Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Quyển 6 - Chương 37: Hải hòa thượng
Tôi vội ngoảnh đầu lại nhìn xuống mặt nước phẳng lặng, chỉ thấy biên độ của những con sóng lớn dần lớn dần, hai chiếc xuồng cứu sinh nhỏ dập dềnh lên xuống theo nhịp sóng, ngoài ra không còn hiện tượng dị thường gì khác, bèn nói với Cổ Thái: “Thằng nhãi này, đã bảo cậu đừng nhắc đến ma quỷ gì nữa rồi cơ mà? Chẳng nhớ gì cả. Núi cao ắt có quái, rừng sâu chắc có tinh, đến những nơi thế này tốt nhất đừng có mà nói nhảm.” Nói đoạn, tôi lại mượn tấm gương nhỏ mang theo người của Shirley Dương, len lén giơ lên soi về phía Cổ Thái, nhưng tấm gương ấy nhỏ quá, mà hai cái xuồng lại cứ dập dềnh lên xuống trên mặt nước, nên chẳng thể nào nhìn rõ được hình ảnh phản chiếu trong gương.
Đa Linh lo lắng cho Cổ Thái, vội hỏi: “Sư đệ, sao cứ nhắc đến ma quỷ hoài vậy?” Cổ Thái nói mấy câu bằng tiếng thổ ngữ của đảo Miếu San Hô với Đa Linh. Minh Thúc từng sống ở Nam Dương một thời gian dài, nghe hiểu được khá nhiều, lão nghe xong bèn dịch lại cho chúng tôi, thì ra Cổ Thái đang kể lại chuyện xảy ra bên trong khoang tàu Chĩa Ba.
Tàu Chĩa Ba được đóng chủ yếu bằng liễu biển, từ xưa đến nay, cũng chẳng có mấy con tàu như thế, đến cả Minh Thúc cũng chưa từng gặp bao giờ. Liễu biển thực ra không phải gỗ, nhưng có tính cực âm hàn, vì vậy mới được gọi là “liễu”. Thời xa xưa, liễu được coi là đứng đầu trong “ngũ quỷ”. Tương truyền, lấy lá liễu ra nghiền thành nước bôi lên mí mắt, đi đêm có thể trông thấy ma quỷ.
Thời xưa, khi chọn mộ táng, người ta rất coi trọng “phong” và “thụ”. “Phong” ở đây là đất phong, còn “thụ” là một trong năm loại cây có ma quỷ ám vào. Những cây kiểu như cây liễu, cây hòe... đều có thuộc tính cực âm, không thích hợp trồng trong sân nhà người sống, vì chúng thực sự là những cây thuộc về âm trạch. Dân gian có câu: “Trong nhà trong sân, chớ trồng ngũ quỷ” chính là ý này.
Dù là Mô Kim hiệu úy hay dân mò ngọc, cũng đều hiểu rõ một đạo lý chung: “Đã đặt tên ấy, ắt có nguyên nhân”, dù là những cái tên người hết sức bình thường đến độ chẳng thể nào bình thường hơn được nữa như Trương Tam, Lý Tứ, Vương Nhị... thì cũng đều dựa theo thứ bậc, tính thị hay đặc trưng mà đặt ra. Cái tên gọi “liễu biển” này cũng không phải cứ thế mà phịa ra được. Ngoài hình dạng rất giống nhau ra, nó cũng có tính chất hấp nạp âm khí hệt như cây liễu trên lục địa. Tương truyền, người chết đuối dưới biển thì hóa thành quỷ biển, lũ quỷ này thường hay tụ tập nơi cây liễu biển, trải qua nhiều năm, liễu biển dần kết tụ được một đám ma khí. Người sống chạm phải thứ ma khí này, lập tức bị khí âm cảm nhiễm mà chết.
Tin cũng được mà không tin cũng được, dẫu sao thì trong cây liễu biển nghìn năm cũng luôn tồn tại một thứ âm khí vô hình vô chất. Giống như một số vỏ trai vỏ sò khi sinh ra đã có hình ảnh giống Đức Phật y đúc, âm khí trong liễu biển nhiều khi cũng có hình dạng như bóng người. Tàu thuyền đóng bằng loại liễu biển này có thể phá sóng đạp gió, ra khơi xa cũng chẳng ngại ngần. Dù có gặp bão lớn, chỉ cần trên tàu có một bộ phận nào đó dùng liễu biển nghìn năm, thì hầu như lần nào cũng có thể hóa nguy thành an. Tương truyền, tất cả đều nhờ vào âm khí của ma quỷ bên trong liễu biển phù trợ. Có điều, trên biển có rất nhiều cấm kỵ, trong khoang tàu đóng bằng liễu biển nhất định phải có một ngăn bí mật thờ ma nước. Ngoài ra, còn có một thuyết mê tín cho rằng, kẻ nào nhắc đến quỷ biển trên tàu đóng bằng liễu biển, kẻ ấy chắc chắn sẽ chết không toàn thây.
Bên trong ngăn bí mật thờ quỷ biển, đa phần đều đặt đóa hoa đá biển khóa kèm một bộ xương hải tặc. Bởi lẽ, khi tàu đóng bằng liễu biển ra khơi, âm khí trên tàu sẽ dào dạt tuôn, nhân viên và thủy thủ sẽ vì thế mà liên tiếp mất mạng. Chỉ có hoa đá biển mới hấp thu được thứ âm khí ma quỷ này. Xung quanh hoa đá biển thường có một loài sinh vật nửa cá nửa tôm, gọi là “hải hòa thượng”, là một loài sinh vật lưỡng thê, rời nước vẫn sống được, bị người bắt liền dập đầu xin tha, miệng lẩm bẩm rì rầm như đang niệm “A di đà Phật”. Bình thường, nó chuyên liếm thứ nước đen do hoa đá biển hấp thụ ám khí tiết ra, những người đi biển mê tín cho rằng thứ nước đen ấy là oán khí của u linh bên trong liễu biển tích tụ lại mà thành. “Hải hòa thượng” còn được gọi là cá bồ tát, trong đầu có “hắc xá lợi”, chính là những viên tròn tròn mà Tuyền béo tưởng là hắc trân châu. Có “hải hòa thượng” trên tàu thì có thể siêu độ cho các vong linh ám trên liễu biển, vì vậy ngư dân nào vớt được “hải hòa thượng” cũng đều lập tức phóng sinh, tuyệt đối không có ai dám cả gan ăn. Còn bộ xương của hải tặc, cũng là vật trấn tàu không thể thiếu, chuyên dùng để trấn áp vong linh trên tàu.
Ở Nam Dương, các loại phong tục kỳ quái kiểu này thật nhiều không kể xiết, song giờ cũng đã mai một gần hết, ngay như tàu đóng bằng liễu biển cũng gần như tuyệt tích trên thế gian rồi. Có điều, những thứ cấm kỵ khó hiểu ấy dù không thể tin hết, song cũng không thể không tin, đội trục vớt người Anh kia, chính vì không tin vào những chuyện tà môn, định bắt mấy con “hải hòa thượng” ra làm tiêu bản nên mới bị âm khí trên tàu xâm nhập mà không dưng mất đi tính mạng.
Minh Thúc hồi trước cũng nghe phong thanh được một ít, nếu bọn Đa Linh, Cổ Thái không nhắc đến thì lão cũng quên béng đi mất, vả lại, lão cũng chỉ biết đại khái, chưa tận mắt chứng kiến bao giờ. Lúc này, Cổ Thái kể lại chuyện ngày xưa Nguyễn Hắc dặn dò cậu ta và Đa Linh, chúng tôi mới biết thêm một chút, Cổ Thái tin chuyện này vô cùng, từ đầu chí cuối cậu ta vẫn cho rằng sau khi Nguyễn Hắc chết, oan hồn liền bám vào tầng kép bên trong tàu Chĩa Ba. Biết vậy, tuy vừa kinh vừa sợ, nhưng giờ phải bỏ tàu mà đi, cậu ta lại không khỏi cảm thấy lưu luyến, không ngừng ngoái lại nhìn, muốn xem xem trong đám quỷ biển dưới nước có sư phụ Nguyễn Hắc của mình hay không.
Nói tới đây, nước mắt Đa Linh và Cổ Thái lại lã chã tuôn rơi. Hai người đặt mái chèo gỗ sang bên, đưa tay quệt nước mắt, xuồng bên phía họ lập tức chậm lại. Tôi bèn nhân cơ hội ấy dùng tấm gương nhỏ soi bóng lưng của Cổ Thái, đang định nhìn cho rõ, thì chiếc gương trên tay đã bị Shirley Dương giật mất. Cô thấp giọng thì thào: “Anh lại giở trò gì ra đấy? Đang yên đang lành, không dưng đem gương ra soi bọn họ làm gì?”
Tôi bèn kể chuyện nhìn thấy bóng ma thuyền trưởng trong xác tàu đắm cho cô. Shirley Dương cười cười chế giễu: “Vừa mới rồi anh còn trách móc Cổ Thái suốt ngày nói chuyện ma quỷ, giờ thì hay ho nhé, mồm vẫn nói tay vẫn làm, kiểu gì thì anh cũng đúng, có phải không?”
Tôi nói với Shirley Dương: “Tương lai của chúng ta sáng ngời, nhưng con đường phía trước thì còn lắm chông gai, giờ lại đang lạc lối ở chốn Quy Khư mịt mùng này nữa, chúng ta không thể nào không cẩn thận đề phòng được. Ai có thể chứng minh trên đời này có hay là không có ma quỷ đâu chứ? Ngộ nhỡ chẳng may có thứ gì đấy không sạch sẽ ám lên người Cổ Thái, cô và tôi tự nhiên cũng không thể buông tay đứng nhìn được. Có điều, đợi đến khi sự việc xảy ra thì muộn mất, lúc ấy gạo nấu thành cơm, ván đóng thuyền rồi, chẳng còn làm gì được nữa đâu. Tôi cảm thấy từ lúc ở dưới nước Cổ Thái đã không được ổn lắm rồi, cô không thấy gì sao?”
Shirley Dương lắc đầu: “Tôi thấy hai chị em Đa Linh và Cổ Thái đều là người thật thà chất phác, lúc ở trong xác tàu Mariana cũng không thấy Cổ Thái có gì không bình thường cả. Tôi biết, anh lo lắng cho tiền đồ mờ mịt của đám người chúng ta, nhưng cũng không nên tự tạo thêm áp lực quá lớn cho mình làm gì. Tôi thấy trong phòng của thuyền trưởng có một bức tranh vẽ ông ta, một người râu rậm đeo đồng hồ vàng tay cầm tẩu thuốc. Căn phòng đó chật hẹp, mà chúng ta lại mang theo rất nhiều thiết bị chiếu sáng, ánh sáng phản xạ chiết xạ giao thoa đan xen trong nước, có lẽ thứ anh nhìn thấy trong gương chính là hình ảnh phản xạ của bức tranh ấy cũng nên.”
Tôi nghe cô nói liền không khỏi tròn mắt lên, lẽ nào đúng là tôi hoa mắt nhìn lầm? Trong môi trường tối tăm, thiếu dưỡng khí và áp lực cao dưới nước, cộng với ánh sáng không ổn định của các thiết bị chiếu sáng dưới nước, chuyện này cũng không thể nói chắc được. Có lẽ, bóng ma trong gương kia chỉ là ảo giác thôi cũng nên. Nhưng ngay sau đó, tôi lại nghĩ lại, trong cả quá trình chúng tôi lặn xuống tìm kiếm Tần Vương Chiếu Cốt kính, đã xảy ra rất nhiều sự việc khó có thể lý giải, chẳng lẽ tất cả mọi chuyện ấy đều là bình thường hay sao? Thuốc xua cá mập đeo trên người chúng tôi tại sao lại cùng lúc tan hết chỉ trong nháy mắt? Tại sao lũ cá dữ ấy lại truy đuổi chúng tôi như là phát điên lên vậy? Cẩn tắc vô áy náy, giờ đội chúng tôi đã mất đi một thành viên, muốn đưa những người còn lại sống sót trở về, làm sao tôi có thể xem nhẹ bỏ qua những sự việc quái đản ấy được chứ? Khinh núi chớ khinh biển, biển lớn từ cổ chí kim đã nuốt chửng không biết bao nhiêu sinh linh, vong hồn oán quỷ dưới đáy biển này tuyệt đối không ít hơn trên lục địa bao nhiêu, vả lại, những chuyện dưới biển thật khó giải thích, chẳng biết còn phức tạp hơn trên rừng sâu núi thẳm bao nhiêu lần nữa. Mô Kim hiệu úy chúng tôi thường hay khoa trương, nói rằng mình không phải người tầm thường, nên toàn gặp những việc phi thường, kiến văn của hạng phàm phu tục tử không thể đem ra so sánh với chúng tôi được, nhưng ra đến biển, bọn chúng tôi cũng chẳng khác nào kẻ mù dở, thậm chí còn không hiểu biết bằng Minh Thúc, thật đúng là mỗi nghề mỗi vẻ.
Shirley Dương định an ủi tôi mấy câu, nhưng nghe tôi xả ra một tràng như thế, cũng không khỏi nhíu hàng lông mày lá liễu lại. Đối với hành động lặn xuống trục vớt Tần Vương Chiếu Cốt kính vừa rồi, trong lòng cô cũng còn rất nhiều nghi vấn, song trước mắt lại không có đầu mối gì, chỉ thấy cứ vừa khua động mái chèo gỗ, vừa ngẩn ngơ thất thần nhìn xuống nước không nói không rằng.
Lúc đó, Tuyền béo chợt lên tiếng: “Hai người thật đúng là chẳng ra sao cả, đừng có chuốc thêm việc vào mình nữa chứ. Tốt nhất là nên tập trung tinh thần, nghỉ ngơi lấy lại sức rồi nhân lúc hải nhãn không có nước, chèo thuyền thẳng ra ngoài là xong xuôi, chẳng phải lo nghĩ gì sất. Với lại, hai người cũng đừng có thì thà thì thào lén lút nữa, lão giặc già Hồng Kông bên kia đang giở trò kia kìa.”
Tuyền béo muốn bảo tôi để ý động tĩnh của Minh Thúc. Chúng tôi bèn đưa xuồng cứu sinh áp sát lại gần xuồng của ba người bọn Minh Thúc, chỉ nghe lão ta đang an ủi Cổ Thái và Đa Linh, rồi bảo mình thật lòng rất thích hai người bọn họ, khuyên hai chị em đừng sang Pháp tìm người thân làm gì nữa, chi bằng ở lại bái lão làm sư phụ còn hơn. Lão còn vỗ ngực huênh hoang: “Tại sao lại gọi ta là Minh Thúc chứ? Bởi vì ta đây chính là ánh sáng quang minh, ở Nam Dương có ai mà không biết, chỉ cần đi theo Minh Thúc này thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ bị bóng tối bao trùm…”
Tôi và Tuyền béo lập tức xỉa xói cho lão một trận: “Bác bốc phét lên cao quá cẩn thận ngã dập mông đấy. Bác là cái gì tưởng chúng tôi còn không rõ hay sao? Một tên đầu cơ phá sản từ lúc nào biến thành thánh nhân thế nhỉ? Đúng là da mặt còn dày hơn cả tường thành nữa.”
Cho dù trước lúc lâm chung Nguyễn Hắc không có lời nhờ vả, tôi cũng không thể mở mắt trân trân ra nhìn Cổ Thái và Đa Linh nhảy vào cái hố lửa mang tên Minh Thúc này được. Sau khi tìm được cha ruột của Đa Linh, cô hẳn sẽ có được một cuộc sống vốn thuộc về mình; còn Cổ Thái mới chỉ mười lăm mười sáu tuổi đầu, tiền đồ rộng mở thênh thang. Cậu ta không giống như tôi với Tuyền béo hồi mười lăm mười sáu, chúng tôi thời bấy giờ không có quyền lựa chọn tương lai cho mình. Năm đó, có một câu vè là “Không hỏi đức trí thể, chỉ hỏi hàng thứ mấy. Không hỏi hàng thứ mấy, thì hỏi năm mươi mấy.” Ý là, thanh niên phải lên núi lên rừng, nếu trong nhà có nhiều anh chị em thì anh cả ở lại, anh hai đi, anh ba ở lại, em út đi. Vì vậy, khi tham gia đội thanh niên về nông thôn sản xuất, người ta đều hỏi xếp thứ mấy trong nhà. Ngoài ra, những thanh niên được ở lại thành phố có thể thay thế vị trí của cha mẹ, nhưng điều kiện tiền đề là phải xem cha mẹ năm mấy tuổi rồi. Vậy mới nói, đám người thế hệ chúng tôi trước năm ba mươi tuổi đều chẳng có quyền lợi gì đối với vận mệnh của chính mình cả.
Còn Cổ Thái không chỉ có thể lựa chọn theo sư tỉ Đa Linh của mình sang Pháp, Shirley Dương cũng có thể sắp xếp cho cậu ta sang Mỹ đi học hoặc dứt khoát ở lại đảo Miếu San Hô theo Võ thọt học buôn bán làm ăn, cần gì phải đi theo lão giặc già Minh Thúc học mấy ngón nghề vô dụng của lão rồi đi làm toàn những việc liều mạng lên núi đao xuống chảo dầu cơ chứ.
Tôi hiểu rất rõ, Minh Thúc chẳng qua chỉ nhắm vào thân phận Long hộ của Cổ Thái, hình xăm Thấu hải trận trên người cậu ta, sợ là trên đời đã không còn cái thứ hai nữa rồi. Bị tôi và Tuyền béo vạch mặt, lão già nào dám đắc tội với hai chúng tôi, đành cố nuốt cơn tức, thèm thuồng nhìn chòng chọc lên lưng Cổ Thái. Lão không biết chuyện lúc ở dưới nước Cổ Thái đã bị cá mập tấn công, vẫn cứ ngỡ hình xăm Thấu hải trận là bí mật không truyền ra ngoài của Đản nhân thời cổ đại, chỉ hận không thể xăm lại toàn bộ những hình vẽ phức tạp ấy lên người mình rồi nhảy xuống biển mò ngọc, đánh nhau với cá dữ.
Xuồng cứu sinh đã lênh đênh trên mặt nước hồi lâu, mắt thấy khoảng cách với tòa thành cổ nổi trên mặt nước kia mỗi lúc một gần hơn, tôi tạm thời không phân tâm để ý đến Minh Thúc nữa, chỉ cùng Shirley Dương tập trung chú ý về phía trước. Không biết trong di tích cổ còn bảo tồn được tương đối hoàn hảo kia có nguy hiểm gì hay không, chúng tôi vừa chèo xuồng tiến lên, vừa bảo Tuyền béo chuẩn bị vũ khí và thiết bị chiếu sáng.
Đúng lúc ấy, Minh Thúc dường như phát hiện ra trên lưng Cổ Thái có gì đó, chỉ tay vào hình xăm kêu lên với chúng tôi: “Tổ... tổ tiên của Đản nhân... hình như đều từ trong hải nhãn này ra ngoài... trên lưng thằng nhãi này... hình xăm... trong hình xăm... có... có ngọn núi trước mặt kia kìa!”
Đa Linh lo lắng cho Cổ Thái, vội hỏi: “Sư đệ, sao cứ nhắc đến ma quỷ hoài vậy?” Cổ Thái nói mấy câu bằng tiếng thổ ngữ của đảo Miếu San Hô với Đa Linh. Minh Thúc từng sống ở Nam Dương một thời gian dài, nghe hiểu được khá nhiều, lão nghe xong bèn dịch lại cho chúng tôi, thì ra Cổ Thái đang kể lại chuyện xảy ra bên trong khoang tàu Chĩa Ba.
Tàu Chĩa Ba được đóng chủ yếu bằng liễu biển, từ xưa đến nay, cũng chẳng có mấy con tàu như thế, đến cả Minh Thúc cũng chưa từng gặp bao giờ. Liễu biển thực ra không phải gỗ, nhưng có tính cực âm hàn, vì vậy mới được gọi là “liễu”. Thời xa xưa, liễu được coi là đứng đầu trong “ngũ quỷ”. Tương truyền, lấy lá liễu ra nghiền thành nước bôi lên mí mắt, đi đêm có thể trông thấy ma quỷ.
Thời xưa, khi chọn mộ táng, người ta rất coi trọng “phong” và “thụ”. “Phong” ở đây là đất phong, còn “thụ” là một trong năm loại cây có ma quỷ ám vào. Những cây kiểu như cây liễu, cây hòe... đều có thuộc tính cực âm, không thích hợp trồng trong sân nhà người sống, vì chúng thực sự là những cây thuộc về âm trạch. Dân gian có câu: “Trong nhà trong sân, chớ trồng ngũ quỷ” chính là ý này.
Dù là Mô Kim hiệu úy hay dân mò ngọc, cũng đều hiểu rõ một đạo lý chung: “Đã đặt tên ấy, ắt có nguyên nhân”, dù là những cái tên người hết sức bình thường đến độ chẳng thể nào bình thường hơn được nữa như Trương Tam, Lý Tứ, Vương Nhị... thì cũng đều dựa theo thứ bậc, tính thị hay đặc trưng mà đặt ra. Cái tên gọi “liễu biển” này cũng không phải cứ thế mà phịa ra được. Ngoài hình dạng rất giống nhau ra, nó cũng có tính chất hấp nạp âm khí hệt như cây liễu trên lục địa. Tương truyền, người chết đuối dưới biển thì hóa thành quỷ biển, lũ quỷ này thường hay tụ tập nơi cây liễu biển, trải qua nhiều năm, liễu biển dần kết tụ được một đám ma khí. Người sống chạm phải thứ ma khí này, lập tức bị khí âm cảm nhiễm mà chết.
Tin cũng được mà không tin cũng được, dẫu sao thì trong cây liễu biển nghìn năm cũng luôn tồn tại một thứ âm khí vô hình vô chất. Giống như một số vỏ trai vỏ sò khi sinh ra đã có hình ảnh giống Đức Phật y đúc, âm khí trong liễu biển nhiều khi cũng có hình dạng như bóng người. Tàu thuyền đóng bằng loại liễu biển này có thể phá sóng đạp gió, ra khơi xa cũng chẳng ngại ngần. Dù có gặp bão lớn, chỉ cần trên tàu có một bộ phận nào đó dùng liễu biển nghìn năm, thì hầu như lần nào cũng có thể hóa nguy thành an. Tương truyền, tất cả đều nhờ vào âm khí của ma quỷ bên trong liễu biển phù trợ. Có điều, trên biển có rất nhiều cấm kỵ, trong khoang tàu đóng bằng liễu biển nhất định phải có một ngăn bí mật thờ ma nước. Ngoài ra, còn có một thuyết mê tín cho rằng, kẻ nào nhắc đến quỷ biển trên tàu đóng bằng liễu biển, kẻ ấy chắc chắn sẽ chết không toàn thây.
Bên trong ngăn bí mật thờ quỷ biển, đa phần đều đặt đóa hoa đá biển khóa kèm một bộ xương hải tặc. Bởi lẽ, khi tàu đóng bằng liễu biển ra khơi, âm khí trên tàu sẽ dào dạt tuôn, nhân viên và thủy thủ sẽ vì thế mà liên tiếp mất mạng. Chỉ có hoa đá biển mới hấp thu được thứ âm khí ma quỷ này. Xung quanh hoa đá biển thường có một loài sinh vật nửa cá nửa tôm, gọi là “hải hòa thượng”, là một loài sinh vật lưỡng thê, rời nước vẫn sống được, bị người bắt liền dập đầu xin tha, miệng lẩm bẩm rì rầm như đang niệm “A di đà Phật”. Bình thường, nó chuyên liếm thứ nước đen do hoa đá biển hấp thụ ám khí tiết ra, những người đi biển mê tín cho rằng thứ nước đen ấy là oán khí của u linh bên trong liễu biển tích tụ lại mà thành. “Hải hòa thượng” còn được gọi là cá bồ tát, trong đầu có “hắc xá lợi”, chính là những viên tròn tròn mà Tuyền béo tưởng là hắc trân châu. Có “hải hòa thượng” trên tàu thì có thể siêu độ cho các vong linh ám trên liễu biển, vì vậy ngư dân nào vớt được “hải hòa thượng” cũng đều lập tức phóng sinh, tuyệt đối không có ai dám cả gan ăn. Còn bộ xương của hải tặc, cũng là vật trấn tàu không thể thiếu, chuyên dùng để trấn áp vong linh trên tàu.
Ở Nam Dương, các loại phong tục kỳ quái kiểu này thật nhiều không kể xiết, song giờ cũng đã mai một gần hết, ngay như tàu đóng bằng liễu biển cũng gần như tuyệt tích trên thế gian rồi. Có điều, những thứ cấm kỵ khó hiểu ấy dù không thể tin hết, song cũng không thể không tin, đội trục vớt người Anh kia, chính vì không tin vào những chuyện tà môn, định bắt mấy con “hải hòa thượng” ra làm tiêu bản nên mới bị âm khí trên tàu xâm nhập mà không dưng mất đi tính mạng.
Minh Thúc hồi trước cũng nghe phong thanh được một ít, nếu bọn Đa Linh, Cổ Thái không nhắc đến thì lão cũng quên béng đi mất, vả lại, lão cũng chỉ biết đại khái, chưa tận mắt chứng kiến bao giờ. Lúc này, Cổ Thái kể lại chuyện ngày xưa Nguyễn Hắc dặn dò cậu ta và Đa Linh, chúng tôi mới biết thêm một chút, Cổ Thái tin chuyện này vô cùng, từ đầu chí cuối cậu ta vẫn cho rằng sau khi Nguyễn Hắc chết, oan hồn liền bám vào tầng kép bên trong tàu Chĩa Ba. Biết vậy, tuy vừa kinh vừa sợ, nhưng giờ phải bỏ tàu mà đi, cậu ta lại không khỏi cảm thấy lưu luyến, không ngừng ngoái lại nhìn, muốn xem xem trong đám quỷ biển dưới nước có sư phụ Nguyễn Hắc của mình hay không.
Nói tới đây, nước mắt Đa Linh và Cổ Thái lại lã chã tuôn rơi. Hai người đặt mái chèo gỗ sang bên, đưa tay quệt nước mắt, xuồng bên phía họ lập tức chậm lại. Tôi bèn nhân cơ hội ấy dùng tấm gương nhỏ soi bóng lưng của Cổ Thái, đang định nhìn cho rõ, thì chiếc gương trên tay đã bị Shirley Dương giật mất. Cô thấp giọng thì thào: “Anh lại giở trò gì ra đấy? Đang yên đang lành, không dưng đem gương ra soi bọn họ làm gì?”
Tôi bèn kể chuyện nhìn thấy bóng ma thuyền trưởng trong xác tàu đắm cho cô. Shirley Dương cười cười chế giễu: “Vừa mới rồi anh còn trách móc Cổ Thái suốt ngày nói chuyện ma quỷ, giờ thì hay ho nhé, mồm vẫn nói tay vẫn làm, kiểu gì thì anh cũng đúng, có phải không?”
Tôi nói với Shirley Dương: “Tương lai của chúng ta sáng ngời, nhưng con đường phía trước thì còn lắm chông gai, giờ lại đang lạc lối ở chốn Quy Khư mịt mùng này nữa, chúng ta không thể nào không cẩn thận đề phòng được. Ai có thể chứng minh trên đời này có hay là không có ma quỷ đâu chứ? Ngộ nhỡ chẳng may có thứ gì đấy không sạch sẽ ám lên người Cổ Thái, cô và tôi tự nhiên cũng không thể buông tay đứng nhìn được. Có điều, đợi đến khi sự việc xảy ra thì muộn mất, lúc ấy gạo nấu thành cơm, ván đóng thuyền rồi, chẳng còn làm gì được nữa đâu. Tôi cảm thấy từ lúc ở dưới nước Cổ Thái đã không được ổn lắm rồi, cô không thấy gì sao?”
Shirley Dương lắc đầu: “Tôi thấy hai chị em Đa Linh và Cổ Thái đều là người thật thà chất phác, lúc ở trong xác tàu Mariana cũng không thấy Cổ Thái có gì không bình thường cả. Tôi biết, anh lo lắng cho tiền đồ mờ mịt của đám người chúng ta, nhưng cũng không nên tự tạo thêm áp lực quá lớn cho mình làm gì. Tôi thấy trong phòng của thuyền trưởng có một bức tranh vẽ ông ta, một người râu rậm đeo đồng hồ vàng tay cầm tẩu thuốc. Căn phòng đó chật hẹp, mà chúng ta lại mang theo rất nhiều thiết bị chiếu sáng, ánh sáng phản xạ chiết xạ giao thoa đan xen trong nước, có lẽ thứ anh nhìn thấy trong gương chính là hình ảnh phản xạ của bức tranh ấy cũng nên.”
Tôi nghe cô nói liền không khỏi tròn mắt lên, lẽ nào đúng là tôi hoa mắt nhìn lầm? Trong môi trường tối tăm, thiếu dưỡng khí và áp lực cao dưới nước, cộng với ánh sáng không ổn định của các thiết bị chiếu sáng dưới nước, chuyện này cũng không thể nói chắc được. Có lẽ, bóng ma trong gương kia chỉ là ảo giác thôi cũng nên. Nhưng ngay sau đó, tôi lại nghĩ lại, trong cả quá trình chúng tôi lặn xuống tìm kiếm Tần Vương Chiếu Cốt kính, đã xảy ra rất nhiều sự việc khó có thể lý giải, chẳng lẽ tất cả mọi chuyện ấy đều là bình thường hay sao? Thuốc xua cá mập đeo trên người chúng tôi tại sao lại cùng lúc tan hết chỉ trong nháy mắt? Tại sao lũ cá dữ ấy lại truy đuổi chúng tôi như là phát điên lên vậy? Cẩn tắc vô áy náy, giờ đội chúng tôi đã mất đi một thành viên, muốn đưa những người còn lại sống sót trở về, làm sao tôi có thể xem nhẹ bỏ qua những sự việc quái đản ấy được chứ? Khinh núi chớ khinh biển, biển lớn từ cổ chí kim đã nuốt chửng không biết bao nhiêu sinh linh, vong hồn oán quỷ dưới đáy biển này tuyệt đối không ít hơn trên lục địa bao nhiêu, vả lại, những chuyện dưới biển thật khó giải thích, chẳng biết còn phức tạp hơn trên rừng sâu núi thẳm bao nhiêu lần nữa. Mô Kim hiệu úy chúng tôi thường hay khoa trương, nói rằng mình không phải người tầm thường, nên toàn gặp những việc phi thường, kiến văn của hạng phàm phu tục tử không thể đem ra so sánh với chúng tôi được, nhưng ra đến biển, bọn chúng tôi cũng chẳng khác nào kẻ mù dở, thậm chí còn không hiểu biết bằng Minh Thúc, thật đúng là mỗi nghề mỗi vẻ.
Shirley Dương định an ủi tôi mấy câu, nhưng nghe tôi xả ra một tràng như thế, cũng không khỏi nhíu hàng lông mày lá liễu lại. Đối với hành động lặn xuống trục vớt Tần Vương Chiếu Cốt kính vừa rồi, trong lòng cô cũng còn rất nhiều nghi vấn, song trước mắt lại không có đầu mối gì, chỉ thấy cứ vừa khua động mái chèo gỗ, vừa ngẩn ngơ thất thần nhìn xuống nước không nói không rằng.
Lúc đó, Tuyền béo chợt lên tiếng: “Hai người thật đúng là chẳng ra sao cả, đừng có chuốc thêm việc vào mình nữa chứ. Tốt nhất là nên tập trung tinh thần, nghỉ ngơi lấy lại sức rồi nhân lúc hải nhãn không có nước, chèo thuyền thẳng ra ngoài là xong xuôi, chẳng phải lo nghĩ gì sất. Với lại, hai người cũng đừng có thì thà thì thào lén lút nữa, lão giặc già Hồng Kông bên kia đang giở trò kia kìa.”
Tuyền béo muốn bảo tôi để ý động tĩnh của Minh Thúc. Chúng tôi bèn đưa xuồng cứu sinh áp sát lại gần xuồng của ba người bọn Minh Thúc, chỉ nghe lão ta đang an ủi Cổ Thái và Đa Linh, rồi bảo mình thật lòng rất thích hai người bọn họ, khuyên hai chị em đừng sang Pháp tìm người thân làm gì nữa, chi bằng ở lại bái lão làm sư phụ còn hơn. Lão còn vỗ ngực huênh hoang: “Tại sao lại gọi ta là Minh Thúc chứ? Bởi vì ta đây chính là ánh sáng quang minh, ở Nam Dương có ai mà không biết, chỉ cần đi theo Minh Thúc này thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ bị bóng tối bao trùm…”
Tôi và Tuyền béo lập tức xỉa xói cho lão một trận: “Bác bốc phét lên cao quá cẩn thận ngã dập mông đấy. Bác là cái gì tưởng chúng tôi còn không rõ hay sao? Một tên đầu cơ phá sản từ lúc nào biến thành thánh nhân thế nhỉ? Đúng là da mặt còn dày hơn cả tường thành nữa.”
Cho dù trước lúc lâm chung Nguyễn Hắc không có lời nhờ vả, tôi cũng không thể mở mắt trân trân ra nhìn Cổ Thái và Đa Linh nhảy vào cái hố lửa mang tên Minh Thúc này được. Sau khi tìm được cha ruột của Đa Linh, cô hẳn sẽ có được một cuộc sống vốn thuộc về mình; còn Cổ Thái mới chỉ mười lăm mười sáu tuổi đầu, tiền đồ rộng mở thênh thang. Cậu ta không giống như tôi với Tuyền béo hồi mười lăm mười sáu, chúng tôi thời bấy giờ không có quyền lựa chọn tương lai cho mình. Năm đó, có một câu vè là “Không hỏi đức trí thể, chỉ hỏi hàng thứ mấy. Không hỏi hàng thứ mấy, thì hỏi năm mươi mấy.” Ý là, thanh niên phải lên núi lên rừng, nếu trong nhà có nhiều anh chị em thì anh cả ở lại, anh hai đi, anh ba ở lại, em út đi. Vì vậy, khi tham gia đội thanh niên về nông thôn sản xuất, người ta đều hỏi xếp thứ mấy trong nhà. Ngoài ra, những thanh niên được ở lại thành phố có thể thay thế vị trí của cha mẹ, nhưng điều kiện tiền đề là phải xem cha mẹ năm mấy tuổi rồi. Vậy mới nói, đám người thế hệ chúng tôi trước năm ba mươi tuổi đều chẳng có quyền lợi gì đối với vận mệnh của chính mình cả.
Còn Cổ Thái không chỉ có thể lựa chọn theo sư tỉ Đa Linh của mình sang Pháp, Shirley Dương cũng có thể sắp xếp cho cậu ta sang Mỹ đi học hoặc dứt khoát ở lại đảo Miếu San Hô theo Võ thọt học buôn bán làm ăn, cần gì phải đi theo lão giặc già Minh Thúc học mấy ngón nghề vô dụng của lão rồi đi làm toàn những việc liều mạng lên núi đao xuống chảo dầu cơ chứ.
Tôi hiểu rất rõ, Minh Thúc chẳng qua chỉ nhắm vào thân phận Long hộ của Cổ Thái, hình xăm Thấu hải trận trên người cậu ta, sợ là trên đời đã không còn cái thứ hai nữa rồi. Bị tôi và Tuyền béo vạch mặt, lão già nào dám đắc tội với hai chúng tôi, đành cố nuốt cơn tức, thèm thuồng nhìn chòng chọc lên lưng Cổ Thái. Lão không biết chuyện lúc ở dưới nước Cổ Thái đã bị cá mập tấn công, vẫn cứ ngỡ hình xăm Thấu hải trận là bí mật không truyền ra ngoài của Đản nhân thời cổ đại, chỉ hận không thể xăm lại toàn bộ những hình vẽ phức tạp ấy lên người mình rồi nhảy xuống biển mò ngọc, đánh nhau với cá dữ.
Xuồng cứu sinh đã lênh đênh trên mặt nước hồi lâu, mắt thấy khoảng cách với tòa thành cổ nổi trên mặt nước kia mỗi lúc một gần hơn, tôi tạm thời không phân tâm để ý đến Minh Thúc nữa, chỉ cùng Shirley Dương tập trung chú ý về phía trước. Không biết trong di tích cổ còn bảo tồn được tương đối hoàn hảo kia có nguy hiểm gì hay không, chúng tôi vừa chèo xuồng tiến lên, vừa bảo Tuyền béo chuẩn bị vũ khí và thiết bị chiếu sáng.
Đúng lúc ấy, Minh Thúc dường như phát hiện ra trên lưng Cổ Thái có gì đó, chỉ tay vào hình xăm kêu lên với chúng tôi: “Tổ... tổ tiên của Đản nhân... hình như đều từ trong hải nhãn này ra ngoài... trên lưng thằng nhãi này... hình xăm... trong hình xăm... có... có ngọn núi trước mặt kia kìa!”
Bình luận facebook