Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 164
Buổi chiều ngày hôm đó, quân Sở cùng với người Lâu Phiền đã tiến hành một cuộc trao đổi mà từ trước đến giờ chưa từng có trong lịch sử.
Tổng cộng quân Sở đã phải bỏ ra hai mươi ngàn thanh kiếm hai lưỡi, để đổi lấy từ tay của người Lâu Phiền mười ngàn con ngựa thân cao qua sáu thước.
Lại tiếp tục lấy năm trăm bộ lân giáp để đối lấy từ tay của người Lâu Phiền năm trăm con ngựa tốt với sức khoẻ tuyệt vời và thân cao hơn bảy thước.
Sau khi trao đổi xong, hai bên có vẻ căng thẳng liền khẩn trương trở về đại doanh của mình.
Quá rõ ràng, quân Sở và người Lâu Phiền đều lo lắng đối phương sẽ giở trò lật lọng, đột nhiên phát động cuộc tập kích bất ngờ.
Nói đến cùng, Quân Sở và người Lâu Phiền vẫn còn nằm trong quan hệ thù địch. Nhưng hai bên nhìn nhau với ánh mắt căm thù như vậy, mà lại có thể tiến hành cuộc giao dịch với qui mô lớn, cũng có thể xem là kì tích rồi.
Điều này đương nhiên có liên quan đến việc quân Sở nóng lòng muốn có được bầy ngựa, nhưng người Lâu Phiền há chẳng phải cũng nóng lòng muốn có được loại binh khí chế tạo từ sắt hay sao?
Mười ngàn con ngựa khỏe của người Lâu Phiền đã bị lùa vào trong đại doanh, các tướng sĩ quân Sở cũng lũ lượt vây lấy xem trò náo nhiệt .
Hạng Trang cưỡi ngựa Ô Truy, đang tuần tra xem xét lũ ngựa với sự vây quanh bảo vệ của các vị tướng quân Hoàn Sở, Quý Bố, Cao Sơ, Bàng Ngọc.
Đột nhiên được nhìn thấy nhiều con đồng loại với mình như vậy, ngựa Ô Truy coi bộ có chút thích thú, thoắt chốc lại cứ ngẩng cao đầu hí một tiếng, bồi theo tiếng hí vang dội của ngựa Ô Truy, đàn ngựa lại nhao nhao nhỏ giọng hí theo. Nhìn cảnh tượng này, giống như ngàn vạn thần dân đang ở hưởng ứng cho vua của chúng, trong lúc này, không nghi ngờ gì khí phách của ngựa Ô Truy giống y như ngựa đầu đàn.
Hạng Trang cũng có chút hưng phấn, kho vũ khí dọn đến từ Lạc Dương, Hàm Dương đã trống trơn. Nhưng cuộc trao đổi này tuyệt đối siêu lời.
Có được mười ngàn con ngựa của người Lưu Phiền, cộng thêm cướp được hơn sáu ngàn con ngựa từ tay người Bạch Dương, nhiêu đó cũng đủ để quân Sở tổ chức xây dựng một đội kỵ binh khổng lồ rồi.
Nghĩ đến cảnh tượng hơn chục ngàn kỵ binh đang tung hoành ngang dọc, Hạng Trang liền có chút sôi sục nóng lòng.
Kỵ binh, đây là loại binh lính mạnh nhất trong thời đại binh khí lạnh này, nó tồn tại gần như là vô địch!
Dẫn theo một đội Kỵ binh khổng lồ như vậy quay về Trung Nguyên, còn có ai dám làm khó dễ Hạng Trang nữa?
Lương quân Bành Việt đích thực tinh nhuệ khó đỡ, nhưng ta không giao đấu trực tiếp với ngươi, ngươi có thể làm gì được ta?
Ta chỉ cần trưng ra chiến thuật bầy sói của kỵ binh, chính là dùng kỵ binh bắn tên liên tục làm cho ngươi suy sụp và kiệt sức đến chết!
Đôi chân của con người còn có thể chạy lại bốn chân của con ngựa sao?
Chuyện vớ vẩn!
Hà Tín túc trí đa mưu, quỷ kế đa đoan, thế thì đã làm sao?
Ông đây sẽ không giằng co quá nhiều với ngươi, chỉ cần vượt qua Hà Thủy, thì đánh ngựa đi thẳng xuống phía Nam, trực tiếp tiến đến Ô Giang, đại quân của Tề Quốc còn có thể đuổi theo đến Giang Đông được sao?
Huống chi, chưa hẳn đã phải đánh nhau với quân Lương và quân Tề.
Thế cục thiên hạ hiện nay, đã không còn giống như tình hình lúc vừa kết thúc cuộc chiến ở Cai Hạ nữa. Hiện tại Lưu Bang chính là vua của Quan Trung, đối với các đường chư hầu như Bành Việt, Hà Tín, Anh Bố có thể còn lại bao nhiêu sức khống chế đối với họ chứ?
Nói cho cùng, Hàn Tín, Bành Việt còn có Quý Bố cũng chỉ là anh em của Lưu Bang, chứ nào phải là thân thuộc tâm phúc của ông ta.
Cho nên, có được một đội quân kỵ binh hùng hậu, về lại Giang Đông gần như là một con đường bằng phẳng rồi.
Hạng Trang cũng lưỡng lự cân nhắc không biết là chiếm khu Sơn Tây hay là Hà Bắc để làm căn cứ cho quân Sở đây. Nhưng điều này không thực tế, đầu tiên, quân nồng cốt dưới trướng của Hạng Trang vẫn là người Sở, một khi Hạng Trang ra quyết định không điều quân trở về Giang Đông, đám người Sở này rất có khả năng sẽ tạo phản.
Thứ hai, vị trí của Sơn Tây hay Hà Bắc cũng không tốt cho lắm, bị kẹp giữa Mạo Đốn, Lưu Bang, Bành Việt và Hàn Tín, không dễ chơi đâu?
Về phía Trung Nguyên, hiện giờ mười nhà đã có chín nhà để trống, dân số giảm mạnh, trong vòng hai mươi năm chỉ sợ không thể nào khôi phục sức sống như xưa.
Dân số nước Yến rất thưa thớt, bán đảo Triều Tiên có Bạch Sơn Hắc Thủy càng là nơi hoang dã cằn cõi hơn, đi đến đó sống thì chỉ có thể làm hoang dã mà thôi.
Ở Quan Trung tám trăm dặm Tần Xuyên, đây là căn cứ lý tưởng nhất của vương bá, Hạng Trang cũng muốn chiếm cứ Quan Trung, nhưng quân Sở hiện giờ căn bản là không thể đọ sức với Lưu Bang được.
Cho nên, quân Sở vẫn phải trở về Giang Đông.
Trước tiên, bởi vì Trung Nguyên chiến tranh liên tục mấy năm liền, phần lớn người dân đều chạy nạn tới Giang Đông. Số dân quận Chương. Quận Hội Kê của Giang Đông đã sớm vượt xa số dân thời cuối Tần. Hiện tại ít nhất cũng phải vượt qua hai triệu người rồi! Một khi quân Sở điều quân trở về Giang Đông, lòng dân không là vấn đề, trai tráng cũng không là vấn đề, cho nên nguồn binh lính cho quân Sở cũng càng không thành vấn đề.
Thứ hai, ở Giang Đông từ trước đến giờ vẫn luôn có quân Sở kiên trì chống đỡ suốt.
Cuối cùng, điều kiện chiến lược của Giang Đông cũng không tồi, không cần đối mặt trực tiếp với Lưu Bang, Hàn Tín cùng Bành Việt.
Lúc này Hạng Trang vẫn còn chưa biết Giang Đông đã bất ngờ thay đổi, sau khi Hạng Đà mang theo ba nghìn tàn binh từ quận Tiết trở về Giang Đông, nhanh chóng có được sự ủng hộ to lớn của các thế tộc Giang Đông, Hạng Quan lui về chấn giữ Tiền Đường cũng nhân cơ hội này phản công. Quân Hán ở lại canh giữ quận Chương, quận Hội Kê liền liên tiếp ăn phải trái đắng thua cuộc, mắt thấy đã sắp chống đỡ không xong rồi.
Tuy nhiên đối với Hạng Trang mà nói, nếu muốn đem hai mươi ngàn bộ binh huấn luyện thành kỵ binh, tuyệt đối là không dễ dàng.
Sau khi cấp cho chiến mã yên ngựa cao kiều cùng với bàn đạp, việc cưỡi ngựa không còn là chuyện khó khăn nữa. Nhưng mà, nếu muốn nắm vững kỹ thuật cỡi ngựa hơn nữa, có thể thực hiện được các động tác chém giết trên lưng ngựa, tất nhiên như vậy thì không dễ dàng chút nào. Mà nếu muốn giương cung bắn tên trên lưng con ngựa đang chạy với tốc độ nhanh, thế thì càng khó hơn.
Tuy nhiên khó nhất vẫn là người và ngựa hợp nhất, cũng chính là thông qua thời gian dài chiến đấu và tập luyện khiến cho kỵ binh và chiến mã quen với mùi vị, tính tình và cả một số thói quen của nhau. Một khi đạt tới mức độ này, kỵ binh chỉ cần một tiếng huýt sáo, hoặc chỉ cần dùng đôi chân nhẹ nhàng chạm vào bụng ngựa, chiến mã có thể nhanh chóng phản xạ một cách chính xác.
Một khi huấn luyện tới trình độ này, thế thì tên kỵ binh đó có thể được coi là tinh nhuệ rồi.
Kỵ binh tinh nhuệ và kỵ binh thông thường là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Kỵ binh thông thường khi xung phong căn bản là như ong vỡ tổ chỉ biết xông thẳng lên phía trước, không hề có chiến thuật gì đáng nói. Còn kỵ binh tinh nhuệ thì vừa có thể xông pha lên với tốc độ cao, đồng thời vừa duy trì được đội hình một cách chặt chẽ. Thí dụ khoảng cách bên trái và bên phải giữa hai chiến mã, khoảng cách giữa hàng trước và hàng sau, đều có thể duy trì rất tốt.
Lúc hoàn thành đợt tấn công đầu tiên, kỵ binh tinh nhuệ có thể nhanh chóng quay đầu lại, một lần nữa gia nhập vào hàng ngũ, chuẩn bị cho đợt tấn công thứ hai.
Mà tốc độ phản ứng của các kỵ binh thông thường lại chậm hơn nhiều, thậm chí sau khi hoàn thành đợt tấn công đầu tiên, rất có thể không tổ chức được đợt tấn công lần thứ hai.
Trên phương diện này, người Hồ có được ưu thế tuyệt vời, bởi vì bọn họ từ nhỏ đã sống trên lưng ngựa, ngày ngày bầu bạn với chiến mã, đã sớm dung hòa làm một. Còn kỵ binh Trung Nguyên thì cần phải trải qua cuộc huấn luyện gian khổ và dài đăng đẳng thì mới được, cho nên người Hồ chỉ cần tuỳ tiện bóc ra một gã trai tráng nào đó cũng gọi là kỵ binh xuất sắc rồi, còn người Trung Nguyên thì không thể.
Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, kỵ binh của Trung Nguyên một khi đã huấn luyện thành kỵ binh quân đội, vậy thì sẽ lợi hại hơn kỵ binh người Hồ nhiều!
Thí dụ như kỵ binh Đại Tần ở Cửu Nguyên, tuy rằng chỉ có năm nghìn kỵ binh, nhưng dựa vào việc được trang bị tốt, kỷ luật nghiêm khắc, bố cục đội hình đa dạng cùng với chiến thuật chiến lược phong phú, cùng một số lượng như vậy nhưng sức chiến đấu của họ lại vượt xa so với kỵ binh của người Hồ.
Mười kỵ binh Đại Tần cùng mười kỵ binh người Hồ đối đầu chém nhau, tỉ lệ thắng thua là năm mươi năm mươi. Nhưng nếu như là một trăm kỵ binh Đại Tần đấu với một trăm kỵ binh người Hồ, thì một trăm kỵ binh người Hồ thua là điều chắc chắn. Hơn nữa theo số lượng gia tăng quân số của kỵ binh Đại Tần, ưu thế của họ càng lúc càng rõ ràng hơn, năm nghìn kỵ binh Đại Tần chí ít có thể đối đầu với hai mươi ngàn kỵ binh người Hồ!
Đương nhiên, nếu muốn đem toàn bộ hai mươi ngàn quân Sở huấn luyện thành kỵ binh tinh nhuệ, vậy thì tuyệt đối là điều không có thể.
Thông qua ba đến bốn tháng tập luyện gian khổ, hai mươi ngàn quân Sở có thể nắm được kỹ năng cơ bản nhất khi cưỡi ngựa, có thể bắn tên khi ngựa đang chạy, có thể thực hiện các động chém giết khi tấn công, vậy đã là hết sức rồi.
Còn về phần người ngựa hợp nhất, trong lúc tấn công có thể dàng trận và thay đổi đội hình , tấn công xong quay về tập kết tiến hành tấn công đợt hai,…những điều đó nghĩ cũng đừng nghĩ tới.
Tuần tra xong cả đàn ngựa, Hạng Trang lại gọi Cao Sơ, Bàng Ngọc, Điền Hoành, Tiêu Khai đến trước mặt.
Lúc này hai mươi ngàn quân Sở chia làm 4 đội: thân quân, trung quân, hữu quân, tả quân. Mỗi quân năm nghìn người, trong đó lấy thân quân của Cao Sơ làm đội quân tinh nhuệ, bởi vì trong năm nghìn thân quân có ba nghìn người là đã từng trải qua trăm trận chiến, đó là những lão binh quân Sở còn sống sót lại sau mỗi trận chiến. Hai nghìn quân còn lại đều là những quân lính tinh nhuệ dũng mãnh được tuyển chọn trong các quân các doanh.
Hạng Trang ra lệnh một tiếng, bốn tướng lĩnh Cao Sơ liền dẫn theo thuộc hạ của mình bắt đầu chia nhau chiến mã.
Thoắt chốc, cả cái đại doanh quân Sở lập tức hỗn loạn cả lên, rất nhiều tướng sĩ vì cướp đoạt cùng một con chiến mã, thậm chí động tay động chân đánh lẫn nhau. Đối với những chuyện vớ vẩn này, Hạng Trang sẽ không ngó ngàng tới, trên thực tế, Hạng Trang sẽ không lợi dụng quyền hạn của mình mà phân chia số chiến mã này, trái lại sẽ để cho các quân các doanh tự mình chọn lấy, việc này thật chất là có dụng ý bên trong.
Thậm chí ngay cả chuyện mỗi quân được bao nhiêu chiến mã, Hạng Trang cũng không nói rõ.
Hạng Trang làm như vậy, chính là muốn giữa làm cho các quân xung đột và mâu thuẫn với nhau, làm cho tướng sĩ các quân không phục, chủ tướng các tướng sĩ cũng soi mối tình hình của nhau. Có câu nói như thế nào ấy nhỉ? Có mâu thuẫn mới có cạnh tranh, chỉ khi các quân không phục, mới có thể triển khai cuộc huấn luyện cạnh tranh nhau điên cuồng, quân Sở mới có thể từ bộ binh mà trở thành kỵ binh trong thời gian ngắn nhất.
Trong khi quân Sở đang lo việc phân chia chiến mã, thì bộ lạc Lâu Phiền đã nhổ trại quay về Bắc Giả.
Mặc dù người Lâu Phiền và người Sở hoàn vừa thực hiện cuộc trao đổi lớn, nhưng quan hệ giữa hai bên cũng không vì vậy mà cải thiện.
Trên thực tế, hôm qua Công Thúc Thuyết đã phân tích rõ với người Lâu Phiền rồi. Người mai phục tấn công người Bạch Dương ở Dã Lang Hà Cốc khẳng định là người Sở, giữa đường cướp mất công chúa đa phần cũng là người Sở, chứ không phải người nhà Tần cũ.
Cho nên, sau khi giao dịch xong, vua Lâu Phiền liền lập tức hạ lệnh, quả nhiên đã nhổ trại về Bắc.
Cho dù đã có được hai mươi ngàn thanh gươm hai lưỡi bằng sắt vô cùng sắc bén, cho dù hai mươi ngàn thiết kỵ được trang bị kỹ lưỡng. Nhưng trong lòng vua Lâu Phiền đã hiểu rất rõ, trước khi quân Sở còn chưa rời khỏi Cửu Nguyên. Người Lâu Phiền chỉ sợ sẽ không làm được việc gì cả, vừa không thể dẫn binh đánh bộ lạc Lâm Hồ, lại càng không dám có ý nghĩ nào quá đáng với người nhà Tần cũ ở Cửu Nguyên.
Mặc dù quân Sở chỉ có hai mươi ngàn người, nhưng những trang bị trên người của họ không phải là giả đâu.
Nhất là khi hai bên đang tiến hành cuộc trao đổi ở thành Đông Cửu Nguyên, từng hàng dàng nỏ lớn đứng ẩn mình trong đám quân Sở, phía trước còn có hàng tướng sĩ quân Sở trong tay còn cầm cả quyết trương nỏ, khiến cho vua Lâu Phiền có chút lo lắng sợ sệt.
Lúc đó, nếu như kỵ binh Lâu Phiền tham gia trong cuộc giao dịch có động tĩnh gì, lập tức sẽ bị bắn giết tại chỗ !
Cho nên, vua Lâu Phiền quyết định vẫn là đưa đội giữ khoảng cách với người Sở xa một chút, đồng thời hy vọng quân Sở có thể sớm ngày rời khỏi Hà Sáo.
Đương nhiên, quân Sở cũng có thể ở lì tại Hà Sáo, nhưng dù cho có là như vậy chăng nữa, thế thì cũng đâu có chuyện gì, dựa vào thực lực hiện giờ của bộ lạc Lâu Phiền, cho dù là đầu quân cho Hung Nô, Thiền Vu Mạo Đốn cũng sẽ cho gã một vị trí xứng đáng.
Tổng cộng quân Sở đã phải bỏ ra hai mươi ngàn thanh kiếm hai lưỡi, để đổi lấy từ tay của người Lâu Phiền mười ngàn con ngựa thân cao qua sáu thước.
Lại tiếp tục lấy năm trăm bộ lân giáp để đối lấy từ tay của người Lâu Phiền năm trăm con ngựa tốt với sức khoẻ tuyệt vời và thân cao hơn bảy thước.
Sau khi trao đổi xong, hai bên có vẻ căng thẳng liền khẩn trương trở về đại doanh của mình.
Quá rõ ràng, quân Sở và người Lâu Phiền đều lo lắng đối phương sẽ giở trò lật lọng, đột nhiên phát động cuộc tập kích bất ngờ.
Nói đến cùng, Quân Sở và người Lâu Phiền vẫn còn nằm trong quan hệ thù địch. Nhưng hai bên nhìn nhau với ánh mắt căm thù như vậy, mà lại có thể tiến hành cuộc giao dịch với qui mô lớn, cũng có thể xem là kì tích rồi.
Điều này đương nhiên có liên quan đến việc quân Sở nóng lòng muốn có được bầy ngựa, nhưng người Lâu Phiền há chẳng phải cũng nóng lòng muốn có được loại binh khí chế tạo từ sắt hay sao?
Mười ngàn con ngựa khỏe của người Lâu Phiền đã bị lùa vào trong đại doanh, các tướng sĩ quân Sở cũng lũ lượt vây lấy xem trò náo nhiệt .
Hạng Trang cưỡi ngựa Ô Truy, đang tuần tra xem xét lũ ngựa với sự vây quanh bảo vệ của các vị tướng quân Hoàn Sở, Quý Bố, Cao Sơ, Bàng Ngọc.
Đột nhiên được nhìn thấy nhiều con đồng loại với mình như vậy, ngựa Ô Truy coi bộ có chút thích thú, thoắt chốc lại cứ ngẩng cao đầu hí một tiếng, bồi theo tiếng hí vang dội của ngựa Ô Truy, đàn ngựa lại nhao nhao nhỏ giọng hí theo. Nhìn cảnh tượng này, giống như ngàn vạn thần dân đang ở hưởng ứng cho vua của chúng, trong lúc này, không nghi ngờ gì khí phách của ngựa Ô Truy giống y như ngựa đầu đàn.
Hạng Trang cũng có chút hưng phấn, kho vũ khí dọn đến từ Lạc Dương, Hàm Dương đã trống trơn. Nhưng cuộc trao đổi này tuyệt đối siêu lời.
Có được mười ngàn con ngựa của người Lưu Phiền, cộng thêm cướp được hơn sáu ngàn con ngựa từ tay người Bạch Dương, nhiêu đó cũng đủ để quân Sở tổ chức xây dựng một đội kỵ binh khổng lồ rồi.
Nghĩ đến cảnh tượng hơn chục ngàn kỵ binh đang tung hoành ngang dọc, Hạng Trang liền có chút sôi sục nóng lòng.
Kỵ binh, đây là loại binh lính mạnh nhất trong thời đại binh khí lạnh này, nó tồn tại gần như là vô địch!
Dẫn theo một đội Kỵ binh khổng lồ như vậy quay về Trung Nguyên, còn có ai dám làm khó dễ Hạng Trang nữa?
Lương quân Bành Việt đích thực tinh nhuệ khó đỡ, nhưng ta không giao đấu trực tiếp với ngươi, ngươi có thể làm gì được ta?
Ta chỉ cần trưng ra chiến thuật bầy sói của kỵ binh, chính là dùng kỵ binh bắn tên liên tục làm cho ngươi suy sụp và kiệt sức đến chết!
Đôi chân của con người còn có thể chạy lại bốn chân của con ngựa sao?
Chuyện vớ vẩn!
Hà Tín túc trí đa mưu, quỷ kế đa đoan, thế thì đã làm sao?
Ông đây sẽ không giằng co quá nhiều với ngươi, chỉ cần vượt qua Hà Thủy, thì đánh ngựa đi thẳng xuống phía Nam, trực tiếp tiến đến Ô Giang, đại quân của Tề Quốc còn có thể đuổi theo đến Giang Đông được sao?
Huống chi, chưa hẳn đã phải đánh nhau với quân Lương và quân Tề.
Thế cục thiên hạ hiện nay, đã không còn giống như tình hình lúc vừa kết thúc cuộc chiến ở Cai Hạ nữa. Hiện tại Lưu Bang chính là vua của Quan Trung, đối với các đường chư hầu như Bành Việt, Hà Tín, Anh Bố có thể còn lại bao nhiêu sức khống chế đối với họ chứ?
Nói cho cùng, Hàn Tín, Bành Việt còn có Quý Bố cũng chỉ là anh em của Lưu Bang, chứ nào phải là thân thuộc tâm phúc của ông ta.
Cho nên, có được một đội quân kỵ binh hùng hậu, về lại Giang Đông gần như là một con đường bằng phẳng rồi.
Hạng Trang cũng lưỡng lự cân nhắc không biết là chiếm khu Sơn Tây hay là Hà Bắc để làm căn cứ cho quân Sở đây. Nhưng điều này không thực tế, đầu tiên, quân nồng cốt dưới trướng của Hạng Trang vẫn là người Sở, một khi Hạng Trang ra quyết định không điều quân trở về Giang Đông, đám người Sở này rất có khả năng sẽ tạo phản.
Thứ hai, vị trí của Sơn Tây hay Hà Bắc cũng không tốt cho lắm, bị kẹp giữa Mạo Đốn, Lưu Bang, Bành Việt và Hàn Tín, không dễ chơi đâu?
Về phía Trung Nguyên, hiện giờ mười nhà đã có chín nhà để trống, dân số giảm mạnh, trong vòng hai mươi năm chỉ sợ không thể nào khôi phục sức sống như xưa.
Dân số nước Yến rất thưa thớt, bán đảo Triều Tiên có Bạch Sơn Hắc Thủy càng là nơi hoang dã cằn cõi hơn, đi đến đó sống thì chỉ có thể làm hoang dã mà thôi.
Ở Quan Trung tám trăm dặm Tần Xuyên, đây là căn cứ lý tưởng nhất của vương bá, Hạng Trang cũng muốn chiếm cứ Quan Trung, nhưng quân Sở hiện giờ căn bản là không thể đọ sức với Lưu Bang được.
Cho nên, quân Sở vẫn phải trở về Giang Đông.
Trước tiên, bởi vì Trung Nguyên chiến tranh liên tục mấy năm liền, phần lớn người dân đều chạy nạn tới Giang Đông. Số dân quận Chương. Quận Hội Kê của Giang Đông đã sớm vượt xa số dân thời cuối Tần. Hiện tại ít nhất cũng phải vượt qua hai triệu người rồi! Một khi quân Sở điều quân trở về Giang Đông, lòng dân không là vấn đề, trai tráng cũng không là vấn đề, cho nên nguồn binh lính cho quân Sở cũng càng không thành vấn đề.
Thứ hai, ở Giang Đông từ trước đến giờ vẫn luôn có quân Sở kiên trì chống đỡ suốt.
Cuối cùng, điều kiện chiến lược của Giang Đông cũng không tồi, không cần đối mặt trực tiếp với Lưu Bang, Hàn Tín cùng Bành Việt.
Lúc này Hạng Trang vẫn còn chưa biết Giang Đông đã bất ngờ thay đổi, sau khi Hạng Đà mang theo ba nghìn tàn binh từ quận Tiết trở về Giang Đông, nhanh chóng có được sự ủng hộ to lớn của các thế tộc Giang Đông, Hạng Quan lui về chấn giữ Tiền Đường cũng nhân cơ hội này phản công. Quân Hán ở lại canh giữ quận Chương, quận Hội Kê liền liên tiếp ăn phải trái đắng thua cuộc, mắt thấy đã sắp chống đỡ không xong rồi.
Tuy nhiên đối với Hạng Trang mà nói, nếu muốn đem hai mươi ngàn bộ binh huấn luyện thành kỵ binh, tuyệt đối là không dễ dàng.
Sau khi cấp cho chiến mã yên ngựa cao kiều cùng với bàn đạp, việc cưỡi ngựa không còn là chuyện khó khăn nữa. Nhưng mà, nếu muốn nắm vững kỹ thuật cỡi ngựa hơn nữa, có thể thực hiện được các động tác chém giết trên lưng ngựa, tất nhiên như vậy thì không dễ dàng chút nào. Mà nếu muốn giương cung bắn tên trên lưng con ngựa đang chạy với tốc độ nhanh, thế thì càng khó hơn.
Tuy nhiên khó nhất vẫn là người và ngựa hợp nhất, cũng chính là thông qua thời gian dài chiến đấu và tập luyện khiến cho kỵ binh và chiến mã quen với mùi vị, tính tình và cả một số thói quen của nhau. Một khi đạt tới mức độ này, kỵ binh chỉ cần một tiếng huýt sáo, hoặc chỉ cần dùng đôi chân nhẹ nhàng chạm vào bụng ngựa, chiến mã có thể nhanh chóng phản xạ một cách chính xác.
Một khi huấn luyện tới trình độ này, thế thì tên kỵ binh đó có thể được coi là tinh nhuệ rồi.
Kỵ binh tinh nhuệ và kỵ binh thông thường là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Kỵ binh thông thường khi xung phong căn bản là như ong vỡ tổ chỉ biết xông thẳng lên phía trước, không hề có chiến thuật gì đáng nói. Còn kỵ binh tinh nhuệ thì vừa có thể xông pha lên với tốc độ cao, đồng thời vừa duy trì được đội hình một cách chặt chẽ. Thí dụ khoảng cách bên trái và bên phải giữa hai chiến mã, khoảng cách giữa hàng trước và hàng sau, đều có thể duy trì rất tốt.
Lúc hoàn thành đợt tấn công đầu tiên, kỵ binh tinh nhuệ có thể nhanh chóng quay đầu lại, một lần nữa gia nhập vào hàng ngũ, chuẩn bị cho đợt tấn công thứ hai.
Mà tốc độ phản ứng của các kỵ binh thông thường lại chậm hơn nhiều, thậm chí sau khi hoàn thành đợt tấn công đầu tiên, rất có thể không tổ chức được đợt tấn công lần thứ hai.
Trên phương diện này, người Hồ có được ưu thế tuyệt vời, bởi vì bọn họ từ nhỏ đã sống trên lưng ngựa, ngày ngày bầu bạn với chiến mã, đã sớm dung hòa làm một. Còn kỵ binh Trung Nguyên thì cần phải trải qua cuộc huấn luyện gian khổ và dài đăng đẳng thì mới được, cho nên người Hồ chỉ cần tuỳ tiện bóc ra một gã trai tráng nào đó cũng gọi là kỵ binh xuất sắc rồi, còn người Trung Nguyên thì không thể.
Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, kỵ binh của Trung Nguyên một khi đã huấn luyện thành kỵ binh quân đội, vậy thì sẽ lợi hại hơn kỵ binh người Hồ nhiều!
Thí dụ như kỵ binh Đại Tần ở Cửu Nguyên, tuy rằng chỉ có năm nghìn kỵ binh, nhưng dựa vào việc được trang bị tốt, kỷ luật nghiêm khắc, bố cục đội hình đa dạng cùng với chiến thuật chiến lược phong phú, cùng một số lượng như vậy nhưng sức chiến đấu của họ lại vượt xa so với kỵ binh của người Hồ.
Mười kỵ binh Đại Tần cùng mười kỵ binh người Hồ đối đầu chém nhau, tỉ lệ thắng thua là năm mươi năm mươi. Nhưng nếu như là một trăm kỵ binh Đại Tần đấu với một trăm kỵ binh người Hồ, thì một trăm kỵ binh người Hồ thua là điều chắc chắn. Hơn nữa theo số lượng gia tăng quân số của kỵ binh Đại Tần, ưu thế của họ càng lúc càng rõ ràng hơn, năm nghìn kỵ binh Đại Tần chí ít có thể đối đầu với hai mươi ngàn kỵ binh người Hồ!
Đương nhiên, nếu muốn đem toàn bộ hai mươi ngàn quân Sở huấn luyện thành kỵ binh tinh nhuệ, vậy thì tuyệt đối là điều không có thể.
Thông qua ba đến bốn tháng tập luyện gian khổ, hai mươi ngàn quân Sở có thể nắm được kỹ năng cơ bản nhất khi cưỡi ngựa, có thể bắn tên khi ngựa đang chạy, có thể thực hiện các động chém giết khi tấn công, vậy đã là hết sức rồi.
Còn về phần người ngựa hợp nhất, trong lúc tấn công có thể dàng trận và thay đổi đội hình , tấn công xong quay về tập kết tiến hành tấn công đợt hai,…những điều đó nghĩ cũng đừng nghĩ tới.
Tuần tra xong cả đàn ngựa, Hạng Trang lại gọi Cao Sơ, Bàng Ngọc, Điền Hoành, Tiêu Khai đến trước mặt.
Lúc này hai mươi ngàn quân Sở chia làm 4 đội: thân quân, trung quân, hữu quân, tả quân. Mỗi quân năm nghìn người, trong đó lấy thân quân của Cao Sơ làm đội quân tinh nhuệ, bởi vì trong năm nghìn thân quân có ba nghìn người là đã từng trải qua trăm trận chiến, đó là những lão binh quân Sở còn sống sót lại sau mỗi trận chiến. Hai nghìn quân còn lại đều là những quân lính tinh nhuệ dũng mãnh được tuyển chọn trong các quân các doanh.
Hạng Trang ra lệnh một tiếng, bốn tướng lĩnh Cao Sơ liền dẫn theo thuộc hạ của mình bắt đầu chia nhau chiến mã.
Thoắt chốc, cả cái đại doanh quân Sở lập tức hỗn loạn cả lên, rất nhiều tướng sĩ vì cướp đoạt cùng một con chiến mã, thậm chí động tay động chân đánh lẫn nhau. Đối với những chuyện vớ vẩn này, Hạng Trang sẽ không ngó ngàng tới, trên thực tế, Hạng Trang sẽ không lợi dụng quyền hạn của mình mà phân chia số chiến mã này, trái lại sẽ để cho các quân các doanh tự mình chọn lấy, việc này thật chất là có dụng ý bên trong.
Thậm chí ngay cả chuyện mỗi quân được bao nhiêu chiến mã, Hạng Trang cũng không nói rõ.
Hạng Trang làm như vậy, chính là muốn giữa làm cho các quân xung đột và mâu thuẫn với nhau, làm cho tướng sĩ các quân không phục, chủ tướng các tướng sĩ cũng soi mối tình hình của nhau. Có câu nói như thế nào ấy nhỉ? Có mâu thuẫn mới có cạnh tranh, chỉ khi các quân không phục, mới có thể triển khai cuộc huấn luyện cạnh tranh nhau điên cuồng, quân Sở mới có thể từ bộ binh mà trở thành kỵ binh trong thời gian ngắn nhất.
Trong khi quân Sở đang lo việc phân chia chiến mã, thì bộ lạc Lâu Phiền đã nhổ trại quay về Bắc Giả.
Mặc dù người Lâu Phiền và người Sở hoàn vừa thực hiện cuộc trao đổi lớn, nhưng quan hệ giữa hai bên cũng không vì vậy mà cải thiện.
Trên thực tế, hôm qua Công Thúc Thuyết đã phân tích rõ với người Lâu Phiền rồi. Người mai phục tấn công người Bạch Dương ở Dã Lang Hà Cốc khẳng định là người Sở, giữa đường cướp mất công chúa đa phần cũng là người Sở, chứ không phải người nhà Tần cũ.
Cho nên, sau khi giao dịch xong, vua Lâu Phiền liền lập tức hạ lệnh, quả nhiên đã nhổ trại về Bắc.
Cho dù đã có được hai mươi ngàn thanh gươm hai lưỡi bằng sắt vô cùng sắc bén, cho dù hai mươi ngàn thiết kỵ được trang bị kỹ lưỡng. Nhưng trong lòng vua Lâu Phiền đã hiểu rất rõ, trước khi quân Sở còn chưa rời khỏi Cửu Nguyên. Người Lâu Phiền chỉ sợ sẽ không làm được việc gì cả, vừa không thể dẫn binh đánh bộ lạc Lâm Hồ, lại càng không dám có ý nghĩ nào quá đáng với người nhà Tần cũ ở Cửu Nguyên.
Mặc dù quân Sở chỉ có hai mươi ngàn người, nhưng những trang bị trên người của họ không phải là giả đâu.
Nhất là khi hai bên đang tiến hành cuộc trao đổi ở thành Đông Cửu Nguyên, từng hàng dàng nỏ lớn đứng ẩn mình trong đám quân Sở, phía trước còn có hàng tướng sĩ quân Sở trong tay còn cầm cả quyết trương nỏ, khiến cho vua Lâu Phiền có chút lo lắng sợ sệt.
Lúc đó, nếu như kỵ binh Lâu Phiền tham gia trong cuộc giao dịch có động tĩnh gì, lập tức sẽ bị bắn giết tại chỗ !
Cho nên, vua Lâu Phiền quyết định vẫn là đưa đội giữ khoảng cách với người Sở xa một chút, đồng thời hy vọng quân Sở có thể sớm ngày rời khỏi Hà Sáo.
Đương nhiên, quân Sở cũng có thể ở lì tại Hà Sáo, nhưng dù cho có là như vậy chăng nữa, thế thì cũng đâu có chuyện gì, dựa vào thực lực hiện giờ của bộ lạc Lâu Phiền, cho dù là đầu quân cho Hung Nô, Thiền Vu Mạo Đốn cũng sẽ cho gã một vị trí xứng đáng.
Bình luận facebook