-
Chương 119
3 loài động vật này đều có thể phóng hơi thôi, cái gọi là đuổi đi tất nhiên là ở phía sau đuổi, trong lúc đang đuổi ở phía sau bất ngờ bị phóng một luồng khí thối thổi tới, Thập Tam cơ bản là chẳng kịp né tránh, đâm thẳng vào luồng hơi này lập tức choáng vắng mặt mày. Nhưng Thập Tam rất thông minh, qua mấy lần ăn quả đắng đã rút kinh nghiệm, không bao giờ đuổi theo 3 loài vật này, không chỉ vậy, mà bất kì loài nào có đuôi nó cũng không đuổi.
Sơn động khá dễ tìm, nơi không có núi chắc chắn không có sơn động, mà sơn động bình thường đều ở phía nam dưới chân núi, bây giờ lại là mùa đông, đa số thực vật ở khu vực này đều rụng lá, không có các bụi cây che chắn, việc tìm sơn động trở nên rất dễ dàng. Giữa trưa ngày thứ hai Tả Đăng Phong đã có phát hiện.
Đây là một sơn động cực kỳ thấp bé nằm giữa núi, Tả Đăng Phong suýt nữa đã bỏ qua, bởi vì cửa vào sơn động rất nhỏ, Cự Nhân khó mà chui vào, sau khi đuổi đi một con vật vừa giống lừa vừa giống sói ở trong ra, Tả Đăng Phong đã phát hiện không ít hộp đá bên trong, bởi vì trong sơn động đặc biệt khô ráo, một ít hộp đồng thau vẫn còn giữ gìn được.
Tả Đăng Phong cảm giác những dụng cụ này nhìn rất quen, suy nghĩ một chút liền nhớ ra đã từng nhìn thấy chúng trong một tòa thành cổ ở Hồ Nam nước Dung, phía trên những dụng cụ này đều có lỗ thủng, chứng tỏ năm đó đều được dùng để đựng độc trùng.
Một dải Hồ Nam thuộc bị Cự Nhân tấn công, mà dụng cụ chứa độc vật của nước Dung xuất hiện ở đây thì chỉ có một lý do, đó chính là nước Dung cử cao thủ dùng độc của mình đến đây hạ độc, còn việc bọn họ đến đây trước chiến tranh hay sau này đến trả thù thì Tả Đăng Phong không rõ, nhưng chắc chắn bọn họ không được thoải mái, nếu không những dụng cụ này đã không ở trong sơn động ngoài trận pháp rồi.
Mặc dù cửa vào sơn động nhỏ hẹp, nhưng bên trong khá rộng rãi, ở một sơn động, Tả Đăng Phong tìm thấy vài đồng xu lớn nhỏ làm bằng vàng, tất nhiên là hắn đều lấy sạch, tiền trên người hắn đã sắp hết, ngày sau còn cần ra ngoài mua sắm, nên tiền là không thể bỏ phí.
Cất hết số tiền xu vào người, Tả Đăng Phong tìm được vài miếng ngọc bội trong những lỗ nhỏ trên vách sơn động, một cái bằng lòng bàn tay ở giữa có đục lỗ chắc là bội ngọc trang sức đeo bên hông, cái thứ hai là một chiếc nhẫn ngọc để đeo trên tay, món cuối cùng là một chiếc trâm, trâm ngọc là tinh xảo nhất, khắc họa thành hình Phương Hoàng.
Đồ bằng ngọc ở Trung Quốc đã có lịch sử hơn bảy ngàn năm, vào thời kỳ Thương Chu cũng đã khá tinh xảo, cho nên việc người thời đó dùng trang sức bằng ngọc cũng không có gì lạ, nhưng khiến Tả Đăng Phong bất ngờ là ba món trang sức bằng ngọc này đều cực kỳ tinh xảo, ngọc bội và trâm cài đầu đều có màu trắng, vừa nhìn đã tạo cảm giác thoải mái dễ chịu, loại cảm giác thoải mái này rất khó dùng từ để miêu tả, mặc dù Tả Đăng Phong không biết nhìn hàng những cũng biết mấy món này chắc chắn là đồ tốt. Còn chiếc nhẫn kia thì làm từ một khối ngọc có ba màu đen, trắng và vàng tạo thành, ba màu sắc này phân biệt rất rõ ràng, cũng là thượng phẩm.
Mấy món này chắc chắn người thường không thể dùng, thời kì Thương Chu là chế độ nô lệ, mấy món này chắc chắn là tầng lớp trên thậm chí là hoàng tộc mới có thể dùng. Tả Đăng Phong bước đầu phỏng đoán, những món này chắc chắn là của một nữ nhân trẻ tuổi tầng lớp trên nước Dung sử dụng, hơn nữa còn là một nữ cung thủ. Sỡ dĩ hắn đoán như vậy vì ngọc bội và trâm ngọc đều dành cho nữ nhân, mà nhẫn ngọc thì để đeo trên ngón cái, dùng để kéo dây cung, nữ nhân bình thường không đeo, nhưng chiếc nhẫn này chỉ đeo vừa ngón trỏ của Tả Đăng Phong, điều này chứng tỏ ngón cái của chủ nhân chiếc nhẫn này nhỏ hơn sơ với Tả Đăng Phong, mà bàn tay của Tả Đăng Phong cũng không to, nhỏ hơn so với ngón tay của hắn thì chỉ có thể là nữ nhân.
Đến lúc này, Tả Đăng Phong cảm thấy chủ nhân của hộp đá và hộp đồng chắc chắn là người may mắn còn sống sót sau cuộc xâm chiến của người nước Lô, bọn hắn dưới sự dẫn dắt của nữ quý tộc trẻ tuổi dùng cung đến đây để báo thù, nhưng cuối cùng không thể thành công, bởi vì lúc họ đến nước Lô đã được Khương Tử Nha hạ xuống trận pháp bảo vệ.
Chủ nhân ba món trang sức bằng ngọc này đã chết rồi, nhưng ba món đồ này lại không phải nằm ở thi thể của nàng, cho nên lấy đi cũng không có gì sai, Tả Đăng Phong liền cẩn thận cất kĩ, đáng tiếc là Vu Tâm Ngữ đã mất, nếu không hắn đã đưa hết cho nàng.
Vài ngày sau, Tả Đăng Phong vẫn tìm kiếm vô ích, tốn thời gian càng lâu, tâm tình hắn càng buồn bực, đến cuối cùng còn khiến sinh ra nóng nảy, hắn chuẩn bị nếu tìm kiếm toàn bộ nơi này vẫn không phát hiện được gì, sẽ dùng mấy tháng bố trí mấy cái đại trận Hỏa Chức, trực tiếp đem những thứ bên trong trận pháp sụp đổ, nếu mở không ra thì hủy diệt hết.
Cứ tìm kiếm như vậy hơn nữa tháng, cuối cùng hắn cũng có thu hoạch, ngay lúc hắn sắp hết kiên nhẫn chuẩn bị bố trí Hỏa Chúc trận thì ở một đỉnh núi ở phía Nam, hắn tìm thấy một sơn động rộng lớn, khi vừa đến cửa động hắn biết mình tìm đến đúng chỗ rồi, bởi vì cửa sơn động đều bị người dụng đá tảng to lớn chặn lại.
- Thập Tam, mày cảm thấy thế nào ?
Tả Đăng Phong đứng trước của sơn động đánh giá khối đá lớn chặn cửa, sơn động cao khỏng một trượng, tảng đá chặn của nhỏ hơn cửa vào sơn động một chút, gần giống hình tròn, nặng chắc chắn trên ngàn cân.
Thập Tam tất nhiên không trả lời Tả Đăng Phong được, mà chỉ xoay người chui lại gần một tảng đá xanh, hôn nay thời tiết rất đẹp, lại đang là giữa trưa, mặt trời ở giữa đỉnh đầu nên rất ấm áp.
Tả Đăng Phong cũng biết Thập Tam sẽ không trả lời mình, sỡ dĩ hắn cùng Thập Tam nói chuyện phần lớn là vì muốn rèn luyện năng lực ngôn ngữ bản thân, hàng năm lẻ loi một mình, hắn sợ rằng một ngày nào đó mình sẽ quên cách mất cách giao tiếp.
Tảng đá chặn ở cửa động cũng không kín hết, ở phía trên còn lộ ra một khe hở hẹp, Tả Đăng Phong liền nhảy lên phía trên tảng đá nhìn vào trong, phát hiện sơn động rất sâu, hơn nữa tầm nhìn cũng không tốt cho nên cũng không nhìn thấy được tình hình bên trong như thế nào, nhưng thông qua bên trong sơn động bị mạng nhện giăng đầy, thì bên trong chắc chắn không bị động vật gì chiếm dụng rồi.
Quan sát đại khái xong, Tả Đăng Phong liền dồn lực cố gắng đẩy tảng đá chặn cửa ra đi vào bên trong, đi hơn mười thước, mấy chiếc chuôi búa đá lớn đã đập vào mắt hắn, khí hậu ở Hồ Bắc tốt hơn Hồ Nam một chút, hơn nữa cửa vào sơn động bị lại được chặn gần hết, cho nên mấy cán búa đá này vẫn chưa hoàn toàn hư hỏng, cán búa dài khoảng bốn thước, to như miệng chén, có màu đỏ, đụng tay vào liền vỡ vụn.
Đi thêm hai mấy thước, đã tới cuối sơn động, một bộ hài cốt quái dị của Cự Nhân nằm ở một góc, bộ hài cốt này xuất hiện khiến Tả Đăng Phong vừa sợ vừa mừng, mừng vì mình đã tìm ra đúng nơi, còn sợ là vì bộ hài cốt này cực kỳ quái dị, nó lớn hơn các bộ hài cốt bình thường khác rất nhiều, màu sắc cũng không giống, không phải màu trắng như các bộ hài cốt bình thường, mà là màu bạc chói mắt.
- Thập Tam, đừng lại gần !
Tả Đăng Phong thấy Thập Tam muốn lại gần ngửi thử liền vội vàng ngăn cản nó, bộ hài cốt này màu sắc rất quỷ dị, Tả Đăng Phong nghi là nó bị trúng độc mà chết.
Quát lui Thập Tam xong, Tả Đăng Phong liền phát ra linh khí di chuyển bộ hài cốt này, dùng linh khí cũng có thể tính toán ra đại khái sức nặng của nó, hơi đẩy một chút, Tả Đăng Phong đã phát hiện bộ hài cốt này phải nặng hơn rất nhiều so với các hài cốt thông thường, khi dùng hai miếng hài cốt chạm vào nhau thì phát ra tiếng kim loại.
Đã qua nhiều năm, cho dù có trúng độc cũng đã phai nhạt gần hết rồi, vả lại nếu bộ hài cốt này bị trúng độc thì phải có màu đen mới đúng, cho nên Tả Đăng Phong thử cầm một khối xương cánh tay lên xem, sau khi cầm lên lại càng thấy kì lạ, sơ với hài cốt bình thường thì nặng hơn rất nhiều, chỉ nhẹ hơn một chút sơ với kim loại bình thường, nhưng dựa trên hoa văn trên khớp xương thì đây đúng là hài cốt.
Có lẽ hài cốt của Cự Nhân là như vậy, Tả Đăng Phong suy nghĩ một chút liền thả khung xương kia xuống, rồi cầm lên một cái thạch bài trong mấy viên thạch bài nằm ở một góc sáng sủa, thạch bài bằng cỡ bàn tay, rộng khoảng 10cm, có màu hồng, bên trên không có chữ viết gì.
Cẩn thận suy đoán, mặc dù bên trên thạch bài không ghi chép gì, nhưng Tả Đăng Phong vẫn có thể xác định nó chính là trận phù dùng để ra vào trận pháp, thạch bài màu hồng, hồng là lửa, Hỏa khắc Kim, chắc chắn là đúng.
Cất kĩ thạch bài, Tả Đăng Phong vẫn không vội suy nghĩ tiếp, mà cẩn thận quan sát bộ hài cốt màu bạc, qua một lúc, Tả Đăng Phong đoán chủ nhân bộ hài cốt này khi còn sống cao khoảng ba thước, bộ hài cốt này có vài đặc điểm khác với hài cốt của Cự Nhân mà Tả Đăng Phong từng thấy ở nước Dung, đó là chi trước dài ra, hốc mắt nhỏ, răng nanh lộ ra ngoài. Những thay đổi này chứng tỏ Cự Nhân này cũng không phải từ ba ngàn năm trước đi ra, mà có thể là một thời gian sau mới ra ngoài, những thay đổi của nó đều là do hoàn cảnh tạo thành. Hơn nữa trong sơn động có rất nhiều búa đá, lại có đến năm miếng thạch bài trận phù, như vậy năm đó ít nhất có năm người rời khỏi trận pháp, mà sau đó những người này cũng không hề muốn trở lại, nếu không cũng không tùy tiện đem những thạch bài này ném ở một góc sơn động.
Lấy được thạch bài trận phù, Tả Đăng Phong cũng không cảm thấy vui mừng, bởi vì lần này hắn chỉ lợi dụng mà không trực tiếp phá trận để vào, đối cới Thập Nhị Cô Hư trận pháp hắn vẫn không biết chút gì.
Đổi thành người thường thì khi lấy được thạch bài trận phù sẽ lập tức đi vào trận, nhưng Tả Đăng Phong lại không làm vậy, hắn cõng rương gỗ cùng Thập Tam rời núi.
Hắn làm vậy có ba nguyên nhân, thứ nhất, hắn sợ nếu mình tiến vào trận sẽ bị vây khốn, lúc này lương thực của hắn đã cạn kiệt, nhất định phải bổ sung. Thứ hai, dựa theo vẻ mặt hoảng sợ của Thập Tam lúc trước thì đám Cự Nhân biến dị chắc hẳn là tập trung ở biên giới của trận pháp, một khi vào trận tất nhiên phải lập tức chém giết, hắn cần chuẩn bị một chút trang bị. Điểm cuối cùng cũng là quan trong nhất, Tả Đăng Phong muốn gặp người, không quan trọng là gặp ai, chỉ cần là người đều được, người là loài đồng cư, gần hai tháng không nghe được tiếng người nói chuyện, Tả Đăng Phong cảm thấy cực kỳ cô độc, hắn cảm giác mình đã thoát khỏi xã hội loài người, mặc dù hắn biết bên ngoài không có chút quan hệ gì với mình, nhưng hắn vẫn muốn gặp người, sống một mình thời gian dài khiến tâm trạng hắn rất nặng nề, hắn lo lắng nếu cứ tiếp tục như vậy, trong lúc tìm kiếm sáu loài vật thuần âm đã bị áp lực tâm lý đè nặng mà phát điên, thậm chí hắn còn hối hận khi đuổi Đằng Khi Anh Tử đi, giữ nàng lại bên cạnh ít nhất còn có người đề nói chuyện
Mọi người đều cần có cho mình một người bạn, nhưng hắn lại không có.
Sơn động khá dễ tìm, nơi không có núi chắc chắn không có sơn động, mà sơn động bình thường đều ở phía nam dưới chân núi, bây giờ lại là mùa đông, đa số thực vật ở khu vực này đều rụng lá, không có các bụi cây che chắn, việc tìm sơn động trở nên rất dễ dàng. Giữa trưa ngày thứ hai Tả Đăng Phong đã có phát hiện.
Đây là một sơn động cực kỳ thấp bé nằm giữa núi, Tả Đăng Phong suýt nữa đã bỏ qua, bởi vì cửa vào sơn động rất nhỏ, Cự Nhân khó mà chui vào, sau khi đuổi đi một con vật vừa giống lừa vừa giống sói ở trong ra, Tả Đăng Phong đã phát hiện không ít hộp đá bên trong, bởi vì trong sơn động đặc biệt khô ráo, một ít hộp đồng thau vẫn còn giữ gìn được.
Tả Đăng Phong cảm giác những dụng cụ này nhìn rất quen, suy nghĩ một chút liền nhớ ra đã từng nhìn thấy chúng trong một tòa thành cổ ở Hồ Nam nước Dung, phía trên những dụng cụ này đều có lỗ thủng, chứng tỏ năm đó đều được dùng để đựng độc trùng.
Một dải Hồ Nam thuộc bị Cự Nhân tấn công, mà dụng cụ chứa độc vật của nước Dung xuất hiện ở đây thì chỉ có một lý do, đó chính là nước Dung cử cao thủ dùng độc của mình đến đây hạ độc, còn việc bọn họ đến đây trước chiến tranh hay sau này đến trả thù thì Tả Đăng Phong không rõ, nhưng chắc chắn bọn họ không được thoải mái, nếu không những dụng cụ này đã không ở trong sơn động ngoài trận pháp rồi.
Mặc dù cửa vào sơn động nhỏ hẹp, nhưng bên trong khá rộng rãi, ở một sơn động, Tả Đăng Phong tìm thấy vài đồng xu lớn nhỏ làm bằng vàng, tất nhiên là hắn đều lấy sạch, tiền trên người hắn đã sắp hết, ngày sau còn cần ra ngoài mua sắm, nên tiền là không thể bỏ phí.
Cất hết số tiền xu vào người, Tả Đăng Phong tìm được vài miếng ngọc bội trong những lỗ nhỏ trên vách sơn động, một cái bằng lòng bàn tay ở giữa có đục lỗ chắc là bội ngọc trang sức đeo bên hông, cái thứ hai là một chiếc nhẫn ngọc để đeo trên tay, món cuối cùng là một chiếc trâm, trâm ngọc là tinh xảo nhất, khắc họa thành hình Phương Hoàng.
Đồ bằng ngọc ở Trung Quốc đã có lịch sử hơn bảy ngàn năm, vào thời kỳ Thương Chu cũng đã khá tinh xảo, cho nên việc người thời đó dùng trang sức bằng ngọc cũng không có gì lạ, nhưng khiến Tả Đăng Phong bất ngờ là ba món trang sức bằng ngọc này đều cực kỳ tinh xảo, ngọc bội và trâm cài đầu đều có màu trắng, vừa nhìn đã tạo cảm giác thoải mái dễ chịu, loại cảm giác thoải mái này rất khó dùng từ để miêu tả, mặc dù Tả Đăng Phong không biết nhìn hàng những cũng biết mấy món này chắc chắn là đồ tốt. Còn chiếc nhẫn kia thì làm từ một khối ngọc có ba màu đen, trắng và vàng tạo thành, ba màu sắc này phân biệt rất rõ ràng, cũng là thượng phẩm.
Mấy món này chắc chắn người thường không thể dùng, thời kì Thương Chu là chế độ nô lệ, mấy món này chắc chắn là tầng lớp trên thậm chí là hoàng tộc mới có thể dùng. Tả Đăng Phong bước đầu phỏng đoán, những món này chắc chắn là của một nữ nhân trẻ tuổi tầng lớp trên nước Dung sử dụng, hơn nữa còn là một nữ cung thủ. Sỡ dĩ hắn đoán như vậy vì ngọc bội và trâm ngọc đều dành cho nữ nhân, mà nhẫn ngọc thì để đeo trên ngón cái, dùng để kéo dây cung, nữ nhân bình thường không đeo, nhưng chiếc nhẫn này chỉ đeo vừa ngón trỏ của Tả Đăng Phong, điều này chứng tỏ ngón cái của chủ nhân chiếc nhẫn này nhỏ hơn sơ với Tả Đăng Phong, mà bàn tay của Tả Đăng Phong cũng không to, nhỏ hơn so với ngón tay của hắn thì chỉ có thể là nữ nhân.
Đến lúc này, Tả Đăng Phong cảm thấy chủ nhân của hộp đá và hộp đồng chắc chắn là người may mắn còn sống sót sau cuộc xâm chiến của người nước Lô, bọn hắn dưới sự dẫn dắt của nữ quý tộc trẻ tuổi dùng cung đến đây để báo thù, nhưng cuối cùng không thể thành công, bởi vì lúc họ đến nước Lô đã được Khương Tử Nha hạ xuống trận pháp bảo vệ.
Chủ nhân ba món trang sức bằng ngọc này đã chết rồi, nhưng ba món đồ này lại không phải nằm ở thi thể của nàng, cho nên lấy đi cũng không có gì sai, Tả Đăng Phong liền cẩn thận cất kĩ, đáng tiếc là Vu Tâm Ngữ đã mất, nếu không hắn đã đưa hết cho nàng.
Vài ngày sau, Tả Đăng Phong vẫn tìm kiếm vô ích, tốn thời gian càng lâu, tâm tình hắn càng buồn bực, đến cuối cùng còn khiến sinh ra nóng nảy, hắn chuẩn bị nếu tìm kiếm toàn bộ nơi này vẫn không phát hiện được gì, sẽ dùng mấy tháng bố trí mấy cái đại trận Hỏa Chức, trực tiếp đem những thứ bên trong trận pháp sụp đổ, nếu mở không ra thì hủy diệt hết.
Cứ tìm kiếm như vậy hơn nữa tháng, cuối cùng hắn cũng có thu hoạch, ngay lúc hắn sắp hết kiên nhẫn chuẩn bị bố trí Hỏa Chúc trận thì ở một đỉnh núi ở phía Nam, hắn tìm thấy một sơn động rộng lớn, khi vừa đến cửa động hắn biết mình tìm đến đúng chỗ rồi, bởi vì cửa sơn động đều bị người dụng đá tảng to lớn chặn lại.
- Thập Tam, mày cảm thấy thế nào ?
Tả Đăng Phong đứng trước của sơn động đánh giá khối đá lớn chặn cửa, sơn động cao khỏng một trượng, tảng đá chặn của nhỏ hơn cửa vào sơn động một chút, gần giống hình tròn, nặng chắc chắn trên ngàn cân.
Thập Tam tất nhiên không trả lời Tả Đăng Phong được, mà chỉ xoay người chui lại gần một tảng đá xanh, hôn nay thời tiết rất đẹp, lại đang là giữa trưa, mặt trời ở giữa đỉnh đầu nên rất ấm áp.
Tả Đăng Phong cũng biết Thập Tam sẽ không trả lời mình, sỡ dĩ hắn cùng Thập Tam nói chuyện phần lớn là vì muốn rèn luyện năng lực ngôn ngữ bản thân, hàng năm lẻ loi một mình, hắn sợ rằng một ngày nào đó mình sẽ quên cách mất cách giao tiếp.
Tảng đá chặn ở cửa động cũng không kín hết, ở phía trên còn lộ ra một khe hở hẹp, Tả Đăng Phong liền nhảy lên phía trên tảng đá nhìn vào trong, phát hiện sơn động rất sâu, hơn nữa tầm nhìn cũng không tốt cho nên cũng không nhìn thấy được tình hình bên trong như thế nào, nhưng thông qua bên trong sơn động bị mạng nhện giăng đầy, thì bên trong chắc chắn không bị động vật gì chiếm dụng rồi.
Quan sát đại khái xong, Tả Đăng Phong liền dồn lực cố gắng đẩy tảng đá chặn cửa ra đi vào bên trong, đi hơn mười thước, mấy chiếc chuôi búa đá lớn đã đập vào mắt hắn, khí hậu ở Hồ Bắc tốt hơn Hồ Nam một chút, hơn nữa cửa vào sơn động bị lại được chặn gần hết, cho nên mấy cán búa đá này vẫn chưa hoàn toàn hư hỏng, cán búa dài khoảng bốn thước, to như miệng chén, có màu đỏ, đụng tay vào liền vỡ vụn.
Đi thêm hai mấy thước, đã tới cuối sơn động, một bộ hài cốt quái dị của Cự Nhân nằm ở một góc, bộ hài cốt này xuất hiện khiến Tả Đăng Phong vừa sợ vừa mừng, mừng vì mình đã tìm ra đúng nơi, còn sợ là vì bộ hài cốt này cực kỳ quái dị, nó lớn hơn các bộ hài cốt bình thường khác rất nhiều, màu sắc cũng không giống, không phải màu trắng như các bộ hài cốt bình thường, mà là màu bạc chói mắt.
- Thập Tam, đừng lại gần !
Tả Đăng Phong thấy Thập Tam muốn lại gần ngửi thử liền vội vàng ngăn cản nó, bộ hài cốt này màu sắc rất quỷ dị, Tả Đăng Phong nghi là nó bị trúng độc mà chết.
Quát lui Thập Tam xong, Tả Đăng Phong liền phát ra linh khí di chuyển bộ hài cốt này, dùng linh khí cũng có thể tính toán ra đại khái sức nặng của nó, hơi đẩy một chút, Tả Đăng Phong đã phát hiện bộ hài cốt này phải nặng hơn rất nhiều so với các hài cốt thông thường, khi dùng hai miếng hài cốt chạm vào nhau thì phát ra tiếng kim loại.
Đã qua nhiều năm, cho dù có trúng độc cũng đã phai nhạt gần hết rồi, vả lại nếu bộ hài cốt này bị trúng độc thì phải có màu đen mới đúng, cho nên Tả Đăng Phong thử cầm một khối xương cánh tay lên xem, sau khi cầm lên lại càng thấy kì lạ, sơ với hài cốt bình thường thì nặng hơn rất nhiều, chỉ nhẹ hơn một chút sơ với kim loại bình thường, nhưng dựa trên hoa văn trên khớp xương thì đây đúng là hài cốt.
Có lẽ hài cốt của Cự Nhân là như vậy, Tả Đăng Phong suy nghĩ một chút liền thả khung xương kia xuống, rồi cầm lên một cái thạch bài trong mấy viên thạch bài nằm ở một góc sáng sủa, thạch bài bằng cỡ bàn tay, rộng khoảng 10cm, có màu hồng, bên trên không có chữ viết gì.
Cẩn thận suy đoán, mặc dù bên trên thạch bài không ghi chép gì, nhưng Tả Đăng Phong vẫn có thể xác định nó chính là trận phù dùng để ra vào trận pháp, thạch bài màu hồng, hồng là lửa, Hỏa khắc Kim, chắc chắn là đúng.
Cất kĩ thạch bài, Tả Đăng Phong vẫn không vội suy nghĩ tiếp, mà cẩn thận quan sát bộ hài cốt màu bạc, qua một lúc, Tả Đăng Phong đoán chủ nhân bộ hài cốt này khi còn sống cao khoảng ba thước, bộ hài cốt này có vài đặc điểm khác với hài cốt của Cự Nhân mà Tả Đăng Phong từng thấy ở nước Dung, đó là chi trước dài ra, hốc mắt nhỏ, răng nanh lộ ra ngoài. Những thay đổi này chứng tỏ Cự Nhân này cũng không phải từ ba ngàn năm trước đi ra, mà có thể là một thời gian sau mới ra ngoài, những thay đổi của nó đều là do hoàn cảnh tạo thành. Hơn nữa trong sơn động có rất nhiều búa đá, lại có đến năm miếng thạch bài trận phù, như vậy năm đó ít nhất có năm người rời khỏi trận pháp, mà sau đó những người này cũng không hề muốn trở lại, nếu không cũng không tùy tiện đem những thạch bài này ném ở một góc sơn động.
Lấy được thạch bài trận phù, Tả Đăng Phong cũng không cảm thấy vui mừng, bởi vì lần này hắn chỉ lợi dụng mà không trực tiếp phá trận để vào, đối cới Thập Nhị Cô Hư trận pháp hắn vẫn không biết chút gì.
Đổi thành người thường thì khi lấy được thạch bài trận phù sẽ lập tức đi vào trận, nhưng Tả Đăng Phong lại không làm vậy, hắn cõng rương gỗ cùng Thập Tam rời núi.
Hắn làm vậy có ba nguyên nhân, thứ nhất, hắn sợ nếu mình tiến vào trận sẽ bị vây khốn, lúc này lương thực của hắn đã cạn kiệt, nhất định phải bổ sung. Thứ hai, dựa theo vẻ mặt hoảng sợ của Thập Tam lúc trước thì đám Cự Nhân biến dị chắc hẳn là tập trung ở biên giới của trận pháp, một khi vào trận tất nhiên phải lập tức chém giết, hắn cần chuẩn bị một chút trang bị. Điểm cuối cùng cũng là quan trong nhất, Tả Đăng Phong muốn gặp người, không quan trọng là gặp ai, chỉ cần là người đều được, người là loài đồng cư, gần hai tháng không nghe được tiếng người nói chuyện, Tả Đăng Phong cảm thấy cực kỳ cô độc, hắn cảm giác mình đã thoát khỏi xã hội loài người, mặc dù hắn biết bên ngoài không có chút quan hệ gì với mình, nhưng hắn vẫn muốn gặp người, sống một mình thời gian dài khiến tâm trạng hắn rất nặng nề, hắn lo lắng nếu cứ tiếp tục như vậy, trong lúc tìm kiếm sáu loài vật thuần âm đã bị áp lực tâm lý đè nặng mà phát điên, thậm chí hắn còn hối hận khi đuổi Đằng Khi Anh Tử đi, giữ nàng lại bên cạnh ít nhất còn có người đề nói chuyện
Mọi người đều cần có cho mình một người bạn, nhưng hắn lại không có.
Bình luận facebook