Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 23: Ban ngày thấy gió lửa (5)
Rõ ràng đã say như thế.
Tạ Vụ Thanh mỉm cười.
Anh kề sát tai cô, nhẹ giọng nói: “Cho dù có uống thêm nữa, anh cũng sẽ không say rượu làm loạn”.
Giống như có cơn gió khẽ nhấc mành vải đỏ tươi vắt vẻo trên sào trúc phơi dưới nắng mặt trời, phất phơ trong lòng bàn tay. Cô không thể tưởng tượng được khuôn mặt mình giờ đã đỏ thế nào. Cô chạm vào cổ áo, nhận ra cúc vải trên cùng vẫn chưa cài hết. Tạ Vụ Thanh chỉ nhìn cô cài lại cúc áo.
Chờ cài xong, cô bình tĩnh hỏi anh: “không bật đèn à?”
“Người bên ngoài ai cũng cho rằng chúng ta đã đi ngủ từ lâu, nếu lúc này bật đèn, e là không ổn lắm”, anh dịu dàng đáp lời.
Cách một cánh cửa, còn ai có thể nhìn thấy chứ?
Tạ Vụ Thanh chỉ ngoài sân, nếu đứng trong hoa viên sẽ nhìn thấy rất rõ.
“Hiện giờ đi ra ngoài, bị đám người hầu bắt gặp cũng không tốt”, anh nói tiếp, “Chi bằng chờ đến hừng đông hẵng đi, lúc đó mọi người đều đã say giấc rồi”.
Chờ đến hừng đông ư?
“Vậy trước hừng đông nên làm gì?” Cô hỏi.
Trong mắt anh lộ ra ý cười, lướt qua cô rồi đi đến ghế sô pha ngồi xuống, rèm cửa sổ lúc này đã được kéo ra một nửa. Ánh trăng chiếu vào phòng, cô liền phát hiện giữa ghế sô pha là một bàn cờ vây, như bắt được cọng rơm cứu mạng, cô lập tức ngồi vào vị trí trống ở đầu kia bàn cờ.
Tạ Vụ Thanh chẳng qua chỉ muốn tìm chỗ ngồi, không ngờ cô lại tự nhiên mở hộp cờ: “Có muốn đánh một ván không?”
Không phải anh đến ngồi trước sao?
Cô nhận ra mình đã hiểu lầm ý anh, vì vậy liền tìm một cái cớ để nói, “Chí ít cũng đánh vài đường đi. Sáng mai phó quan có tới, nhìn thấy bàn cờ cũng biết cả đêm chúng ta ở trong phòng làm gì”.
“Bọn họ đều biết em, cũng hiểu em là ai, quan hệ thế nào với anh”, Tạ Vụ Thanh nói thẳng, “Không cần cố tình che giấu làm gì”.
Trong lòng cô vô cùng vui vẻ, cười cười nhặt lên hai quân cờ: “Cứ giả vờ đi, để người hầu xem một chút cũng tốt”, cô đặt một quân cờ xuống bàn, mượn chơi cờ tuỳ ý hỏi chuyện: “Anh đánh giặc thế nào?”
Người đàn ông ngồi đối diện đáp: “Mỗi lần đánh đều khác nhau”.
“Nói em nghe một chút đi”. Cô thật sự muốn nghe anh kể chuyện.
Khuỷu tay anh đặt trên góc bàn cờ, lựa chọn tư thế thoải mái nhất: “Có lần một tên tư lệnh nghèo mang binh chạy đến. Anh nghe nói bên dưới bọn họ đều là đám binh
‘thủ đầu khẩn’ [1], nên sai người mua mấy rương thuốc lá loại tốt rải xuống trận địa, đám lính ấy không chịu nổi cám dỗ, người nhặt người gom rồi bỏ trốn hơn phân nửa, cứ vậy mà tan tác”.
[1] “Thủ đầu khẩn” là một thuật ngữ dùng để chỉ người có tiền nhưng không đủ tiêu.
“Cứ thế mà thắng à?” Cô có chút khó tin.
“Những tên tư lệnh lớn nhỏ kia trong mắt chỉ có lợi ích riêng, hôm nay liên hợp cùng đánh một phía, ngày mai gió đổi chiều liền đánh ngược về, chỉ cần là chuyện có lợi cho bản thân mình, tự tay đâm chết chú bác anh em cũng không phải nói đùa. Những kẻ như thế dù mang binh tới, một khi không thấy tư lợi thì tự giác sẽ trở mặt không nhận người quen”, anh bình luận một câu, “người làm tướng, nếu trong lòng không có lời thề sống chết bảo vệ tín ngưỡng của mình, thì cũng không khác gì đám thủ lĩnh sơn tặc cả”.
Cô đánh giá: “Có điều em nhận ra, anh hư thật sự”. Chỉ cần vài rương thuốc lá đã khiến đội ngũ người ta tan tác.
Tạ Vụ Thanh tất nhiên hiểu cô nói anh “hư” là muốn ám chỉ việc anh tính kế người khác.
Anh phụ hoạ thêm: “Anh vốn cũng không phải người tốt hoàn toàn”.
Nói đoạn, anh mở hộp cờ, nhặt lên mấy quân cờ đen, giúp cô bày lên bàn: “Không cần nghĩ anh quá tốt, sợ khiến em thất vọng”.
Đây là lời người vô cùng dịu dàng thường thích nói, giống như chú hai của cô. Nếu không phải từ nhỏ cô đã đi theo kiểu người thế này lớn lên, chắc sẽ không nhìn thấu ý tứ đằng sau câu nói ấy: Không cần quá xem trọng ta, nhưng ta sẽ cố hết sức đối xử tốt nhất với người.
Bọn họ cách nhau một bàn cờ vây, dưới theo ánh trăng nhìn nhau chăm chú.
Anh thấp giọng hỏi: “Sao em biết chuyện anh đánh cờ?”
“Từng nghe nói”, cô thấp giọng đáp, “Ai muốn bái phỏng Tạ Khanh Hoài, trước tiên phải học đánh cờ”.
Anh nói: “Chỉ là mượn cớ thôi, có thể giúp anh ngăn được hai phần ba mấy cuộc gặp gỡ xã giao”.
Anh dứt lời, lại nói tiếp: “Mạng lưới quan hệ của cô hai thật rộng, biết không ít chuyện của anh”.
“Chiến công Tạ tướng quân nổi như cồn, tự khắc người khác bàn luận nhiều”, cô dịu giọng nói, “Đặc biệt còn có không ít quan hệ với các
khanh khanh giai nhân”.
Tạ Vụ Thanh mỉm cười: “Sao anh lại nghe nói, Tạ Khanh Hoài không mê đắm nữ sắc?”
Anh ném quân cờ đen trong lòng bàn tay về hộp, cứ ném như thế, va chạm phát ra không ít tiếng động sắc bén: “Chuyện nam nữ hồng trần cùng xương trắng chất đống chung quy chỉ hơn kém nhau một lớp da thịt, tham luyến cái này, thật cũng không thú vị”.
Anh ném xong quân cờ của mình, lại lật mở lòng bàn tay cô, lấy đi từng quân cờ trong đó: “Anh sinh ra trên chiến trường, lớn lên bởi gió lửa, không bì được với người trẻ tuổi các em, về mặt tình cảm không đủ linh động”.
Nương theo ánh trăng, anh kéo cô lại gần, đặt cô ngồi trên đùi phải của mình.
“Nhưng được cái tự khắc biết khống chế, chỉ sợ khiến cô hai phiền lòng”. Anh đè thấp giọng.
Đàn hương mà thím đốt quả thật quá nồng, hun đến đầu óc cô choáng váng trì độn, mồ hôi trên lưng vã như tắm. Hồi còn bé, cô cũng thường được người ta ôm vào lòng, có điều anh lại bắt đầu cởi cúc áo trên người cô, cô gạt tay anh, nhỏ giọng nói, vất vả lắm mới cài lại được… Ngăn anh không xong, cô lại nói, anh kéo rèm cửa vào trước đã… Nhưng hình như anh đều không nghe thấy.
Hộp cờ suýt nữa rơi xuống đất, bị một bàn tay anh đỡ được, lại sợ nó rơi xuống lần nữa nên trực tiếp đặt lên thảm trải sàn.
Cô mang một đôi giày lụa trắng bạc, mũi giày khẽ cọ giữa chân anh. Trên mũi giày còn thêu hai đoá hải đường, hôm nay cũng chính nó đã đá vào góc ủng quân đội của Tạ Vụ Thanh. Anh thấy rõ, theo vầng sáng của ánh trăng, áo lót mặc trong của cô cũng mang màu sắc hoa hải đường. Anh bất giác nhớ đến có một loài hoa tên gọi “Nhất Bổng Tuyết”, trước kia anh luôn cảm thấy đóa hoa ấy không xứng với cái tên ấy, ngược lại giờ phút này cùng với người ngồi đây lại thích hợp với ba chữ đó hơn hẳn.
“Anh vừa nãy còn nói…”
“Nói cái gì?” Anh hỏi bên tai cô, hơi thở phả ra, bao lấy cả người cô.
Hà Vị nhen nhóm hơi nóng, lại được anh ôm chặt, không động đậy tì cằm trên bả vai anh, cố gắng nhắm mắt. Nhớ đến vừa rồi, anh còn nói, chuyện nam nữ hồng trần cùng xương trắng chất đống chung quy chỉ hơn kém nhau một lớp da thịt… Nói tới nói lui, tham luyến vẫn là tham luyến.
Anh nhẹ véo cằm cô, để mặt cô đối diện mặt mình, hơi thở nóng rực ẩm ướt rơi xuống trên môi, giữa người cô.
“Anh Thanh”.
Tạ Vụ Thanh mút mát cánh môi cô, trong lúc hơi buông ra, khẽ hỏi: “Sao vậy?”
Cô lắc đầu, khuôn mặt bỏng rát dán vào bên mặt anh, cô hôn lên cằm anh.
Anh nhận ra cô đang thẹn thùng, thấp giọng hỏi: “Có muốn lên giường không?”
Cái gì cũng bị anh đoán trúng.
Tạ Vụ Thanh rời khỏi giường, là vì sợ cô không quen, càng thêm ngượng ngùng quẫn bách. Vốn anh chỉ định ôm cô ngồi suốt đêm như vậy, chỗ này ánh sáng tốt, nhìn thấy cũng rõ ràng. Cô nhỏ giọng lẩm bẩm: “Chói quá”. Thứ khiến cô sốt ruột nhất không phải là bị anh nhìn, mà là nhất cử nhất động của anh, cô đều thấy được…
Tạ Vụ Thanh một tay ôm ghì lấy cô, một tay kéo rèm cửa xuống, phút chốc che giấu toàn bộ căn phòng vào bóng tối.
Đêm đó, cô gác trên cánh tay Tạ Vụ Thanh ngủ suốt hai tiếng đồng hồ.
Tối hôm trước, anh vì uống nhiều rượu nên sau nửa đêm lại muốn ngồi dậy hớp ngụm nước, ai ngờ vừa rời đi lại bị cô siết lấy, nằm lên đùi anh. Tạ Vụ Thanh sợ quần quân phục của mình thường mặc bên ngoài, không sạch sẽ, đành phải bế cô lên, thả cánh tay về chỗ cũ, cho cô làm gối đầu.
Chờ đến tờ mờ sáng, Lâm Kiêu gõ cửa, đưa điện báo khẩn đến cho anh, cô mới bị đánh thức. Trên giường lộn xộn. Tạ Vụ Thanh mặc lại áo sơ mi, cài cúc đàng hoàng định ra ngoài. “Em còn chưa mặc xong”. Cô nhẹ giọng gọi anh về.
Anh dừng bước, đợi cô. Sau khi thấy Hà Vị đã khoác xong áo choàng, anh mới mở cửa, từ dưới cánh tay anh, cô vọt chạy ra ngoài, nhìn Lâm Kiêu vội vàng gật đầu một cái rồi nhanh chóng biến mất.
Một bên vai Tạ Vụ Thanh ê ẩm, cũng không kiêng dè, đứng trong phòng nhìn Lâm Kiêu mang điện báo tới, hơi cử động bả vai. Lâm Kiêu nhìn chằm chằm anh nửa ngày. Tạ Vụ Thanh gấp bức điện báo lại, trả về cho Lâm Kiêu: “Sao vậy?”
Lâm Kiêu vừa nhận điện báo, vừa nghĩ, sau này có tiểu công tử rồi, vì đảm bảo an toàn, hắn nhất định phải tự mình trông đứa trẻ ấy.
Cảm xúc Hà Vị chưa ổn định, chạy vào phòng thím nhỏ ở tầng một, cả người cô nhiễm khí lạnh chui tọt vào trong chăn. Thím nhỏ bị khí lạnh làm tỉnh giấc, kêu một tiếng, tiểu tổ tông của ta ơi, rồi xoay người ôm lấy cô, sờ xuống dưới: “Cái eo nhỏ này của con, thật khiến người ta yêu thích mà”.
Cô nghĩ, thật ra eo của anh mới thon.
Lúc Hà Vị tỉnh lại lần nữa, mặt trời đã lên cao ba sào.
Cô vùi mặt vào chăn bông, nhắm mắt lại nghĩ đến Tạ Vụ Thanh. Một bên mặt anh đắm chìm trong ánh trăng như bước ra từ bức hoạ, hai mí mắt sâu hoắm… sống mũi thẳng tắp…
Có người ngoài chăn chạm vào cô, cô hơi nghiêng đầu nhìn, thì ra là thím. Thím kề sát gần, thì thầm: “Triệu Ứng Khác đến rồi”.
Trong phòng trà, Tạ Vụ Thanh vén rèm bước vào.
“Tạ thiếu tướng quân”. Triệu Ứng Khác đứng trong phòng khách, nhìn anh gật đầu.
Tạ Vụ Thanh cũng hơi gật đầu đáp lại: “Tôi không phải chủ nhà ở đây, không cần khách sáo”.
Anh để phó quan canh giữ ngoài cửa, ngồi xuống đối diện Triệu Ứng Khác, giống hệt mãnh hổ và sơn thạch trên bức bình phong bên cạnh.
Tạ Vụ Thanh nhìn người trước mặt: “Không biết Triệu công tử muốn gặp tôi, là vì chuyện gì?”
“Chuyện riêng”, Triệu Ứng Khác nói, “Là vì Vị Vị”.
Tạ Vụ Thanh trầm mặc nhìn hắn.
“Vốn không định quấy rầy thiếu tướng quân, nhưng mấy ngày nay tôi mới biết, thì ra người tên Tạ Khanh Hoài thực chất là Tạ Vụ Thanh, nghĩ vẫn nên đến gặp mặt một chút”, Triệu Ứng Khác thận trọng hỏi anh, “Không biết thiếu tướng quân có từng nghe qua người tên Hà Nhữ Tiên không?”
“Là anh trai của Vị Vị”. Tạ Vụ Thanh trực tiếp trả lời.
“Tôi và cậu ấy vốn có sinh tử chi giao, năm đó khi tai nạn ập đến, tôi từng nghe cậu ấy nhắc đến cái tên Tạ Khanh Hoài”, Triệu Ứng Khác nói, “Lần ấy vì để cứu Hoa Kiều ở Nam Dương, Nhữ Tiên từng nhờ một vị tướng quân yêu nước ở Vân Quý giúp đỡ, người đó chính là thiếu tướng quân đây”.
Hắn không hỏi anh, Tạ Vụ Thanh cũng không đáp lại, xem như ngầm thừa nhận.
“Tôi hộ tống Vị Vị từ Nam Dương về lại Bắc Kinh, còn Nhữ Tiên thì qua đời ở Nam Dương…” Triệu Ứng Khác dừng lại thật lâu, như đang nhớ chuyện quá khứ. “Còn những kiều bào cùng công nhân nhờ có thiếu tướng quân bảo vệ, nên mới bình an quay về cố hương. Tất cả những chuyện này, nếu hôm nay tôi không biết rõ ràng, có phải thiếu tướng quân cũng sẽ không nhắc lại đúng không?”
Triệu Ứng Khác vừa dứt lời, lại nói tiếp: “Tôi từng thăm dò Vị Vị, cô ấy cái gì cũng không biết. Vì sao ngài không nói cho cô ấy?”
Nếu có thêm một tầng quan hệ này, việc theo đuổi Hà Vị càng dễ dàng hơn, vậy mà Tạ Vụ Thanh vẫn không hé môi nửa chữ.
Sau một hồi im lặng, Tạ Vụ Thanh cuối cùng cũng mở miệng: “Tôi cùng Hà Nhữ Tiên trước đó không có giao tình thân thiết, chỉ từng qua lại hai bức điện tín, ngoại trừ một câu nhờ vả cùng đồng ý phối hợp, cũng không còn gì khác. Tôi vì vận tải đường thuỷ Hà gia nên tin tưởng cậu ấy, còn cậu ấy lại vì quân đội cách mạng tin tưởng tôi, chỉ có như vậy thôi”.
Anh nói tiếp: “Triệu công tử đây trước khi làm phụ tá cho quân phiệt, sự am hiểu về tình hình chiến sự các tỉnh thành chỉ có thể xem trên mặt báo. Mà tôi mỗi ngày đều phải đối mặt với những thứ ấy, giết địch, cứu người, hộ tống dân chúng bình an quay về cố hương, đây đều là những việc mà một quân nhân như tôi phải làm, không đáng nhắc đến. Huống hồ trong sự việc này, anh trai Vị Vị đã qua đời, đây là nỗi đau của em ấy, tôi không nghĩ ra lý do gì để mình nhắc lại chuyện cũ khiến em ấy càng thêm thương tâm”.
Năm đó có một bức điện báo đánh tới, nói rằng phía Nam Dương xảy ra chuyện xin anh giúp đỡ, bên kia còn có kiều bào cùng rất nhiều công nhân đang gặp nguy khốn. Cái tên Tạ Sơn Hải này quá nổi tiếng trên chiến trường, anh sợ ra ngoài nói lên sẽ gặp phiền phức, vì thế dùng tên Tạ Khanh Hoài gửi điện báo trả lời, đồng ý sẽ giúp đỡ… Anh cải trang thành dân thường, đưa theo thân tín của mình đến Nam Dương. Khi ấy, Tạ Khanh Hoài chưa từng ra tiền tuyến, đó cũng là lần đầu tiên anh dùng cái tên này, ở Nam Dương tất nhiên chẳng ai biết anh, càng không biết anh đã làm gì, câu chuyện cũ ấy vốn nên chôn chặt trong quá khứ.
Căn phòng chìm trong im lặng mất một lúc lâu.
“Tướng quân đến Nam Dương… có từng gặp Nhữ Tiên không?”
Tạ Vụ Thanh khẽ lắc đầu: “Lúc tôi đến, Hà Nhữ Tiên đã hy sinh thân mình vì đất nước rồi”.
Hương đốt hôm nay dùng là Long Tiên Hương. Cũng chính là hương liệu đốt khi ra biển, khiến người ta nhớ đến cơn gió đại dương ẩm ướt của Nam Dương.
Hà Vị vội vàng vào phòng trà, bên trong yên tĩnh đến lạ.
Con mèo ngồi xổm trên chiếc ghế trống bên cạnh Tạ Vụ Thanh, ngón tay anh gãi gãi lưng mèo. Con mèo thích chí, phát ra tiếng kêu khò khè. Người ngồi đối diện là Triệu Ứng Khác đã lâu không gặp.
“Ngủ ngon không?” Tạ Vụ Thanh hỏi, đưa tay về phía cô.
“Vâng”. Hà Vị nhẹ nhàng bước qua, bị anh tóm chặt, kéo ngồi xuống ghế trống chỗ con mèo, cô ôm con mèo vào ngực. Đột nhiên được anh hỏi thăm ngược lại có cảm giác anh là chủ nhà, còn cô là khách đến chơi.
“Anh thức dậy lúc nào thế?” Cô nhẹ giọng thì thầm.
Anh cười, thủ thỉ vào tai cô: “Sớm hơn cô hai đây”.
Bầu không khí giữa hai người rất giống cảnh tượng
yến nhĩ tân hôn [3].
[3] Xuất phát từ câu “yến nhĩ tân hôn” trong Kinh Thi, ý chỉ nàng dâu mới cưới, vợ mới cưới; sau này còn được dùng để chúc mừng tân hôn, ngợi ca bầu không khí vui vẻ lúc mới kết hôn.
Triệu Ứng Khác ngồi đối diện, lại giống như cách bọn họ cả dãy ngân hà trên bầu trời Thiên Tân.
Hà Vị chào tạm biệt chú chín cùng hai người thím, cất bước theo Tạ Vụ Thanh rời khỏi nhà chú chín.
“Nếu còn thời gian, em định dẫn anh đi gặp một vị trưởng bối”, cô ngồi trong xe anh, thấp giọng nói, “Ông ấy vẫn luôn muốn được gặp anh, chỉ là không có cơ hội”.
Tạ Vụ Thanh xem thời gian thấy vẫn còn kịp nên theo cô đến tô giới Pháp.
Thầy giáo của anh trai cô sống trên một con đường khiêm tốn trong tô giới Pháp, trước cửa nhà có một hàng rào sắt cùng vai bảo vệ trông coi. Cô nói muốn gặp chủ nhà họ Tấn của họ. Một tên bảo vệ chạy vào hỏi, không lâu sau đã xuống mở cổng sắt cho hai người, nặng nề nhắc nhở cô đúng bảy giờ tối khoá cổng, phải ra khỏi đây trước lúc đó.
Tấn lão nhìn thấy cô tới vô cùng vui vẻ, đánh giá vị tướng quân trẻ tuổi đi theo sau Hà Vị: “Người đây chính là tiểu tướng quân của Tạ gia đúng không?”
Cũng chỉ có người như ông ở độ tuổi này mới gọi anh là “tiểu tướng quân” thôi. Cô nghe thấy thì cười thầm trong lòng.
Cháu gái của Tấn lão cũng sống ở đây chăm sóc ông, cô ấy giúp họ châm trà, sau đó ra ngoài không quên khép cửa lại, chừa chỗ cho họ bàn bạc chính sự.
Tấn lão thở dài thườn thượt, cảm khái nhìn Tạ Vụ Thanh: “Chắc các em cũng nhận được tin, chính phủ lâm thời đã ra
‘Tuyên ngôn Ngoại Sùng Quốc Tín’ [4], hàm ý chính là tôn trọng lợi ích của các quốc gia trên lãnh thổ Trung Quốc. Chủ trương của những người khác đều không có kết quả”.
[4] Tháng 10/1924, chính phủ quân phiệt Trực hệ bị Phùng Ngọc Tường lật đổ. Dưới sự ủng hộ của Phùng Ngọc Tường và những người khác, ngày 24/11, Đoàn Kỳ Thuỵ đảm nhiệm chức vụ “nhà cầm quyền tạm thời của Trung Hoa Dân Quốc”, và sau đó ban hành “Tuyên ngôn Ngoại Sùng Quốc Tín” vào ngày 6/12 nhằm bảo vệ quyền lợi cho các cường quốc trên lãnh thổ Trung Quốc, đồng thời quyết định mở cuộc họp phục hồi chức năng để phản đối chủ trương triệu tập hội nghị các quốc gia do Tôn Trung Sơn đưa ra, bảo vệ quyền thống trị của quân phiệt Bắc Dương.
Tạ Vụ Thanh không tỏ vẻ bất ngờ.
Tấn lão nói tiếp: “Vì tránh hoà đàm ta mới đến Thiên Tân dưỡng bệnh. Mấy năm nay các cậu ở phía Nam, kiên trì vô cùng vất vả, ta không muốn trở thành cọng rơm đè nặng lên người các cậu”.
Tạ Vụ Thanh cười cười, trái lại còn trấn an ông lão: “Đối với những chuyện xảy ra, tôi đã sớm có chuẩn bị, lão tiên sinh không cần quá phiền muộn”.
Tấn lão buồn bã cười, hình như nghĩ ra cái gì đó, ông đứng dậy, đi ra ngoài mang theo một cái túi trở về.
“Đây là chút lòng thành của ta”.
Tạ Vụ Thanh cùng Hà Vị bất ngờ.
“Thưa thầy, những thứ này đều là của thầy để dưỡng lão… để chúng em lo được rồi ạ”. Cô muốn ngăn lại.
Tấn lão xua tay: “Là ta tặng tiểu tướng quân”, ông mở túi vải, bên trong đúng là có mấy xấp vàng lá được bó lại thật dày. Vừa nhìn đã biết toàn bộ đều được đặc biệt tìm người nấu chảy rồi đúc lại. Vàng lá rất tiện mang theo bên người, vừa mỏng nhẹ còn có thể gấp vào, nhét trong sách hay quần áo rồi khâu kín rất dễ dàng. Thầy tích cóp được ngần này quả thật vất vả, nhưng đều lấy ra toàn bộ.
Tạ Vụ Thanh không nhận, Tấn lão nói dù sao cũng phải đưa cho anh: “Lần này là đánh nhau với quân phiệt đấy, cậu không thấy sao, Không quân dưới trướng bọn họ có bao nhiêu phi cơ, bọn họ có tiền, còn mời cả trăm phi công từ
Bạch Nga [5] đến. Ta nhìn thấy mà sốt ruột, sợ các cậu chịu thiệt. Cầm lấy đi, tiểu tướng quân, đây là của cá nhân ta, là cá nhân quyên góp cho các cậu”.
[5] Bạch Nga, một cách gọi khác chỉ những người Nga nhập cư vào Trung Quốc trong những năm 1920
Tấn lão nói xong, vỗ lên mu bàn tay của Tạ Vụ Thanh: “Ta làm ngoại giao hơn nửa đời người, ngoại trừ mấy chuyện nhẫn nhịn nhún nhường, cái gì cũng không làm được, ta sợ đời này mình cũng không còn hy vọng gì. Chờ các cậu đánh thắng quân phiệt, có thể tiếp tục nói chuyện bãi bỏ hiệp ước, thu hồi quốc thổ. Tiểu tướng quân, trông cậy vào các cậu”.
Tạ Vụ Thanh trước mặt khép chặt hai chân, lưng thẳng tắp, hành một cái quân lễ đầy kính trọng với ông lão này.
Anh nghiêm mặt nói: “Khôi phục đại nghĩa, chấn chỉnh non sông, chúng ta vạn chết cũng không từ”.
Đây là lần đầu tiên cô nhìn thấy anh cùng người khác bàn chuyện quốc gia.
Khuôn mặt Tạ Vụ Thanh chìm trong ánh hoàng hôn, ửng lên một tầng đỏ. Bên sườn mặt anh cũng giống nguồn sáng kia, chiếu rọi chói mắt còn hơn cả trời chiều. Cô tưởng tượng ra cảnh, trên chiến trường phủ ánh tà dương, anh đứng trông theo bóng dáng khuất xa của vạn dặm núi xanh.
Thật ra anh càng giống thứ ánh sáng nhu hoà trong đêm đen, như sương lại như tuyết, là người thích trầm mặc, mà người như vậy hết lần này đến lần khác lại trở thành tướng quân.
— HẾT CHƯƠNG 23 —
Tạ Vụ Thanh mỉm cười.
Anh kề sát tai cô, nhẹ giọng nói: “Cho dù có uống thêm nữa, anh cũng sẽ không say rượu làm loạn”.
Giống như có cơn gió khẽ nhấc mành vải đỏ tươi vắt vẻo trên sào trúc phơi dưới nắng mặt trời, phất phơ trong lòng bàn tay. Cô không thể tưởng tượng được khuôn mặt mình giờ đã đỏ thế nào. Cô chạm vào cổ áo, nhận ra cúc vải trên cùng vẫn chưa cài hết. Tạ Vụ Thanh chỉ nhìn cô cài lại cúc áo.
Chờ cài xong, cô bình tĩnh hỏi anh: “không bật đèn à?”
“Người bên ngoài ai cũng cho rằng chúng ta đã đi ngủ từ lâu, nếu lúc này bật đèn, e là không ổn lắm”, anh dịu dàng đáp lời.
Cách một cánh cửa, còn ai có thể nhìn thấy chứ?
Tạ Vụ Thanh chỉ ngoài sân, nếu đứng trong hoa viên sẽ nhìn thấy rất rõ.
“Hiện giờ đi ra ngoài, bị đám người hầu bắt gặp cũng không tốt”, anh nói tiếp, “Chi bằng chờ đến hừng đông hẵng đi, lúc đó mọi người đều đã say giấc rồi”.
Chờ đến hừng đông ư?
“Vậy trước hừng đông nên làm gì?” Cô hỏi.
Trong mắt anh lộ ra ý cười, lướt qua cô rồi đi đến ghế sô pha ngồi xuống, rèm cửa sổ lúc này đã được kéo ra một nửa. Ánh trăng chiếu vào phòng, cô liền phát hiện giữa ghế sô pha là một bàn cờ vây, như bắt được cọng rơm cứu mạng, cô lập tức ngồi vào vị trí trống ở đầu kia bàn cờ.
Tạ Vụ Thanh chẳng qua chỉ muốn tìm chỗ ngồi, không ngờ cô lại tự nhiên mở hộp cờ: “Có muốn đánh một ván không?”
Không phải anh đến ngồi trước sao?
Cô nhận ra mình đã hiểu lầm ý anh, vì vậy liền tìm một cái cớ để nói, “Chí ít cũng đánh vài đường đi. Sáng mai phó quan có tới, nhìn thấy bàn cờ cũng biết cả đêm chúng ta ở trong phòng làm gì”.
“Bọn họ đều biết em, cũng hiểu em là ai, quan hệ thế nào với anh”, Tạ Vụ Thanh nói thẳng, “Không cần cố tình che giấu làm gì”.
Trong lòng cô vô cùng vui vẻ, cười cười nhặt lên hai quân cờ: “Cứ giả vờ đi, để người hầu xem một chút cũng tốt”, cô đặt một quân cờ xuống bàn, mượn chơi cờ tuỳ ý hỏi chuyện: “Anh đánh giặc thế nào?”
Người đàn ông ngồi đối diện đáp: “Mỗi lần đánh đều khác nhau”.
“Nói em nghe một chút đi”. Cô thật sự muốn nghe anh kể chuyện.
Khuỷu tay anh đặt trên góc bàn cờ, lựa chọn tư thế thoải mái nhất: “Có lần một tên tư lệnh nghèo mang binh chạy đến. Anh nghe nói bên dưới bọn họ đều là đám binh
‘thủ đầu khẩn’ [1], nên sai người mua mấy rương thuốc lá loại tốt rải xuống trận địa, đám lính ấy không chịu nổi cám dỗ, người nhặt người gom rồi bỏ trốn hơn phân nửa, cứ vậy mà tan tác”.
[1] “Thủ đầu khẩn” là một thuật ngữ dùng để chỉ người có tiền nhưng không đủ tiêu.
“Cứ thế mà thắng à?” Cô có chút khó tin.
“Những tên tư lệnh lớn nhỏ kia trong mắt chỉ có lợi ích riêng, hôm nay liên hợp cùng đánh một phía, ngày mai gió đổi chiều liền đánh ngược về, chỉ cần là chuyện có lợi cho bản thân mình, tự tay đâm chết chú bác anh em cũng không phải nói đùa. Những kẻ như thế dù mang binh tới, một khi không thấy tư lợi thì tự giác sẽ trở mặt không nhận người quen”, anh bình luận một câu, “người làm tướng, nếu trong lòng không có lời thề sống chết bảo vệ tín ngưỡng của mình, thì cũng không khác gì đám thủ lĩnh sơn tặc cả”.
Cô đánh giá: “Có điều em nhận ra, anh hư thật sự”. Chỉ cần vài rương thuốc lá đã khiến đội ngũ người ta tan tác.
Tạ Vụ Thanh tất nhiên hiểu cô nói anh “hư” là muốn ám chỉ việc anh tính kế người khác.
Anh phụ hoạ thêm: “Anh vốn cũng không phải người tốt hoàn toàn”.
Nói đoạn, anh mở hộp cờ, nhặt lên mấy quân cờ đen, giúp cô bày lên bàn: “Không cần nghĩ anh quá tốt, sợ khiến em thất vọng”.
Đây là lời người vô cùng dịu dàng thường thích nói, giống như chú hai của cô. Nếu không phải từ nhỏ cô đã đi theo kiểu người thế này lớn lên, chắc sẽ không nhìn thấu ý tứ đằng sau câu nói ấy: Không cần quá xem trọng ta, nhưng ta sẽ cố hết sức đối xử tốt nhất với người.
Bọn họ cách nhau một bàn cờ vây, dưới theo ánh trăng nhìn nhau chăm chú.
Anh thấp giọng hỏi: “Sao em biết chuyện anh đánh cờ?”
“Từng nghe nói”, cô thấp giọng đáp, “Ai muốn bái phỏng Tạ Khanh Hoài, trước tiên phải học đánh cờ”.
Anh nói: “Chỉ là mượn cớ thôi, có thể giúp anh ngăn được hai phần ba mấy cuộc gặp gỡ xã giao”.
Anh dứt lời, lại nói tiếp: “Mạng lưới quan hệ của cô hai thật rộng, biết không ít chuyện của anh”.
“Chiến công Tạ tướng quân nổi như cồn, tự khắc người khác bàn luận nhiều”, cô dịu giọng nói, “Đặc biệt còn có không ít quan hệ với các
khanh khanh giai nhân”.
Tạ Vụ Thanh mỉm cười: “Sao anh lại nghe nói, Tạ Khanh Hoài không mê đắm nữ sắc?”
Anh ném quân cờ đen trong lòng bàn tay về hộp, cứ ném như thế, va chạm phát ra không ít tiếng động sắc bén: “Chuyện nam nữ hồng trần cùng xương trắng chất đống chung quy chỉ hơn kém nhau một lớp da thịt, tham luyến cái này, thật cũng không thú vị”.
Anh ném xong quân cờ của mình, lại lật mở lòng bàn tay cô, lấy đi từng quân cờ trong đó: “Anh sinh ra trên chiến trường, lớn lên bởi gió lửa, không bì được với người trẻ tuổi các em, về mặt tình cảm không đủ linh động”.
Nương theo ánh trăng, anh kéo cô lại gần, đặt cô ngồi trên đùi phải của mình.
“Nhưng được cái tự khắc biết khống chế, chỉ sợ khiến cô hai phiền lòng”. Anh đè thấp giọng.
Đàn hương mà thím đốt quả thật quá nồng, hun đến đầu óc cô choáng váng trì độn, mồ hôi trên lưng vã như tắm. Hồi còn bé, cô cũng thường được người ta ôm vào lòng, có điều anh lại bắt đầu cởi cúc áo trên người cô, cô gạt tay anh, nhỏ giọng nói, vất vả lắm mới cài lại được… Ngăn anh không xong, cô lại nói, anh kéo rèm cửa vào trước đã… Nhưng hình như anh đều không nghe thấy.
Hộp cờ suýt nữa rơi xuống đất, bị một bàn tay anh đỡ được, lại sợ nó rơi xuống lần nữa nên trực tiếp đặt lên thảm trải sàn.
Cô mang một đôi giày lụa trắng bạc, mũi giày khẽ cọ giữa chân anh. Trên mũi giày còn thêu hai đoá hải đường, hôm nay cũng chính nó đã đá vào góc ủng quân đội của Tạ Vụ Thanh. Anh thấy rõ, theo vầng sáng của ánh trăng, áo lót mặc trong của cô cũng mang màu sắc hoa hải đường. Anh bất giác nhớ đến có một loài hoa tên gọi “Nhất Bổng Tuyết”, trước kia anh luôn cảm thấy đóa hoa ấy không xứng với cái tên ấy, ngược lại giờ phút này cùng với người ngồi đây lại thích hợp với ba chữ đó hơn hẳn.
“Anh vừa nãy còn nói…”
“Nói cái gì?” Anh hỏi bên tai cô, hơi thở phả ra, bao lấy cả người cô.
Hà Vị nhen nhóm hơi nóng, lại được anh ôm chặt, không động đậy tì cằm trên bả vai anh, cố gắng nhắm mắt. Nhớ đến vừa rồi, anh còn nói, chuyện nam nữ hồng trần cùng xương trắng chất đống chung quy chỉ hơn kém nhau một lớp da thịt… Nói tới nói lui, tham luyến vẫn là tham luyến.
Anh nhẹ véo cằm cô, để mặt cô đối diện mặt mình, hơi thở nóng rực ẩm ướt rơi xuống trên môi, giữa người cô.
“Anh Thanh”.
Tạ Vụ Thanh mút mát cánh môi cô, trong lúc hơi buông ra, khẽ hỏi: “Sao vậy?”
Cô lắc đầu, khuôn mặt bỏng rát dán vào bên mặt anh, cô hôn lên cằm anh.
Anh nhận ra cô đang thẹn thùng, thấp giọng hỏi: “Có muốn lên giường không?”
Cái gì cũng bị anh đoán trúng.
Tạ Vụ Thanh rời khỏi giường, là vì sợ cô không quen, càng thêm ngượng ngùng quẫn bách. Vốn anh chỉ định ôm cô ngồi suốt đêm như vậy, chỗ này ánh sáng tốt, nhìn thấy cũng rõ ràng. Cô nhỏ giọng lẩm bẩm: “Chói quá”. Thứ khiến cô sốt ruột nhất không phải là bị anh nhìn, mà là nhất cử nhất động của anh, cô đều thấy được…
Tạ Vụ Thanh một tay ôm ghì lấy cô, một tay kéo rèm cửa xuống, phút chốc che giấu toàn bộ căn phòng vào bóng tối.
Đêm đó, cô gác trên cánh tay Tạ Vụ Thanh ngủ suốt hai tiếng đồng hồ.
Tối hôm trước, anh vì uống nhiều rượu nên sau nửa đêm lại muốn ngồi dậy hớp ngụm nước, ai ngờ vừa rời đi lại bị cô siết lấy, nằm lên đùi anh. Tạ Vụ Thanh sợ quần quân phục của mình thường mặc bên ngoài, không sạch sẽ, đành phải bế cô lên, thả cánh tay về chỗ cũ, cho cô làm gối đầu.
Chờ đến tờ mờ sáng, Lâm Kiêu gõ cửa, đưa điện báo khẩn đến cho anh, cô mới bị đánh thức. Trên giường lộn xộn. Tạ Vụ Thanh mặc lại áo sơ mi, cài cúc đàng hoàng định ra ngoài. “Em còn chưa mặc xong”. Cô nhẹ giọng gọi anh về.
Anh dừng bước, đợi cô. Sau khi thấy Hà Vị đã khoác xong áo choàng, anh mới mở cửa, từ dưới cánh tay anh, cô vọt chạy ra ngoài, nhìn Lâm Kiêu vội vàng gật đầu một cái rồi nhanh chóng biến mất.
Một bên vai Tạ Vụ Thanh ê ẩm, cũng không kiêng dè, đứng trong phòng nhìn Lâm Kiêu mang điện báo tới, hơi cử động bả vai. Lâm Kiêu nhìn chằm chằm anh nửa ngày. Tạ Vụ Thanh gấp bức điện báo lại, trả về cho Lâm Kiêu: “Sao vậy?”
Lâm Kiêu vừa nhận điện báo, vừa nghĩ, sau này có tiểu công tử rồi, vì đảm bảo an toàn, hắn nhất định phải tự mình trông đứa trẻ ấy.
Cảm xúc Hà Vị chưa ổn định, chạy vào phòng thím nhỏ ở tầng một, cả người cô nhiễm khí lạnh chui tọt vào trong chăn. Thím nhỏ bị khí lạnh làm tỉnh giấc, kêu một tiếng, tiểu tổ tông của ta ơi, rồi xoay người ôm lấy cô, sờ xuống dưới: “Cái eo nhỏ này của con, thật khiến người ta yêu thích mà”.
Cô nghĩ, thật ra eo của anh mới thon.
Lúc Hà Vị tỉnh lại lần nữa, mặt trời đã lên cao ba sào.
Cô vùi mặt vào chăn bông, nhắm mắt lại nghĩ đến Tạ Vụ Thanh. Một bên mặt anh đắm chìm trong ánh trăng như bước ra từ bức hoạ, hai mí mắt sâu hoắm… sống mũi thẳng tắp…
Có người ngoài chăn chạm vào cô, cô hơi nghiêng đầu nhìn, thì ra là thím. Thím kề sát gần, thì thầm: “Triệu Ứng Khác đến rồi”.
Trong phòng trà, Tạ Vụ Thanh vén rèm bước vào.
“Tạ thiếu tướng quân”. Triệu Ứng Khác đứng trong phòng khách, nhìn anh gật đầu.
Tạ Vụ Thanh cũng hơi gật đầu đáp lại: “Tôi không phải chủ nhà ở đây, không cần khách sáo”.
Anh để phó quan canh giữ ngoài cửa, ngồi xuống đối diện Triệu Ứng Khác, giống hệt mãnh hổ và sơn thạch trên bức bình phong bên cạnh.
Tạ Vụ Thanh nhìn người trước mặt: “Không biết Triệu công tử muốn gặp tôi, là vì chuyện gì?”
“Chuyện riêng”, Triệu Ứng Khác nói, “Là vì Vị Vị”.
Tạ Vụ Thanh trầm mặc nhìn hắn.
“Vốn không định quấy rầy thiếu tướng quân, nhưng mấy ngày nay tôi mới biết, thì ra người tên Tạ Khanh Hoài thực chất là Tạ Vụ Thanh, nghĩ vẫn nên đến gặp mặt một chút”, Triệu Ứng Khác thận trọng hỏi anh, “Không biết thiếu tướng quân có từng nghe qua người tên Hà Nhữ Tiên không?”
“Là anh trai của Vị Vị”. Tạ Vụ Thanh trực tiếp trả lời.
“Tôi và cậu ấy vốn có sinh tử chi giao, năm đó khi tai nạn ập đến, tôi từng nghe cậu ấy nhắc đến cái tên Tạ Khanh Hoài”, Triệu Ứng Khác nói, “Lần ấy vì để cứu Hoa Kiều ở Nam Dương, Nhữ Tiên từng nhờ một vị tướng quân yêu nước ở Vân Quý giúp đỡ, người đó chính là thiếu tướng quân đây”.
Hắn không hỏi anh, Tạ Vụ Thanh cũng không đáp lại, xem như ngầm thừa nhận.
“Tôi hộ tống Vị Vị từ Nam Dương về lại Bắc Kinh, còn Nhữ Tiên thì qua đời ở Nam Dương…” Triệu Ứng Khác dừng lại thật lâu, như đang nhớ chuyện quá khứ. “Còn những kiều bào cùng công nhân nhờ có thiếu tướng quân bảo vệ, nên mới bình an quay về cố hương. Tất cả những chuyện này, nếu hôm nay tôi không biết rõ ràng, có phải thiếu tướng quân cũng sẽ không nhắc lại đúng không?”
Triệu Ứng Khác vừa dứt lời, lại nói tiếp: “Tôi từng thăm dò Vị Vị, cô ấy cái gì cũng không biết. Vì sao ngài không nói cho cô ấy?”
Nếu có thêm một tầng quan hệ này, việc theo đuổi Hà Vị càng dễ dàng hơn, vậy mà Tạ Vụ Thanh vẫn không hé môi nửa chữ.
Sau một hồi im lặng, Tạ Vụ Thanh cuối cùng cũng mở miệng: “Tôi cùng Hà Nhữ Tiên trước đó không có giao tình thân thiết, chỉ từng qua lại hai bức điện tín, ngoại trừ một câu nhờ vả cùng đồng ý phối hợp, cũng không còn gì khác. Tôi vì vận tải đường thuỷ Hà gia nên tin tưởng cậu ấy, còn cậu ấy lại vì quân đội cách mạng tin tưởng tôi, chỉ có như vậy thôi”.
Anh nói tiếp: “Triệu công tử đây trước khi làm phụ tá cho quân phiệt, sự am hiểu về tình hình chiến sự các tỉnh thành chỉ có thể xem trên mặt báo. Mà tôi mỗi ngày đều phải đối mặt với những thứ ấy, giết địch, cứu người, hộ tống dân chúng bình an quay về cố hương, đây đều là những việc mà một quân nhân như tôi phải làm, không đáng nhắc đến. Huống hồ trong sự việc này, anh trai Vị Vị đã qua đời, đây là nỗi đau của em ấy, tôi không nghĩ ra lý do gì để mình nhắc lại chuyện cũ khiến em ấy càng thêm thương tâm”.
Năm đó có một bức điện báo đánh tới, nói rằng phía Nam Dương xảy ra chuyện xin anh giúp đỡ, bên kia còn có kiều bào cùng rất nhiều công nhân đang gặp nguy khốn. Cái tên Tạ Sơn Hải này quá nổi tiếng trên chiến trường, anh sợ ra ngoài nói lên sẽ gặp phiền phức, vì thế dùng tên Tạ Khanh Hoài gửi điện báo trả lời, đồng ý sẽ giúp đỡ… Anh cải trang thành dân thường, đưa theo thân tín của mình đến Nam Dương. Khi ấy, Tạ Khanh Hoài chưa từng ra tiền tuyến, đó cũng là lần đầu tiên anh dùng cái tên này, ở Nam Dương tất nhiên chẳng ai biết anh, càng không biết anh đã làm gì, câu chuyện cũ ấy vốn nên chôn chặt trong quá khứ.
Căn phòng chìm trong im lặng mất một lúc lâu.
“Tướng quân đến Nam Dương… có từng gặp Nhữ Tiên không?”
Tạ Vụ Thanh khẽ lắc đầu: “Lúc tôi đến, Hà Nhữ Tiên đã hy sinh thân mình vì đất nước rồi”.
Hương đốt hôm nay dùng là Long Tiên Hương. Cũng chính là hương liệu đốt khi ra biển, khiến người ta nhớ đến cơn gió đại dương ẩm ướt của Nam Dương.
Hà Vị vội vàng vào phòng trà, bên trong yên tĩnh đến lạ.
Con mèo ngồi xổm trên chiếc ghế trống bên cạnh Tạ Vụ Thanh, ngón tay anh gãi gãi lưng mèo. Con mèo thích chí, phát ra tiếng kêu khò khè. Người ngồi đối diện là Triệu Ứng Khác đã lâu không gặp.
“Ngủ ngon không?” Tạ Vụ Thanh hỏi, đưa tay về phía cô.
“Vâng”. Hà Vị nhẹ nhàng bước qua, bị anh tóm chặt, kéo ngồi xuống ghế trống chỗ con mèo, cô ôm con mèo vào ngực. Đột nhiên được anh hỏi thăm ngược lại có cảm giác anh là chủ nhà, còn cô là khách đến chơi.
“Anh thức dậy lúc nào thế?” Cô nhẹ giọng thì thầm.
Anh cười, thủ thỉ vào tai cô: “Sớm hơn cô hai đây”.
Bầu không khí giữa hai người rất giống cảnh tượng
yến nhĩ tân hôn [3].
[3] Xuất phát từ câu “yến nhĩ tân hôn” trong Kinh Thi, ý chỉ nàng dâu mới cưới, vợ mới cưới; sau này còn được dùng để chúc mừng tân hôn, ngợi ca bầu không khí vui vẻ lúc mới kết hôn.
Triệu Ứng Khác ngồi đối diện, lại giống như cách bọn họ cả dãy ngân hà trên bầu trời Thiên Tân.
Hà Vị chào tạm biệt chú chín cùng hai người thím, cất bước theo Tạ Vụ Thanh rời khỏi nhà chú chín.
“Nếu còn thời gian, em định dẫn anh đi gặp một vị trưởng bối”, cô ngồi trong xe anh, thấp giọng nói, “Ông ấy vẫn luôn muốn được gặp anh, chỉ là không có cơ hội”.
Tạ Vụ Thanh xem thời gian thấy vẫn còn kịp nên theo cô đến tô giới Pháp.
Thầy giáo của anh trai cô sống trên một con đường khiêm tốn trong tô giới Pháp, trước cửa nhà có một hàng rào sắt cùng vai bảo vệ trông coi. Cô nói muốn gặp chủ nhà họ Tấn của họ. Một tên bảo vệ chạy vào hỏi, không lâu sau đã xuống mở cổng sắt cho hai người, nặng nề nhắc nhở cô đúng bảy giờ tối khoá cổng, phải ra khỏi đây trước lúc đó.
Tấn lão nhìn thấy cô tới vô cùng vui vẻ, đánh giá vị tướng quân trẻ tuổi đi theo sau Hà Vị: “Người đây chính là tiểu tướng quân của Tạ gia đúng không?”
Cũng chỉ có người như ông ở độ tuổi này mới gọi anh là “tiểu tướng quân” thôi. Cô nghe thấy thì cười thầm trong lòng.
Cháu gái của Tấn lão cũng sống ở đây chăm sóc ông, cô ấy giúp họ châm trà, sau đó ra ngoài không quên khép cửa lại, chừa chỗ cho họ bàn bạc chính sự.
Tấn lão thở dài thườn thượt, cảm khái nhìn Tạ Vụ Thanh: “Chắc các em cũng nhận được tin, chính phủ lâm thời đã ra
‘Tuyên ngôn Ngoại Sùng Quốc Tín’ [4], hàm ý chính là tôn trọng lợi ích của các quốc gia trên lãnh thổ Trung Quốc. Chủ trương của những người khác đều không có kết quả”.
[4] Tháng 10/1924, chính phủ quân phiệt Trực hệ bị Phùng Ngọc Tường lật đổ. Dưới sự ủng hộ của Phùng Ngọc Tường và những người khác, ngày 24/11, Đoàn Kỳ Thuỵ đảm nhiệm chức vụ “nhà cầm quyền tạm thời của Trung Hoa Dân Quốc”, và sau đó ban hành “Tuyên ngôn Ngoại Sùng Quốc Tín” vào ngày 6/12 nhằm bảo vệ quyền lợi cho các cường quốc trên lãnh thổ Trung Quốc, đồng thời quyết định mở cuộc họp phục hồi chức năng để phản đối chủ trương triệu tập hội nghị các quốc gia do Tôn Trung Sơn đưa ra, bảo vệ quyền thống trị của quân phiệt Bắc Dương.
Tạ Vụ Thanh không tỏ vẻ bất ngờ.
Tấn lão nói tiếp: “Vì tránh hoà đàm ta mới đến Thiên Tân dưỡng bệnh. Mấy năm nay các cậu ở phía Nam, kiên trì vô cùng vất vả, ta không muốn trở thành cọng rơm đè nặng lên người các cậu”.
Tạ Vụ Thanh cười cười, trái lại còn trấn an ông lão: “Đối với những chuyện xảy ra, tôi đã sớm có chuẩn bị, lão tiên sinh không cần quá phiền muộn”.
Tấn lão buồn bã cười, hình như nghĩ ra cái gì đó, ông đứng dậy, đi ra ngoài mang theo một cái túi trở về.
“Đây là chút lòng thành của ta”.
Tạ Vụ Thanh cùng Hà Vị bất ngờ.
“Thưa thầy, những thứ này đều là của thầy để dưỡng lão… để chúng em lo được rồi ạ”. Cô muốn ngăn lại.
Tấn lão xua tay: “Là ta tặng tiểu tướng quân”, ông mở túi vải, bên trong đúng là có mấy xấp vàng lá được bó lại thật dày. Vừa nhìn đã biết toàn bộ đều được đặc biệt tìm người nấu chảy rồi đúc lại. Vàng lá rất tiện mang theo bên người, vừa mỏng nhẹ còn có thể gấp vào, nhét trong sách hay quần áo rồi khâu kín rất dễ dàng. Thầy tích cóp được ngần này quả thật vất vả, nhưng đều lấy ra toàn bộ.
Tạ Vụ Thanh không nhận, Tấn lão nói dù sao cũng phải đưa cho anh: “Lần này là đánh nhau với quân phiệt đấy, cậu không thấy sao, Không quân dưới trướng bọn họ có bao nhiêu phi cơ, bọn họ có tiền, còn mời cả trăm phi công từ
Bạch Nga [5] đến. Ta nhìn thấy mà sốt ruột, sợ các cậu chịu thiệt. Cầm lấy đi, tiểu tướng quân, đây là của cá nhân ta, là cá nhân quyên góp cho các cậu”.
[5] Bạch Nga, một cách gọi khác chỉ những người Nga nhập cư vào Trung Quốc trong những năm 1920
Tấn lão nói xong, vỗ lên mu bàn tay của Tạ Vụ Thanh: “Ta làm ngoại giao hơn nửa đời người, ngoại trừ mấy chuyện nhẫn nhịn nhún nhường, cái gì cũng không làm được, ta sợ đời này mình cũng không còn hy vọng gì. Chờ các cậu đánh thắng quân phiệt, có thể tiếp tục nói chuyện bãi bỏ hiệp ước, thu hồi quốc thổ. Tiểu tướng quân, trông cậy vào các cậu”.
Tạ Vụ Thanh trước mặt khép chặt hai chân, lưng thẳng tắp, hành một cái quân lễ đầy kính trọng với ông lão này.
Anh nghiêm mặt nói: “Khôi phục đại nghĩa, chấn chỉnh non sông, chúng ta vạn chết cũng không từ”.
Đây là lần đầu tiên cô nhìn thấy anh cùng người khác bàn chuyện quốc gia.
Khuôn mặt Tạ Vụ Thanh chìm trong ánh hoàng hôn, ửng lên một tầng đỏ. Bên sườn mặt anh cũng giống nguồn sáng kia, chiếu rọi chói mắt còn hơn cả trời chiều. Cô tưởng tượng ra cảnh, trên chiến trường phủ ánh tà dương, anh đứng trông theo bóng dáng khuất xa của vạn dặm núi xanh.
Thật ra anh càng giống thứ ánh sáng nhu hoà trong đêm đen, như sương lại như tuyết, là người thích trầm mặc, mà người như vậy hết lần này đến lần khác lại trở thành tướng quân.
— HẾT CHƯƠNG 23 —
Bình luận facebook