Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 355
Phía bắc điện Đức Dương điện, thái miếu.
Trong miếu thờ, ở hai bên đại điện cung phụng lịch đại tên hoàng của Đông, Tây Lưỡng Hán. Khi tông chính khanh Lưu Chương, từ đồ Khổng Dung cùng với tư không Khổng Trụ bình khí ngưng thần bước vào đại điện, Hán Hiến đế Lưu Hiệp vừa hay thắp hương xong, đang khe khẽ cầu khấn trước họa tượng của liệt tổ liệt tông. Thấy bộ dạng này của thiên tử, ba người bọn Lưu Chương vội vàng quỳ xuống theo, đầu cúi xuống đất, khấu bái bằng đại lễ.
Hán Hiến đế cầu khấn xong, chậm rãi quay đầu lại, thần sắc trên mặt lộ ra vẻ nhẹ nhõm trước giờ chưa từng có.
"Ba vị ái khanh, bình thân đi."
"Tạ ơn bệ hạ."
Ba người bọn Lưu Chương khấu đầu bái lạy rồi đứng dậy, cung kính đứng ở hai bên.
Hán Hiến đế hờ hững nói: "Thiên miếu là nơi thần thánh cung phục lịch đại tiên hoàng, có thể nói là cấm địa của đất nước, không phải là thiên tử hoặc hoàng tử thì không được phép bước vào. Chắc ba vị ái khái trong lòng cũng đang nghi hoặc, trẫm hôm nay vì sao lại phá tổ chế này mà triệu tập ba vị vào thái miếu kiến giá, có phải không?"
Lưu Chương chắp tay nói: "Thần cung thỉnh bệ hạ giải thích nghi hoặc."
"Kỳ thực..." Hán Hiến đế cười nhạt một tiếng, dùng nghĩ khí vô cùng nhẹ nhõm nói: "Nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì bắt đầu từ ngày hôm nay, thái miếu này sẽ không còn là thái miếu nữa, và giang sơm cẩm tú vạn dặm này, từ giờ cũng không còn là của họ Lưu nữa. Ngay cả giang sơn cũng không còn là của họ Lưu, thái miếu này tất nhiên cũng không còn là thái miếu nữa, ba vị ái khanh tất nhiên cũng có thể bước vào trong."
"Hả?"
"Sao?"
Ba người bọn Lưu Chương nghe mà như bị sấm đánh giữa đỉnh đầu, trong khoắc khắc ngây ra như phỗng.
Một lát sau, tư đồ Khổng Dung mới hồi thần lại trước tiên, phục xuống đất, nói: "Bệ hạ sao lại nói như vậy, lão thần thật sự không hiểu."
Hán Hiến đế lạnh lùng nói: "Triều hội ngày hôm nay, trẫm sẽ thuận theo thiên ý, dân tâm, nhường vị cho thừa tướng."
"Bệ hạ!" Tông chính khanh Lưu Chương quỳ xuống trước mặt Hán Hiến đế, run giọng nói: "Từ lúc Cao Tổ cầm ba thước kiếm chém rắn khởi nghĩa, bình Tần diệt Sở, sáng lập cơ nghiệp Đại Hán cho tới nay đã hơn bốn trăm năm. Bệ hạ chín tuổi đăng cơ, quốc vận nhiều khó khăn, may mà quân tướng phục vụ quên mình, bá quan cần cù siêng năng, cửu châu dần dần trở lại ổn định, tứ hải dần dần trở lại yên bình. Bệ hạ lại nhẫn tâm vứt bỏ đại nghiệp của tổ tông ư?"
Khổng Dung, Khổng Trụ cũng quỳ xuống đất hô: "Chúng thần cung thỉnh bệ hạ thu hồi thánh dụ."
"Ý trẫm đã quyết." Hán Hiến đế nói: "Ba vị ái khanh không cần phải khuyên nữa làm gì."
Nói xong, Hán Hiến đế bỏ đi, rảo bước ra ngoài đại điện. Ở phía sau, Lưu chương, Khổng Dung, Khổng Trụ lớn tiếng hô: "Bệ hạ, giang sơn Đại hán này nếu kết thúc ở đây, bệ hạ biết ăn nói thế nào với lịch đại tiên đế ở dưới cửu tuyền đây? Xin bệ hạ nghĩ lại, xin bệ hạ nghĩ lại..."
Ngoài đại điện. Ở chân trời phía đông vừa hay lộ ra một giải mây trắng, sắc mặt của Hán Hiến đế giống như đắm chìm trong tia nắng ban mai. Thành ấp Lạc Dương thì bình tĩnh, yên ả mà lại an tường. Ở phía sau không xa, ba người bọn Lưu chương vẫn đang không ngừng hô to gọi nhỏ. Hán Hiến đế không nghe không hỏi, bước thẳng ra ngoài thái miếu, chân nhẹ nhàng đặt lên ngự tiễn, lập tức cao giọng quát: "Bãi giá về triều."
...
Tháng năm năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười lăm, Hán Hiến đế hạ chiếu nhường vị cho Lương vương Mã Dược.
Tư đồ Khổng Dung, tư không Khổng Trụ ở trước điện liều chết can giản, thiên tử không nghe, tự tử ngay dưới thềm vàng, bá quan đều thổn thức không thôi.
Mùng một tháng chín, Lý Túc ở đông hiệu Lạc Dương xây Thụ Thiện đài (đài nhận nhường ngôi), Hán Hiến đế dẫn Lương vương Mã Dược lên đài, tế cáo thiên địa, quỷ thần.
Nghi thức hoàn thành, Mã Dược chính thức đăng cơ xưng đế, quốc hiệu là Đại Lương, định đô tại Lạc Dương, đổi cải nguyên thành Thái Bình, sắc lập Lưu Nghiên làm hoàng hậu, lập trưởng tử Mã Chinh làm thái tử, thứ tử Mã Chiến làm Ngụy vương. Bùi Nguyên Thiệu làm Bình Bắc vương, Chu Thương làm Trấn Bắc vương, Quản Khởi làm An Bắc vương, truy tặng Mã Siêu làm Uy Võ vương, trưởng tử Mã Thiều kế vị, thứ tử Mã Câu thụ phong Trương Dịch vương.
Dùng Giả Hủ làm trung thư lệnh, Lý Túc, Pháp Chính làm môn hạ thị trung, Pháp Chân làm thượng thư lệnh, cùng đảm nhiệm chức tể tướng, thống soái quan viên tám bộ. Lại dùng Cao Thuận làm Chinh Đông tướng quân, Phương Duyệt làm Chinh Tây tướng quân, Từ Hoảng làm chinh nam tướng quân, Hứa Chử làm Chinh Bắc tướng quân, chia nhau nắm binh mã thiên hạ. Các cựu bộ khác thì đều được phong thưởng, lại đại xá thiên hạ, miễn ba năm thuế má.
Tin tức truyền ra, Kinh Dương chấn động.
...
Tháng chín năm Thái Bình thứ hai (203), Ngô vương Tôn Quyền xưng đế, định đô ở Kiến Nghiệp, cải nguyên là Hoàng Vũ.
Tháng năm năm Thái Bình thứ ba (204), Sở Vương Tào Chân xưng đế, định đô ở Hán Thọ, cải nguyên là Hoàng Sơ.
Tới lúc này, trên đại địa Trung Hoa xuất hiện thời kỳ Tam quốc lập đỉnh tạm thời.
...
Tháng chính năm Thái Bình thứ năm (206), thủy quân Kinh châu đã luyện thành, thời cơ nam chinh đã chín muồi.
Tin tức truyền tới Lạc Dương, Lương thái tổ (miếu hiệu của Mã Dược, sai khi chết thì do Mã Chinh nối tiếp) triệu tập đám cận thần thái tử Mã Chinh, Ngụy vương Mã Chiến, Phiêu Kỵ tướng quân Mã Đại, Xa Kỵ tướng quân Mã Song, Trung thư lệnh Giả Hủ, môn hạ thị trung Lý Túc, môn hạ nạp ngôn Pháp Chính, sử bộ thượng thư Lỗ Túc, hộ bộ thượng thư Khoái Việt, lễ bộ thượng thư Chung, công bộ thượng thư Trần Quần vào cung kiến giá.
Cung Trường Nhạc.
Bọn Mã Chinh, Giả Hủ, Lý Túc quỳ xuống đất, tam hô vạn tuế.
Mã Dược sốt ruột xua xua tay, cao giọng nói: "Đứng dậy cả đi."
"Tạ ơn bệ hạ."
Sau khi tạ thánh ân, bọn Giả Hủ mới dám đứng dậy, cung kính đứng sang một bên.
Mã Dược nói: "Trẫm lần này triệu các ngươi vào cung, chính là muốn thương nghị với các ngươi về chuyện nam chinh."
Giả Hủ nói: "Từ lúc bệ hạ đăng cơ tới nay, năm nào cũng bình an, năm nào cũng bội thu, trước mắt quốc lực sung túc, đủ để cung cấp cho năm mươi vạn đại quân chinh chiến trong vòng ba năm. Đại doanh Lạc Dương (truân điền binh), đại doanh Hà Nam (truân điền binh), đại doanh Trường An (truân điền binh), Nhữ Nam đại doanh (truân điền binh) tổng cộng có hơn bảy mươi truân binh. Cũng là lúc thích hợp để nam chinh, Ngô, Sở."
Bọn Lý Túc, Pháp Chính nhao nhao gật đầu phụ họa.
Mã Dược nói: "Quân ta cho dù là binh đa tướng quảng, lương thảo sung túc, nhưng nếu không thể giải quyết thủy quân của Ngô, Sở, đả thông lạch trời Trường An thì nam chinh cũng chỉ có thể kết thúc với thất bại mà thôi."
Lý Túc nói: "Bệ hạ yên tâm, Cam Ninh tướng quân tại Tương Dương đã luyện thành bảy vạn thủy quân, lại có hơn ba trăm lâu thuyền cỡ lớn, mông trùng đấu hạm cũng hơn năm ngàn chiếc, thuyền nhẹ thì càng nhiều không đếm xuể. Nếu tính riêng thủy quân của hai nước Ngô, Sở thì quân ta hơn hẳn. Cho dù là hai nước Ngô, Sở liên kết lại với nhau thì thực lực chẳng qua cũng không phân trên dưới với quân ta."
"Ài." Mã Dược xua xua tay, nói: "Mặt sông không giống như lục địa, tác chiến trên nước cũng khác hẳn với đánh trận trên đất liền. Không phải là chiến thuyền nhiều hơn, thủy quân nhiều hơn, thực lực nhiều hơn là được. Thủy quân của Ngô, Sở rèn ra là tinh nhuệ chi sư, mà thủy quân của trẫm luyện ra thì chưa hề trải qua thủy chiến chính nhi bát kinh. Tới lúc đó ở trên chiến trường khó tránh khỏi sẽ sợ hãi, mười phần chiến lực có thể phát huy ra được hai phần là tốt lắm rồi."
Lý Túc vội vàng nói: "Bệ hạ suy tính cực đúng, là thần sơ xuất."
Mã Dược đưa tay ra nhẹ nhàng gõ vào ngự án, nhíu mày nói: "Mấy ngày nay trẫm cũng luôn nghĩ về chuyện nam chinh. Có thể nói là ăn không ngon ngủ không yên. Trẫm một mực đang suy nghĩ một vấn đề, đó chính là lắp đặt vũ khí tiến công xa sắc bén nhất trên chiến thuyền của thủy quân như thế nào. Nếu như trước khi chiến thuyền của hai quân tiếp xúc, mà có thể khiến chiến thuyền cỡ lớn của thủy quân Ngô, Sở bị tiêu hủy hoặc thậm chí là bị đánh chìm, thì những chiến thuyền cỡ nhỏ còn lại cũng không cần phải lo lắng đến làm gì."
"Vũ khí công kích xa sắc bén nhất?" Giả Hủ trong lòng khẽ động, hỏi: "Bệ hạ là nói tới ... máy bắn đá?"
"Không không, không phải là loại máy bắn đá đơn giản đó." Mã Dược lắc đầu nói: "Loại máy bắn đá đơn giản đó tuy dễ dùng, hơn nữa cũng dễ chế tạo, nhưng lại cần quá nhiều binh sĩ dùng sức người để kéo. Xạ trình khó khống chế thì không nói, độ chính xác cũng cực kém. Máy bắn đá như vậy mà bố trí lên chiến thuyền, chỉ tổ thành gánh nặng chứ không thể cấu thành bất kỳ uy hiếp gì đối với chiến thuyền Ngô, Sở.
"Liệu có khả năng chế tạo một loại máy bắn đá như thế này hay không..."
Mã Dược nhíu chặt mày, trong đầu cố gắng nhớ lại hình dạng cùng với nguyên lý phóng ra của máy bắn đá trong các cuộc chến tranh thời Trung cổ như "thiên quốc vương triều" "thánh nữ Trinh Đức" mà mình đã đọc qua trước khi xuyên việt tới đây, khoa chân múa tay nói: "Loại máy bắn đá này không dựa vào sức người để kéo, mà là ở đoạn gần cánh tay ném của máy bắn đá buộc chặt đá lớn nặng hơn ngàn cân cho tới hơn vạn cân. Lợi dụng sức rơi của cự thạch để thay sức kéo của người. Như vậy lực ném mà mỗi lần máy bắn đá phát xạ sinh ra đều sẽ tương đối cố định. Hơn nữa còn có thể thông qua sự thay đổi độ cao của đá lớn rơi xuống mà khống chế độ xa gần của xạ trình."
Pháp Chính nói: "Vậy cần bao nhiêu người mới có thể nâng được cự thạch nặng vạn cân lên?"
"Không cần người nâng." Mã Dược nói: "Dùng bàn tời, xích kéo và giá đỡ, chỉ cần một binh sĩ là có thể kéo được cự thạch nặng vạn cân lên rồi."
Trên thực tế, khi vừa xuyên việt tới thời loạn thế này, Mã Dược cũng không phải là không muốn phát minh ra một "vũ khí tiên tiến" vượt thời không, nhưng đác tiếc là Mã Dược căn bản không biết chế tạo súng trường, súng máy như thế nào, cũng không biết phối phương của hỏa dược. Hắn chỉ biết được thuật in ấn đơn giản nhất trong tứ đại phát minh, nhưng thuật làm giấy lúc đó cực kỳ lạc hậu, chất lượng giấy cũng kém, vậy thì thứ đồ chơi này có tác dụng gì?
Cho tới khi Mã Dược lần đầu tiên nhìn thấy máy bắn đá, mới nghĩ rằng xem ra máy bắn đá của thời loạn thế này hình như không giống với máy bắn đá ở trong phim. Nhưng lúc đó một là binh mã nghèo nàn, Mã Dược không có một khắc được nhàn rỗn, hai là ưu thế của Tây Lương thiết kỵ là dã chiến, rất ít khi tiến hành công kiên chính diện, máy bắn đá này cũng không có bao nhiêu tác dụng, cho nên một mực gác lại cho tới bây giờ.
Cho tới hôm nay, Mã Dược mới lại một lần nữa mới nghĩ tới cải tiến máy bắn đá này, dùng để đối phó với chiến thuyền của thủy quân Ngô, Sở.
"Bệ hạ nói là dùng bàn tời, dây kéo lên máy bắn đá?" Công bộ thượng thư Trần Quân là người đầu tiên lĩnh ngộ được ý tưởng của Mã Dược, vỗ tay hét to: "Trời ở, đây quả thực là ý tưởng của thiên tài! Nếu chiếu theo phương pháp của bệ hả mà cải tiến máy bắn đá, không những xạ trình của máy bắn đá sẽ tăng mạnh, mà có thể ném ra được đá khối nặng hơn. Diệu, quả thực là quá diệu!"
Bọn Giả Hủ, Pháp Chính vừa được chỉ điểm một cái là hiểu ngay, lập tức vỗ tay khen hay theo.
"Còn nữa..." Trong đầu Mã Dược đột nhiên hiện lên hình ảnh trong phim, trước khi đá được bắn đi, binh sĩ sẽ đốt đạn đá ở trong giỏi, sau đó rầm một tiếng ném ra. Đạn đá được được đốt cháy sau khi đụng vào cây cối, tường thành sẽ nổ tung, tia lửa văng khắp nơi, "Đá được máy bắn ra cũng nên cải tiến một chút, có một thứ mà sau khi nhúng dầu rất sẽ cháy, lại rất dễ vỡ nát không ? Sau khi đụng vào chiến thuyền sẽ rầm một cái nổ tung vỡ tan, một khi như vậy, hỏa diễm bắn ra sẽ có thể khiến cho chiến thuyền của thủy quân Ngô, Sở bắt lửa trên diện tích lớn."
"Cái này..."Trần Quần nói: "Vì sao không trực tiếp đặt thùng ngói được tưới dầu hỏa ở trong giỏ phát xạ của máy bắn đá? Đợi sau khi dầu trong thùng ngói được đốt lên rồi, mới bắn nó ra, sau khi thùng ngói đụng vào chiến thuyền của quân địch sẽ vỡ tan ra, dầu hỏa bắn ra sẽ bám lên chiến thuyền rồi tiếp tục cháy, hơn nữa sẽ tạo thành cháy với diện tích lớn, quân địch rất khó mà dập được."
"Ừ, chủ ý này không tồi." Mã Dược khen: "Nếu có thể ở trong thùng ngói bố trí các tạp vật dễ bắt lửa như tơ lụa thì hiệu quả sẽ càng tốt hơn."
"Máy bắn đá sau khi trải qua sự cải tiến của bệ hạ nhất định sẽ có uy lực lớn hơn." Giả Hủ trước giờ luôn trầm ổn cũng không nhịn được mà nóng lòng muốn thử ngay: "Một khi trên chiến thuyền của quân ta được lắp đặt máy bắn đá mới cải tiến. Chiến thuyền cỡ lớn của thủy quân Ngô, Sở vì là mục tiêu quá lớn, nên rất khó tránh khỏi tai họa, còn các chiến thuyền cỡ nhỏ khác như mông trùng, đấu hạm, thuyền nhẹ có thể né được sự công kích của máy bắn đá, nhưng lại không thể né được sự va chạm của chiến thuyền cỡ lớn chúng ta cùng với sự tạp kích của gậy đập. Bệ hạ, lão thần có chút nóng lòng không đợi nổi nữa rồi."
"Ha ha, Văn Hòa chớ có nóng vội." Mã Dược vui vẻ mỉm cười, nói: "Máy bắn đá này có thể chế tạo ra được hay không? Cho dù tạo ra được thì liệu có uy lực như trong dự tưởng không? Nên lắp đặt lên chiến thuyền như thế nào? Nhưng cái này đều phải thí nghiệm qua thì mới biết được. Hơn nữa cho dù tất cả thuận lợi, muốn trang bị một lượng lớn máy bắn đá đã qua cải tiến lên chiến thuyền của thủy quân cũng cần có một đoạn thời gian. Mà tướng sĩ thủy quân để học sử dụng máy bắn đá này cũng cần một đoạn thời gian. Để hoàn thành những công tác rờm rà này, không có ba đến năm năm thời gian thì sợ là không được đâu."
"Hô..." Giả Hủ thở phào một hơi, mặt toát mồ hôi, nói: "Là lão thần nóng ruột quá."
Mã Dược nói với Trần Quần: "Trường Văn, chuyện cải tiến máy bắn đã giao cho ngươi toàn quyền phụ trách. Nhớ là phải bảo mật tuyệt đối, không được để cho Ngô, Sở biết được hư thực."
Trần Quầng khom người đáp: "Thần... lĩnh chỉ."
..
Sài Tang, dinh thự của Chu Du.
Từ lúc Tôn Quyền xưng đế lập Ngô quốc tới nay, lần lượt tấn phong cho quần thần. Bọn Lữ Mông, Lục Tốn, Thái Sử Từ đều được phong hầu, duy có ba quân đại đô đốc Chu Du là không được phong hầu. Tôn Quyền giống như là quên mất rằng Ngô quốc còn có một người tên là Chu Du. Từ lúc Chu Du mượn cớ ốm tới Sài Tang tĩnh dưỡng, liền không phái người tới giục Chu Du trở lại nắm binh quyền nữa, cũng không phái người tới đòi ấn tín, quân vụ của đại đô đốc.
Cứ vậy kéo dài bảy năm, tình hình trong đây rất vi diệu.
Nhưng bọn tướng lĩnh quân Ngô như Lữ Mông, Lục Tốn, Thái Sử Từ đối với Chu Du thì vẫn kính trọng có thừa, thường giấu Tôn Quyền tới Sài Tang hỏi quân cơ yếu vụ. Tôn Quyền trong lòng một mặt hiềm nghi Chu Du chuyện ngày đó, nhưng một mặt lại biết rằng ba quân của Đông Ngô tuyệt không thể không có sự điều hành của Chu Du, cho nên cũng ngầm đồng ý với cách làm của bọn Lữ Mông, để Chu Du làm đại đô đốc của ba quân ở sau màn che.
Ở thiên tính, Lữ Mông, Lục Tốn chắp tay vái Chu Du, cao giọng nói: "Tham kiến đại đô đốc."
"Thôi đi." Chu Du xua xua tay, hờ hững nói: "Ngồi xuống cả đi."
"Tạ đại đô đốc."
Lữ Mông, Lục Tốn cảng ơn rồi lần lượt ngồi xuống.
Chu Du hỏi: "Nghe nói đại tướng quân Trương Liêu của nước Sở đã dẫn binh bình định Giao Châu rồi?"
"Đúng vậy." Trên mặt Lữ Mông thoáng hiện một tia nuối tiếc, nói: "Giao Châu gồm bảy quận năm mươi sáu huyện, hơn trăm vạn nhân khẩu đã thuộc hết về nước Sở. Ài, sớm biết Giao Châu dễ bình định như vậy, năm đó quân ta nên động thủ trước mới đúng."
"Bình định Giao Châu không dễ dàng như trong tưởng tượng đâu." Chu Du xua tay nói: "Xem ra chúng ta vẫn coi thường thừa tướng Gia Cát Lượng của nước Sở rồi. Người này thống binh không giỏi, nhưng quả lý nội chính thì lại cực kỳ lợi hại! Quân Sở từ sau khi bại lui về bốn quận Kinh Nam, quân tâm tán loạn, sĩ khí xuống thấp, bách tính Nam Thiên không có nơi để ở, không có cơm ăn áo mặc, sĩ tộc chạy tới Kinh Nam cũng nhân tâm hoảng loạn, lại thêm gian tế của quân Lương buông lời đồn đại ở khắp nơi, sự thống trị của Tào gia tại Kinh châu phải đối diện với nguy cơ trước giờ chưa từng có, tùy thời đều có thể tan thành mây khói."
"Song, chính tên Gia Cát Lượng này, chỉ dùng năm năm thời gian ngắn ngủi mà quản lý bốn quận Kinh Nam đâu ra đấy, bách tính an cư lạc nghiệp, sĩ tộc nhân tâm vững chắc, không ngờ còn có tiền lương để giúp cho đại quân của Trương Liêu nam chinh Giao Châu. Không dễ dàng, quá không dễ dàng. Nếu so sánh, ta và ngươi đều là thần tử của nước Ngô, bên ngoài không thể khai cương tác thổ (mở rộng lãnh thổ) cho nước Ngô, bên trong không thể quản lý địa phương cho bệ hạ, đúng là xấu hổ muốn tự sát."
Lục Tốn không nhịn được, bèn nói: "Đại đô đốc cũng không cần phải tự trách như vậy. Những năm nay nước Ngô tuy tuy không có thêm được tấc đất nào, nhưng cũng có một chút tiền lương dự trữ. Trừ kỵ binh vì thiếu thốn chiến mã nên không được tăng cường ra, bộ binh đã tăng lên thành mười vạn người, thủy quân cũng tăng lên tới sáu vạn người. Giờ lâu thuyền cỡ lớn có hơn hai trăm chiếc, mông trùng đấu hạm cũng hơn ba ngàn chiếc. So với thủy quân của nước Lương tuy trên binh lực và số lượng chiến thuyền thì kém hơn, nhưng quân ta về kinh nghiệm thực chiến thì lại chiếm được ưu thế tuyệt đối, nếu ở trên chiến trường, không cần quân ta động thủ thi đám tân binh của quân Lương cũng sẽ tự loạn trận cước rồi."
"Đúng vậy, hiện tại chỉ có thể hi vọng vào thủy quân thôi." Chu Du gật đầu, xúc động nói: "Tử Minh, Bá Ngôn sau khi quay về Ngưu Chử phải tăng cường huấn luyện thủy quân, cố gắng tích góp thêm quân truy lương thảo. Có lẽ không tới ba năm nữa, quân Lương sẽ đại cử nam chinh. Tới lúc đó Mã đồ tể khẳng định sẽ dốc hết toàn lực để đại cử nam hạ. Trận chiến này, không phải ngươi chết thì chính là ta vong..."
Trong miếu thờ, ở hai bên đại điện cung phụng lịch đại tên hoàng của Đông, Tây Lưỡng Hán. Khi tông chính khanh Lưu Chương, từ đồ Khổng Dung cùng với tư không Khổng Trụ bình khí ngưng thần bước vào đại điện, Hán Hiến đế Lưu Hiệp vừa hay thắp hương xong, đang khe khẽ cầu khấn trước họa tượng của liệt tổ liệt tông. Thấy bộ dạng này của thiên tử, ba người bọn Lưu Chương vội vàng quỳ xuống theo, đầu cúi xuống đất, khấu bái bằng đại lễ.
Hán Hiến đế cầu khấn xong, chậm rãi quay đầu lại, thần sắc trên mặt lộ ra vẻ nhẹ nhõm trước giờ chưa từng có.
"Ba vị ái khanh, bình thân đi."
"Tạ ơn bệ hạ."
Ba người bọn Lưu Chương khấu đầu bái lạy rồi đứng dậy, cung kính đứng ở hai bên.
Hán Hiến đế hờ hững nói: "Thiên miếu là nơi thần thánh cung phục lịch đại tiên hoàng, có thể nói là cấm địa của đất nước, không phải là thiên tử hoặc hoàng tử thì không được phép bước vào. Chắc ba vị ái khái trong lòng cũng đang nghi hoặc, trẫm hôm nay vì sao lại phá tổ chế này mà triệu tập ba vị vào thái miếu kiến giá, có phải không?"
Lưu Chương chắp tay nói: "Thần cung thỉnh bệ hạ giải thích nghi hoặc."
"Kỳ thực..." Hán Hiến đế cười nhạt một tiếng, dùng nghĩ khí vô cùng nhẹ nhõm nói: "Nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì bắt đầu từ ngày hôm nay, thái miếu này sẽ không còn là thái miếu nữa, và giang sơm cẩm tú vạn dặm này, từ giờ cũng không còn là của họ Lưu nữa. Ngay cả giang sơn cũng không còn là của họ Lưu, thái miếu này tất nhiên cũng không còn là thái miếu nữa, ba vị ái khanh tất nhiên cũng có thể bước vào trong."
"Hả?"
"Sao?"
Ba người bọn Lưu Chương nghe mà như bị sấm đánh giữa đỉnh đầu, trong khoắc khắc ngây ra như phỗng.
Một lát sau, tư đồ Khổng Dung mới hồi thần lại trước tiên, phục xuống đất, nói: "Bệ hạ sao lại nói như vậy, lão thần thật sự không hiểu."
Hán Hiến đế lạnh lùng nói: "Triều hội ngày hôm nay, trẫm sẽ thuận theo thiên ý, dân tâm, nhường vị cho thừa tướng."
"Bệ hạ!" Tông chính khanh Lưu Chương quỳ xuống trước mặt Hán Hiến đế, run giọng nói: "Từ lúc Cao Tổ cầm ba thước kiếm chém rắn khởi nghĩa, bình Tần diệt Sở, sáng lập cơ nghiệp Đại Hán cho tới nay đã hơn bốn trăm năm. Bệ hạ chín tuổi đăng cơ, quốc vận nhiều khó khăn, may mà quân tướng phục vụ quên mình, bá quan cần cù siêng năng, cửu châu dần dần trở lại ổn định, tứ hải dần dần trở lại yên bình. Bệ hạ lại nhẫn tâm vứt bỏ đại nghiệp của tổ tông ư?"
Khổng Dung, Khổng Trụ cũng quỳ xuống đất hô: "Chúng thần cung thỉnh bệ hạ thu hồi thánh dụ."
"Ý trẫm đã quyết." Hán Hiến đế nói: "Ba vị ái khanh không cần phải khuyên nữa làm gì."
Nói xong, Hán Hiến đế bỏ đi, rảo bước ra ngoài đại điện. Ở phía sau, Lưu chương, Khổng Dung, Khổng Trụ lớn tiếng hô: "Bệ hạ, giang sơn Đại hán này nếu kết thúc ở đây, bệ hạ biết ăn nói thế nào với lịch đại tiên đế ở dưới cửu tuyền đây? Xin bệ hạ nghĩ lại, xin bệ hạ nghĩ lại..."
Ngoài đại điện. Ở chân trời phía đông vừa hay lộ ra một giải mây trắng, sắc mặt của Hán Hiến đế giống như đắm chìm trong tia nắng ban mai. Thành ấp Lạc Dương thì bình tĩnh, yên ả mà lại an tường. Ở phía sau không xa, ba người bọn Lưu chương vẫn đang không ngừng hô to gọi nhỏ. Hán Hiến đế không nghe không hỏi, bước thẳng ra ngoài thái miếu, chân nhẹ nhàng đặt lên ngự tiễn, lập tức cao giọng quát: "Bãi giá về triều."
...
Tháng năm năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười lăm, Hán Hiến đế hạ chiếu nhường vị cho Lương vương Mã Dược.
Tư đồ Khổng Dung, tư không Khổng Trụ ở trước điện liều chết can giản, thiên tử không nghe, tự tử ngay dưới thềm vàng, bá quan đều thổn thức không thôi.
Mùng một tháng chín, Lý Túc ở đông hiệu Lạc Dương xây Thụ Thiện đài (đài nhận nhường ngôi), Hán Hiến đế dẫn Lương vương Mã Dược lên đài, tế cáo thiên địa, quỷ thần.
Nghi thức hoàn thành, Mã Dược chính thức đăng cơ xưng đế, quốc hiệu là Đại Lương, định đô tại Lạc Dương, đổi cải nguyên thành Thái Bình, sắc lập Lưu Nghiên làm hoàng hậu, lập trưởng tử Mã Chinh làm thái tử, thứ tử Mã Chiến làm Ngụy vương. Bùi Nguyên Thiệu làm Bình Bắc vương, Chu Thương làm Trấn Bắc vương, Quản Khởi làm An Bắc vương, truy tặng Mã Siêu làm Uy Võ vương, trưởng tử Mã Thiều kế vị, thứ tử Mã Câu thụ phong Trương Dịch vương.
Dùng Giả Hủ làm trung thư lệnh, Lý Túc, Pháp Chính làm môn hạ thị trung, Pháp Chân làm thượng thư lệnh, cùng đảm nhiệm chức tể tướng, thống soái quan viên tám bộ. Lại dùng Cao Thuận làm Chinh Đông tướng quân, Phương Duyệt làm Chinh Tây tướng quân, Từ Hoảng làm chinh nam tướng quân, Hứa Chử làm Chinh Bắc tướng quân, chia nhau nắm binh mã thiên hạ. Các cựu bộ khác thì đều được phong thưởng, lại đại xá thiên hạ, miễn ba năm thuế má.
Tin tức truyền ra, Kinh Dương chấn động.
...
Tháng chín năm Thái Bình thứ hai (203), Ngô vương Tôn Quyền xưng đế, định đô ở Kiến Nghiệp, cải nguyên là Hoàng Vũ.
Tháng năm năm Thái Bình thứ ba (204), Sở Vương Tào Chân xưng đế, định đô ở Hán Thọ, cải nguyên là Hoàng Sơ.
Tới lúc này, trên đại địa Trung Hoa xuất hiện thời kỳ Tam quốc lập đỉnh tạm thời.
...
Tháng chính năm Thái Bình thứ năm (206), thủy quân Kinh châu đã luyện thành, thời cơ nam chinh đã chín muồi.
Tin tức truyền tới Lạc Dương, Lương thái tổ (miếu hiệu của Mã Dược, sai khi chết thì do Mã Chinh nối tiếp) triệu tập đám cận thần thái tử Mã Chinh, Ngụy vương Mã Chiến, Phiêu Kỵ tướng quân Mã Đại, Xa Kỵ tướng quân Mã Song, Trung thư lệnh Giả Hủ, môn hạ thị trung Lý Túc, môn hạ nạp ngôn Pháp Chính, sử bộ thượng thư Lỗ Túc, hộ bộ thượng thư Khoái Việt, lễ bộ thượng thư Chung, công bộ thượng thư Trần Quần vào cung kiến giá.
Cung Trường Nhạc.
Bọn Mã Chinh, Giả Hủ, Lý Túc quỳ xuống đất, tam hô vạn tuế.
Mã Dược sốt ruột xua xua tay, cao giọng nói: "Đứng dậy cả đi."
"Tạ ơn bệ hạ."
Sau khi tạ thánh ân, bọn Giả Hủ mới dám đứng dậy, cung kính đứng sang một bên.
Mã Dược nói: "Trẫm lần này triệu các ngươi vào cung, chính là muốn thương nghị với các ngươi về chuyện nam chinh."
Giả Hủ nói: "Từ lúc bệ hạ đăng cơ tới nay, năm nào cũng bình an, năm nào cũng bội thu, trước mắt quốc lực sung túc, đủ để cung cấp cho năm mươi vạn đại quân chinh chiến trong vòng ba năm. Đại doanh Lạc Dương (truân điền binh), đại doanh Hà Nam (truân điền binh), đại doanh Trường An (truân điền binh), Nhữ Nam đại doanh (truân điền binh) tổng cộng có hơn bảy mươi truân binh. Cũng là lúc thích hợp để nam chinh, Ngô, Sở."
Bọn Lý Túc, Pháp Chính nhao nhao gật đầu phụ họa.
Mã Dược nói: "Quân ta cho dù là binh đa tướng quảng, lương thảo sung túc, nhưng nếu không thể giải quyết thủy quân của Ngô, Sở, đả thông lạch trời Trường An thì nam chinh cũng chỉ có thể kết thúc với thất bại mà thôi."
Lý Túc nói: "Bệ hạ yên tâm, Cam Ninh tướng quân tại Tương Dương đã luyện thành bảy vạn thủy quân, lại có hơn ba trăm lâu thuyền cỡ lớn, mông trùng đấu hạm cũng hơn năm ngàn chiếc, thuyền nhẹ thì càng nhiều không đếm xuể. Nếu tính riêng thủy quân của hai nước Ngô, Sở thì quân ta hơn hẳn. Cho dù là hai nước Ngô, Sở liên kết lại với nhau thì thực lực chẳng qua cũng không phân trên dưới với quân ta."
"Ài." Mã Dược xua xua tay, nói: "Mặt sông không giống như lục địa, tác chiến trên nước cũng khác hẳn với đánh trận trên đất liền. Không phải là chiến thuyền nhiều hơn, thủy quân nhiều hơn, thực lực nhiều hơn là được. Thủy quân của Ngô, Sở rèn ra là tinh nhuệ chi sư, mà thủy quân của trẫm luyện ra thì chưa hề trải qua thủy chiến chính nhi bát kinh. Tới lúc đó ở trên chiến trường khó tránh khỏi sẽ sợ hãi, mười phần chiến lực có thể phát huy ra được hai phần là tốt lắm rồi."
Lý Túc vội vàng nói: "Bệ hạ suy tính cực đúng, là thần sơ xuất."
Mã Dược đưa tay ra nhẹ nhàng gõ vào ngự án, nhíu mày nói: "Mấy ngày nay trẫm cũng luôn nghĩ về chuyện nam chinh. Có thể nói là ăn không ngon ngủ không yên. Trẫm một mực đang suy nghĩ một vấn đề, đó chính là lắp đặt vũ khí tiến công xa sắc bén nhất trên chiến thuyền của thủy quân như thế nào. Nếu như trước khi chiến thuyền của hai quân tiếp xúc, mà có thể khiến chiến thuyền cỡ lớn của thủy quân Ngô, Sở bị tiêu hủy hoặc thậm chí là bị đánh chìm, thì những chiến thuyền cỡ nhỏ còn lại cũng không cần phải lo lắng đến làm gì."
"Vũ khí công kích xa sắc bén nhất?" Giả Hủ trong lòng khẽ động, hỏi: "Bệ hạ là nói tới ... máy bắn đá?"
"Không không, không phải là loại máy bắn đá đơn giản đó." Mã Dược lắc đầu nói: "Loại máy bắn đá đơn giản đó tuy dễ dùng, hơn nữa cũng dễ chế tạo, nhưng lại cần quá nhiều binh sĩ dùng sức người để kéo. Xạ trình khó khống chế thì không nói, độ chính xác cũng cực kém. Máy bắn đá như vậy mà bố trí lên chiến thuyền, chỉ tổ thành gánh nặng chứ không thể cấu thành bất kỳ uy hiếp gì đối với chiến thuyền Ngô, Sở.
"Liệu có khả năng chế tạo một loại máy bắn đá như thế này hay không..."
Mã Dược nhíu chặt mày, trong đầu cố gắng nhớ lại hình dạng cùng với nguyên lý phóng ra của máy bắn đá trong các cuộc chến tranh thời Trung cổ như "thiên quốc vương triều" "thánh nữ Trinh Đức" mà mình đã đọc qua trước khi xuyên việt tới đây, khoa chân múa tay nói: "Loại máy bắn đá này không dựa vào sức người để kéo, mà là ở đoạn gần cánh tay ném của máy bắn đá buộc chặt đá lớn nặng hơn ngàn cân cho tới hơn vạn cân. Lợi dụng sức rơi của cự thạch để thay sức kéo của người. Như vậy lực ném mà mỗi lần máy bắn đá phát xạ sinh ra đều sẽ tương đối cố định. Hơn nữa còn có thể thông qua sự thay đổi độ cao của đá lớn rơi xuống mà khống chế độ xa gần của xạ trình."
Pháp Chính nói: "Vậy cần bao nhiêu người mới có thể nâng được cự thạch nặng vạn cân lên?"
"Không cần người nâng." Mã Dược nói: "Dùng bàn tời, xích kéo và giá đỡ, chỉ cần một binh sĩ là có thể kéo được cự thạch nặng vạn cân lên rồi."
Trên thực tế, khi vừa xuyên việt tới thời loạn thế này, Mã Dược cũng không phải là không muốn phát minh ra một "vũ khí tiên tiến" vượt thời không, nhưng đác tiếc là Mã Dược căn bản không biết chế tạo súng trường, súng máy như thế nào, cũng không biết phối phương của hỏa dược. Hắn chỉ biết được thuật in ấn đơn giản nhất trong tứ đại phát minh, nhưng thuật làm giấy lúc đó cực kỳ lạc hậu, chất lượng giấy cũng kém, vậy thì thứ đồ chơi này có tác dụng gì?
Cho tới khi Mã Dược lần đầu tiên nhìn thấy máy bắn đá, mới nghĩ rằng xem ra máy bắn đá của thời loạn thế này hình như không giống với máy bắn đá ở trong phim. Nhưng lúc đó một là binh mã nghèo nàn, Mã Dược không có một khắc được nhàn rỗn, hai là ưu thế của Tây Lương thiết kỵ là dã chiến, rất ít khi tiến hành công kiên chính diện, máy bắn đá này cũng không có bao nhiêu tác dụng, cho nên một mực gác lại cho tới bây giờ.
Cho tới hôm nay, Mã Dược mới lại một lần nữa mới nghĩ tới cải tiến máy bắn đá này, dùng để đối phó với chiến thuyền của thủy quân Ngô, Sở.
"Bệ hạ nói là dùng bàn tời, dây kéo lên máy bắn đá?" Công bộ thượng thư Trần Quân là người đầu tiên lĩnh ngộ được ý tưởng của Mã Dược, vỗ tay hét to: "Trời ở, đây quả thực là ý tưởng của thiên tài! Nếu chiếu theo phương pháp của bệ hả mà cải tiến máy bắn đá, không những xạ trình của máy bắn đá sẽ tăng mạnh, mà có thể ném ra được đá khối nặng hơn. Diệu, quả thực là quá diệu!"
Bọn Giả Hủ, Pháp Chính vừa được chỉ điểm một cái là hiểu ngay, lập tức vỗ tay khen hay theo.
"Còn nữa..." Trong đầu Mã Dược đột nhiên hiện lên hình ảnh trong phim, trước khi đá được bắn đi, binh sĩ sẽ đốt đạn đá ở trong giỏi, sau đó rầm một tiếng ném ra. Đạn đá được được đốt cháy sau khi đụng vào cây cối, tường thành sẽ nổ tung, tia lửa văng khắp nơi, "Đá được máy bắn ra cũng nên cải tiến một chút, có một thứ mà sau khi nhúng dầu rất sẽ cháy, lại rất dễ vỡ nát không ? Sau khi đụng vào chiến thuyền sẽ rầm một cái nổ tung vỡ tan, một khi như vậy, hỏa diễm bắn ra sẽ có thể khiến cho chiến thuyền của thủy quân Ngô, Sở bắt lửa trên diện tích lớn."
"Cái này..."Trần Quần nói: "Vì sao không trực tiếp đặt thùng ngói được tưới dầu hỏa ở trong giỏ phát xạ của máy bắn đá? Đợi sau khi dầu trong thùng ngói được đốt lên rồi, mới bắn nó ra, sau khi thùng ngói đụng vào chiến thuyền của quân địch sẽ vỡ tan ra, dầu hỏa bắn ra sẽ bám lên chiến thuyền rồi tiếp tục cháy, hơn nữa sẽ tạo thành cháy với diện tích lớn, quân địch rất khó mà dập được."
"Ừ, chủ ý này không tồi." Mã Dược khen: "Nếu có thể ở trong thùng ngói bố trí các tạp vật dễ bắt lửa như tơ lụa thì hiệu quả sẽ càng tốt hơn."
"Máy bắn đá sau khi trải qua sự cải tiến của bệ hạ nhất định sẽ có uy lực lớn hơn." Giả Hủ trước giờ luôn trầm ổn cũng không nhịn được mà nóng lòng muốn thử ngay: "Một khi trên chiến thuyền của quân ta được lắp đặt máy bắn đá mới cải tiến. Chiến thuyền cỡ lớn của thủy quân Ngô, Sở vì là mục tiêu quá lớn, nên rất khó tránh khỏi tai họa, còn các chiến thuyền cỡ nhỏ khác như mông trùng, đấu hạm, thuyền nhẹ có thể né được sự công kích của máy bắn đá, nhưng lại không thể né được sự va chạm của chiến thuyền cỡ lớn chúng ta cùng với sự tạp kích của gậy đập. Bệ hạ, lão thần có chút nóng lòng không đợi nổi nữa rồi."
"Ha ha, Văn Hòa chớ có nóng vội." Mã Dược vui vẻ mỉm cười, nói: "Máy bắn đá này có thể chế tạo ra được hay không? Cho dù tạo ra được thì liệu có uy lực như trong dự tưởng không? Nên lắp đặt lên chiến thuyền như thế nào? Nhưng cái này đều phải thí nghiệm qua thì mới biết được. Hơn nữa cho dù tất cả thuận lợi, muốn trang bị một lượng lớn máy bắn đá đã qua cải tiến lên chiến thuyền của thủy quân cũng cần có một đoạn thời gian. Mà tướng sĩ thủy quân để học sử dụng máy bắn đá này cũng cần một đoạn thời gian. Để hoàn thành những công tác rờm rà này, không có ba đến năm năm thời gian thì sợ là không được đâu."
"Hô..." Giả Hủ thở phào một hơi, mặt toát mồ hôi, nói: "Là lão thần nóng ruột quá."
Mã Dược nói với Trần Quần: "Trường Văn, chuyện cải tiến máy bắn đã giao cho ngươi toàn quyền phụ trách. Nhớ là phải bảo mật tuyệt đối, không được để cho Ngô, Sở biết được hư thực."
Trần Quầng khom người đáp: "Thần... lĩnh chỉ."
..
Sài Tang, dinh thự của Chu Du.
Từ lúc Tôn Quyền xưng đế lập Ngô quốc tới nay, lần lượt tấn phong cho quần thần. Bọn Lữ Mông, Lục Tốn, Thái Sử Từ đều được phong hầu, duy có ba quân đại đô đốc Chu Du là không được phong hầu. Tôn Quyền giống như là quên mất rằng Ngô quốc còn có một người tên là Chu Du. Từ lúc Chu Du mượn cớ ốm tới Sài Tang tĩnh dưỡng, liền không phái người tới giục Chu Du trở lại nắm binh quyền nữa, cũng không phái người tới đòi ấn tín, quân vụ của đại đô đốc.
Cứ vậy kéo dài bảy năm, tình hình trong đây rất vi diệu.
Nhưng bọn tướng lĩnh quân Ngô như Lữ Mông, Lục Tốn, Thái Sử Từ đối với Chu Du thì vẫn kính trọng có thừa, thường giấu Tôn Quyền tới Sài Tang hỏi quân cơ yếu vụ. Tôn Quyền trong lòng một mặt hiềm nghi Chu Du chuyện ngày đó, nhưng một mặt lại biết rằng ba quân của Đông Ngô tuyệt không thể không có sự điều hành của Chu Du, cho nên cũng ngầm đồng ý với cách làm của bọn Lữ Mông, để Chu Du làm đại đô đốc của ba quân ở sau màn che.
Ở thiên tính, Lữ Mông, Lục Tốn chắp tay vái Chu Du, cao giọng nói: "Tham kiến đại đô đốc."
"Thôi đi." Chu Du xua xua tay, hờ hững nói: "Ngồi xuống cả đi."
"Tạ đại đô đốc."
Lữ Mông, Lục Tốn cảng ơn rồi lần lượt ngồi xuống.
Chu Du hỏi: "Nghe nói đại tướng quân Trương Liêu của nước Sở đã dẫn binh bình định Giao Châu rồi?"
"Đúng vậy." Trên mặt Lữ Mông thoáng hiện một tia nuối tiếc, nói: "Giao Châu gồm bảy quận năm mươi sáu huyện, hơn trăm vạn nhân khẩu đã thuộc hết về nước Sở. Ài, sớm biết Giao Châu dễ bình định như vậy, năm đó quân ta nên động thủ trước mới đúng."
"Bình định Giao Châu không dễ dàng như trong tưởng tượng đâu." Chu Du xua tay nói: "Xem ra chúng ta vẫn coi thường thừa tướng Gia Cát Lượng của nước Sở rồi. Người này thống binh không giỏi, nhưng quả lý nội chính thì lại cực kỳ lợi hại! Quân Sở từ sau khi bại lui về bốn quận Kinh Nam, quân tâm tán loạn, sĩ khí xuống thấp, bách tính Nam Thiên không có nơi để ở, không có cơm ăn áo mặc, sĩ tộc chạy tới Kinh Nam cũng nhân tâm hoảng loạn, lại thêm gian tế của quân Lương buông lời đồn đại ở khắp nơi, sự thống trị của Tào gia tại Kinh châu phải đối diện với nguy cơ trước giờ chưa từng có, tùy thời đều có thể tan thành mây khói."
"Song, chính tên Gia Cát Lượng này, chỉ dùng năm năm thời gian ngắn ngủi mà quản lý bốn quận Kinh Nam đâu ra đấy, bách tính an cư lạc nghiệp, sĩ tộc nhân tâm vững chắc, không ngờ còn có tiền lương để giúp cho đại quân của Trương Liêu nam chinh Giao Châu. Không dễ dàng, quá không dễ dàng. Nếu so sánh, ta và ngươi đều là thần tử của nước Ngô, bên ngoài không thể khai cương tác thổ (mở rộng lãnh thổ) cho nước Ngô, bên trong không thể quản lý địa phương cho bệ hạ, đúng là xấu hổ muốn tự sát."
Lục Tốn không nhịn được, bèn nói: "Đại đô đốc cũng không cần phải tự trách như vậy. Những năm nay nước Ngô tuy tuy không có thêm được tấc đất nào, nhưng cũng có một chút tiền lương dự trữ. Trừ kỵ binh vì thiếu thốn chiến mã nên không được tăng cường ra, bộ binh đã tăng lên thành mười vạn người, thủy quân cũng tăng lên tới sáu vạn người. Giờ lâu thuyền cỡ lớn có hơn hai trăm chiếc, mông trùng đấu hạm cũng hơn ba ngàn chiếc. So với thủy quân của nước Lương tuy trên binh lực và số lượng chiến thuyền thì kém hơn, nhưng quân ta về kinh nghiệm thực chiến thì lại chiếm được ưu thế tuyệt đối, nếu ở trên chiến trường, không cần quân ta động thủ thi đám tân binh của quân Lương cũng sẽ tự loạn trận cước rồi."
"Đúng vậy, hiện tại chỉ có thể hi vọng vào thủy quân thôi." Chu Du gật đầu, xúc động nói: "Tử Minh, Bá Ngôn sau khi quay về Ngưu Chử phải tăng cường huấn luyện thủy quân, cố gắng tích góp thêm quân truy lương thảo. Có lẽ không tới ba năm nữa, quân Lương sẽ đại cử nam chinh. Tới lúc đó Mã đồ tể khẳng định sẽ dốc hết toàn lực để đại cử nam hạ. Trận chiến này, không phải ngươi chết thì chính là ta vong..."
Bình luận facebook