Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 13 - Phần 2
Bộ mặt Holmes trông thật đáng sợ, mắt anh đảo lộn tròng, nét mặt bị cơn đau làm cho nhăn nhúm lại. Buông ra một tiếng rên rỉ, anh ngã lăn xuống đất. Hoảng quá, chúng tôi vội khiêng anh vào trong bếp, đặt anh lên một ghế bành rộng và anh ngồi đó, thở thật nặng nề trong vài phút. Cuối cùng, sau khi cáo lỗi về sự ốm yếu của mình, anh lại đứng lên phân bua:
- Tôi vừa mới qua một trận ốm nặng và vẫn còn phải chịu đựng những cơn đau đầu đột ngột như vậy.
- Ông có muốn về nhà bằng cỗ xe độc mã của tôi không? - Cụ Cunningham đề nghị.
- Tôi còn phải ở đây để xác minh rằng không biết William đã tới trước hay là chỉ tới sau khi tên trộm lọt vào nhà. Các vị đã nói rằng tuy cánh cửa bị cạy phá, nhưng kẻ trộm chưa lọt vào bên trong.
- Điều đó là hiển nhiên rồi. - Cụ Cunningham trả lời một cách nghiêm trang - Xem nào, Alec vẫn còn chưa lên giường, chắc chắn là cháu nó đã nghe thấy tiếng động.
- Cậu ấy ngồi ở đâu?
- Trong phòng đọc sách của tôi, đang hút thuốc và nhìn qua cửa sổ. - Ông cụ trả lời.
- Cửa sổ nào? - Holmes hỏi tiếp.
- Cửa sổ cuối cùng bên trái, kế bên cửa sổ phòng cha tôi. - Alec đáp.
- Đèn nơi phòng anh và phòng ông cụ vẫn còn thắp sáng cả chứ?
- Tất nhiên.
- Rõ ràng là có vài điểm kỳ lạ trong vụ này. - Holmes cười nói - Một tên trộm vào nhà giữa lúc đèn vẫn đang sáng, và có hai người trong gia đình vẫn còn thức - y phải cực kỳ bình tĩnh.
- Nếu vụ án này mà không kỳ lạ thì chúng tôi nhờ ông làm gì! - Alec khó chịu nói - Kẻ trộm đã không lấy đồ trước khi bị William bắt gặp. Bằng cớ là chúng tôi đâu có mất gì, mà hiện trường cũng không bị xáo trộn bừa bãi như những vụ trộm cắp thông thường.
- Cái đó còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của những món đồ. - Holmes trả lời - Chúng ta đang đối phó với một tên trộm kỳ lạ và hành động theo cách đặc biệt, chẳng hạn như những đồ bị mất ở nhà cụ Acton chỉ là một cuộn dây mành, một cái phong vũ biểu…
- Chúng tôi phó thác hoàn toàn cho ông, thưa ông Holmes. - Cụ Cunningham nói tỏ vẻ thân thiện.
- Trước hết, tôi muốn cụ treo một giải thưởng. Tôi đã soạn sẵn mẫu, cụ có ưng không? Năm chục bảng là đủ.
- Tôi sẵn lòng thưởng năm trăm. - Ông quan tòa hòa giải nói, sau khi cầm lấy tờ giấy mà Holmes đưa cho - Nhưng viết thế này chưa được đúng.
- Tôi viết khá vội…
- Xem đây! Sao ông lại bắt đầu như vậy: “Xét thấy, vào hồi 1 giờ kém 15 phút, một mưu toan…” Phải là 12 giờ kém 15 phút.
Sự nhầm lẫn khiến tôi rất buồn. Holmes nổi tiếng là chính xác khi làm việc. Nhưng, cơn bệnh đã làm anh có vẻ đãng trí. Trong một lúc, anh thật sự bị bối rối. Viên thanh tra nhướn mày. Alec thì phá ra cười. Ông già sửa chỗ viết sai rồi trả lại tờ giấy cho Holmes, và còn khen:
- Ông hãy cho đăng càng sớm càng tốt! Ý kiến của ông thật tuyệt vời.
Holmes cẩn thận đặt tờ giấy vào trong bóp, rồi đề nghị:
- Ta cùng đi kiểm tra khắp nhà, để xem tên trộm kỳ quặc kia đã lấy đi món đồ nào.
Trước đó, Holmes đã quan sát kỹ cánh cửa bị cạy phá. Một con dao cứng hoặc một cây kéo cắm sâu vào ổ khóa làm nó bị tung ra. Những dấu vết hằn trên gỗ hãy còn rất rõ.
- Như vậy là cụ không cần cho đặt then cài cửa. - Holmes ngạc nhiên nói.
- Chúng tôi thấy không cần phải làm như vậy.
- Cụ có nuôi chó không?
- Có, chó buộc ở phía bên kia nhà.
- Các gia nhân đi ngủ vào lúc nào?
- Khoảng 10 giờ.
- Và thường thì William đi ngủ vào giờ này, phải không? Nhưng thật kỳ lạ! Vào đúng đêm đó, anh ta lại thức khuya hơn thường lệ. Bây giờ, mong cụ cho phép chúng tôi vào thăm qua nhà cụ.
Một hành lang lát đá đưa tới một cầu thang gỗ dẫn thẳng lên lầu một của ngôi nhà. Trên bậc thềm dẫn lên cầu thang thứ hai đi đến tiền sảnh, chúng tôi trông thấy ở đó có cửa phòng khách cũng như nhiều phòng khác, trong số đó có phòng cụ Cunningham và phòng Alec. Holmes bước chậm rãi, quan sát kỹ càng. Cứ theo vẻ mặt anh, tôi biết anh đang theo đuổi một hướng điều tra.
- Ông bạn hảo tâm của tôi ơi! - Cụ Cunningham kêu lên, vẻ thiếu kiên nhẫn - Điều này không cần thiết đâu. Phòng của tôi ở cuối cầu thang, và phòng con trai tôi kế bên. Nếu kẻ trộm lên đây thì cha con tôi đã nghe thấy tiếng động hắn gây ra rồi.
- Ông hãy điều tra theo hướng khác đi thôi. - Alec nói với một nụ cười hoài nghi.
- Xin quý vị lượng thứ cho cái ý thích thất thường của tôi. Chẳng hạn như tôi muốn biết, tầm nhìn từ những cửa sổ trông xa tới đâu. Phòng của anh Alec đây à? - Holmes hỏi khi đẩy cánh cửa ra - Và đây là căn phòng mà anh đang ngồi hút thuốc thì có tiếng báo động? Cánh cửa sổ mở ra đâu đây?
Anh băng ngang phòng, mở một cánh cửa và liếc nhìn sang căn phòng sát bên.
- Giờ ông đã được thỏa mãn rồi chứ? - Cụ Cunningham hỏi với vẻ hóm hỉnh.
- Xin cám ơn! Tôi đã thấy được tất cả những gì muốn biết.
- Nếu thật sự cần thiết, chúng ta có thể vào trong phòng tôi.
- Ồ, nếu cụ không thấy phiền…
Ông cụ nhún vai, dẫn chúng tôi vào trong phòng riêng đầy đủ tiện nghi. Trong lúc chúng tôi đi ngang qua phòng, hướng tới phía cửa sổ, thì Holmes bước chậm lại để sánh cùng tôi đi cuối toán. Cuối giường có kê một cái bàn vuông nhỏ, trên đặt một bình nước và giỏ cam. Khi đi ngang qua đó, Holmes cúi xuống và hất đổ cái bàn. Bình nước vỡ tan, trái cây văng ra khắp phòng.
- Đồ quỷ, Watson! - Anh kêu lên một cách lạnh lùng - Thế là anh đã xử tệ với tấm thảm rồi!
Vô cùng bối rối, tôi cúi xuống và bắt đầu lượm những trái cây vung vãi. Hẳn là vì một nguyên cớ nào đó nên Holmes mới buộc tôi phải cáng đáng trách nhiệm về sự vụng về cố ý này. Những người khác cũng lượm trái cam và dựng cái bàn trở lại.
- Coi kìa! - Viên thanh tra kêu lên - Ông ấy đi đâu vậy?
Quả thật, lợi dụng lúc chúng tôi không để ý, Holmes đã biến đi đâu mất dạng.
- Quý ông hãy đợi tôi ở đây! - Alec nói - Cái ông này coi chừng thần kinh có vấn đề. Mau theo con đi ba!
Cả hai chạy vội ra khỏi phòng. Còn ba chúng tôi cứ đứng đó, sững sờ nhìn nhau.
- Khỉ thật. Tôi bắt đầu tin rằng cậu Alec có lý. - Viên thanh tra lầm bầm - Có thể đây là di chứng do căn bệnh của ông ấy. Nhưng dù sao thì cũng…
Bỗng ông ta ngẩng mặt lên. Một tiếng kêu, mà gần như là một tiếng hét, vang lên:
- Cứu tôi với! Sát nhân !
Tôi phóng như điên ra cầu thang, bởi tôi đã nhận ra giọng Holmes. Nhưng tiếng kêu cứu đã trở thành âm thanh rên rỉ lào thào, không thành tiếng. Nó vọng ra từ căn phòng mà chúng tôi đã vào thăm đầu tiên. Tôi lao vào trong, rồi chạy ngay vào phòng bên. Hai cha con Cunningham đều đang cúi sát trên cơ thể lả đi của Holmes. Gã con trai dùng tay tay siết chặt cổ họng Holmes; ông bố thì vặn cổ tay anh. Trong chớp mắt, chúng tôi đã lôi được hai cha con họ ra. Holmes lảo đảo đứng lên, mặt tái mét:
- Hãy bắt giữ hai người này, ông thanh tra! - Anh vừa nói vừa thở hổn hển, mặt mày biến sắc, sắp lả đi.
- Về tội gì?
- Tội giết hại người đánh xe của họ.
- Khoan! Hãy khoan, ông Holmes! Ý ông chắc không phải là… - Viên thanh tra vẫn như chưa hiểu những gì đã xảy ra.
- Không à? Ông hãy nhìn họ mà xem! - Holmes gào lên.
Ông già Cunningham đờ người ra, tưởng chừng như hóa đá, khuôn mặt nhăn nhúm, in hằn nét tàn nhẫn sâu xa. Người con trai đã hết thói ba hoa, nhạo báng; trong cặp mắt của gã lóe lên sự hung dữ của một con thú hoang đầy nguy hiểm. Viên thanh tra đi ra cửa và tuýt còi. Hai cảnh sát tới ngay.
- Thưa cụ Cunningham! - Viên thanh tra nói - Tôi hy vọng rằng câu chuyện sẽ chấm dứt bằng việc chứng minh về sự vô tội của cụ. Nhưng cụ cũng có thể thấy rằng… A, anh muốn vậy sao? Hãy buông ngay cái đó ra coi!
Ông ta vung tay về phía trước, khẩu súng lục đang lên nòng trong tay gã Alec rớt xuống sàn nhà.
- Giữ lấy tang vật này! - Holmes nói và lấy chân chặn lên khẩu súng - Nó sẽ có ích trong phiên tòa. Nhưng đây mới là cái mà chúng ta cần có hơn hết!
Anh giơ cao một mảnh giấy nhỏ đã bị vò nát.
- Phần bị thiếu của lá thư! - Viên thanh tra reo to - Ông tìm thấy nó ở đâu vậy?
- Ở chỗ mà tôi tin chắc là sẽ tìm ra. Tôi sẽ giải thích sau. Thưa đại tá, ông và Watson có thể trở về nhà. Tôi cũng sẽ trở về trong quãng một giờ nữa. Ông thanh tra và tôi còn phải trao đổi với các phạm nhân.
Sherlock Holmes đã giữ lời. Khoảng một giờ sau, anh bước vào phòng của ông đại tá. Anh đi cùng với một ông lão mà anh giới thiệu là cụ Acton. Holmes tươi cười, nói:
- Thưa quý vị, ngay từ đầu tôi đã thấy chìa khóa của vấn đề là mẩu giấy trong tay nạn nhân. Nếu câu chuyện kể của Alec là thật và nếu kẻ trộm bỏ trốn ngay tức khắc, thì hắn đã không giựt và làm rách tờ giấy. Nếu không phải vậy thì thủ phạm chính là Alec, bởi vì trước khi ông già xuống, nhiều gia nhân khác hẳn đã chạy tới. Đó là một chi tiết đơn giản, nhưng ông thanh tra đã bỏ qua. Bởi ông ấy khá đơn giản, cho rằng những vị chức trọng quyền cao trong địa hạt chẳng liên can gì tới vụ án. Thế là tôi nghiên cứu thật kỹ cái mẩu giấy. Nó đây này. Nó có gợi ra cho các vị điều gì không?
- Nét chữ không đều. - Ông đại tá nhận xét.
- Ồ, ông bạn thân mến ơi! - Holmes kêu lên - Nó là do hai người viết. Nhìn các gạch ngang khá rõ trên chữ “t” trong những từ “một” và “rất” rồi nét ngang khá mảnh trên chữ “t” trong từ “phút”, thì quý vị sẽ biết rằng mảnh giấy này do hai người viết. Phân tích nhanh sẽ thấy, những từ “sẽ được” và “một” do một bàn tay rắn rỏi viết, trong khi từ “hữu ích” lại do một bàn tay yếu ớt hơn.
- Rõ như ban ngày! - Ông đại tá reo lên - Tại sao lại phải quái gở vậy, khi cần đến hai người để viết một lá thư?
- Đây là một âm mưu bỉ ổi. Một trong hai người tính rất đa nghi, đã quyết định mỗi người viết một phần bằng nhau. Nhưng trong hai người, cái kẻ viết những chữ “một” và chữ “rất” là kẻ chủ mưu gây ra vụ này.
- Điều gì dẫn ông đi tới kết luận đó?
- Tôi so sánh đặc tính của hai dạng chữ viết. Quý vị hãy quan sát thật cẩn thận mẩu giấy này: Người có bàn tay rắn rỏi đã viết trước, và chừa lại những khoảng trống để người kia điền vào. Nhưng những khoảng trống đó không phải lúc nào cũng đủ chỗ cho kẻ viết sau. Người có bàn tay yếu hơn đã gặp khó khăn, chẳng hạn như khi viết chữ “biết” vào giữa hai chữ “một” và “được”. “Một” và “được” rõ ràng là những chữ đã được viết từ trước. Vậy người được phép viết trước là kẻ chủ mưu.
- Tuyệt vời! - Cụ Acton thốt lên.
- Hẳn quý vị đã biết rằng, thông thường, người ta có thể xem xét nét bút mà đoán ra tuổi của một người, với độ sai lệch chừng mười năm. Tôi nói thông thường. Bởi vì có những trường hợp do bệnh tật hoặc cơ thể suy yếu thì kết quả sẽ khác đi. Nhưng trong vụ này, khi quan sát dạng chữ rắn rỏi của một người (dấu gạch ngang trên các chữ “t” rất rõ) và dạng chữ ngập ngừng của người kia (những chữ “t” gần như mất hẳn nét gạch ngang) chúng ta có thể xác định rằng, trong hai người này, một người còn trẻ và một người tuổi đã cao, tuy hãy còn tráng kiện.
- Tuyệt quá! - Cụ Acton reo lên một lần nữa, không ngừng gật đầu tán thưởng.
- Tuy nhiên, giữa hai dạng chữ này cũng có những điểm giống nhau. Thường thì những sự giống nhau đó xuất phát từ hai người có chung huyết thống. Điều đó biểu hiện rất rõ trong chữ “e” Hy Lạp mà cả hai viết giống nhau. Những nét giống nhau khác, tuy không phải hoàn toàn, cũng cho thấy về điểm đó. Tôi tuyệt đối tin chắc hai dạng chữ viết này phải là của hai người thân trong nhà. Thế nên tôi vững tin rằng cha con ông Cunningham là tác giả của bức thư.
“Tôi đi tới nhà đó cùng với ông thanh tra. Tôi thấy rõ, vết thương trên thi thể người chết là do một phát súng lục bắn cách xa hơn 4m gây ra. Trên quần áo nạn nhân không có những dấu vết ám đen do thuốc súng. Vậy Alec đã nói dối khi khai rằng, hai người đang đánh lộn thì súng nổ. Mặt khác, hai cha con đều thống nhất về cái nơi mà “hung thủ” đã bỏ chạy ra đường. Ở chỗ đó có một cái hố ngập bùn, nhưng không hề có dấu chân: nghĩa là, chẳng có một kẻ xa lạ nào can dự vào vụ án! Tôi lại còn phải khám phá động cơ của tội ác kỳ cục này. Với mục đích đó, trước hết tôi phải tìm hiểu vụ trộm xảy ra nơi nhà cụ Acton. Ông đại tá đã nói rằng một vụ kiện tụng đã làm cho cụ Acton với cha con Cunningham kình địch nhau. Ngay lập tức, tôi đoán là họ đã xông vào phòng sách nhà cụ với ý định lấy trộm một tài liệu quan trọng, cái đó có thể giúp họ chiếm phần thắng tại phiên tòa.”
- Tuyệt vời! - Cụ Acton lại kêu lên y như hai lần trước - Ý đồ của bọn họ đã rõ. Tôi có đủ giấy tờ để được chia một nửa cơ nghiệp của nhà đó. Nếu họ mà cướp được những giấy tờ ấy thì chúng tôi nguy to.
- Chúng ta tới đích rồi đấy! - Holmes cười nói - Đó là một mưu toan khá liều lĩnh, do Alec đề xướng. Lục soát khắp nơi mà không tìm ra được gì, họ đã làm như những tên trộm tầm thường, nhằm đánh lạc hướng cảnh sát. Chính vì thế họ đã quơ lấy bất cứ cái gì họ thấy. Tất cả mọi chuyện đã khá sáng tỏ. Nhưng tôi còn muốn thu hồi lại phần còn thiếu của bức thư. Tôi tin chắc rằng Alec đã nhét nó vào trong túi áo ngủ. Với lại, anh ta còn có thể để nó vào đâu được chứ? Vấn đề chỉ là tìm hiểu xem nó có còn ở đó không. Vì thế tất cả chúng ta đều vào trong nhà.
“Cha con Cunningham gặp chúng tôi ở bên ngoài, gần cửa nhà bếp. Cần phải tuyệt đối không làm cho họ nhớ lại sự hiện hữu của tờ giấy đó. Nếu không, họ sẽ hủy nó đi ngay tức khắc. Khi viên thanh tra sắp ám chỉ đến tờ giấy lúc giải thích với họ về tầm quan trọng của nó, lúc đó “tình cờ” tôi bị… mệt, và đề tài của câu chuyện được thay đổi.” - Trời đất thánh thần ơi! - Ông đại tá cười vang.
- Diễn khéo tuyệt vời! - Tôi thốt lên và nhìn Holmes với lòng khâm phục.
- Có những trò hề cũng hữu ích. - Holmes trả lời - Khi đứng lên, tôi đã có sẵn một mưu mẹo: Làm cho ông già Cunningham viết ra hai chữ “giờ” và “phút” để có thể so sánh nó với hai chữ giờ, phút viết trên mẩu giấy.
- Ồ, tôi đã ngu xuẩn làm sao! - tôi bất giác kêu lên khi nghĩ lại.
- Lúc đó, - Holmes cười nói - tôi lấy làm tiếc đã gây cho anh một nỗi buồn nho nhỏ. Khi lên lầu, tôi vào trong phòng, thấy cái áo ngủ treo ở đằng sau cánh cửa. Tôi vội xô đổ cái bàn để chuyển hướng sự chú ý của họ trong chốc lát, và vội vã đi khám xét các túi áo. Tôi vừa mới tìm ra được tờ giấy thì hai cha con họ nhào tới. Tôi thật sự tin rằng họ chủ tâm giết tôi, nếu các bạn không tới kịp:
Thằng con thì siết cổ, còn người cha vặn tay tôi để tôi phải buông tờ giấy ra.
“Sau đó, tôi đã nói chuyện với ông Cunningham để làm sáng tỏ động cơ gây tội ác. Ông cụ tỏ ra biết điều, trong khi Alec vẫn hung hăng như quỷ dữ. Cụ Cunningham thú nhận rằng William đã bí mật theo dõi hai cha con ông trong cái đêm họ đột nhập nhà cụ Acton. William đe dọa và đòi tiền họ. Nhưng Alec không thuộc dạng người dễ khuất phục. Thế là William bị gài bẫy và bị giết. Nếu cha con nhà Cunningham thu hồi được nguyên vẹn lá thư (trong đó họ hẹn giờ gặp nhau), và nếu họ không sơ suất một vài chi tiết nhỏ, thì chẳng bao giờ họ bị nghi ngờ cả.”
- Thế còn cái thư “lừng lẫy” đó ở đâu? - Tôi hỏi.
Sherlock Holmes đặt nó trước mặt chúng tôi. Khi ráp hai mảnh giấy lại, chúng tôi đọc được nội dung của nó như sau: “Nếu anh tới vào lúc 12 giờ kém 15 phút, ở cửa sau, anh sẽ được biết một điều làm anh vô cùng ngạc nhiên. Và nó sẽ rất hữu ích cho anh cũng như cho cả Annie. Nhưng chớ có tiết lộ với bất cứ người nào…”.
- Anh Watson, có điều là chúng ta chưa biết các mối quan hệ giữa Alec, William, và Annie như thế nào. Nhưng rõ ràng, kỳ nghỉ ngắn ngày của tôi và anh ở đây đã rất thành công. Ngày mai tôi sẽ trở về nhà hoàn toàn khỏe khoắn…
- Tôi vừa mới qua một trận ốm nặng và vẫn còn phải chịu đựng những cơn đau đầu đột ngột như vậy.
- Ông có muốn về nhà bằng cỗ xe độc mã của tôi không? - Cụ Cunningham đề nghị.
- Tôi còn phải ở đây để xác minh rằng không biết William đã tới trước hay là chỉ tới sau khi tên trộm lọt vào nhà. Các vị đã nói rằng tuy cánh cửa bị cạy phá, nhưng kẻ trộm chưa lọt vào bên trong.
- Điều đó là hiển nhiên rồi. - Cụ Cunningham trả lời một cách nghiêm trang - Xem nào, Alec vẫn còn chưa lên giường, chắc chắn là cháu nó đã nghe thấy tiếng động.
- Cậu ấy ngồi ở đâu?
- Trong phòng đọc sách của tôi, đang hút thuốc và nhìn qua cửa sổ. - Ông cụ trả lời.
- Cửa sổ nào? - Holmes hỏi tiếp.
- Cửa sổ cuối cùng bên trái, kế bên cửa sổ phòng cha tôi. - Alec đáp.
- Đèn nơi phòng anh và phòng ông cụ vẫn còn thắp sáng cả chứ?
- Tất nhiên.
- Rõ ràng là có vài điểm kỳ lạ trong vụ này. - Holmes cười nói - Một tên trộm vào nhà giữa lúc đèn vẫn đang sáng, và có hai người trong gia đình vẫn còn thức - y phải cực kỳ bình tĩnh.
- Nếu vụ án này mà không kỳ lạ thì chúng tôi nhờ ông làm gì! - Alec khó chịu nói - Kẻ trộm đã không lấy đồ trước khi bị William bắt gặp. Bằng cớ là chúng tôi đâu có mất gì, mà hiện trường cũng không bị xáo trộn bừa bãi như những vụ trộm cắp thông thường.
- Cái đó còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của những món đồ. - Holmes trả lời - Chúng ta đang đối phó với một tên trộm kỳ lạ và hành động theo cách đặc biệt, chẳng hạn như những đồ bị mất ở nhà cụ Acton chỉ là một cuộn dây mành, một cái phong vũ biểu…
- Chúng tôi phó thác hoàn toàn cho ông, thưa ông Holmes. - Cụ Cunningham nói tỏ vẻ thân thiện.
- Trước hết, tôi muốn cụ treo một giải thưởng. Tôi đã soạn sẵn mẫu, cụ có ưng không? Năm chục bảng là đủ.
- Tôi sẵn lòng thưởng năm trăm. - Ông quan tòa hòa giải nói, sau khi cầm lấy tờ giấy mà Holmes đưa cho - Nhưng viết thế này chưa được đúng.
- Tôi viết khá vội…
- Xem đây! Sao ông lại bắt đầu như vậy: “Xét thấy, vào hồi 1 giờ kém 15 phút, một mưu toan…” Phải là 12 giờ kém 15 phút.
Sự nhầm lẫn khiến tôi rất buồn. Holmes nổi tiếng là chính xác khi làm việc. Nhưng, cơn bệnh đã làm anh có vẻ đãng trí. Trong một lúc, anh thật sự bị bối rối. Viên thanh tra nhướn mày. Alec thì phá ra cười. Ông già sửa chỗ viết sai rồi trả lại tờ giấy cho Holmes, và còn khen:
- Ông hãy cho đăng càng sớm càng tốt! Ý kiến của ông thật tuyệt vời.
Holmes cẩn thận đặt tờ giấy vào trong bóp, rồi đề nghị:
- Ta cùng đi kiểm tra khắp nhà, để xem tên trộm kỳ quặc kia đã lấy đi món đồ nào.
Trước đó, Holmes đã quan sát kỹ cánh cửa bị cạy phá. Một con dao cứng hoặc một cây kéo cắm sâu vào ổ khóa làm nó bị tung ra. Những dấu vết hằn trên gỗ hãy còn rất rõ.
- Như vậy là cụ không cần cho đặt then cài cửa. - Holmes ngạc nhiên nói.
- Chúng tôi thấy không cần phải làm như vậy.
- Cụ có nuôi chó không?
- Có, chó buộc ở phía bên kia nhà.
- Các gia nhân đi ngủ vào lúc nào?
- Khoảng 10 giờ.
- Và thường thì William đi ngủ vào giờ này, phải không? Nhưng thật kỳ lạ! Vào đúng đêm đó, anh ta lại thức khuya hơn thường lệ. Bây giờ, mong cụ cho phép chúng tôi vào thăm qua nhà cụ.
Một hành lang lát đá đưa tới một cầu thang gỗ dẫn thẳng lên lầu một của ngôi nhà. Trên bậc thềm dẫn lên cầu thang thứ hai đi đến tiền sảnh, chúng tôi trông thấy ở đó có cửa phòng khách cũng như nhiều phòng khác, trong số đó có phòng cụ Cunningham và phòng Alec. Holmes bước chậm rãi, quan sát kỹ càng. Cứ theo vẻ mặt anh, tôi biết anh đang theo đuổi một hướng điều tra.
- Ông bạn hảo tâm của tôi ơi! - Cụ Cunningham kêu lên, vẻ thiếu kiên nhẫn - Điều này không cần thiết đâu. Phòng của tôi ở cuối cầu thang, và phòng con trai tôi kế bên. Nếu kẻ trộm lên đây thì cha con tôi đã nghe thấy tiếng động hắn gây ra rồi.
- Ông hãy điều tra theo hướng khác đi thôi. - Alec nói với một nụ cười hoài nghi.
- Xin quý vị lượng thứ cho cái ý thích thất thường của tôi. Chẳng hạn như tôi muốn biết, tầm nhìn từ những cửa sổ trông xa tới đâu. Phòng của anh Alec đây à? - Holmes hỏi khi đẩy cánh cửa ra - Và đây là căn phòng mà anh đang ngồi hút thuốc thì có tiếng báo động? Cánh cửa sổ mở ra đâu đây?
Anh băng ngang phòng, mở một cánh cửa và liếc nhìn sang căn phòng sát bên.
- Giờ ông đã được thỏa mãn rồi chứ? - Cụ Cunningham hỏi với vẻ hóm hỉnh.
- Xin cám ơn! Tôi đã thấy được tất cả những gì muốn biết.
- Nếu thật sự cần thiết, chúng ta có thể vào trong phòng tôi.
- Ồ, nếu cụ không thấy phiền…
Ông cụ nhún vai, dẫn chúng tôi vào trong phòng riêng đầy đủ tiện nghi. Trong lúc chúng tôi đi ngang qua phòng, hướng tới phía cửa sổ, thì Holmes bước chậm lại để sánh cùng tôi đi cuối toán. Cuối giường có kê một cái bàn vuông nhỏ, trên đặt một bình nước và giỏ cam. Khi đi ngang qua đó, Holmes cúi xuống và hất đổ cái bàn. Bình nước vỡ tan, trái cây văng ra khắp phòng.
- Đồ quỷ, Watson! - Anh kêu lên một cách lạnh lùng - Thế là anh đã xử tệ với tấm thảm rồi!
Vô cùng bối rối, tôi cúi xuống và bắt đầu lượm những trái cây vung vãi. Hẳn là vì một nguyên cớ nào đó nên Holmes mới buộc tôi phải cáng đáng trách nhiệm về sự vụng về cố ý này. Những người khác cũng lượm trái cam và dựng cái bàn trở lại.
- Coi kìa! - Viên thanh tra kêu lên - Ông ấy đi đâu vậy?
Quả thật, lợi dụng lúc chúng tôi không để ý, Holmes đã biến đi đâu mất dạng.
- Quý ông hãy đợi tôi ở đây! - Alec nói - Cái ông này coi chừng thần kinh có vấn đề. Mau theo con đi ba!
Cả hai chạy vội ra khỏi phòng. Còn ba chúng tôi cứ đứng đó, sững sờ nhìn nhau.
- Khỉ thật. Tôi bắt đầu tin rằng cậu Alec có lý. - Viên thanh tra lầm bầm - Có thể đây là di chứng do căn bệnh của ông ấy. Nhưng dù sao thì cũng…
Bỗng ông ta ngẩng mặt lên. Một tiếng kêu, mà gần như là một tiếng hét, vang lên:
- Cứu tôi với! Sát nhân !
Tôi phóng như điên ra cầu thang, bởi tôi đã nhận ra giọng Holmes. Nhưng tiếng kêu cứu đã trở thành âm thanh rên rỉ lào thào, không thành tiếng. Nó vọng ra từ căn phòng mà chúng tôi đã vào thăm đầu tiên. Tôi lao vào trong, rồi chạy ngay vào phòng bên. Hai cha con Cunningham đều đang cúi sát trên cơ thể lả đi của Holmes. Gã con trai dùng tay tay siết chặt cổ họng Holmes; ông bố thì vặn cổ tay anh. Trong chớp mắt, chúng tôi đã lôi được hai cha con họ ra. Holmes lảo đảo đứng lên, mặt tái mét:
- Hãy bắt giữ hai người này, ông thanh tra! - Anh vừa nói vừa thở hổn hển, mặt mày biến sắc, sắp lả đi.
- Về tội gì?
- Tội giết hại người đánh xe của họ.
- Khoan! Hãy khoan, ông Holmes! Ý ông chắc không phải là… - Viên thanh tra vẫn như chưa hiểu những gì đã xảy ra.
- Không à? Ông hãy nhìn họ mà xem! - Holmes gào lên.
Ông già Cunningham đờ người ra, tưởng chừng như hóa đá, khuôn mặt nhăn nhúm, in hằn nét tàn nhẫn sâu xa. Người con trai đã hết thói ba hoa, nhạo báng; trong cặp mắt của gã lóe lên sự hung dữ của một con thú hoang đầy nguy hiểm. Viên thanh tra đi ra cửa và tuýt còi. Hai cảnh sát tới ngay.
- Thưa cụ Cunningham! - Viên thanh tra nói - Tôi hy vọng rằng câu chuyện sẽ chấm dứt bằng việc chứng minh về sự vô tội của cụ. Nhưng cụ cũng có thể thấy rằng… A, anh muốn vậy sao? Hãy buông ngay cái đó ra coi!
Ông ta vung tay về phía trước, khẩu súng lục đang lên nòng trong tay gã Alec rớt xuống sàn nhà.
- Giữ lấy tang vật này! - Holmes nói và lấy chân chặn lên khẩu súng - Nó sẽ có ích trong phiên tòa. Nhưng đây mới là cái mà chúng ta cần có hơn hết!
Anh giơ cao một mảnh giấy nhỏ đã bị vò nát.
- Phần bị thiếu của lá thư! - Viên thanh tra reo to - Ông tìm thấy nó ở đâu vậy?
- Ở chỗ mà tôi tin chắc là sẽ tìm ra. Tôi sẽ giải thích sau. Thưa đại tá, ông và Watson có thể trở về nhà. Tôi cũng sẽ trở về trong quãng một giờ nữa. Ông thanh tra và tôi còn phải trao đổi với các phạm nhân.
Sherlock Holmes đã giữ lời. Khoảng một giờ sau, anh bước vào phòng của ông đại tá. Anh đi cùng với một ông lão mà anh giới thiệu là cụ Acton. Holmes tươi cười, nói:
- Thưa quý vị, ngay từ đầu tôi đã thấy chìa khóa của vấn đề là mẩu giấy trong tay nạn nhân. Nếu câu chuyện kể của Alec là thật và nếu kẻ trộm bỏ trốn ngay tức khắc, thì hắn đã không giựt và làm rách tờ giấy. Nếu không phải vậy thì thủ phạm chính là Alec, bởi vì trước khi ông già xuống, nhiều gia nhân khác hẳn đã chạy tới. Đó là một chi tiết đơn giản, nhưng ông thanh tra đã bỏ qua. Bởi ông ấy khá đơn giản, cho rằng những vị chức trọng quyền cao trong địa hạt chẳng liên can gì tới vụ án. Thế là tôi nghiên cứu thật kỹ cái mẩu giấy. Nó đây này. Nó có gợi ra cho các vị điều gì không?
- Nét chữ không đều. - Ông đại tá nhận xét.
- Ồ, ông bạn thân mến ơi! - Holmes kêu lên - Nó là do hai người viết. Nhìn các gạch ngang khá rõ trên chữ “t” trong những từ “một” và “rất” rồi nét ngang khá mảnh trên chữ “t” trong từ “phút”, thì quý vị sẽ biết rằng mảnh giấy này do hai người viết. Phân tích nhanh sẽ thấy, những từ “sẽ được” và “một” do một bàn tay rắn rỏi viết, trong khi từ “hữu ích” lại do một bàn tay yếu ớt hơn.
- Rõ như ban ngày! - Ông đại tá reo lên - Tại sao lại phải quái gở vậy, khi cần đến hai người để viết một lá thư?
- Đây là một âm mưu bỉ ổi. Một trong hai người tính rất đa nghi, đã quyết định mỗi người viết một phần bằng nhau. Nhưng trong hai người, cái kẻ viết những chữ “một” và chữ “rất” là kẻ chủ mưu gây ra vụ này.
- Điều gì dẫn ông đi tới kết luận đó?
- Tôi so sánh đặc tính của hai dạng chữ viết. Quý vị hãy quan sát thật cẩn thận mẩu giấy này: Người có bàn tay rắn rỏi đã viết trước, và chừa lại những khoảng trống để người kia điền vào. Nhưng những khoảng trống đó không phải lúc nào cũng đủ chỗ cho kẻ viết sau. Người có bàn tay yếu hơn đã gặp khó khăn, chẳng hạn như khi viết chữ “biết” vào giữa hai chữ “một” và “được”. “Một” và “được” rõ ràng là những chữ đã được viết từ trước. Vậy người được phép viết trước là kẻ chủ mưu.
- Tuyệt vời! - Cụ Acton thốt lên.
- Hẳn quý vị đã biết rằng, thông thường, người ta có thể xem xét nét bút mà đoán ra tuổi của một người, với độ sai lệch chừng mười năm. Tôi nói thông thường. Bởi vì có những trường hợp do bệnh tật hoặc cơ thể suy yếu thì kết quả sẽ khác đi. Nhưng trong vụ này, khi quan sát dạng chữ rắn rỏi của một người (dấu gạch ngang trên các chữ “t” rất rõ) và dạng chữ ngập ngừng của người kia (những chữ “t” gần như mất hẳn nét gạch ngang) chúng ta có thể xác định rằng, trong hai người này, một người còn trẻ và một người tuổi đã cao, tuy hãy còn tráng kiện.
- Tuyệt quá! - Cụ Acton reo lên một lần nữa, không ngừng gật đầu tán thưởng.
- Tuy nhiên, giữa hai dạng chữ này cũng có những điểm giống nhau. Thường thì những sự giống nhau đó xuất phát từ hai người có chung huyết thống. Điều đó biểu hiện rất rõ trong chữ “e” Hy Lạp mà cả hai viết giống nhau. Những nét giống nhau khác, tuy không phải hoàn toàn, cũng cho thấy về điểm đó. Tôi tuyệt đối tin chắc hai dạng chữ viết này phải là của hai người thân trong nhà. Thế nên tôi vững tin rằng cha con ông Cunningham là tác giả của bức thư.
“Tôi đi tới nhà đó cùng với ông thanh tra. Tôi thấy rõ, vết thương trên thi thể người chết là do một phát súng lục bắn cách xa hơn 4m gây ra. Trên quần áo nạn nhân không có những dấu vết ám đen do thuốc súng. Vậy Alec đã nói dối khi khai rằng, hai người đang đánh lộn thì súng nổ. Mặt khác, hai cha con đều thống nhất về cái nơi mà “hung thủ” đã bỏ chạy ra đường. Ở chỗ đó có một cái hố ngập bùn, nhưng không hề có dấu chân: nghĩa là, chẳng có một kẻ xa lạ nào can dự vào vụ án! Tôi lại còn phải khám phá động cơ của tội ác kỳ cục này. Với mục đích đó, trước hết tôi phải tìm hiểu vụ trộm xảy ra nơi nhà cụ Acton. Ông đại tá đã nói rằng một vụ kiện tụng đã làm cho cụ Acton với cha con Cunningham kình địch nhau. Ngay lập tức, tôi đoán là họ đã xông vào phòng sách nhà cụ với ý định lấy trộm một tài liệu quan trọng, cái đó có thể giúp họ chiếm phần thắng tại phiên tòa.”
- Tuyệt vời! - Cụ Acton lại kêu lên y như hai lần trước - Ý đồ của bọn họ đã rõ. Tôi có đủ giấy tờ để được chia một nửa cơ nghiệp của nhà đó. Nếu họ mà cướp được những giấy tờ ấy thì chúng tôi nguy to.
- Chúng ta tới đích rồi đấy! - Holmes cười nói - Đó là một mưu toan khá liều lĩnh, do Alec đề xướng. Lục soát khắp nơi mà không tìm ra được gì, họ đã làm như những tên trộm tầm thường, nhằm đánh lạc hướng cảnh sát. Chính vì thế họ đã quơ lấy bất cứ cái gì họ thấy. Tất cả mọi chuyện đã khá sáng tỏ. Nhưng tôi còn muốn thu hồi lại phần còn thiếu của bức thư. Tôi tin chắc rằng Alec đã nhét nó vào trong túi áo ngủ. Với lại, anh ta còn có thể để nó vào đâu được chứ? Vấn đề chỉ là tìm hiểu xem nó có còn ở đó không. Vì thế tất cả chúng ta đều vào trong nhà.
“Cha con Cunningham gặp chúng tôi ở bên ngoài, gần cửa nhà bếp. Cần phải tuyệt đối không làm cho họ nhớ lại sự hiện hữu của tờ giấy đó. Nếu không, họ sẽ hủy nó đi ngay tức khắc. Khi viên thanh tra sắp ám chỉ đến tờ giấy lúc giải thích với họ về tầm quan trọng của nó, lúc đó “tình cờ” tôi bị… mệt, và đề tài của câu chuyện được thay đổi.” - Trời đất thánh thần ơi! - Ông đại tá cười vang.
- Diễn khéo tuyệt vời! - Tôi thốt lên và nhìn Holmes với lòng khâm phục.
- Có những trò hề cũng hữu ích. - Holmes trả lời - Khi đứng lên, tôi đã có sẵn một mưu mẹo: Làm cho ông già Cunningham viết ra hai chữ “giờ” và “phút” để có thể so sánh nó với hai chữ giờ, phút viết trên mẩu giấy.
- Ồ, tôi đã ngu xuẩn làm sao! - tôi bất giác kêu lên khi nghĩ lại.
- Lúc đó, - Holmes cười nói - tôi lấy làm tiếc đã gây cho anh một nỗi buồn nho nhỏ. Khi lên lầu, tôi vào trong phòng, thấy cái áo ngủ treo ở đằng sau cánh cửa. Tôi vội xô đổ cái bàn để chuyển hướng sự chú ý của họ trong chốc lát, và vội vã đi khám xét các túi áo. Tôi vừa mới tìm ra được tờ giấy thì hai cha con họ nhào tới. Tôi thật sự tin rằng họ chủ tâm giết tôi, nếu các bạn không tới kịp:
Thằng con thì siết cổ, còn người cha vặn tay tôi để tôi phải buông tờ giấy ra.
“Sau đó, tôi đã nói chuyện với ông Cunningham để làm sáng tỏ động cơ gây tội ác. Ông cụ tỏ ra biết điều, trong khi Alec vẫn hung hăng như quỷ dữ. Cụ Cunningham thú nhận rằng William đã bí mật theo dõi hai cha con ông trong cái đêm họ đột nhập nhà cụ Acton. William đe dọa và đòi tiền họ. Nhưng Alec không thuộc dạng người dễ khuất phục. Thế là William bị gài bẫy và bị giết. Nếu cha con nhà Cunningham thu hồi được nguyên vẹn lá thư (trong đó họ hẹn giờ gặp nhau), và nếu họ không sơ suất một vài chi tiết nhỏ, thì chẳng bao giờ họ bị nghi ngờ cả.”
- Thế còn cái thư “lừng lẫy” đó ở đâu? - Tôi hỏi.
Sherlock Holmes đặt nó trước mặt chúng tôi. Khi ráp hai mảnh giấy lại, chúng tôi đọc được nội dung của nó như sau: “Nếu anh tới vào lúc 12 giờ kém 15 phút, ở cửa sau, anh sẽ được biết một điều làm anh vô cùng ngạc nhiên. Và nó sẽ rất hữu ích cho anh cũng như cho cả Annie. Nhưng chớ có tiết lộ với bất cứ người nào…”.
- Anh Watson, có điều là chúng ta chưa biết các mối quan hệ giữa Alec, William, và Annie như thế nào. Nhưng rõ ràng, kỳ nghỉ ngắn ngày của tôi và anh ở đây đã rất thành công. Ngày mai tôi sẽ trở về nhà hoàn toàn khỏe khoắn…
Bình luận facebook