Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 05 - Phần 2
Vết máu trong phòng và trên cây gậy rất mờ. Rất có thể hắn ta đã không thấy những vết máu đó, yên trí là xác chết bị thiêu hủy sẽ xóa bỏ được mọi dấu vết. Thế chẳng phải mọi chuyện đã rõ như ban ngày rồi sao?
- Tôi chỉ thấy nó rõ… như một trò đùa thôi. - Holmes lập luận - Ông không hẳn là người giàu trí tưởng tượng, nhưng hãy cứ thử đặt mình vào địa vị anh chàng này đi, ông có chọn ngay cái đêm mà ông nhận được bản di chúc để ra tay không? Ông có tự nhận thấy rằng bản thân sẽ lập tức gặp nguy hiểm vì hai sự kiện này liên quan chặt chẽ với nhau không? Và ông có chọn thời điểm có người quản gia dẫn vào nhà không? Cuối cùng, ông có đem giấu xác chết, nhưng bỏ lại cái can làm bằng chứng rằng mình chính là thủ phạm không? Lestrade, ông hãy thừa nhận rằng tất cả những điều này là rất phi lý đi.
- Về chuyện cây can thì theo tôi, một tên tội phạm thường bất cẩn và hay mắc phải những sai lầm mà một người bình tĩnh có thể tránh được. Có thể hắn hoảng quá, chẳng dám quay lại căn phòng đó nữa. Hãy cho tôi một giả thiết nào đó phù hợp với thực tế hơn.
- Tôi có thể cung cấp cho ông hàng nửa tá những giả thiết đó. - Holmes nói - Ví dụ, ông già đang đưa ra một tài liệu có giá trị thì một kẻ đầu đường xó chợ đi qua chỗ cửa sổ, mà mành chỉ kéo xuống lưng chừng. Hắn thấy những giấy tờ tài liệu đó. Thế là khi McFarlane ra về, hắn trèo vào, vớ lấy cây gậy, giết Oldacre rồi đào tẩu sau khi thiêu xác ông ta.
- Thế sao gã đầu đường xó chợ ấy phải thiêu xác?
- Vậy sao McFarlane phải làm vậy?
- Để che giấu bằng chứng.
- Thế thì có lẽ gã đầu đường xó chợ kia cũng muốn che giấu một vụ trả thù mà y là thủ phạm.
- Thế sao gã ấy chẳng lấy đi thứ giấy tờ nào?
- Vì đó là những thứ giấy tờ mà y chẳng có lợi lộc gì cả.
Lestrade lắc lắc đầu. Tôi thấy ông ta có vẻ kém quả quyết hơn trước.
- Ông Holmes này, ông cứ đi tìm cái gã đầu đường xó chợ của ông đi! Trong lúc ông tìm hắn, chúng tôi cứ điều tra gã trai trẻ này. Rồi sẽ biết ai là người có lý. Nhưng tôi lưu ý ông điểm này, theo chúng tôi biết thì giấy tờ trong phòng không hề bị lấy đi, và gã trai trẻ vừa bị bắt giữ là kẻ duy nhất trên đời chẳng cần lấy chúng, vì theo luật, anh ta là người thừa kế duy nhất, sớm muộn gì những tài liệu ấy cũng thuộc anh ta.
Holmes có vẻ bất ngờ khi nghe câu này.
- Trên cơ sở các bằng chứng thì tôi không phủ nhận giả thiết của ông rất có lý. - Anh đáp - Tôi chỉ muốn nói rằng, vẫn còn có những khả năng khác. Như ông vừa nói đấy, thời gian sẽ cho thấy ai đúng, ai sai. Chúc buổi sáng tốt lành! Hôm nay, tôi sẽ ghé qua Norwood xem cuộc điều tra của ông đến đâu rồi.
Viên thanh tra ra về, còn Holmes đứng dậy và nhanh chóng chuẩn bị cho một ngày làm việc với tâm trạng vui vẻ và hăng hái.
- Watson này, việc đầu tiên tôi làm, - Anh vừa khoác vội chiếc áo choàng, vừa nói - là đến ngay Blackheath.
- Sao không phải là đến Norwood?
- Bởi vì trong vụ này có mối liên quan giữa sự việc này với sự việc khác. Cảnh sát phạm phải một sai lầm rất lớn, là chỉ quan tâm đến một sự việc, vì có vẻ như đó mới là tội ác thực sự. Nhưng theo tôi, để giải quyết vụ này rõ ràng là cần phải làm sáng tỏ sự kiện thứ nhất - bản chúc thư được soạn thảo một cách đột ngột và một người thừa kế ngoài dự kiến. Làm rõ được điều đó thì vụ án sẽ có hướng giải quyết nhanh chóng. Tin rằng tối nay gặp anh, tôi sẽ nói cho anh hay mình đã làm được những gì cho anh bạn trẻ này, người đã đặt hết niềm tin vào tôi.
Mãi khuya hôm đó Holmes mới trở về. Và chỉ cần liếc qua khuôn mặt lo âu, căng thẳng của Holmes, tôi cũng biết anh đã không đạt được những gì mong muốn. Suốt một tiếng đồng hồ, anh thả hồn theo tiếng vĩ cầm, như để giải tỏa những căng thẳng của mình. Cuối cùng, anh đặt cây đàn xuống và kể cho tôi nghe những rủi ro gặp phải.
- Mọi việc tệ quá, Watson ạ, tệ hết mức có thể. Tuy tôi vẫn giữ vẻ thản nhiên với Lestrade, nhưng thực ra trong lòng tôi lại thầm nghĩ, lần này ông ta đi đúng hướng rồi, còn chúng ta mắc sai lầm. Bản năng của tôi đi theo một hướng, còn các sự kiện thực tế lại chứng minh điều ngược lại. Tôi e rằng các thẩm phán chưa thông minh đến độ chấp nhận các giả thiết của tôi trước những dữ kiện thực tế của Lestrade.
- Anh có tới Blackheath không?
- Có chứ, tôi đến đó và ngay lập tức nhận ra rằng, cái lão Oldacre này là một kẻ đê tiện. Người cha đã đi tìm con trai, ở nhà chỉ còn người mẹ - một người phụ nữ nhỏ bé, duyên dáng với cặp mắt xanh lơ. Bà ấy run lên vì sợ hãi và tức giận, bà ấy không bao giờ tin con trai mình lại có thể gây tội tày trời như thế. Nhưng bà ấy không hề tỏ ra ngạc nhiên hay thương xót cho số phận của Oldacre. Trái lại, bà ấy nói về lão ta với vẻ cay độc, đến nỗi vô tình bà ấy lại giúp cho cảnh sát củng cố thêm lập luận hung thủ chính là con trai bà. Vì nếu con trai bà mà biết lão ta là người như thế, đương nhiên anh ta phải ghét cay ghét đắng lão, và càng có cơ gây tội ác. Bà ấy bảo: “Lão ta không phải là con người, mà là con khỉ hiểm độc và đầy mưu mô. Ngay từ trẻ, lão đã độc ác như một con thú dữ”. “Bà biết ông ta từ hồi đó sao?” - Tôi hỏi thế. “Vâng, tôi biết rất rõ lão ấy. Lão ấy thực ra là người yêu cũ của tôi. Ơn Chúa, tôi đã đủ can đảm chia tay và kết hôn với một người đàn ông tử tế hơn lão, mặc dù ông ấy nghèo khó. Ông Holmes ạ, hồi ấy đã đính hôn với lão ấy rồi thì tôi mới nghe kể là lão ấy đã từng nhốt một con mèo vào lồng chim. Tôi khiếp sợ sự độc ác phi nhân tính đó và quyết định hủy bỏ hôn ước”. Bà ấy lục tìm trong ngăn tủ và đưa cho tôi xem tấm ảnh một phụ nữ bị bôi lem luốc và rạch chằng chịt bằng lưỡi dao nhíp. “Là ảnh tôi đấy. Buổi sáng tôi cử hành hôn lễ, hắn gửi cho tôi bức hình này với những lời nguyền rủa đồi bại”. “Vậy thì ít ra bây giờ ông ta cũng đã tha thứ cho bà, vì ông ta đã để lại cả gia tài cho con trai bà”. “Con tôi và tôi không thèm nhận gì của hắn, dù hắn còn sống hay đã chết”. - Bà ấy rít lên. “Ông Holmes ạ! Trời có mắt đấy. Thượng đế đã trừng phạt hắn, kẻ độc ác ấy, và trời đất sẽ minh giám cho sự trong sạch của con trai tôi”.
“Tôi cố thử vài ba hướng khác, nhưng chẳng thu được điều gì có ích, thậm chí một vài điểm còn chứng minh điều trái ngược với suy xét của chúng ta. Cuối cùng tôi bỏ cuộc và đến Norwood.
“Ngôi nhà mang tên Deep Dane đó là một biệt thự kiểu mới, đứng sừng sững trên một thửa đất lớn. Phía trước có một bãi cỏ rộng, trải dài với những cây nguyệt quế. Bên phải ngôi nhà, cách đường một quãng là một khoảng sân chứa đầy gỗ, nơi đã phát hoả đêm qua. Tôi có vẽ qua sơ đồ ngôi nhà trong sổ đây. Cửa sổ phía tay trái là cửa sổ phòng Oldacre. Anh sẽ thấy là từ ngoài đường có thể nhìn vào qua cửa này. Đấy là những gì ngày hôm nay tôi thu thập được. Lestrade không có ở đó, nhưng người phụ tá của ông ta đã đón tiếp tôi khá nhiệt tình. Họ đã thực hiện một cuộc khám xét lớn. Cả buổi sáng, họ khui đống tro tàn, và ngoài những mẩu vụn xương người đã cháy thành than, họ còn tìm thấy những mẩu kim loại nhỏ đã phai màu. Tôi đã quan sát những mẩu kim loại này cẩn thận và nhận thấy đó là cái cúc quần dài. Thậm chí tôi còn đọc được trên một mẩu có chữ “Hyams”. Đó là tên người thợ may của Oldacre. Tôi cố quan sát kỹ bãi cỏ để tìm những dấu vết, nhưng tiết trời khô làm đất rắn như đá. Tất cả những gì tôi thấy có thể là một xác chết, hoặc một kiện hàng lớn nào đó đã được kéo qua bờ cây, song song với đống gỗ. Đương nhiên, nó hoàn toàn phù hợp với giả thiết của cảnh sát. Tôi bò trên bãi cỏ đó, giữa cái nắng tháng tám, đến cả tiếng đồng hồ, để rồi chẳng thu được gì.
“Sau đó, tôi lại vào phòng ngủ và xem xét kỹ lưỡng từng ngóc ngách. Những vết máu rất mờ, đã bị xóa và phai màu. Nhưng rõ ràng đó là những vết máu tươi. Cái can được để sang bên, mà vết máu trên đó cũng rất mờ.
Đúng đó là cái can của thân chủ chúng ta. Anh ta cũng thừa nhận điều đó rồi. Trên thảm còn in dấu chân hai người đàn ông, nhưng không có dấu chân người thứ ba, điểm này càng củng cố thêm lập luận của cảnh sát. Họ đang dần tới đích, còn chúng ta thì cứ giẫm chân tại chỗ thế này.
“Tôi chỉ còn có một tia hy vọng nhỏ, nhưng cũng chẳng ích gì. Tôi kiểm tra kỹ giấy tờ trong két; hầu hết đều đã được mang để trên bàn. Các giấy tờ này cất trong phong bì có gắn niêm phong, cảnh sát đã mở xem vài ba cái. Theo tôi thì các giấy tờ này không mấy giá trị; và tài sản trong ngân hàng của ông Oldacre không tốt lắm. Nhưng tôi có cảm tưởng rằng tất cả giấy tờ không được để cả ở đấy. Hình như còn vài chứng thư chuyển nhượng tài sản, đặc biệt là những giấy tờ có giá trị lớn thì tôi không tìm ra được. Nếu chúng ta chứng minh được điều này thì sẽ làm lộ mâu thuẫn trong lập luận của Lestrade: Ai lại đi lấy cắp thứ mà chẳng mấy chốc nữa anh ta sẽ được sở hữu?
“Cuối cùng, sau khi đã lục lọi, tìm kiếm mà chẳng phát hiện thấy gì, tôi đành thử vận may với bà quản gia. Bà ta tên là Lexington, một người nhỏ bé, da màu, ít lời, có cặp mắt dài và hẹp, không thật thà. Tôi tin rằng bà ta có biết gì đó, và nếu muốn, hẳn bà ta đã kể rõ. Nhưng bà ta câm như hến. Bà ta thừa nhận đã đưa McFarlane vào nhà lúc 9 giờ 30 phút, và cứ một mực hối hận giá mình đừng làm việc đó. Bà ta đi ngủ từ trước 10 giờ 30 phút, trong căn phòng ở đầu nhà phía bên kia. Bà ta khẳng định McFarlane để quên mũ và gậy trong đại sảnh. Chính tiếng chuông báo cháy đã đánh thức bà ta dậy. Ông chủ già nua tội nghiệp của bà hẳn nhiên đã bị giết chết. Còn ông ấy có kẻ thù nào không ư? Đương nhiên ai mà chả có. Nhưng ông Oldacre kín tiếng lắm, và các mối quan hệ của ông ấy chỉ là về công việc làm ăn. Bà ta đã xem mấy cái cúc quần và bảo đảm đó là của cái quần mà ông mặc đêm qua. Đống gỗ rất khô vì cả tháng vừa rồi làm gì có mưa. Lửa cháy khác nào bùi nhùi gặp gió; lúc bà ta ra đến nơi thì chỉ còn thấy lửa và lửa. Bà ta và đám lính cứu hỏa đều ngửi thấy mùi thịt cháy khét lẹt. Bà ta không hay biết gì về giấy tờ tài liệu, cũng như công việc làm ăn của ông chủ.”
- Thế đấy, Watson ạ, thế là tôi đành chịu thất bại. Nhưng mà…, nhưng… - Anh siết mạnh hai bàn tay như để khẳng định niềm tin của mình - Tôi biết rằng tất cả những chuyện này là dối trá. Từ sâu thẳm đáy lòng, tôi cảm thấy thế. Còn điều gì đó mà bà quản gia rõ ràng có biết nhưng chưa bị phát hiện. Trong mắt mụ ánh lên sự ương ngạnh, cố che giấu một lương tâm tội lỗi do đồng lõa với một tội ác mà mụ biết rõ. Nhưng nói thế cũng chẳng ích gì. Trừ phi chúng ta gặp may, chứ không đừng có mong vụ Norwood này được nêu trong bản báo cáo thưởng công.
- Chắc là vậy. - Tôi nói - Nhưng chẳng lẽ vẻ ngoài lương thiện của can phạm không gây được chút thiện cảm nào với bồi thẩm đoàn hay sao?
- Watson thân mến, lập luận thế là nguy hiểm đấy. Anh có nhớ Bert Stevens, tên sát nhân ghê tởm đã nhờ cậy chúng ta giải cứu hồi năm 1887 không? Có gã thanh niên nào trông như một đứa con gương mẫu trong gia đình lương thiện đến thế không?
- Đúng, đúng vậy.
- Nếu chúng ta không đưa ra được một giả thiết khác ổn hơn, chàng trai này sẽ tiêu đời. Giờ đây mọi bằng chứng đều chống lại anh ta, và mọi hướng điều tra đều củng cố luận cứ đầy bất lợi này. Chỉ có một chi tiết nhỏ ở đống giấy tờ thu hút sự chú ý của tôi. Biết đâu đó chẳng là điểm mấu chốt để chúng ta bắt đầu một hướng điều tra mới. Khi nhìn vào tập ngân phiếu của ông ta, tôi nhận thấy sự mất cân đối thu - chi là do một số lượng lớn các tấm séc đã được chi trả cho một ông có tên là Cornelius. Thú thật, tôi rất muốn biết cái ông Cornelius này là ai mà lại khiến nhà thầu khoán nghỉ hưu phải chuyển khoản cho ông ta nhiều tiền đến thế. Liệu có khả năng ông ta nhúng tay vào vụ này không? Cornelius có thể là một nhà môi giới chứng khoán, nhưng chẳng thể tìm thấy những cổ phần tương đương với các khoản chi trả lớn này. Vì thiếu đầu mối, giờ đây tôi phải tìm hiểu bên ngân hàng về cái ông Cornelius đã lĩnh các chi phiếu đó. Nhưng Watson thân mến ạ, tôi e rằng vụ này sẽ kết thúc bằng sợi dây thòng lọng mà Lestrade sẽ quàng vào cổ thân chủ chúng ta.
Tôi không biết đêm hôm ấy Holmes có chợp mắt được chút nào không, nhưng lúc xuống ăn sáng, trông anh thật xanh xao, mệt mỏi; đôi mắt sáng lại càng sáng hơn bởi những quầng thâm bao quanh. Thảm dưới chân ghế anh ngồi phủ đầy tàn thuốc lá và vương vãi các trang báo sáng. Trên bàn có một bức điện tín đã mở.
- Anh nghĩ sao về bức điện này hở Watson? - Anh ném nó sang cho tôi.
Bức điện được gửi từ Norwood, nội dung như sau:
“Chứng cứ quan trọng đã được tìm thấy. Tội lỗi của McFarlane đã được xác minh. Khuyên ông nên từ bỏ việc điều tra. Lestrade”.
- Nghe có vẻ nghiêm trọng đây. - Tôi nói.
- Đó là tiếng reo hò mừng chiến thắng của Lestrade. - Holmes trả lời với một nụ cười chua chát - Tuy nhiên, bây giờ mà bỏ cuộc thì quá sớm. Dù sao thì chứng cớ quan trọng mới thấy này có thể sẽ là con dao hai lưỡi, biết đâu nó lại chặn đứng các hướng mà Lestrade đang đi ấy chứ. Anh ăn sáng đi, Watson, rồi chúng ta sẽ lên đường. Tôi cảm thấy, hôm nay tôi rất cần anh cùng đi và hỗ trợ.
Holmes không ăn sáng. Một trong những điểm kỳ quặc ở anh là trong những thời khắc căng thẳng, anh tự cho phép mình không ăn uống gì. Anh lúc nào cũng tin rằng mình khỏe như voi, cho đến khi xỉu đi vì kiệt sức. “Bây giờ, tôi không hơi đâu mà tổn hao sức lực và tâm trí vào việc ăn uống”. Cứ hễ tôi tỏ ý phê phán anh về chuyện ấy là sẽ nhận được câu trả lời như vậy. Vì thế, sáng hôm đó tôi chẳng mấy ngạc nhiên khi anh không đụng đến bữa sáng và vội vã lên đường tới Norwood. Một đám đông người hiếu kỳ đang vây quanh ngôi nhà Deep Dene. Lestrade đón chúng tôi với vẻ mặt rạng rỡ và thái độ hớn hở vì thắng thế.
- Thế nào, ông Holmes? Ông đã tìm ra bằng chứng rằng chúng tôi sai chưa? Hẳn ông đã thấy cái gã đầu đường xó chợ ấy rồi chứ? - Ông ta đắc thắng kêu lên.
- Tôi chưa rút ra được kết luận nào cả. - Bạn tôi đáp. - Nhưng chúng tôi thì ngay ngày hôm qua đã đi tới kết luận. Ông Holmes ạ, lần này thì ông nên thừa nhận là chúng tôi đã nhanh hơn ông một chút!
- Chắc là ông đã đánh hơi thấy điều gì đó khác lạ rồi. - Holmes dò hỏi.
Lestrade cười ha hả.
- Đương nhiên ông cũng như chúng tôi thôi, ai lại muốn mình thất bại chứ. - Ông ta say sưa nói - Nhưng không ai có thể chiến thắng trong tất cả mọi trường hợp, phải vậy không bác sĩ? Xin mời các ông theo lối này! Tôi xin cam đoan với các ông rằng, tác giả tội ác là McFarlane chứ không phải ai khác.
Ông ta đưa chúng tôi đi dọc hành lang, đến một đại sảnh tối tăm.
- Đây là nơi McFarlane ra lấy mũ, sau khi gây tội ác. Các ông hãy nhìn xem. - Ông ta đánh một que diêm và chút ánh sáng soi rõ một vết máu tươi trên bức tường quét vôi trắng. Khi ông ta đưa que diêm lại gần hơn, tôi nhận thấy đó không chỉ là một vết máu. Đó là một dấu ngón tay cái in rất rõ. - Ông Holmes, ông hãy lấy kính lúp mà soi đi!
- Thì tôi đang làm thế đây.
- Ông cũng biết là không có hai người nào mà dấu ngón tay cái lại giống hệt nhau chứ?
- Đúng vậy !
- Vậy thì ông thử so cái dấu này với dấu ngón tay phải của anh chàng McFarlane lấy trên xi xem.
Ông ta đưa cái dấu tay trên xi lại gần vết máu và chẳng cần kính lúp cũng có thể thấy ngay hai dấu tay là của cùng một người. Vậy là chắc thân chủ của chúng tôi chẳng còn hy vọng gì nữa.
- Thế là đã xác định. - Lestrade nói.
- Phai, the la xac định. - Toi lap lai mot cach mien cương.
- Xác định! - Holmes tỏ vẻ đồng tình.
Trong ngữ điệu của anh có gì đó đáng làm tôi phải dỏng tai lên nghe và tôi quay lại nhìn anh. Trên khuôn mặt anh có sự thay đổi lạ thường - một niềm vui sâu kín, cố nén giấu, nhưng vẫn tỏa sáng. Đôi mắt anh lấp lánh như hai vì sao đêm. Tôi có cảm giác dường như anh phải cố gắng lắm mới nhịn được cười.
- Trời ạ! - Cuối cùng anh mới cất nên lời. - Ai mà ngờ được chứ? Vẻ bề ngoài thật dễ che mắt người ta! Một chàng trai trông tử tế đến thế! Đây thật là một bài học nhớ đời để lần sau chúng ta nên thận trọng với những cảm giác ban đầu, phải không ông Lestrade?
- Vâng, thỉnh thoảng có vài người quá tự tin thế đấy, ông Holmes ạ! - Lestrade nói giọng mỉa mai rõ rệt.
Nghe cái cách nói ngạo mạn ấy mà điên cả người, nhưng chúng tôi không thể tỏ ra bực tức.
- Thật may mắn, cái gã trai trẻ ấy lại đi ấn ngón tay cái vào tường khi lấy mũ từ mắc chứ! Chà, cái hành động ấy đến là tự nhiên! - Bề ngoài Holmes cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng toàn thân anh rung lên bởi một sự kích động khó kiềm chế - Nhân tiện hỏi ông, ông Lestrade, thế ai đã khám phá ra điều này vậy?
- Bà quản gia, bà Lexington, đã chỉ cho lính trực đêm của tôi thấy.
- Thế cái anh chàng trực đêm ấy đâu?
- Anh ta vẫn đang gác trong phòng ngủ, nơi đã xảy ra vụ giết người, để không cho ai đụng tới những đồ đạc ở đó cả.
- Nhưng tại sao hôm qua cảnh sát không phát hiện ra dấu tay này?
- Vì chúng tôi có lý do gì đâu mà kiểm tra cả đại sảnh. Với lại, chỗ này cũng hơi khuất nữa, ông thấy đấy.
- Không hẳn thế. Tôi chắc các ông chẳng nghi ngờ gì về việc cái dấu tay này mới có ở đây ngày hôm qua?
- Tôi chỉ thấy nó rõ… như một trò đùa thôi. - Holmes lập luận - Ông không hẳn là người giàu trí tưởng tượng, nhưng hãy cứ thử đặt mình vào địa vị anh chàng này đi, ông có chọn ngay cái đêm mà ông nhận được bản di chúc để ra tay không? Ông có tự nhận thấy rằng bản thân sẽ lập tức gặp nguy hiểm vì hai sự kiện này liên quan chặt chẽ với nhau không? Và ông có chọn thời điểm có người quản gia dẫn vào nhà không? Cuối cùng, ông có đem giấu xác chết, nhưng bỏ lại cái can làm bằng chứng rằng mình chính là thủ phạm không? Lestrade, ông hãy thừa nhận rằng tất cả những điều này là rất phi lý đi.
- Về chuyện cây can thì theo tôi, một tên tội phạm thường bất cẩn và hay mắc phải những sai lầm mà một người bình tĩnh có thể tránh được. Có thể hắn hoảng quá, chẳng dám quay lại căn phòng đó nữa. Hãy cho tôi một giả thiết nào đó phù hợp với thực tế hơn.
- Tôi có thể cung cấp cho ông hàng nửa tá những giả thiết đó. - Holmes nói - Ví dụ, ông già đang đưa ra một tài liệu có giá trị thì một kẻ đầu đường xó chợ đi qua chỗ cửa sổ, mà mành chỉ kéo xuống lưng chừng. Hắn thấy những giấy tờ tài liệu đó. Thế là khi McFarlane ra về, hắn trèo vào, vớ lấy cây gậy, giết Oldacre rồi đào tẩu sau khi thiêu xác ông ta.
- Thế sao gã đầu đường xó chợ ấy phải thiêu xác?
- Vậy sao McFarlane phải làm vậy?
- Để che giấu bằng chứng.
- Thế thì có lẽ gã đầu đường xó chợ kia cũng muốn che giấu một vụ trả thù mà y là thủ phạm.
- Thế sao gã ấy chẳng lấy đi thứ giấy tờ nào?
- Vì đó là những thứ giấy tờ mà y chẳng có lợi lộc gì cả.
Lestrade lắc lắc đầu. Tôi thấy ông ta có vẻ kém quả quyết hơn trước.
- Ông Holmes này, ông cứ đi tìm cái gã đầu đường xó chợ của ông đi! Trong lúc ông tìm hắn, chúng tôi cứ điều tra gã trai trẻ này. Rồi sẽ biết ai là người có lý. Nhưng tôi lưu ý ông điểm này, theo chúng tôi biết thì giấy tờ trong phòng không hề bị lấy đi, và gã trai trẻ vừa bị bắt giữ là kẻ duy nhất trên đời chẳng cần lấy chúng, vì theo luật, anh ta là người thừa kế duy nhất, sớm muộn gì những tài liệu ấy cũng thuộc anh ta.
Holmes có vẻ bất ngờ khi nghe câu này.
- Trên cơ sở các bằng chứng thì tôi không phủ nhận giả thiết của ông rất có lý. - Anh đáp - Tôi chỉ muốn nói rằng, vẫn còn có những khả năng khác. Như ông vừa nói đấy, thời gian sẽ cho thấy ai đúng, ai sai. Chúc buổi sáng tốt lành! Hôm nay, tôi sẽ ghé qua Norwood xem cuộc điều tra của ông đến đâu rồi.
Viên thanh tra ra về, còn Holmes đứng dậy và nhanh chóng chuẩn bị cho một ngày làm việc với tâm trạng vui vẻ và hăng hái.
- Watson này, việc đầu tiên tôi làm, - Anh vừa khoác vội chiếc áo choàng, vừa nói - là đến ngay Blackheath.
- Sao không phải là đến Norwood?
- Bởi vì trong vụ này có mối liên quan giữa sự việc này với sự việc khác. Cảnh sát phạm phải một sai lầm rất lớn, là chỉ quan tâm đến một sự việc, vì có vẻ như đó mới là tội ác thực sự. Nhưng theo tôi, để giải quyết vụ này rõ ràng là cần phải làm sáng tỏ sự kiện thứ nhất - bản chúc thư được soạn thảo một cách đột ngột và một người thừa kế ngoài dự kiến. Làm rõ được điều đó thì vụ án sẽ có hướng giải quyết nhanh chóng. Tin rằng tối nay gặp anh, tôi sẽ nói cho anh hay mình đã làm được những gì cho anh bạn trẻ này, người đã đặt hết niềm tin vào tôi.
Mãi khuya hôm đó Holmes mới trở về. Và chỉ cần liếc qua khuôn mặt lo âu, căng thẳng của Holmes, tôi cũng biết anh đã không đạt được những gì mong muốn. Suốt một tiếng đồng hồ, anh thả hồn theo tiếng vĩ cầm, như để giải tỏa những căng thẳng của mình. Cuối cùng, anh đặt cây đàn xuống và kể cho tôi nghe những rủi ro gặp phải.
- Mọi việc tệ quá, Watson ạ, tệ hết mức có thể. Tuy tôi vẫn giữ vẻ thản nhiên với Lestrade, nhưng thực ra trong lòng tôi lại thầm nghĩ, lần này ông ta đi đúng hướng rồi, còn chúng ta mắc sai lầm. Bản năng của tôi đi theo một hướng, còn các sự kiện thực tế lại chứng minh điều ngược lại. Tôi e rằng các thẩm phán chưa thông minh đến độ chấp nhận các giả thiết của tôi trước những dữ kiện thực tế của Lestrade.
- Anh có tới Blackheath không?
- Có chứ, tôi đến đó và ngay lập tức nhận ra rằng, cái lão Oldacre này là một kẻ đê tiện. Người cha đã đi tìm con trai, ở nhà chỉ còn người mẹ - một người phụ nữ nhỏ bé, duyên dáng với cặp mắt xanh lơ. Bà ấy run lên vì sợ hãi và tức giận, bà ấy không bao giờ tin con trai mình lại có thể gây tội tày trời như thế. Nhưng bà ấy không hề tỏ ra ngạc nhiên hay thương xót cho số phận của Oldacre. Trái lại, bà ấy nói về lão ta với vẻ cay độc, đến nỗi vô tình bà ấy lại giúp cho cảnh sát củng cố thêm lập luận hung thủ chính là con trai bà. Vì nếu con trai bà mà biết lão ta là người như thế, đương nhiên anh ta phải ghét cay ghét đắng lão, và càng có cơ gây tội ác. Bà ấy bảo: “Lão ta không phải là con người, mà là con khỉ hiểm độc và đầy mưu mô. Ngay từ trẻ, lão đã độc ác như một con thú dữ”. “Bà biết ông ta từ hồi đó sao?” - Tôi hỏi thế. “Vâng, tôi biết rất rõ lão ấy. Lão ấy thực ra là người yêu cũ của tôi. Ơn Chúa, tôi đã đủ can đảm chia tay và kết hôn với một người đàn ông tử tế hơn lão, mặc dù ông ấy nghèo khó. Ông Holmes ạ, hồi ấy đã đính hôn với lão ấy rồi thì tôi mới nghe kể là lão ấy đã từng nhốt một con mèo vào lồng chim. Tôi khiếp sợ sự độc ác phi nhân tính đó và quyết định hủy bỏ hôn ước”. Bà ấy lục tìm trong ngăn tủ và đưa cho tôi xem tấm ảnh một phụ nữ bị bôi lem luốc và rạch chằng chịt bằng lưỡi dao nhíp. “Là ảnh tôi đấy. Buổi sáng tôi cử hành hôn lễ, hắn gửi cho tôi bức hình này với những lời nguyền rủa đồi bại”. “Vậy thì ít ra bây giờ ông ta cũng đã tha thứ cho bà, vì ông ta đã để lại cả gia tài cho con trai bà”. “Con tôi và tôi không thèm nhận gì của hắn, dù hắn còn sống hay đã chết”. - Bà ấy rít lên. “Ông Holmes ạ! Trời có mắt đấy. Thượng đế đã trừng phạt hắn, kẻ độc ác ấy, và trời đất sẽ minh giám cho sự trong sạch của con trai tôi”.
“Tôi cố thử vài ba hướng khác, nhưng chẳng thu được điều gì có ích, thậm chí một vài điểm còn chứng minh điều trái ngược với suy xét của chúng ta. Cuối cùng tôi bỏ cuộc và đến Norwood.
“Ngôi nhà mang tên Deep Dane đó là một biệt thự kiểu mới, đứng sừng sững trên một thửa đất lớn. Phía trước có một bãi cỏ rộng, trải dài với những cây nguyệt quế. Bên phải ngôi nhà, cách đường một quãng là một khoảng sân chứa đầy gỗ, nơi đã phát hoả đêm qua. Tôi có vẽ qua sơ đồ ngôi nhà trong sổ đây. Cửa sổ phía tay trái là cửa sổ phòng Oldacre. Anh sẽ thấy là từ ngoài đường có thể nhìn vào qua cửa này. Đấy là những gì ngày hôm nay tôi thu thập được. Lestrade không có ở đó, nhưng người phụ tá của ông ta đã đón tiếp tôi khá nhiệt tình. Họ đã thực hiện một cuộc khám xét lớn. Cả buổi sáng, họ khui đống tro tàn, và ngoài những mẩu vụn xương người đã cháy thành than, họ còn tìm thấy những mẩu kim loại nhỏ đã phai màu. Tôi đã quan sát những mẩu kim loại này cẩn thận và nhận thấy đó là cái cúc quần dài. Thậm chí tôi còn đọc được trên một mẩu có chữ “Hyams”. Đó là tên người thợ may của Oldacre. Tôi cố quan sát kỹ bãi cỏ để tìm những dấu vết, nhưng tiết trời khô làm đất rắn như đá. Tất cả những gì tôi thấy có thể là một xác chết, hoặc một kiện hàng lớn nào đó đã được kéo qua bờ cây, song song với đống gỗ. Đương nhiên, nó hoàn toàn phù hợp với giả thiết của cảnh sát. Tôi bò trên bãi cỏ đó, giữa cái nắng tháng tám, đến cả tiếng đồng hồ, để rồi chẳng thu được gì.
“Sau đó, tôi lại vào phòng ngủ và xem xét kỹ lưỡng từng ngóc ngách. Những vết máu rất mờ, đã bị xóa và phai màu. Nhưng rõ ràng đó là những vết máu tươi. Cái can được để sang bên, mà vết máu trên đó cũng rất mờ.
Đúng đó là cái can của thân chủ chúng ta. Anh ta cũng thừa nhận điều đó rồi. Trên thảm còn in dấu chân hai người đàn ông, nhưng không có dấu chân người thứ ba, điểm này càng củng cố thêm lập luận của cảnh sát. Họ đang dần tới đích, còn chúng ta thì cứ giẫm chân tại chỗ thế này.
“Tôi chỉ còn có một tia hy vọng nhỏ, nhưng cũng chẳng ích gì. Tôi kiểm tra kỹ giấy tờ trong két; hầu hết đều đã được mang để trên bàn. Các giấy tờ này cất trong phong bì có gắn niêm phong, cảnh sát đã mở xem vài ba cái. Theo tôi thì các giấy tờ này không mấy giá trị; và tài sản trong ngân hàng của ông Oldacre không tốt lắm. Nhưng tôi có cảm tưởng rằng tất cả giấy tờ không được để cả ở đấy. Hình như còn vài chứng thư chuyển nhượng tài sản, đặc biệt là những giấy tờ có giá trị lớn thì tôi không tìm ra được. Nếu chúng ta chứng minh được điều này thì sẽ làm lộ mâu thuẫn trong lập luận của Lestrade: Ai lại đi lấy cắp thứ mà chẳng mấy chốc nữa anh ta sẽ được sở hữu?
“Cuối cùng, sau khi đã lục lọi, tìm kiếm mà chẳng phát hiện thấy gì, tôi đành thử vận may với bà quản gia. Bà ta tên là Lexington, một người nhỏ bé, da màu, ít lời, có cặp mắt dài và hẹp, không thật thà. Tôi tin rằng bà ta có biết gì đó, và nếu muốn, hẳn bà ta đã kể rõ. Nhưng bà ta câm như hến. Bà ta thừa nhận đã đưa McFarlane vào nhà lúc 9 giờ 30 phút, và cứ một mực hối hận giá mình đừng làm việc đó. Bà ta đi ngủ từ trước 10 giờ 30 phút, trong căn phòng ở đầu nhà phía bên kia. Bà ta khẳng định McFarlane để quên mũ và gậy trong đại sảnh. Chính tiếng chuông báo cháy đã đánh thức bà ta dậy. Ông chủ già nua tội nghiệp của bà hẳn nhiên đã bị giết chết. Còn ông ấy có kẻ thù nào không ư? Đương nhiên ai mà chả có. Nhưng ông Oldacre kín tiếng lắm, và các mối quan hệ của ông ấy chỉ là về công việc làm ăn. Bà ta đã xem mấy cái cúc quần và bảo đảm đó là của cái quần mà ông mặc đêm qua. Đống gỗ rất khô vì cả tháng vừa rồi làm gì có mưa. Lửa cháy khác nào bùi nhùi gặp gió; lúc bà ta ra đến nơi thì chỉ còn thấy lửa và lửa. Bà ta và đám lính cứu hỏa đều ngửi thấy mùi thịt cháy khét lẹt. Bà ta không hay biết gì về giấy tờ tài liệu, cũng như công việc làm ăn của ông chủ.”
- Thế đấy, Watson ạ, thế là tôi đành chịu thất bại. Nhưng mà…, nhưng… - Anh siết mạnh hai bàn tay như để khẳng định niềm tin của mình - Tôi biết rằng tất cả những chuyện này là dối trá. Từ sâu thẳm đáy lòng, tôi cảm thấy thế. Còn điều gì đó mà bà quản gia rõ ràng có biết nhưng chưa bị phát hiện. Trong mắt mụ ánh lên sự ương ngạnh, cố che giấu một lương tâm tội lỗi do đồng lõa với một tội ác mà mụ biết rõ. Nhưng nói thế cũng chẳng ích gì. Trừ phi chúng ta gặp may, chứ không đừng có mong vụ Norwood này được nêu trong bản báo cáo thưởng công.
- Chắc là vậy. - Tôi nói - Nhưng chẳng lẽ vẻ ngoài lương thiện của can phạm không gây được chút thiện cảm nào với bồi thẩm đoàn hay sao?
- Watson thân mến, lập luận thế là nguy hiểm đấy. Anh có nhớ Bert Stevens, tên sát nhân ghê tởm đã nhờ cậy chúng ta giải cứu hồi năm 1887 không? Có gã thanh niên nào trông như một đứa con gương mẫu trong gia đình lương thiện đến thế không?
- Đúng, đúng vậy.
- Nếu chúng ta không đưa ra được một giả thiết khác ổn hơn, chàng trai này sẽ tiêu đời. Giờ đây mọi bằng chứng đều chống lại anh ta, và mọi hướng điều tra đều củng cố luận cứ đầy bất lợi này. Chỉ có một chi tiết nhỏ ở đống giấy tờ thu hút sự chú ý của tôi. Biết đâu đó chẳng là điểm mấu chốt để chúng ta bắt đầu một hướng điều tra mới. Khi nhìn vào tập ngân phiếu của ông ta, tôi nhận thấy sự mất cân đối thu - chi là do một số lượng lớn các tấm séc đã được chi trả cho một ông có tên là Cornelius. Thú thật, tôi rất muốn biết cái ông Cornelius này là ai mà lại khiến nhà thầu khoán nghỉ hưu phải chuyển khoản cho ông ta nhiều tiền đến thế. Liệu có khả năng ông ta nhúng tay vào vụ này không? Cornelius có thể là một nhà môi giới chứng khoán, nhưng chẳng thể tìm thấy những cổ phần tương đương với các khoản chi trả lớn này. Vì thiếu đầu mối, giờ đây tôi phải tìm hiểu bên ngân hàng về cái ông Cornelius đã lĩnh các chi phiếu đó. Nhưng Watson thân mến ạ, tôi e rằng vụ này sẽ kết thúc bằng sợi dây thòng lọng mà Lestrade sẽ quàng vào cổ thân chủ chúng ta.
Tôi không biết đêm hôm ấy Holmes có chợp mắt được chút nào không, nhưng lúc xuống ăn sáng, trông anh thật xanh xao, mệt mỏi; đôi mắt sáng lại càng sáng hơn bởi những quầng thâm bao quanh. Thảm dưới chân ghế anh ngồi phủ đầy tàn thuốc lá và vương vãi các trang báo sáng. Trên bàn có một bức điện tín đã mở.
- Anh nghĩ sao về bức điện này hở Watson? - Anh ném nó sang cho tôi.
Bức điện được gửi từ Norwood, nội dung như sau:
“Chứng cứ quan trọng đã được tìm thấy. Tội lỗi của McFarlane đã được xác minh. Khuyên ông nên từ bỏ việc điều tra. Lestrade”.
- Nghe có vẻ nghiêm trọng đây. - Tôi nói.
- Đó là tiếng reo hò mừng chiến thắng của Lestrade. - Holmes trả lời với một nụ cười chua chát - Tuy nhiên, bây giờ mà bỏ cuộc thì quá sớm. Dù sao thì chứng cớ quan trọng mới thấy này có thể sẽ là con dao hai lưỡi, biết đâu nó lại chặn đứng các hướng mà Lestrade đang đi ấy chứ. Anh ăn sáng đi, Watson, rồi chúng ta sẽ lên đường. Tôi cảm thấy, hôm nay tôi rất cần anh cùng đi và hỗ trợ.
Holmes không ăn sáng. Một trong những điểm kỳ quặc ở anh là trong những thời khắc căng thẳng, anh tự cho phép mình không ăn uống gì. Anh lúc nào cũng tin rằng mình khỏe như voi, cho đến khi xỉu đi vì kiệt sức. “Bây giờ, tôi không hơi đâu mà tổn hao sức lực và tâm trí vào việc ăn uống”. Cứ hễ tôi tỏ ý phê phán anh về chuyện ấy là sẽ nhận được câu trả lời như vậy. Vì thế, sáng hôm đó tôi chẳng mấy ngạc nhiên khi anh không đụng đến bữa sáng và vội vã lên đường tới Norwood. Một đám đông người hiếu kỳ đang vây quanh ngôi nhà Deep Dene. Lestrade đón chúng tôi với vẻ mặt rạng rỡ và thái độ hớn hở vì thắng thế.
- Thế nào, ông Holmes? Ông đã tìm ra bằng chứng rằng chúng tôi sai chưa? Hẳn ông đã thấy cái gã đầu đường xó chợ ấy rồi chứ? - Ông ta đắc thắng kêu lên.
- Tôi chưa rút ra được kết luận nào cả. - Bạn tôi đáp. - Nhưng chúng tôi thì ngay ngày hôm qua đã đi tới kết luận. Ông Holmes ạ, lần này thì ông nên thừa nhận là chúng tôi đã nhanh hơn ông một chút!
- Chắc là ông đã đánh hơi thấy điều gì đó khác lạ rồi. - Holmes dò hỏi.
Lestrade cười ha hả.
- Đương nhiên ông cũng như chúng tôi thôi, ai lại muốn mình thất bại chứ. - Ông ta say sưa nói - Nhưng không ai có thể chiến thắng trong tất cả mọi trường hợp, phải vậy không bác sĩ? Xin mời các ông theo lối này! Tôi xin cam đoan với các ông rằng, tác giả tội ác là McFarlane chứ không phải ai khác.
Ông ta đưa chúng tôi đi dọc hành lang, đến một đại sảnh tối tăm.
- Đây là nơi McFarlane ra lấy mũ, sau khi gây tội ác. Các ông hãy nhìn xem. - Ông ta đánh một que diêm và chút ánh sáng soi rõ một vết máu tươi trên bức tường quét vôi trắng. Khi ông ta đưa que diêm lại gần hơn, tôi nhận thấy đó không chỉ là một vết máu. Đó là một dấu ngón tay cái in rất rõ. - Ông Holmes, ông hãy lấy kính lúp mà soi đi!
- Thì tôi đang làm thế đây.
- Ông cũng biết là không có hai người nào mà dấu ngón tay cái lại giống hệt nhau chứ?
- Đúng vậy !
- Vậy thì ông thử so cái dấu này với dấu ngón tay phải của anh chàng McFarlane lấy trên xi xem.
Ông ta đưa cái dấu tay trên xi lại gần vết máu và chẳng cần kính lúp cũng có thể thấy ngay hai dấu tay là của cùng một người. Vậy là chắc thân chủ của chúng tôi chẳng còn hy vọng gì nữa.
- Thế là đã xác định. - Lestrade nói.
- Phai, the la xac định. - Toi lap lai mot cach mien cương.
- Xác định! - Holmes tỏ vẻ đồng tình.
Trong ngữ điệu của anh có gì đó đáng làm tôi phải dỏng tai lên nghe và tôi quay lại nhìn anh. Trên khuôn mặt anh có sự thay đổi lạ thường - một niềm vui sâu kín, cố nén giấu, nhưng vẫn tỏa sáng. Đôi mắt anh lấp lánh như hai vì sao đêm. Tôi có cảm giác dường như anh phải cố gắng lắm mới nhịn được cười.
- Trời ạ! - Cuối cùng anh mới cất nên lời. - Ai mà ngờ được chứ? Vẻ bề ngoài thật dễ che mắt người ta! Một chàng trai trông tử tế đến thế! Đây thật là một bài học nhớ đời để lần sau chúng ta nên thận trọng với những cảm giác ban đầu, phải không ông Lestrade?
- Vâng, thỉnh thoảng có vài người quá tự tin thế đấy, ông Holmes ạ! - Lestrade nói giọng mỉa mai rõ rệt.
Nghe cái cách nói ngạo mạn ấy mà điên cả người, nhưng chúng tôi không thể tỏ ra bực tức.
- Thật may mắn, cái gã trai trẻ ấy lại đi ấn ngón tay cái vào tường khi lấy mũ từ mắc chứ! Chà, cái hành động ấy đến là tự nhiên! - Bề ngoài Holmes cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng toàn thân anh rung lên bởi một sự kích động khó kiềm chế - Nhân tiện hỏi ông, ông Lestrade, thế ai đã khám phá ra điều này vậy?
- Bà quản gia, bà Lexington, đã chỉ cho lính trực đêm của tôi thấy.
- Thế cái anh chàng trực đêm ấy đâu?
- Anh ta vẫn đang gác trong phòng ngủ, nơi đã xảy ra vụ giết người, để không cho ai đụng tới những đồ đạc ở đó cả.
- Nhưng tại sao hôm qua cảnh sát không phát hiện ra dấu tay này?
- Vì chúng tôi có lý do gì đâu mà kiểm tra cả đại sảnh. Với lại, chỗ này cũng hơi khuất nữa, ông thấy đấy.
- Không hẳn thế. Tôi chắc các ông chẳng nghi ngờ gì về việc cái dấu tay này mới có ở đây ngày hôm qua?