Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Quyển 6 - Chương 38: Điện đồng
Ngồi trên chiếc xuống cứu sinh nhỏ, Minh Thúc chợt nhận ra hình xăm trên lưng Cổ Thái có điều kỳ lạ. Trong hình xăm Thấu hải trận ngoằn ngoèo chằng chịt ấy, không ngờ lại có ngọn núi của vùng Quy Khư thần bí, lão kinh ngạc ra mặt, vội vàng báo với chúng tôi thông tin mới mình vừa phát hiện.
Mặt nước dập dềnh cuộn sóng, tôi nghe Minh Thúc bảo trong hình xăm có quang cảnh bên trong Quy Khư, bèn ngừng tay chèo, rồi chỉ huy cả bọn cho hai chiếc xuồng áp sát vào nhau, cố định bằng dây thừng gắn móc. Minh Thúc nôn nóng nói liền một hơi: “Đản nhân là dân lang bạt trên biển từ thời Tiên Tần, hình xăm trên người Long hộ chính là được truyền từ thời đó đến nay, có thể thấy, Quy Khư bên dưới vực xoáy San Hô này có lẽ chính là sào huyệt của tổ tiên nhà bọn họ. Các chú mau đến xem xem, hình xăm trên người thằng nhãi này có giúp chúng ta tìm được lối thoát ra bên ngoài kia không?”
Chúng tôi mượn ánh sáng phát ra từ tầng nham thạch phía trên, chăm chú nhìn lưng Cổ Thái. Khắp người cậu ta đều xăm hình cá hình rồng vờn trên sóng biển, ý là tự cho mình thuộc loài có vảy, lúc xuống biển giết trai mò ngọc không bị các loài thủy tộc làm hại, tục gọi là “thấu hải”. Cách thức xăm mình và bí dược sử dụng để xăm xưa nay đều không truyền ra ngoài. Tương truyền, từ mười tuổi là Đản nhân đã bắt đầu xăm mình. Hình xăm Thấu hải trận trên người biểu thị đứa trẻ đã trở thành Long hộ, có thể một mình xuống biển thăm dò long huyệt. Trải qua năm tháng, tuổi tác lớn dần, hình xăm đó không những càng ngày càng thêm rõ nét và phức tạp, mà màu sắc cũng trở nên rực rỡ hoa lệ hơn. Đến khi về già, hình xăm lại dần trở nên mơ hồ mờ nhạt, tới lúc đó thì Long hộ sẽ không thể xuống biển mưu sinh được nữa.
Tôi từng đặc biệt lưu ý đến hình xăm trên lưng Cổ Thái, nhưng lúc này nhìn kỹ lại lần nữa, không ngờ lại thấy có rất nhiều biến hóa so với trước, thấp thoáng ẩn hiện giữa những hình xăm ngư long vờn sóng, còn có một tầng đồ án mờ mờ, phải tập trung ánh mắt vào đó nhìn chăm chú một lúc lâu mới có thể nhận ra được ngọn núi nhô lên khỏi mặt nước. Ngọn núi ấy rỗng lòng, bên trong có cây trụ đá đổ nghiêng đè lên một con cương thi mặt mũi hung dữ nanh ác nằm giữa đống xương người chất ngất. Dưới chân núi là một rặng san hô trùng điệp hang động đan xen chằng chịt, cơ hồ có cả mộ huyệt của giao nhân với hình ảnh mấy cái xác giao nhân hình dạng cổ quái vô cùng và một bộ xương rồng cuộn tròn nằm sâu bên trong.
Cổ Thái không hề biết hình xăm trên người mình còn có hình ẩn hết sức chi tiết như thế, lại càng không thể rõ bản thân và chốn Quy Khư thần bí này có quan hệ như thế nào. Cha mẹ cậu ta mất sớm, chắc hẳn còn một số bí mật của Đản nhân vẫn chưa nói hết cho cậu ta. Tôi xem kỹ thấy hình xăm Thấu hải trận không còn điểm gì đặc biệt khác, bèn vỗ vỗ vai Cổ Thái, bảo cậu ta không cần lo lắng: “Nhãi con, coi như cậu được về quê cha đất tổ rồi đấy nhé.”
Nói đoạn, tôi giơ ống nhòm lên, nhìn ngọn núi hãy còn cách chúng tôi chừng mấy trăm mét. Đỉnh núi đá xám chì lởm chởm nổi bật trên nền sóng dập dềnh. Trong Quy Khư hải khí phun trào từng đợt, khí lưu đan xen hỗn loạn, sương khói mù mịt, nhìn qua ống nhòm chủ yếu thấy những đường nét chính, di tích cổ nổi lên từng khối từng khối rải rác sừng sững, đôi lúc phảng phất như có những bóng người hư ảo.
Tôi nhìn đi nhìn lại mấy lượt, sau đó đưa ống nhòm cho Tuyền béo xem. Hai chúng tôi đều mang máng có cảm giác vô cùng quen thuộc. Mười mấy năm trước, trong động Bách Nhãn nằm giữa thảo nguyên Mông Cổ và sa mạc, chúng tôi từng thấy ảo ảnh về một tòa thành ma ở Quy miên địa. Kiến trúc cổ xám xịt ấy không ngờ lại rất giống nơi đây. Nếu ngọn núi này không phải ảo ảnh trên mặt nước, vậy thì quá nửa là có liên quan rất lớn đến trải nghiệm lần đó của chúng tôi rồi. Từ hồi xưa tôi đã có một dự cảm rất mãnh liệt, rằng tòa thành cổ mà tôi trông thấy trong ảo ảnh ở động Bách Nhãn, chính là nơi số mệnh đã định sẵn tôi sẽ phải đến, không ngờ hôm nay lại ứng nghiệm thế này.
Minh Thúc quay sang hỏi Shirley Dương: “Trong đám chúng ta, kỳ thực cũng chỉ có cô Dương mới là người hiểu biết nhất. Cô xem, hình xăm trên người cậu nhóc này có phải là bản đồ Quy Khư không? Có nó chỉ đường dẫn lối... chúng ta liệu có... trở về được không?”
Shirley Dương nói: “Đường nét của Thấu hải trận đích thực rất giống địa hình của Quy Khư, ngọn núi nổi trên mặt nước kia cũng khá giống núi trong hình xăm, nhưng đồ án trên lưng Cổ Thái quá trừu tượng, cùng lắm chỉ là một tiêu chí, không thể coi là bản đồ chính xác được. Vả lại, tôi cảm thấy... đây không phải ngọn núi, cũng không phải di tích cổ thành, mà là… mộ táng người Hận Thiên thì đúng hơn.”
Minh Thúc cả kinh thốt lên: “Mộ cổ của người nước Hận Thiên? Quy mô này hình như hơi lớn thì phải? Vậy cái xác bị cây cột trụ khổng lồ đè lên, lại còn những ký hiệu lằng nhằng dưới chân núi này là thế nào? Bên dưới cổ mộ có xương rồng hả?”
Shirley Dương đáp lời Minh Thúc: “Nước Hận Thiên xưa nay vẫn được coi là ‘Mê tông chi quốc’ trong lịch sử, vả lại, hiểu biết của người đời đối với Quy Khư thật quá ít ỏi, giờ chúng ta cũng chỉ là đang suy đoán lung tung mà thôi, kết luận điều gì cũng vẫn còn quá sớm. Lại nói, sóng biển mỗi lúc một lớn, còn tiếp tục ở lại trên mặt nước, sợ rằng xuồng cứu sinh sẽ bị sóng đánh lật mất. Dù phía trước là hung hay là cát, chúng ta cũng chỉ còn cách mạo hiểm xông lên thăm dò thôi vậy.”
Tôi và Tuyền béo đều biểu thị đồng ý, nước ở chốn Quy Khư mênh mông không bờ bến này lúc lên lúc xuống, không biết lúc nào sẽ có sóng lớn ngập đầu, ngộ nhỡ xuồng cao su lật, người rơi xuống nước thì chỉ có làm mồi cho lũ cá dữ dưới kia. Bốn phía mênh mang không có nơi nào đặt chân được, chỉ có di tích cổ của người Hận Thiên là nơi tạm thời tránh sóng gió duy nhất. Vậy là, cả bọn lại cầm mái chèo gỗ lên, quạt nước đưa hai chiếc xuồng cứu sinh tiến về phía trước.
Tôi ôm đầy một bụng nghi hoặc, không nén được phải cất tiếng hỏi Shirley Dương: “Hình xăm Thấu hải trận trên người Cổ Thái cũng kỳ lạ thật đấy, hay là cậu ta là ‘Người đến từ Atlantic’ thật nhỉ?”
Shirley Dương trầm ngâm suy đoán: “Nước Hận Thiên trơ trọi ngoài biển, cách xa vùng trung tâm nền văn minh Hoa Hạ, vì vậy rất nhiều người không tin nơi này từng có một nền văn minh thanh đồng phát triển thịnh vượng. Đất nước của bọn họ có lẽ tiêu vong vào khoảng cuối thời kỳ Chiến Quốc, những người sống sót lưu lạc trên biển, bị giai cấp thống trị Tần Hán coi là Đản nhân. Theo tôi thấy, Cổ Thái chính là hậu duệ của người nước Hận Thiên. Thủy tính tinh thông, cùng với hình xăm miêu tả truyền thuyết về nước Hận Thiên trên lưng cậu ta, chính là minh chứng rõ nhất.”
Trong thuật Ban Sơn phân giáp của Ban Sơn đạo nhân thời xưa, có một loại kỳ thuật gọi là thuật ẩn tướng, dùng bí dược xăm lên da người, hình xăm sẽ lập tức ẩn đi, sau khi ngâm nước muối mới hiện ra. Có lẽ, Đản nhân sở hữu rất nhiều bí phương, trong đó bao gồm cả loại thuốc nước sử dụng vật liệu đặc thù dưới biển để xăm mình. Bí mật cổ xưa của người Hận Thiên được giấu trong hình xăm Thấu hải trận, truyền từ đời này đến đời khác, chỉ khi ngâm vào nước ở Quy Khư mới hiển lộ chân tướng. Không có điều kiện đó, người ngoài sẽ vĩnh viễn không thể phát hiện được truyền thuyết ẩn giấu về di tích cổ của nước Hận Thiên.
Trong các khe sâu dưới đáy nước Quy Khư có suối nước nóng phun trào, ngoài ra, nơi này còn có những xung mạch tần số thấp làm nhiễu loạn tín hiệu điện tử, không hiểu là từ thứ gì phát ra nữa. Nước ở nơi này không mặn cũng không nhạt, đại để chắc còn chứa một chất gì mà nước biển ở nơi khác không có, nồng độ có lẽ dần tăng theo độ sâu của nước biển, nên thuốc xua cá mập dùng bí phương phối chế của chúng tôi xuống đến độ sâu thích hợp lập tức bị hòa tan. Đồng thời, chất thuốc ngấm trong hình xăm của Cổ Thái cũng nảy sinh phản ứng, tạo nên một cái bóng mơ hồ, sau đó, hình xăm ẩn bên dưới mới hiển lộ ra ngoài. Nhưng dưới đáy nước Quy Khư kia rốt cuộc có thứ gì vậy? Cửa sinh của nơi này nằm ở đâu?
Trong lúc nói chuyện, xuồng cứu sinh đã đến gần ngọn núi đá nhô trên mặt nước. Mấy chục mét phía trước có mấy khung cửa đá lừng lững, màu sắc chất đá rất khác biệt, nhất thời chúng tôi cũng khó phán đoán được nên tiến vào từ đâu. Tôi giơ tay lên bảo cả bọn giảm tốc độ, lúc này ở nham tầng phía trên, ánh sáng của âm hỏa đã bị hải khí nồng đậm che lấp, âm hỏa chuyển thành màu máu, tựa như có từng dòng máu tươi chầm chậm lưu động phía trên, nhuộm mặt nước thành một màu đỏ sẫm.
Ngồi trên hai chiếc xuồng nhỏ tròng trành, ngoảnh mặt nhìn bốn phía, cả bọn chúng tôi đều có chung một cảm giác: địa hình của chốn Quy Khư thần bí này, càng nhìn lại càng thấy giống trong bụng một con cá voi khổng lồ, âm hỏa ở vách đá trên cao kia phảng phất như mạch máu của cá voi không ngừng lưu thông, trong bụng cá, biển máu cuộn trào, không có gió mà nước biển vẫn nổi sóng, xuồng cứu sinh của chúng tôi tựa như hai chiếc lá dập dềnh, vừa thoát khỏi hiểm họa này đã phải đối mặt với nguy cơ khác.
Tuyền béo cuống quýt giữ chặt vòng sắt cố định mái chèo trên xuồng cứu sinh, kêu toáng lên: “Tư lệnh Nhất, còn không mau tiến vào bên trong là chiếc xuồng này tiêu đời đấy, đã đến đây rồi thì còn do dự gì nữa chứ?”
Tôi thoáng động tâm, liền nói với mọi người: “Tôi thấy những cánh cổng đá này không hề đơn giản, màu sắc khác nhau dường như ngầm hợp với phương vị ngũ hành thì phải. Can chi ngày hôm nay đều thuộc hành hỏa, con rắn biển kia cùng rơi xuống Quy Khư với chúng ta, vừa xuống đây liền toi mạng, có lẽ chính vì nó toàn thân đầy vảy trắng, trắng thuộc hành kim, phạm phải xung khắc với hành hỏa. Bây giờ muốn sống, thì theo tôi chèo xuồng tiến vào sơn động có cánh cổng màu đen kia.”
Những người còn lại đều gật đầu khen phải, vung chèo quạt nước, tranh thủ khoảng thời gian ngắn ngủi giữa hai đợt sóng đưa xuồng tiến vào cửa động dưới ánh sáng mờ ảo đỏ sẫm như máu. Mới tiến vào sơn động trong lòng núi ngập nước tới một nửa ấy, sóng đã lặng hẳn, hai chiếc xuồng cứu sinh lập tức trôi êm ả. Shirley Dương ngồi ở mũi xuồng gí đèn pha chiếu sáng dò đường, chỉ thấy hang động màu xám chì này hóa ra là một gian đại điện bị nước biển xói lở bào mòn, cửa hang kia chính là cửa điện.
Cấu trúc gian đại điện này có vẻ cổ phác đơn sơ, không hề có mái cong hay đấu củng[49], nhưng quy mô hùng vĩ, dùng toàn đá tảng cỡ lớn, khí thế mạnh mẽ uy phong, phong thái thâm nghiêm hừng hực. Tiến vào lòng điện, không gian rộng lớn mà đen tối u ám khiến người ta có cảm giác bất an và ức chế lạ thường. Chúng tôi mới chỉ nhìn thấy một nửa cảnh tượng, dưới làn nước xanh âm u kia, vẫn còn quá nửa di tích đang bị nhấn chìm. Người xưa thường coi sự to lớn kỳ vĩ là cái đẹp, vì vậy trong lịch sử cũng thường có những hành động vĩ đại kiểu như đục núi tạo tượng, xây đền xây điện giống như thế này. Thế giới cũng có rất nhiều kỳ tích kiến trúc cổ xưa, đa phần đều là sản phấm của mấy nghìn năm trước. Đức tin chân thành cùng nghị lực sắt đá có thể dời núi lấp biển ấy của người xưa đều là những thứ mà con người hiện đại như chúng ta thật không thể nào so bì được.
Chúng tôi ngồi xuồng cao su theo dòng nước tiến vào giữa gian đại điện, thấy cảnh tượng hùng vĩ đều giật cả mình, không khỏi thở dài trước khí phách trải nghìn năm dâu bể vẫn vô cùng hoành tráng. Nước biển bên ngoài giội vào vách đá liên tục, ầm ầm vang dội tựa như cả bầy hải thú gào thét, khiến người ta phải run lên sợ hãi, đến hạng người phổi bò chẳng để tâm chuyện gì như Tuyền béo lúc này cũng im thin thít không dám mở miệng nói tiếng nào.
Cột sáng đèn pha trên hai chiếc xuồng cao su liên tục quét khắp hướng, chỉ thấy trên mặt nước trong gian đại điện sừng sững vô số tượng thần cao lớn uy vũ bằng đồng thau, diện mạo hết sức hung ác điên cuồng, mở mắt trừng trừng nhìn xuống, thần sắc cực kỳ nặng nề nghiêm trọng. Một số bức tượng ngập nửa người, một số đổ vật, nghiêng ngả, làm hư hại cả một phần tường và trụ đá, gian điện này được xây dựng khá kiên cố, không thấy có vẻ gì là sắp sụp đổ cả.
Trong thời kỳ văn minh đồng thau, đồng là trọng khí của quốc gia, kỹ thuật luyện đồng cùng với quy mô mỏ đồng đều là những yếu tố quyết định sự hưng vong cường thịnh của đất nước. Shirley Dương từng nói, muốn luyện được một món đồ đồng lớn như chiếc Tư Mẫu Mậu đỉnh, chỉ riêng nhiên liệu thôi cũng gần như phải đốt hết mấy trăm mẫu rừng nguyên sinh rồi. Giới hạn về tài nguyên khiến đồng thau trở nên cực kỳ quý giá, chỉ được dùng trong các lĩnh vực quan trọng như nghi lễ tôn giáo hoặc chiến tranh, ngoại giao mà thôi. Nhưng tận mắt nhìn vô số tượng thần bằng đồng thau trong gian đại điện này, có thể suy đoán, từ mấy nghìn năm trước người dân nước Hận Thiên đã hiểu biết và tận dụng được âm hỏa dưới đáy biển, không cần dùng nhân hỏa và thiên hỏa cũng có thể chế tạo đồ đồng, trình độ kỹ thuật cũng rất cao, khiến tượng đồng ngâm mấy nghìn năm dưới nước mà vẫn không suy suyển hư hại. Nếu không được tận mắt chứng kiến, người đời sau như chúng tôi e là khó lòng tưởng tượng nổi.
Tôi đột nhiên phát hiện trên đỉnh đại điện hình như có thứ gì đang động đậy, bèn bảo Shirley Dương chiếu xéo ngọn đèn pha lên. Cả bọn vừa ngước mắt nhìn, tức thì hít ngược vào một hơi khí lạnh. Trên cột trụ của đại điện, có dây xích đồng treo mười mấy cái đầu người bằng đồng thau, mỗi cái đầu ấy có lẽ phải nặng vài trăm cân, trông như thể bị chém đầu rồi mới đem treo lên để thị chúng vậy. Trong một góc tối, những thân thể bằng đồng mất đầu nằm lặng lẽ. Không biết là thứ vũ khí sắc bén gì mà có thể chặt đứt đầu cả người đồng nặng nề to lớn như thế?
Shirley Dương cũng lấy làm lạ, lúc nãy nói nơi đây là mộ huyệt của người Hận Thiên cũng chỉ là suy đoán theo lý, nhưng nhìn những tượng đồng ngả nghiêng, đầu một nơi thân một nẻo trong gian điện này, thì tuyệt đối chẳng giống một ngôi mộ cổ chút nào. Lúc này, hai chiếc xuồng cao su vẫn chầm chậm tiến lên, có một bức tượng đồng thau nghiêng xuống nước, đầu dựa vào trụ đá, nước biển ngập đến vai. Shirley Dương bèn chỉnh ngọn đèn pha chiếu về phía đó, cột sáng dừng lại trên gương mặt hung tợn dữ dằn.
Khi mực nước trong Quy Khư dâng cao, cả ngọn núi này sẽ chìm nghỉm, tượng đồng bị nước biển ăn mòn suốt nghìn năm, bám đầy xác các loài sinh vật thích bám trên nham thạch và kim loại, nhưng pho tượng vẫn còn các đường nét lờ mờ nhận ra được. Minh Thúc thì thào nói với Cổ Thái: “Cậu nhóc, tổ tiên của cậu bộ dạng trông như thế này đấy, thành tâm thành ý vái một vái đi, để họ phù hộ chúng ta được trở về bình an.” Cổ Thái hoang mang không hiểu gì, nhìn những bức tượng đồng cao lớn, vẻ mặt bất an hỏi Minh Thúc: “Minh Thúc... tổ tiên tôi... sao lại bị chặt đầu thế?” Minh Thúc bị Cổ Thái bất thình lình hỏi cho một câu, cũng không biết nên trả lời thế nào. Nhưng lão đang muốn làm sư phụ người ta, làm sao chịu để đồ đệ hỏi cho tắc tị được, đành quát Cổ Thái không được nói lung tung nữa, dù là đổ đấu mò vàng hay cõng xác lật mộ hay lặn biển mò ngọc vớt thanh đầu, tất cả những cái nghề đem mạng ra giỡn ấy, đều có hai điều đại kỵ chung. Thứ nhất, chính là không được tò mò, thấy chuyện gì lạ cũng nhất định phải giả vờ như không thấy, tuyệt đối không được hỏi gì.
Cổ Thái nghi hoặc hỏi tiếp: “Tại sao thế? Có ma quỷ à?” Minh Thúc tức tối đập “bốp” một cái lên đầu cậu ta: “Đồ ngu, còn hỏi nữa! Hồ Bát Nhất không phải đã nói với cậu từ nãy rồi sao, cậu vừa mới phạm phải điều đại kỵ thứ hai đấy, không được nhắc đến ma quỷ!”
Tôi chẳng rỗi hơi đi để ý xem Minh Thúc truyền dạy kinh nghiệm phong phú của lão cho Cổ Thái như thế nào, chỉ muốn xem cho rõ hơn chút nữa, bèn cùng Tuyền béo quạt nước liên tiếp, áp xuồng sát lại, lấy dao găm cạo một ít trầm tích bám trên bề mặt, làm lộ hẳn ra gương mặt nhe nanh nhe vuốt của tượng đồng. Cả bọn chiếu đèn pin quây lại xung quanh, chỉ thấy diện mạo của người khổng lồ bằng đồng xanh ấy thập phần quái dị, càng nhìn càng thấy kỳ lạ, trong đầu đều hiện lên một câu hỏi: “Người Hận Thiên rốt cuộc là giống người gì? Với lại, cái tên Hận Thiên đó có ý nghĩa gì?”
Trong quan niệm truyền thống của Trung Quốc, phương Bắc là lớn nhất, ở giữa là chính, trời là tôn quý nhất, cho dù trong ngôn ngữ thường ngày cũng không ai dám tùy tiện đắc tội với ông trời, nhưng chỉ riêng cái tên “Hận Thiên” này thôi đã hoàn toàn lật ngược quan niệm coi trọng ông trời ấy rồi. Tổ tiên Đản nhân rốt cuộc là đã làm gì vậy? Mấy người chúng tôi mỗi người góp một câu, song đều chỉ là đoán bừa, không đi vào trọng điểm.
Tuyền béo nói: “Tôi biết hồi trước ở Nam Hải có một tên Nam Bá Thiên, nhưng hình như sớm đã bị đội Nương tử quân của cách mạng tiêu diệt rồi. Nam Bá Thiên là tên địa chủ chuyên bóc lột quần chúng nhân dân, nhưng cũng không nghe nói hắn dám làm gì đắc tội với ông trời cả. Năm đó, Hồng vệ binh tuy có lòng đấu với ông trời một phen đấy, hiềm nỗi không đủ máy bay nên đành thôi vậy. Có điều, hùng tâm tráng chí ấy còn có thơ ca làm chứng nhé, không phải vẫn nói ‘Dám đổi nhật nguyệt thay trời mới’ đấy còn gì?”
Tôi nghe Tuyền béo mở mồm ra bốc phét vung lên, lại đưa mắt nhìn tượng người khổng lồ mặt mũi nanh ác bằng đồng thau, cảm thấy hình tượng này đúng là không phải tầm thường, trong vẻ uy vũ nghiêm nghị dường như toát lên mầy phần tà khí, bèn nói với mọi người: “Các đồng chí, mọi người có từng nghe kể truyền thuyết về Thượng đế và Satan của người phương Tây không? Ác ma Tây phương Satan hình như chuyên môn đối lập với ông trời thì phải? Nước Hận Thiên này có liên quan gì đến truyền thuyết tôn giáo phương Tây không nhỉ? Vì trong truyền thuyết của Trung Quốc, Diêm vương dưới địa ngục và Long vương dưới biển, hình như đều là cán bộ lãnh đạo về cơ sở nắm giữ các công tác cụ thể, do Ngọc Hoàng Đại Đế trên trời phân công xuống, quan hệ giữa họ là cấp trên và cấp dưới, có lẽ cũng khá khách khí với nhau. Hình như, trong quan niệm truyền thống của người phương Đông không hề tồn tại suy nghĩ oán hận thiên thần. Đây là một thế giới quan vững chắc hình thành từ trong truyền thống rồi.”
Tuyền béo nói: “Ê, cậu nói cũng có lý ra phết đấy, Satan và dân nước Hận Thiên không khéo lại là một đấy, nghe nói Satan ở trên trời trở mặt với lãnh đạo, rồi tự mình xuống địa ngục phát cờ dẫn đội, chuyên chống đối lại lão già râu trắng trên trời. Vả lại, cậu nghe cái tên ấy mà xem... Satan (Sa Đản), chắc chắn là có quan hệ gì với Đản nhân rồi, không khéo thời trẻ hắn ta cũng từng làm cái nghề xuống biển mò ngọc rồi cũng nên ấy chứ.”
Minh Thúc và Cổ Thái, Đa Linh nghe tôi và Tuyền béo phân tích theo kiểu “nghe vậy mà không phải vậy” ấy, đều đần thối mặt ra, không biết nên nói gì cho phải. Chỉ có Shirley Dương còn tương đối tỉnh táo, cẩn thận rọi đèn pha quan sát khắp bốn phía, đột nhiên đập tay lên người tôi nói: “Anh Nhất, hai người đừng nói bậy nữa...” sau đó giơ tay chỉ vào những đầu người bằng đồng thau phía bên trên: “Bí mật của nước Hận Thiên ẩn giấu trên những cái đầu người khổng lồ bằng đồng kia kìa. Các anh có biết ở phương Tây, ngoài kẻ địch của Thượng đế là Satan ra, còn có... ma cà rồng hút máu rất sợ ánh sáng mặt trời hay không?”
Mặt nước dập dềnh cuộn sóng, tôi nghe Minh Thúc bảo trong hình xăm có quang cảnh bên trong Quy Khư, bèn ngừng tay chèo, rồi chỉ huy cả bọn cho hai chiếc xuồng áp sát vào nhau, cố định bằng dây thừng gắn móc. Minh Thúc nôn nóng nói liền một hơi: “Đản nhân là dân lang bạt trên biển từ thời Tiên Tần, hình xăm trên người Long hộ chính là được truyền từ thời đó đến nay, có thể thấy, Quy Khư bên dưới vực xoáy San Hô này có lẽ chính là sào huyệt của tổ tiên nhà bọn họ. Các chú mau đến xem xem, hình xăm trên người thằng nhãi này có giúp chúng ta tìm được lối thoát ra bên ngoài kia không?”
Chúng tôi mượn ánh sáng phát ra từ tầng nham thạch phía trên, chăm chú nhìn lưng Cổ Thái. Khắp người cậu ta đều xăm hình cá hình rồng vờn trên sóng biển, ý là tự cho mình thuộc loài có vảy, lúc xuống biển giết trai mò ngọc không bị các loài thủy tộc làm hại, tục gọi là “thấu hải”. Cách thức xăm mình và bí dược sử dụng để xăm xưa nay đều không truyền ra ngoài. Tương truyền, từ mười tuổi là Đản nhân đã bắt đầu xăm mình. Hình xăm Thấu hải trận trên người biểu thị đứa trẻ đã trở thành Long hộ, có thể một mình xuống biển thăm dò long huyệt. Trải qua năm tháng, tuổi tác lớn dần, hình xăm đó không những càng ngày càng thêm rõ nét và phức tạp, mà màu sắc cũng trở nên rực rỡ hoa lệ hơn. Đến khi về già, hình xăm lại dần trở nên mơ hồ mờ nhạt, tới lúc đó thì Long hộ sẽ không thể xuống biển mưu sinh được nữa.
Tôi từng đặc biệt lưu ý đến hình xăm trên lưng Cổ Thái, nhưng lúc này nhìn kỹ lại lần nữa, không ngờ lại thấy có rất nhiều biến hóa so với trước, thấp thoáng ẩn hiện giữa những hình xăm ngư long vờn sóng, còn có một tầng đồ án mờ mờ, phải tập trung ánh mắt vào đó nhìn chăm chú một lúc lâu mới có thể nhận ra được ngọn núi nhô lên khỏi mặt nước. Ngọn núi ấy rỗng lòng, bên trong có cây trụ đá đổ nghiêng đè lên một con cương thi mặt mũi hung dữ nanh ác nằm giữa đống xương người chất ngất. Dưới chân núi là một rặng san hô trùng điệp hang động đan xen chằng chịt, cơ hồ có cả mộ huyệt của giao nhân với hình ảnh mấy cái xác giao nhân hình dạng cổ quái vô cùng và một bộ xương rồng cuộn tròn nằm sâu bên trong.
Cổ Thái không hề biết hình xăm trên người mình còn có hình ẩn hết sức chi tiết như thế, lại càng không thể rõ bản thân và chốn Quy Khư thần bí này có quan hệ như thế nào. Cha mẹ cậu ta mất sớm, chắc hẳn còn một số bí mật của Đản nhân vẫn chưa nói hết cho cậu ta. Tôi xem kỹ thấy hình xăm Thấu hải trận không còn điểm gì đặc biệt khác, bèn vỗ vỗ vai Cổ Thái, bảo cậu ta không cần lo lắng: “Nhãi con, coi như cậu được về quê cha đất tổ rồi đấy nhé.”
Nói đoạn, tôi giơ ống nhòm lên, nhìn ngọn núi hãy còn cách chúng tôi chừng mấy trăm mét. Đỉnh núi đá xám chì lởm chởm nổi bật trên nền sóng dập dềnh. Trong Quy Khư hải khí phun trào từng đợt, khí lưu đan xen hỗn loạn, sương khói mù mịt, nhìn qua ống nhòm chủ yếu thấy những đường nét chính, di tích cổ nổi lên từng khối từng khối rải rác sừng sững, đôi lúc phảng phất như có những bóng người hư ảo.
Tôi nhìn đi nhìn lại mấy lượt, sau đó đưa ống nhòm cho Tuyền béo xem. Hai chúng tôi đều mang máng có cảm giác vô cùng quen thuộc. Mười mấy năm trước, trong động Bách Nhãn nằm giữa thảo nguyên Mông Cổ và sa mạc, chúng tôi từng thấy ảo ảnh về một tòa thành ma ở Quy miên địa. Kiến trúc cổ xám xịt ấy không ngờ lại rất giống nơi đây. Nếu ngọn núi này không phải ảo ảnh trên mặt nước, vậy thì quá nửa là có liên quan rất lớn đến trải nghiệm lần đó của chúng tôi rồi. Từ hồi xưa tôi đã có một dự cảm rất mãnh liệt, rằng tòa thành cổ mà tôi trông thấy trong ảo ảnh ở động Bách Nhãn, chính là nơi số mệnh đã định sẵn tôi sẽ phải đến, không ngờ hôm nay lại ứng nghiệm thế này.
Minh Thúc quay sang hỏi Shirley Dương: “Trong đám chúng ta, kỳ thực cũng chỉ có cô Dương mới là người hiểu biết nhất. Cô xem, hình xăm trên người cậu nhóc này có phải là bản đồ Quy Khư không? Có nó chỉ đường dẫn lối... chúng ta liệu có... trở về được không?”
Shirley Dương nói: “Đường nét của Thấu hải trận đích thực rất giống địa hình của Quy Khư, ngọn núi nổi trên mặt nước kia cũng khá giống núi trong hình xăm, nhưng đồ án trên lưng Cổ Thái quá trừu tượng, cùng lắm chỉ là một tiêu chí, không thể coi là bản đồ chính xác được. Vả lại, tôi cảm thấy... đây không phải ngọn núi, cũng không phải di tích cổ thành, mà là… mộ táng người Hận Thiên thì đúng hơn.”
Minh Thúc cả kinh thốt lên: “Mộ cổ của người nước Hận Thiên? Quy mô này hình như hơi lớn thì phải? Vậy cái xác bị cây cột trụ khổng lồ đè lên, lại còn những ký hiệu lằng nhằng dưới chân núi này là thế nào? Bên dưới cổ mộ có xương rồng hả?”
Shirley Dương đáp lời Minh Thúc: “Nước Hận Thiên xưa nay vẫn được coi là ‘Mê tông chi quốc’ trong lịch sử, vả lại, hiểu biết của người đời đối với Quy Khư thật quá ít ỏi, giờ chúng ta cũng chỉ là đang suy đoán lung tung mà thôi, kết luận điều gì cũng vẫn còn quá sớm. Lại nói, sóng biển mỗi lúc một lớn, còn tiếp tục ở lại trên mặt nước, sợ rằng xuồng cứu sinh sẽ bị sóng đánh lật mất. Dù phía trước là hung hay là cát, chúng ta cũng chỉ còn cách mạo hiểm xông lên thăm dò thôi vậy.”
Tôi và Tuyền béo đều biểu thị đồng ý, nước ở chốn Quy Khư mênh mông không bờ bến này lúc lên lúc xuống, không biết lúc nào sẽ có sóng lớn ngập đầu, ngộ nhỡ xuồng cao su lật, người rơi xuống nước thì chỉ có làm mồi cho lũ cá dữ dưới kia. Bốn phía mênh mang không có nơi nào đặt chân được, chỉ có di tích cổ của người Hận Thiên là nơi tạm thời tránh sóng gió duy nhất. Vậy là, cả bọn lại cầm mái chèo gỗ lên, quạt nước đưa hai chiếc xuồng cứu sinh tiến về phía trước.
Tôi ôm đầy một bụng nghi hoặc, không nén được phải cất tiếng hỏi Shirley Dương: “Hình xăm Thấu hải trận trên người Cổ Thái cũng kỳ lạ thật đấy, hay là cậu ta là ‘Người đến từ Atlantic’ thật nhỉ?”
Shirley Dương trầm ngâm suy đoán: “Nước Hận Thiên trơ trọi ngoài biển, cách xa vùng trung tâm nền văn minh Hoa Hạ, vì vậy rất nhiều người không tin nơi này từng có một nền văn minh thanh đồng phát triển thịnh vượng. Đất nước của bọn họ có lẽ tiêu vong vào khoảng cuối thời kỳ Chiến Quốc, những người sống sót lưu lạc trên biển, bị giai cấp thống trị Tần Hán coi là Đản nhân. Theo tôi thấy, Cổ Thái chính là hậu duệ của người nước Hận Thiên. Thủy tính tinh thông, cùng với hình xăm miêu tả truyền thuyết về nước Hận Thiên trên lưng cậu ta, chính là minh chứng rõ nhất.”
Trong thuật Ban Sơn phân giáp của Ban Sơn đạo nhân thời xưa, có một loại kỳ thuật gọi là thuật ẩn tướng, dùng bí dược xăm lên da người, hình xăm sẽ lập tức ẩn đi, sau khi ngâm nước muối mới hiện ra. Có lẽ, Đản nhân sở hữu rất nhiều bí phương, trong đó bao gồm cả loại thuốc nước sử dụng vật liệu đặc thù dưới biển để xăm mình. Bí mật cổ xưa của người Hận Thiên được giấu trong hình xăm Thấu hải trận, truyền từ đời này đến đời khác, chỉ khi ngâm vào nước ở Quy Khư mới hiển lộ chân tướng. Không có điều kiện đó, người ngoài sẽ vĩnh viễn không thể phát hiện được truyền thuyết ẩn giấu về di tích cổ của nước Hận Thiên.
Trong các khe sâu dưới đáy nước Quy Khư có suối nước nóng phun trào, ngoài ra, nơi này còn có những xung mạch tần số thấp làm nhiễu loạn tín hiệu điện tử, không hiểu là từ thứ gì phát ra nữa. Nước ở nơi này không mặn cũng không nhạt, đại để chắc còn chứa một chất gì mà nước biển ở nơi khác không có, nồng độ có lẽ dần tăng theo độ sâu của nước biển, nên thuốc xua cá mập dùng bí phương phối chế của chúng tôi xuống đến độ sâu thích hợp lập tức bị hòa tan. Đồng thời, chất thuốc ngấm trong hình xăm của Cổ Thái cũng nảy sinh phản ứng, tạo nên một cái bóng mơ hồ, sau đó, hình xăm ẩn bên dưới mới hiển lộ ra ngoài. Nhưng dưới đáy nước Quy Khư kia rốt cuộc có thứ gì vậy? Cửa sinh của nơi này nằm ở đâu?
Trong lúc nói chuyện, xuồng cứu sinh đã đến gần ngọn núi đá nhô trên mặt nước. Mấy chục mét phía trước có mấy khung cửa đá lừng lững, màu sắc chất đá rất khác biệt, nhất thời chúng tôi cũng khó phán đoán được nên tiến vào từ đâu. Tôi giơ tay lên bảo cả bọn giảm tốc độ, lúc này ở nham tầng phía trên, ánh sáng của âm hỏa đã bị hải khí nồng đậm che lấp, âm hỏa chuyển thành màu máu, tựa như có từng dòng máu tươi chầm chậm lưu động phía trên, nhuộm mặt nước thành một màu đỏ sẫm.
Ngồi trên hai chiếc xuồng nhỏ tròng trành, ngoảnh mặt nhìn bốn phía, cả bọn chúng tôi đều có chung một cảm giác: địa hình của chốn Quy Khư thần bí này, càng nhìn lại càng thấy giống trong bụng một con cá voi khổng lồ, âm hỏa ở vách đá trên cao kia phảng phất như mạch máu của cá voi không ngừng lưu thông, trong bụng cá, biển máu cuộn trào, không có gió mà nước biển vẫn nổi sóng, xuồng cứu sinh của chúng tôi tựa như hai chiếc lá dập dềnh, vừa thoát khỏi hiểm họa này đã phải đối mặt với nguy cơ khác.
Tuyền béo cuống quýt giữ chặt vòng sắt cố định mái chèo trên xuồng cứu sinh, kêu toáng lên: “Tư lệnh Nhất, còn không mau tiến vào bên trong là chiếc xuồng này tiêu đời đấy, đã đến đây rồi thì còn do dự gì nữa chứ?”
Tôi thoáng động tâm, liền nói với mọi người: “Tôi thấy những cánh cổng đá này không hề đơn giản, màu sắc khác nhau dường như ngầm hợp với phương vị ngũ hành thì phải. Can chi ngày hôm nay đều thuộc hành hỏa, con rắn biển kia cùng rơi xuống Quy Khư với chúng ta, vừa xuống đây liền toi mạng, có lẽ chính vì nó toàn thân đầy vảy trắng, trắng thuộc hành kim, phạm phải xung khắc với hành hỏa. Bây giờ muốn sống, thì theo tôi chèo xuồng tiến vào sơn động có cánh cổng màu đen kia.”
Những người còn lại đều gật đầu khen phải, vung chèo quạt nước, tranh thủ khoảng thời gian ngắn ngủi giữa hai đợt sóng đưa xuồng tiến vào cửa động dưới ánh sáng mờ ảo đỏ sẫm như máu. Mới tiến vào sơn động trong lòng núi ngập nước tới một nửa ấy, sóng đã lặng hẳn, hai chiếc xuồng cứu sinh lập tức trôi êm ả. Shirley Dương ngồi ở mũi xuồng gí đèn pha chiếu sáng dò đường, chỉ thấy hang động màu xám chì này hóa ra là một gian đại điện bị nước biển xói lở bào mòn, cửa hang kia chính là cửa điện.
Cấu trúc gian đại điện này có vẻ cổ phác đơn sơ, không hề có mái cong hay đấu củng[49], nhưng quy mô hùng vĩ, dùng toàn đá tảng cỡ lớn, khí thế mạnh mẽ uy phong, phong thái thâm nghiêm hừng hực. Tiến vào lòng điện, không gian rộng lớn mà đen tối u ám khiến người ta có cảm giác bất an và ức chế lạ thường. Chúng tôi mới chỉ nhìn thấy một nửa cảnh tượng, dưới làn nước xanh âm u kia, vẫn còn quá nửa di tích đang bị nhấn chìm. Người xưa thường coi sự to lớn kỳ vĩ là cái đẹp, vì vậy trong lịch sử cũng thường có những hành động vĩ đại kiểu như đục núi tạo tượng, xây đền xây điện giống như thế này. Thế giới cũng có rất nhiều kỳ tích kiến trúc cổ xưa, đa phần đều là sản phấm của mấy nghìn năm trước. Đức tin chân thành cùng nghị lực sắt đá có thể dời núi lấp biển ấy của người xưa đều là những thứ mà con người hiện đại như chúng ta thật không thể nào so bì được.
Chúng tôi ngồi xuồng cao su theo dòng nước tiến vào giữa gian đại điện, thấy cảnh tượng hùng vĩ đều giật cả mình, không khỏi thở dài trước khí phách trải nghìn năm dâu bể vẫn vô cùng hoành tráng. Nước biển bên ngoài giội vào vách đá liên tục, ầm ầm vang dội tựa như cả bầy hải thú gào thét, khiến người ta phải run lên sợ hãi, đến hạng người phổi bò chẳng để tâm chuyện gì như Tuyền béo lúc này cũng im thin thít không dám mở miệng nói tiếng nào.
Cột sáng đèn pha trên hai chiếc xuồng cao su liên tục quét khắp hướng, chỉ thấy trên mặt nước trong gian đại điện sừng sững vô số tượng thần cao lớn uy vũ bằng đồng thau, diện mạo hết sức hung ác điên cuồng, mở mắt trừng trừng nhìn xuống, thần sắc cực kỳ nặng nề nghiêm trọng. Một số bức tượng ngập nửa người, một số đổ vật, nghiêng ngả, làm hư hại cả một phần tường và trụ đá, gian điện này được xây dựng khá kiên cố, không thấy có vẻ gì là sắp sụp đổ cả.
Trong thời kỳ văn minh đồng thau, đồng là trọng khí của quốc gia, kỹ thuật luyện đồng cùng với quy mô mỏ đồng đều là những yếu tố quyết định sự hưng vong cường thịnh của đất nước. Shirley Dương từng nói, muốn luyện được một món đồ đồng lớn như chiếc Tư Mẫu Mậu đỉnh, chỉ riêng nhiên liệu thôi cũng gần như phải đốt hết mấy trăm mẫu rừng nguyên sinh rồi. Giới hạn về tài nguyên khiến đồng thau trở nên cực kỳ quý giá, chỉ được dùng trong các lĩnh vực quan trọng như nghi lễ tôn giáo hoặc chiến tranh, ngoại giao mà thôi. Nhưng tận mắt nhìn vô số tượng thần bằng đồng thau trong gian đại điện này, có thể suy đoán, từ mấy nghìn năm trước người dân nước Hận Thiên đã hiểu biết và tận dụng được âm hỏa dưới đáy biển, không cần dùng nhân hỏa và thiên hỏa cũng có thể chế tạo đồ đồng, trình độ kỹ thuật cũng rất cao, khiến tượng đồng ngâm mấy nghìn năm dưới nước mà vẫn không suy suyển hư hại. Nếu không được tận mắt chứng kiến, người đời sau như chúng tôi e là khó lòng tưởng tượng nổi.
Tôi đột nhiên phát hiện trên đỉnh đại điện hình như có thứ gì đang động đậy, bèn bảo Shirley Dương chiếu xéo ngọn đèn pha lên. Cả bọn vừa ngước mắt nhìn, tức thì hít ngược vào một hơi khí lạnh. Trên cột trụ của đại điện, có dây xích đồng treo mười mấy cái đầu người bằng đồng thau, mỗi cái đầu ấy có lẽ phải nặng vài trăm cân, trông như thể bị chém đầu rồi mới đem treo lên để thị chúng vậy. Trong một góc tối, những thân thể bằng đồng mất đầu nằm lặng lẽ. Không biết là thứ vũ khí sắc bén gì mà có thể chặt đứt đầu cả người đồng nặng nề to lớn như thế?
Shirley Dương cũng lấy làm lạ, lúc nãy nói nơi đây là mộ huyệt của người Hận Thiên cũng chỉ là suy đoán theo lý, nhưng nhìn những tượng đồng ngả nghiêng, đầu một nơi thân một nẻo trong gian điện này, thì tuyệt đối chẳng giống một ngôi mộ cổ chút nào. Lúc này, hai chiếc xuồng cao su vẫn chầm chậm tiến lên, có một bức tượng đồng thau nghiêng xuống nước, đầu dựa vào trụ đá, nước biển ngập đến vai. Shirley Dương bèn chỉnh ngọn đèn pha chiếu về phía đó, cột sáng dừng lại trên gương mặt hung tợn dữ dằn.
Khi mực nước trong Quy Khư dâng cao, cả ngọn núi này sẽ chìm nghỉm, tượng đồng bị nước biển ăn mòn suốt nghìn năm, bám đầy xác các loài sinh vật thích bám trên nham thạch và kim loại, nhưng pho tượng vẫn còn các đường nét lờ mờ nhận ra được. Minh Thúc thì thào nói với Cổ Thái: “Cậu nhóc, tổ tiên của cậu bộ dạng trông như thế này đấy, thành tâm thành ý vái một vái đi, để họ phù hộ chúng ta được trở về bình an.” Cổ Thái hoang mang không hiểu gì, nhìn những bức tượng đồng cao lớn, vẻ mặt bất an hỏi Minh Thúc: “Minh Thúc... tổ tiên tôi... sao lại bị chặt đầu thế?” Minh Thúc bị Cổ Thái bất thình lình hỏi cho một câu, cũng không biết nên trả lời thế nào. Nhưng lão đang muốn làm sư phụ người ta, làm sao chịu để đồ đệ hỏi cho tắc tị được, đành quát Cổ Thái không được nói lung tung nữa, dù là đổ đấu mò vàng hay cõng xác lật mộ hay lặn biển mò ngọc vớt thanh đầu, tất cả những cái nghề đem mạng ra giỡn ấy, đều có hai điều đại kỵ chung. Thứ nhất, chính là không được tò mò, thấy chuyện gì lạ cũng nhất định phải giả vờ như không thấy, tuyệt đối không được hỏi gì.
Cổ Thái nghi hoặc hỏi tiếp: “Tại sao thế? Có ma quỷ à?” Minh Thúc tức tối đập “bốp” một cái lên đầu cậu ta: “Đồ ngu, còn hỏi nữa! Hồ Bát Nhất không phải đã nói với cậu từ nãy rồi sao, cậu vừa mới phạm phải điều đại kỵ thứ hai đấy, không được nhắc đến ma quỷ!”
Tôi chẳng rỗi hơi đi để ý xem Minh Thúc truyền dạy kinh nghiệm phong phú của lão cho Cổ Thái như thế nào, chỉ muốn xem cho rõ hơn chút nữa, bèn cùng Tuyền béo quạt nước liên tiếp, áp xuồng sát lại, lấy dao găm cạo một ít trầm tích bám trên bề mặt, làm lộ hẳn ra gương mặt nhe nanh nhe vuốt của tượng đồng. Cả bọn chiếu đèn pin quây lại xung quanh, chỉ thấy diện mạo của người khổng lồ bằng đồng xanh ấy thập phần quái dị, càng nhìn càng thấy kỳ lạ, trong đầu đều hiện lên một câu hỏi: “Người Hận Thiên rốt cuộc là giống người gì? Với lại, cái tên Hận Thiên đó có ý nghĩa gì?”
Trong quan niệm truyền thống của Trung Quốc, phương Bắc là lớn nhất, ở giữa là chính, trời là tôn quý nhất, cho dù trong ngôn ngữ thường ngày cũng không ai dám tùy tiện đắc tội với ông trời, nhưng chỉ riêng cái tên “Hận Thiên” này thôi đã hoàn toàn lật ngược quan niệm coi trọng ông trời ấy rồi. Tổ tiên Đản nhân rốt cuộc là đã làm gì vậy? Mấy người chúng tôi mỗi người góp một câu, song đều chỉ là đoán bừa, không đi vào trọng điểm.
Tuyền béo nói: “Tôi biết hồi trước ở Nam Hải có một tên Nam Bá Thiên, nhưng hình như sớm đã bị đội Nương tử quân của cách mạng tiêu diệt rồi. Nam Bá Thiên là tên địa chủ chuyên bóc lột quần chúng nhân dân, nhưng cũng không nghe nói hắn dám làm gì đắc tội với ông trời cả. Năm đó, Hồng vệ binh tuy có lòng đấu với ông trời một phen đấy, hiềm nỗi không đủ máy bay nên đành thôi vậy. Có điều, hùng tâm tráng chí ấy còn có thơ ca làm chứng nhé, không phải vẫn nói ‘Dám đổi nhật nguyệt thay trời mới’ đấy còn gì?”
Tôi nghe Tuyền béo mở mồm ra bốc phét vung lên, lại đưa mắt nhìn tượng người khổng lồ mặt mũi nanh ác bằng đồng thau, cảm thấy hình tượng này đúng là không phải tầm thường, trong vẻ uy vũ nghiêm nghị dường như toát lên mầy phần tà khí, bèn nói với mọi người: “Các đồng chí, mọi người có từng nghe kể truyền thuyết về Thượng đế và Satan của người phương Tây không? Ác ma Tây phương Satan hình như chuyên môn đối lập với ông trời thì phải? Nước Hận Thiên này có liên quan gì đến truyền thuyết tôn giáo phương Tây không nhỉ? Vì trong truyền thuyết của Trung Quốc, Diêm vương dưới địa ngục và Long vương dưới biển, hình như đều là cán bộ lãnh đạo về cơ sở nắm giữ các công tác cụ thể, do Ngọc Hoàng Đại Đế trên trời phân công xuống, quan hệ giữa họ là cấp trên và cấp dưới, có lẽ cũng khá khách khí với nhau. Hình như, trong quan niệm truyền thống của người phương Đông không hề tồn tại suy nghĩ oán hận thiên thần. Đây là một thế giới quan vững chắc hình thành từ trong truyền thống rồi.”
Tuyền béo nói: “Ê, cậu nói cũng có lý ra phết đấy, Satan và dân nước Hận Thiên không khéo lại là một đấy, nghe nói Satan ở trên trời trở mặt với lãnh đạo, rồi tự mình xuống địa ngục phát cờ dẫn đội, chuyên chống đối lại lão già râu trắng trên trời. Vả lại, cậu nghe cái tên ấy mà xem... Satan (Sa Đản), chắc chắn là có quan hệ gì với Đản nhân rồi, không khéo thời trẻ hắn ta cũng từng làm cái nghề xuống biển mò ngọc rồi cũng nên ấy chứ.”
Minh Thúc và Cổ Thái, Đa Linh nghe tôi và Tuyền béo phân tích theo kiểu “nghe vậy mà không phải vậy” ấy, đều đần thối mặt ra, không biết nên nói gì cho phải. Chỉ có Shirley Dương còn tương đối tỉnh táo, cẩn thận rọi đèn pha quan sát khắp bốn phía, đột nhiên đập tay lên người tôi nói: “Anh Nhất, hai người đừng nói bậy nữa...” sau đó giơ tay chỉ vào những đầu người bằng đồng thau phía bên trên: “Bí mật của nước Hận Thiên ẩn giấu trên những cái đầu người khổng lồ bằng đồng kia kìa. Các anh có biết ở phương Tây, ngoài kẻ địch của Thượng đế là Satan ra, còn có... ma cà rồng hút máu rất sợ ánh sáng mặt trời hay không?”
Bình luận facebook