lần lượt cả bảy dây đàn rồi bắt đầu chơi nhạc. Sau đó y hét lên:
- Tinh khiết! Sâu thẳm! Quả là đặc biệt. Thẩm Phong, cậu làm đàn còn giỏi hơn cả sư phụ của cậu đó!
Chàng trai trẻ nhấp một ngụm trà, không trả lời. Lưu Bé Bự cũng nâng chén, suy nghĩ một chốc rồi nói, giọng thương xót:
- Ông thợ đàn già nua khỏe không? Đã lâu rồi không thấy vào thành. Hay là lão ấy bệnh rồi?
- Sư phụ tôi vẫn khỏe, cảm ơn ông quan tâm.
- Thẩm Phong à, ta là bạn với sư phụ cậu từ lâu rồi, ta biết lão ấy từ triều trước kìa. Đừng có dối ta. Sao dạo gần đây đàn toàn do tay cậu làm cả chứ? Sư phụ cậu đâu? Lão bận đàm đạo với thầy pháp cả rồi sao?
- Ít có người đặt làm đàn. Tôi làm là đủ.
Lưu Bé Bự cười gian xảo.
- Ta đã nói với sư phụ của cậu rồi mà! Mà lão có nghe ta đâu kia chứ! Ở phương Bắc, các vương triều man rợ chém giết nhau mãi. Còn ở đây, xứ mình thì nội chiến tàn khốc quá. Hai bên dòng Dương Tử giờ chiến tranh kinh hoàng làm hỏng hết lỗ tai và bóp nghẹt hết tâm hồn rồi. Quý tộc chẳng còn dạy dỗ lũ trẻ nữa, còn người nghèo thì chết đói hay tòng quân cả rồi. Chả còn ai ham học đàn, học nhạc nữa. Trước đây, ta đón những văn nhân thi khách thượng hạng của xứ Trung Nguyên. Giờ thì chỉ có đám tiện dân hầu bao đầy vàng ngọc là lui tới chỗ ta thôi. Chúng nó mua hàng rồi chẳng quay lại nữa. Vì ngay sau đó chúng bị chém đầu cả rồi! Chẳng còn nhiều người đặt hàng nữa âu cũng là lẽ đương nhiên. Thiên hạ lầm than quá, lầm than quá. Thẩm Phong, cậu nghĩ gì vậy?
Chàng không nghĩ gì và cũng không bàn tán gì. Thiên hạ lầm than cũng như đôi giày cũ kĩ làm từ lông cừu mà chàng đi ngoài đường sá, cũng chẳng khác gì tình trạng của chàng. Chàng định đi nhưng tay buôn đồ cổ giữ chàng lại:
- Trước khi đi, hãy nghe ta nói. Sư phụ cậu già rồi. Kệ lão ấy nếu lão chẳng nghe ta nói. Còn cậu, cậu còn trẻ, cậu phải nghĩ tới tương lai của mình. Há chẳng phải cậu muốn lấy một cô vợ xinh đẹp, sinh hạ cho cậu con đàn cháu đống sao? Cuộc đời chốn sơn lâm mãi võ chả hấp dẫn gì những cô gái đâu. Rồi để ăn no mặc ấm thì cần phải có tiền. Phải trả tiền cho hết bà mai rồi tới gia quyến nữa. Không có tiền, cậu chỉ lấy được hạng đui què mẻ sứt hay điên điên khùng khùng thôi… Hoặc là không bao giờ cưới được vợ, vì giá phụ nữ tăng lên qua từng cuộc chiến tranh…
Ánh mắt chòng chọc của Lưu Bé Bự làm chàng đỏ mặt đến tận mang tai. Thẩm Phong có cảm giác Lưu Bé Bự đọc được từng giấc mơ ban đêm của chàng. Chàng nhấp thêm trà để xóa nỗi hoang mang. Nhưng giọng nói của tay buôn đồ cổ lại vang lên:
- Thời nay chẳng mấy ai biết nghe nhạc. Nghệ thuật chơi đàn cổ cầm tiêu biến rồi mà cái vinh dự có được một cây đàn thì vẫn còn. Những quan lại mới nổi và quan lại triều đình vốn ngày xưa chỉ là những kẻ hèn mạt, những ông hoàng này ngày xưa chổng mông cặm cụi ngoài đồng giờ lại đâm ra mê những đồ cổ còn sót lại qua nhiều cuộc chiến. Kẻ nào cũng mơ có được một cây đàn cổ cầm cổ trên bàn để ra vẻ quý phái và có học. Khi chúng mua đàn, chúng thích tán dương lẫn nhau. Vì chỉ có những kẻ giàu có và uy quyền nhất mới mua được đàn đắt nhất. Cách đây tám tháng, ta bán được một cây từ thời Tam Quốc mà theo truyền thuyết là cây đàn của tướng quân Chu Du nhà Đông Ngô. Cậu đoán giá chót xem bao nhiêu…
Khuôn mặt Lưu Bé Bự nhăn lại như bông hoa lài. Y ghé sát tai Thẩm Phong thì thầm:
- Không ít hơn một trăm lượng vàng ròng.
Lưu Bé Bự đứng dậy, đi ra phía sau tấm màn gió có bức vẽ thư pháp tuyệt đẹp khảm xà cừ, rồi đi ra với một hòm gỗ thếp màu tím có hoa bằng vàng trong tay. Y quỳ gối, cẩn thận đặt nó lên thảm, lấy đai chìa khóa trên thắt lưng rồi chọn một chiếc mở cái khóa. Y nhấc một vật được quấn nhiều lớp vải lên. Y nhẹ nhàng tháo băng vải, để lộ ra một cái bao tre hơi tã rồi lôi ra một cây đàn đầy cát có một góc đã hỏng.
- Một kỳ quan chứ hả? Đích thị là vậy! Này, chạm vào nó xem! - Lưu Bé Bự vừa nói the thé vừa đặt nó lên đầu gối của chàng thợ đàn trẻ.
Thẩm Phong thổi bụi trên mặt đàn rồi nâng vạt áo chùi từng chút. Thoạt nhìn, chàng nhận thấy đó là một cây đàn có nước sơn cũ lắm rồi, mang trên mình những vết rạn hình vảy cá. Chàng đem nó ra ánh sáng rồi quay ngược nó lại. Bên dưới, một cái tên được khắc theo kiểu khắc trên trống vàng đã bị phai đi nhiều. Duỗi thẳng tay cầm, chàng ngắm nghía nó ở xa một chút. Dù nhạc cụ đã được đẽo theo kiểu phổ thông nhất dưới thời Hán, nó vẫn không có được vẻ thanh thoát vốn có của thời ấy. Chàng trả nó lại cho Lưu Bé Bự mà không nói lời nào.
- Nhìn nó lần nữa đi. Chẳng thể ngắm được vẻ đẹp nào tương tự nó đâu. Nó là kỳ phẩm thời nhà Hán vinh hiển đó. Thật kỳ diệu, nó đã thoát khỏi những bộ tộc dã man cướp phá và sống sót qua chiến tranh! Cậu có biết nó thuộc về ai không? Thuộc về nàng Sái Văn Cơ, tác giả của Bi phẫn thi và Hồ già thập bát phách. Cậu không muốn thử âm thanh của nó hay sao? Cậu có muốn lên dây ngay tại chỗ không?
- Không. Không cần. - Thẩm Phong trả lời. - Cây đàn cổ cầm thời Hán giả sẽ tạo ra những âm thanh đục ngầu: nó dùng để trang hoàng bàn ăn hoặc để treo trên tường, không dành cho nghệ sĩ. Cảm ơn vì chén trà. Xin phép ông cho tôi được đi.
Khuôn mặt của tay buôn đồ cổ méo xệch. Y hết nhìn cây đàn rồi nhìn chàng thợ đàn trẻ tuổi. Bất thình lình, y bật cười.
- Được. Được lắm. Nó là đồ giả đó! Ta muốn thử mắt cậu thôi! Sư phụ của cậu nói với ta, lão đang nuôi dạy một thiên tài. Ta nghĩ lão bốc phét. Nhưng lão đã không dối ta! Thẩm Phong, ta cần cậu và cậu cần ta. Ta muốn cậu làm cho ta một cây đàn theo kiểu thời nhà Hán sao cho người ta không bao giờ nghi ngờ nó là đồ giả. Ta sẽ cho cậu một phần tư tài sản của ta.
Thẩm Phong nghiêng người lần nữa rồi đứng dậy.
- Xin thứ lỗi. Tôi phải đi.
Tay buôn đồ cổ nhảy phóc dậy, mặc dù y rất nặng nề, rồi biến mất sau tấm màn gió trước khi nhanh chóng trở lại.
- Hãy cầm lấy, một món quà. Cuốn Hồ già thập bát phách. Cẩn thận, nó đã được sao chép từ bản viết tay ở thư khố triều đình Đông Ngô. Trong số những phiên bản còn tồn tại, nó nổi tiếng là trung thành nhất với bản gốc.
Thẩm Phong muốn từ chối nhưng tay chàng đưa ra nhận cuốn sách dù không hề muốn. Chàng gần như giật nó từ tay gã buôn đồ cổ rồi cúi người thật thấp.
- Không cần cảm ơn, - Lưu Bé Bự hoan hỉ nói. - Hãy nghĩ tới đề nghị của ta. Chúng ta sẽ kiếm được rất nhiều tiền đó!
Nhìn chằm chằm khuôn mặt của người thợ đàn trẻ tuổi, y hớn hở nói đến bắn cả nước bọt:
- Con gái của nhà thơ vĩ đại Sái Ung là nàng Sái Văn Cơ từng bị người du mục bắt. Trong mười hai năm, nàng đã sống trong gió phương Bắc, giữa ngựa và cừu, nàng đã viết mười tám điệu phách cho đàn cổ cầm để thể hiện nỗi buồn và thương nhớ quê nhà. Nàng đã được Tào Tháo chuộc lại bằng một xe chở đầy vàng ngọc, châu báu cho người man di. Theo thiển ý của ta, một cây đàn nàng từng chơi chắc sẽ có giá ít nhất là hai trăm lượng vàng ròng. Được rồi… ta có một vụ hay hơn… Khi nàng Sái Văn Cơ trở về Trung Nguyên, nàng đã tặng cây đàn của nàng cho Tào Thực, là con thứ hai của Tào Tháo. Cũng là một nhà thơ nổi tiếng giống cha là Tào Tháo, Tào Thực bị anh mình là Tào Phi giết vì ghen tài. Tào Phi soán ngôi, lật đổ triều Hán, lập triều Tào Ngụy. Sau đó, cây đàn này đã thuộc về bộ sưu tập của các hoàng đế. Nhưng hỡi ôi, trong cuộc chinh phạt cuối cùng của người man di, nó đã bị một con hầu trong triều cướp mất rồi trốn thoát khi triều đình vượt sông Dương Tử. Một trăm năm sau, ta, nhà buôn đồ cổ họ Lưu, tìm được nó trong nhà một người nông dân. Sao ta lại nói nó thuộc về nàng Sái Văn Cơ ư? Nghe này Thẩm Phong và ghi nhớ trong lòng cậu, bởi vì trên lưng nó được khắc tên là…
Lưu Bé Bự ngừng lại, đằng hắng rồi vừa phủi phủi tay vừa nói tiếp:
- “Đàn du mục”! Cây đàn nào cùng tên, ta sẽ bán ba trăm lượng vàng! Nói xem, ta phải để dành một phần tư số tiền kiếm được cho kẻ môi giới, rồi ta đưa cậu một phần tư trong khoản còn lại, cậu sẽ có nhiều tiền vàng lắm đó. Lấy đó mà mua một ngôi nhà trong thành cho cậu và sư phụ của cậu, hầu gái và nô bộc sẽ vây quanh cậu, rồi cậu sẽ có một đám cưới đẹp như mơ.
Thẩm Phong ngập ngừng một thoáng rồi trả cuốn sách lại cho tay buôn đồ cổ.
- Tôi không thể. Sư phụ và tôi không phải là kẻ làm đồ giả. Chúng tôi không giữ được thanh danh nếu làm như vậy.
Một nụ cười nhếch mép hiện trên khuôn mặt của tay buôn đồ cổ nhưng y vẫn tiếp tục cười nói.
- Giữ cuốn sách đi. Cậu làm vậy khác gì sỉ nhục ta! Thậm chí, nếu cậu không làm cây đàn cho ta, thì hãy cứ giữ món quà này! Vì âm nhạc.
Tới cửa, y đưa tay phải lên che miệng rồi thì thầm:
- Đừng nói với ai nhé! Bí mật đấy. Đi đi, về nhanh lên. Đừng có ngớ ngẩn. Cậu đang ở tuổi lập thất. Sư phụ cậu sẽ rất vui nếu có cháu chắt đó!
Hai cô hầu trẻ cúi người nâng rèm cửa, tươi cười:
- Kính chào đại nhân!
Thẩm Phong đi xuống đường, Lưu Bé Bự đi theo.
- Bí mật là ở chỗ: Cổ nhân đã không ghi chú trong kinh thư nhà Hán hình dáng và những điểm đặc biệt của những cây đàn thuộc về nàng Sái Văn Cơ. Tùy cậu đấy…
Thẩm Phong đi giữa đường, giữa những tiếng ồn ào. Chàng sờ ngực mình. Cuốn sách nhạc vẫn ở đó, dính chặt vào ngực chàng. Như thể nó đánh thức chàng ra khỏi một giấc mơ hỗn loạn và không màu sắc; một cảm giác lạ lùng, sung sướng lẫn buồn bã, ghê tởm lẫn hy vọng choàng lấy chàng.
Những giọng nói lảo đảo, tung vào nhau, văng tục và đáp trả nhau. Những con buôn nay đây mai đó hết lời ca ngợi điều kỳ diệu ở những nồi niêu, xoong chảo, hũ lọ, vải vóc, đồ ăn thức uống, rồi thổi cả ống sáo để gây sự chú ý của khách. Những người bán hàng thuê những đứa trẻ con giọng còn thanh để chèo kéo người qua đường. Các nhà sư hành hương đi ngang qua thành thì gõ gõ chuông đồng. Ở một góc ngã tư, người làm xiếc nhào lộn theo nhịp trống hoặc đấu kiếm với nhau trong khi những đứa trẻ đánh cồng bằng đồng và xướng to công dụng của các loại thảo dược làm người chết bỗng sống lại và làm kẻ bất lực bỗng trở nên mạnh mẽ trên giường. Tất cả những âm thanh đó nhét đầy tai chàng. Như những trái chín bị một bàn tay vô hình vò nát, những âm thanh đó biến thành một ngụm rượu nhỏ thơm nồng.
Thẩm Phong không quen cô gái nào cả. Ở vùng núi Bắc, trong làng, phụ nữ giống hệt đàn ông. Họ còn mạnh khỏe hơn đàn ông, ngày ngày địu con trên lưng đi làm ruộng. Họ cắt tiết thỏ rừng và vặt lông gà lôi trước cửa nhà giữa một vũng máu tươi. Khi gặp mâu thuẫn với hàng xóm, họ phỉ báng nhau rồi ẩu đả. Khi đàn ông bị ngã xuống vực hay bị hổ báo tấn công, cũng chính họ sẽ cầm lấy cung tên và rìu. Những góa phụ có thể đi săn, đẽo gỗ, đi vào thành bán rau quả và thịt thú rừng săn được.
Cậu bé chơi với lũ con gái trong làng, thi xem ai tè xa nhất. Điểm khác biệt duy nhất là con trai có thể vẽ trên tường còn con gái chỉ được vẽ dưới đất. Từ mùa xuân đến những ngày cuối thu, cả làng giặt giũ và tắm táp dưới thác nước lớn. Những phụ nữ trần truồng mang hai bầu vú trước ngực, còn đàn ông có tới ba, nằm giữa hai chân.
Gần đây, chàng thợ đàn cảm thấy có chút buồn rầu vì một cảm giác lạ làm chàng bồn chồn mỗi khi chàng ở quá lâu trong làng dưới sự trông coi của sư phụ già nua. Ngay khi có thể là chàng nhảy vào thành, lòng tràn ngập niềm vui. Khi đã ở trong phố, bơi giữa đám người thành thị, chàng nhận ra rằng, sự phấn khích và chen lấn không thể nào cầm được cơn khát của chàng. Ngược lại, chúng còn làm chàng thèm khát hơn trong sự chờ đợi một cái gì không thể gọi tên và chưa từng biết.
Gió thổi vào mũi chàng một mùi hương dìu dịu. Đó không phải là mùi phấn hoa, cũng không phải mùi trái chín. Chàng nhìn quanh và phát hiện thấy một người xuất hiện. Nàng cưỡi lừa và có hai con hầu nhỏ mang đồ đạc theo hộ tống. Khoác áo gấm thêu hình bướm và mặc áo vải màu thiên thanh, nàng đội trên đầu một cái nón rơm thật lớn. Một tấm khăn voan dài bằng vải trong và mịn màu trắng che khuôn mặt nàng để làm mờ các nét trên khuôn mặt. Khi nàng đi ngang qua ánh nắng, khuôn mặt nàng chợt sáng bừng lên, để lộ cái mũi thon, cái miệng tròn trĩnh, cái cổ cao duyên dáng nghiêng về phía trước.
Chàng thợ đàn trẻ tuổi nhìn theo nàng không chớp mắt. Nàng nhúc nhích một chút trên lưng lừa. Nhanh như cắt nàng nhảy lên, nhảy xuống. Theo từng chuyển động nhịp nhàng của cơ thể, hai tay áo của nàng rung rung để lộ ra nhiều lớp áo bên trong, dưới lớp áo khoác ngoài. Thẩm Phong bước vội, vượt qua nàng, rồi quay lại để nhìn được rõ hơn. Nàng đi vào chỗ có bóng râm. Khuôn mặt nàng biến mất sau những nếp nhăn của tấm khăn voan. Nhưng chàng có cảm giác sau tấm voan trắng mờ, nàng đang nhìn chàng sâu thẳm và thì thầm với chàng: “Phụ nữ.”
Phụ nữ!
Chàng đỏ mặt quay đi và hòa lẫn vào đám đông. Thấp thoáng sau rừng những bờ vai và mũ nón, chàng thấy nàng đi xa. Nàng cũng đi vào giữa con đường. Trong ánh nắng, bóng nàng như phồng lên rồi biến mất trong một thế giới không bao giờ có thể tới gần được.
Đó là một kiều khách đang đến một buổi dạ tiệc.
Tiệm Lỗ Tứ nép mình bên tháp chuông. Ở cửa ra vào, một con khỉ ngồi bắt chấy ột con chó. Bên dưới lồng chim, một con mèo nâu duỗi người, kêu meo meo, xù lông khi Thẩm Phong đi ngang qua nó.
Lỗ Tứ là thương nhân bán nhạc cụ, gốc gác thuộc một bộ tộc phương Nam. Tổ tiên của ông ta không phải quý tộc gốc nhưng họ đã thành quý tộc khi làm quân sư ở sân Rồng nhà Đông Ngô thời Tam Quốc. Khi Tào Ngụy thâu tóm Đông Ngô sau tám mươi năm liên miên chiến tranh, gia đình Lỗ Tứ mất hết gia sản nhưng chuyện dòng họ này ai ai cũng biết. Từ đó, dòng họ Lỗ Tứ không còn nắm quyền hành nữa. Tuy nhiên, họ vẫn giữ mối quan hệ giao hảo với những quan lại mới, nhờ vào tiếng thơm của dòng họ mình.
Là người hoạt bát và nhiệt tình, ông ta có thể kể lại chuyện đời xưa của tất cả các triều đình đã đóng đô ở bờ Nam sông Dương Tử. Tài năng diễn thuyết của ông ta và kiến thức lịch sử về bờ Nam nuôi sống ông ta. Để bán được các nhạc cụ, ông ta tới nhà khách hàng, làm các cuộc tiệc tùng sôi nổi hẳn lên nhờ vào những lời đối đáp khôn khéo của mình. Ông ta kể hết những âm mưu của các hoàng thân đến những cuộc liên minh và chia rẽ giữa các quan lại thời chiến. Phe phẩy cây chổi phủi bụi bằng lông cứng, ông ta có thể mô tả những âm mưu, những phi vụ trong cấm cung và sự leo thang quân sự. Câu chuyện hay nhất của ông ta là về trận thủy chiến Xích Bích mà tổ tiên ông ta đã tham chiến. Mua nhạc cụ của Lỗ Tứ, tức là có được những linh hồn, những vương quốc đã mất. Thẩm Phong lên cầu thang. Những cánh cửa trượt mở rộng và cửa nhỏ bằng vải màu đã vén lên. Bên trong, trên một tấm sàn bằng gỗ đỏ, một vài nhạc cụ đặt trên những chiếc bàn thấp có chân được uốn cong mảnh khảnh. Một chiếc bình cao cắm một bông lan vàng trước một bức tranh phong cảnh.
Thẩm Phong đánh nhẹ chuông rồi ngồi bên bậc thềm. Dù Lỗ Tứ không có gốc gác là người thượng lưu ở Trung Nguyên và ông ta là con cái một người vô danh tiểu tốt được nhận làm quý tộc nhưng ông ta rất tự hào về thứ bậc được đức vua của vương quốc hiếu chiến Đông Ngô phong cho và rất ghét bị những kẻ bình dân xem như ngang hàng. Ông ta luôn bắt những người thợ đàn phải chờ ở cửa. Ở cuối phòng, một vách tường nhúc nhích và một bóng người cao cao dần hiện ra. Để thể hiện sự quý phái của mình, khuôn mặt Lỗ Tứ được đánh phấn trắng và đôi mắt viền đen. Bận một chiếc áo dày có tay áo rộng, ông ta di chuyển như đang bay. Ông ta cầm một cái que bằng ngọc thạch trắng đính lông chim cứng. Đó là cái chổi phủi bụi, vật đi liền với giới quý tộc.