-
Chương 47
Cỏ xanh một dải, cổ mộ khó tìm [1]
[1] Đây là một câu thơ trong bài Yên Chiêu Vương mộ của La Ân. Câu thơ nguyên gốc chữ Hán là, “Dục điếu di hồn dã thảo thâm” (欲吊遗魂野草深). Yên Chiêu Vương nổi tiếng là người chiêu mộ nhân tài hiền sĩ, nhưng khi mất thì không biết được chôn ở đâu. Ý câu thơ trên muốn nói, tác giả muốn tìm mộ của Yên Chiêu Vương, nhưng xung quanh toàn là cỏ dại, không tìm thấy tung tích gì của cổ mộ. Tác giả mượn câu thơ của người xưa chỉ để muốn nói “cổ mộ khó tìm” mà thôi.
Tám giờ sáng máy bay cất cánh. Bì Bì dậy từ sáu giờ, thấy Hạ Lan Tịnh Đình đang sắp xếp hành lý cho mình. Cô đi tắm rửa, sau đó đến thư phòng tìm tấm bản đồ giao thông của các tỉnh trong toàn quốc, rồi cất vào túi.
Chuẩn bị đồ đạc xong xuôi, ra khỏi phòng, Bì Bì phát hiện Tu Nhàn đang đợi mình ở phòng khách cùng chiếc chìa khóa xe trong tay.
Hai người nhìn nhau không nói, Bì Bì ôm thật chặt lấy Hạ Lan Tịnh Đình, nhìn anh chằm chằm, nói: “Đợi em về”.
Hạ Lan Tịnh Đình gật đầu, rồi tiễn cô và Tu Nhàn ra cửa.
Chiếc xe ra khỏi cửa thì chạy xuống một con dốc, men theo con đường nhỏ đó rất nhanh chóng tới được dưới chân núi. Hình bóng anh mờ dần, khuôn mặt chẳng chút biểu cảm, thấy chiếc xe chuẩn bị chuyển sang một ngã rẽ, anh mới đột nhiên giơ tay lên vẫy, Bì Bì liền nước mắt như mưa.
Cô khóc thút thít cả dọc đường cho tới khi đến sân bay.
Vừa bước xuống xe, Bì Bì lau khô nước mắt, sau đó xé đôi tấm vé, nói với Tu Nhàn, “Tôi muốn đi tìm lăng mộ của Yên Chiêu Vương. Anh có muốn đi cùng tôi không?”.
Dường như đây cũng là kế hoạch của Tu Nhàn, anh ta lập tức gật đầu, “Lăng mộ đó nằm ở huyến Kế, tỉnh Thiên Tân. Tôi đi mua vé máy bay đến Thiên Tân”.
Anh ta vẫn đi đôi tông, phía sau chiếc áo màu trắng vẫn vẽ hình một con chim bằng mực tàu. Đôi cánh của con chim màu đen, trông rất giống con quạ, bộ dạng hờ hững, đôi mắt chất chứa nỗi đau buồn.
“Anh đã ăn sáng chưa?”, Bì Bì hỏi.
“Chưa.”
“Để tôi đi mua cho anh.”
Anh ta gật đầu, rồi đi thẳng tới quầy bán vé. Bì Bì bỗng nhận ra dạo gần đây trông Tu Nhàn có vẻ lôi thôi, lếch thếch. Anh ta không buồn cạo râu, đầu tóc rối bù. May mà ngoại hình Tu Nhàn vô cùng đẹp nên những khuyết điểm liền trở thành một phong cách. Anh ta đi tới quầy bán vé với một làn hương kiều diễm, khiến mọi người trên đường ai ai cũng phải ngoái đầu nhìn, dù là gái hay trai.
Cô mua lạp xường và bánh bao nhân thịt cho bữa sáng, khi quay về đã thấy Tu Nhàn ngồi trên hàng ghế gần lối vào cửa kiểm soát an ninh rồi.
Cô đưa đồ ăn, còn kèm theo cả một đôi đũa và một chiếc đĩa dùng một lần cho anh ta.
Anh ta ngẩng đầu nhìn cô, ánh nhìn tựa như một mũi tên, sau đó lập tức lấy đũa ra và từ từ ăn sáng.
Cô ngồi xuống, uống một ngụm sữa đậu nành, có ý định tiếp chuyện, “Khoan Vĩnh là người Thiên Thủy sao? Sao tôi lại nghe Hạ Lan nói anh ấy là người Anh nhỉ?”.
“Đừng nhắc đến anh ấy, được không?”, anh ta đột nhiên không kiên nhẫn thêm được nữa.
“Xin lỗi.”
Thời gian còn lại cho đến khi lên máy bay, rồi xuống máy bay, sau đó ngồi xe buýt hai tiếng đồng hồ trên đường cao tốc đến huyện Kế, Tu Nhàn không nói thêm một câu nào.
Hai người ở trọ trong khách sạn Ngư Dương thuộc huyện Kế.
Khách sạn này nằm gần ngọn núi Phủ Quân. Hai người cất hành lý, sau đó bắt xe tới chân núi Phủ Quân. Tu Nhàn nói, “Tôi đưa cô lên núi đi dạo một lát”.
Bì Bì nhìn anh ta, hỏi, “Anh… từng đến nơi này ư?”.
Anh ta gật đầu.
“Hạ Lan cũng đến nơi này rồi sao?”
“Đúng thế.”
“Các anh biết cột trụ nằm ở đâu?”
“Đây là điều cơ mật của tộc chúng tôi, cứ cho là Triệu Tùng, cung chưa chắc đã biết nhiều thứ. Hạ Lan đã mất rất nhiều thời gian nghiên cứu, mới tìm được gỗ của cột trụ, sau đó giấu lại trong lăng mộ của Yên Chiêu Vương.”
Bì Bì chớp mắt, “Cho nên, Hạ Lan cũng từng tới lăng mộ của Yên Chiêu Vương?”
Đúng vậy, làm việc này cần phải thật can đảm. Núi Phủ Quân còn có tên gọi là núi Không Động, là cấm địa của tộc hồ ly, không chỉ vì nơi đây có gỗ Hằng Xuân kìm hãm tộc hồ ly, mà còn một vài thứ khác nữa cũng có thể lấy mạng chúng tôi. Sở thích của Yên Chiêu Vương rất phong phú, ông ta cất giấu nhiều bảo vật, trong lăng mộ có rất nhiều cơ quan.”
Bì Bì không khỏi dừng bước, nhìn về phía trước.
Cô cảm thấy ngọn núi Phủ Quân này trông có vẻ rất bình thường, không cao lắm, không cheo leo và hùng vĩ như cô tưởng tượng. Nơi đây được mệnh danh là thánh địa Đạo giáo, là nơi Hoàng Đế [2] nghe Quảng Thành Tử [3] giảng đạo, nhưng cô chẳng cảm nhận được chút tiên khí gì.
[2] Hoàng Đế, còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế, là một vị vua huyền thoại và anh hùng văn hóa Trung Quốc, được coi là thủy tổ của người Hán. Chữ Hoàng 黄 ởđây hàm nghĩa sắc vàng, là màu biểu trưng cho hành thổ. Hiểu nôm na “Hoàng Đế” là “Vua Vàng”, khác với 皇 trong hoàng đế 皇帝 là danh xưng của các vua Trung Quốc kể từ thời nhà Tần.
[3] Là một vị thần tiên được dân gian dân tộc Hán Trung Quốc tín ngưỡng.
Cô đợi Tu Nhàn nói tiếp.
“Yên Chiêu Vương năm thứ hai tại vị, trong những bảo vật mà ngư dân tiến cống, ngoài cây Hằng Xuân ra còn có cả mỡ rồng.”
“Mỡ rồng?”
“Theo truyền thuyết, ở nước ngoài có núi Phương Trượng, phía Đông núi có một trường đấu rồng. Những con rồng lớn thường giao đấu ở đó, mỡ và máu tuôn ra như nước chảy. Người ngư dân kia liền đựng mỡ rồng trong bình chạm trổ tiến cống cho Chiêu Vương. Chiêu Vương ngồi trên đài Thông Vân, đốt mỡ rồng làm đèn, ánh sáng tỏa ra trăm dặm, khói có màu tím đỏ.”
Bì Bì nói tiếp, “Mỡ rồng mà anh nói tới cũng có thể lấy mạng các anh sao?”.
“Không phải”, Tu Nhàn giải thích, “Phía Tây của núi Phương Trượng có một loại đá chiếu, viên đá ấy vỡ ra thành những mảnh như mảnh gương, đốt mỡ rồng lên chiếu, vạn vật sẽ hiện nguyên hình, yêu nghiệt sẽ bị mất mạng. Khi Chiêu Vương mất, những người thợ thủ công đã nghiền loại đá này ra trộn vào bùn, có tác dụng bảo vệ quan tài. Cho nên năm đó Hạ Lan một mình vào lăng mộ chỉ mang theo một chiếc đèn pin cầm tay thôi. Bất cứ thứ gì bốc cháy đều có thể khiến anh ấy mất mạng”.
Đi dạo nửa tiếng đồng hồ trên núi, đến Tỏa Tử Lĩnh ở chân núi phía Tây, Tu Nhàn chỉ vào một đống đất rất lớn cách đó không xa, nói: “Có nhìn thấy gò đất kia không? Dân quanh vùng này đều gọi nó là mộ Đậu Vương, nhưng Đậu Vương là ai thì không biết. Chu vi của gò đất này hơn một trăm thước vuông, nhưng trên bề mặt không có lấy một cái cây, cô không cảm thấy kỳ lạ sao? Đó là bởi vì trên phần mộ của quân vương thời cổ đại thường được phủ một lớp bụi đất được tạo thành từ tương gạo nếp trộn đều với vôi. Loại đất này có thể chống ẩm, không thấm nước, rất kiên cố, rễ cây không thể hấp thụ chất dinh dưỡng từ bên trong, chỉ có những loại cỏ rễ không bám sâu mới có thể sinh trưởng ở đó được. Ngoài ra, Tỏa Tử Lĩnh chính là nơi long mạch hội tụ, theo cách đánh giá của các nhà phong thủy thì khí thế cổ mộ phi phàm, Đông hướng về sườn núi, Tây hướng về kinh đô. Nhìn thẳng có hình chòm sao Thương Long, miệng phun suối nguồn, có thế rồng lượn hổ ngồi, là kiểu lăng tẩm điển hình của bậc đế vương. Yên Chiêu Vương cả đời say mê với các phương thuật thần tiên, tất nhiên sẽ chọn nơi có phong thủy thuận lợi nhất để làm chỗ quy tiên cho mình”.
Bì Bì bỗng có cái nhìn khác về người đàn ông này, “Chẳng phải anh là bác sĩ sao? Sao tôi cứ cảm thấy anh cũng là một nhà Khảo cổ học nhỉ?”.
Tu Nhàn cười nhạt, “Nói tới Khảo cổ học, với con mắt của các nhà Khảo cổ học, mộ đạo trong lăng mộ của các bậc đế vương thường theo hướng Tây, từ mé Tây đi vào sơn động, sau đó xây dựng lăng mộ ở mé Đông. Đây là kết cấu lăng mộ điển hình của vương tôn quý tộc trước thời nhà Hán… Trước khi học y, tôi thường đi theo giúp việc cho Hạ Lan, tất cả những điều này đều là anh ấy dạy tôi đó”.
Nói rồi, anh ta tiện tay nhặt nửa viên ngói dưới đất lên, “Cô nhìn viên ngói có chạm hình ác thú này đi, loại này cũng thường gặp ở Yên Đô”.
Bì Bì nói, “Mộ đạo ở đâu? Bây giờ chúng ta bắt đầu đào, được không?”.
Tu Nhàn nhìn chằm chằm cô, “Sao có thể làm việc này vào ban ngày chứ? Phá hoại di vật văn hóa quốc gia, lẽ nào cô không sợ bị bắt?”.
Đợi cả một ngày cũng không nhận được bất cứ cuộc điện thoại nào của Hạ Lan Tịnh Đình. Nhân lúc đó, Bì Bì và Tu Nhàn đi mua một vài thứ như xẻng, rìu và đèn pin.
Trước tiên hai người ra khỏi khách sạn, đi dạo phố, ăn cơm, cho tới tận nửa đêm mới lên núi rồi đến Tỏa Tử Lĩnh.
Tu Nhàn nhanh chóng tìm thấy lối vào mộ đạo ngày trước đã đào. Hai người hai chiếc xẻng, đào hai tiếng đồng hồ, bỗng nhiên xẻng chạm vào một phiến đá lớn, Tu Nhàn bèn nói, “Lối vào chính là ở bên dưới phiến đá này”.
Bì Bì lấy từ trong túi ra một chai rượu xái, ngẩng đầu uống một ngụm, sau đó lau miệng, cầm xẻng lên ra sức đào xung quanh. Chẳng bao lâu, một phiến đá màu xanh chừng một thước vuông lộ ra ngoài. Tu Nhàn dùng xẻng bậy thật mahj, phiến đá liền hé ra một khe. Anh ta ra sức đẩy, cuosi cùng đẩy ra được một cái lỗ đủ cho một người chui vào.
Một cơn gió lạnh thình lình từ bên trong ùa ra.
Trên núi chỉ có tiếng côn trùng kêu. Cơn gió lạnh cuốn theo cả mùi mục nát, Bì Bì liền thay hai cục pin mới vào đèn pin, sau đó nhìn Tu Nhàn, bốn bề xung quanh âm u, như thể có vô số âm hồn vừa từ hang đọng bay ra nhảy nhót xung quanh cô.
Cô sợ hãi, toàn thân nổi da gà.
“Lần trước… anh đã vào đây chưa?”, hai chân Bì Bì run rẩy, không khỏi dịch sát vào Tu Nhàn.
“Chưa. Hạ Lan không cho tôi vào trong. Tôi luôn đứng ở cửa động tiếp ứng cho anh ấy. Nếu như cô sợ thì cứ đứng ở ngoài đợi tôi.”
Dứt lời, anh ta đưa đèn pin lên miệng cắn, sau đó khẽ nhảy vào bên trong.
Đương nhiên Bì Bì rất sợ, tim không ngừng đập loạn, nhưng cô vẫn giậm giậm chân, cắn răng thật chặt rồi nhảy theo.
Hóa ra cái động này không hề sâu, chỉ cao bằng một người mà thôi. Khi nhảy xuống, Tu Nhàn còn đưa tay đỡ cô, dưới chân cô là những khối đất và mảnh gói vỡ, cô giẫm chân lên đó tiến về phía trước, không ngừng phát ra những tiếng lạch cạch. Đi được vài bước bỗng bị cản lại bởi một khối đá to, hai người buộc phải cúi lưng đục một lối đi khác bên cạnh phiến đá to kia. Cái động này rất nhỏ, chỉ chứa được một người. Tu Nhàn cởi áo ra, để mình trần đi vào bên trong. Người Bì Bì nhỏ hơn Tu Nhàn, nhưng cũng cởi bỏ chiếc áo jacket của mình ra, chỉ mặc một chiếc áo phông cộc tay bó sát người bò vào bên trong…
Đó là một lối đi dài đến hơn hai mươi mét, có lẽ là do Hạ Lan Tịnh Đình đào. Bò được một nửa, ô xy trong mộ rất ít, Bì Bì liền dừng lại giữa chừng. Bò được một nửa, ô xy trong mộ rất ít, Bì Bì liền dừng lại giữa chừng, thở hổn hển. Một lúc sau, cô cố nín thở, tiếp tục bò bạt mạng về phía trước, một lúc sau thì đến cuối lối đi. Cô chui ra ngoài với một mái đầu đầy bụi và một khuôn mặt lấm lem bùn đất, lúc này không gian trở nên rộng rãi hơn.
Trong lăng mộ đầy mùi chết chóc.
Đèn pin chỉ chiếu được một quầng sáng nhỏ bé, cô chạm vào Tu Nhàn ở phía trước, “Đây chính là mộ thất sao?”.
“Ừm.”
Rọi đèn pin đi khắp nơi căn mộ, dường như hai người đã đến một căn phòng trong lòng đất. Trên nóc là những hàng gỗ lim lớn, trên sàn ngỏn ngang bừa bộn. Có một bên tường đã bị đổ, đất bên ngoài rơi vào trong một từ mảnh gỗ nghiên nghiêng, dường như cả căn mộ thất này có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.
Bì Bì bỗng ngửi thấy mùi thối rữa, bầu không khí mỏng tang khiến người ta nghẹt thở. Tu Nhàn cầm một miếng lật đi lật lại trên đất, một vài chiếc bình bằng đồng thau bị lật lên kêu leng keng. Suy nghĩ một lúc, đột nhiên anh ta lắc đầu, “Xem ra gian này không phải là gian mộ chính, mà là gian mộ bên cạnh… Những thứ này đều là những dụng cụ và dùng trong tế lễ và dùng khi ăn uống.
Bì Bì hoàn toàn đồng tình với nhận đinh của Tu Nhàn, mặc dù trên đất ngổn ngang rất nhiều thứ nào bình nào chậu, nhưng Bì Bì hoàn toàn không nhìn thấy quan tài đâu. Sau đó, Tu Nhàn đột nhiên đi về hướng Đông, “Ở bên này, ở đây có một cửa nhỏ”.
Cửa nhỏ cũng là một hang động, nhưng chỉ cao bằng nửa người, hai người chui vào. Tu Nhàn rọi đèn pin tới, bất chợt có thứ ánh sáng gì đó phản chiếu lại, anh ta kêu lên một tiếng rồi ngã xuống đất.
Bì Bì vốn đăng căng thẳng, cho rằng Tu Nhàn gặp ma, tay run rẩy, làm rơi đèn pin xuống đất, không nghĩ được gì nhiều, vội vàng đến kéo Tu Nhàn, “Này, anh làm sao thế? Xảy ra chuyện gì vậy?”.
“Tắt… tắt đèn pin đi”, anh ta thì thào.
Bì Bì lập tức tắt đèn pin. Không gian nhất thời tối om, tối đến mức chẳng thể nhìn thấy năm đầu ngón tay.
“Anh bị thương rồi?”, cô hoảng hốt, đưa tay đỡ Tu Nhàn.
“Gần đây có đá chiếu”, anh ta nói.
“Chẳng phải anh bảo cần đốt mỡ rồng lên mới có thể chiếu được… các anh sao?”, cô vốn định nói là chiếu được “yêu hình”, nhưng sợ Tu Nhàn để ý, nên vội nuốt hai từ đó vào trong.
“Có thể là… truyền thuyết đã sai.”
“Vậy thì Hạ Lan vào đây bằng cách nào?”
“Năm tu hành của anh ấy… nhiều gấp đôi tôi”, Tu Nhàn bắt đầu nói khó khăn, hơi thở hổn hển, nằm trên đất như thể trúng phải chất kịch độc, tay chân cứng đơ, không ngừng run rẩy.
“Anh phải nhanh chóng rời khỏi nơi này, để tôi đưa anh ra ngoài trước”, Bì Bì đeo lại ba lô, cúi người định bế Tu Nhàn lên, bỗng nghe thấy tiếng thở gấp của anh ta, dường như hô hấp đang vô cùng khó khăn.
Dáng người Tu Nhàn không cao lắm, người cũng gầy nhưng Bì Bì vẫn cảm thấy anh ta rất nặng. Cô cố hết sức muốn kéo anh ta từ trên đất dậy, nhưng thử mấy lần vẫn không sao làm được. Cô khoác cánh tay anh ta rồi ra sức kéo. Kéo được mười mấy phút, cuối cùng cô cũng đưa được Tu Nhàn đến căn mộ thất ban đầu.
Bật đèn pin soi vào mặt Tu Nhàn, khuôn mặt anh ta tái xanh, mắt hằn lên những tia máu, hình dáng quỷ mị. Anh ta nắm lấy tay cô, nói, “Có lẽ tôi không cố được bao lâu nữa đâu, cô phải nhanh chóng tìm thấy gỗ Hằng Xuân”.
Nghe anh ta nói thế, Bì Bì như thể bị giội gáo nước lạnh, “Anh… anh sẽ chết sao?”.
“Tôi thấy rất mệt mỏi”, anh ta thì thào, “Tôi không biết chết là như thế nào, tôi đã chết bao giờ đâu”.
Bì Bì bất chấp tất cả, đỡ người anh ta dậy, kéo ra bên ngoài, “Không khí ở đây không trong lành, tôi đưa anh ra ngoài trước đã”.
“Đừng lo cho tôi, đi tìm cây Hằng Xuân trước đi”, anh ta vội vàng quát lên.
“Không! Tôi phải đưa anh ra ngoài trước đã!”, cô nói, “Khoan Vĩnh không còn nữa, anh mà cũng chết thì Hạ Lan sẽ rất đau lòng”.
Cô bước vào lối đi hẹp trước, sau đó lấy áo buộc chặt tay Tu Nhàn, dồn hết sức kéo anh ta ra ngoài. Nửa đoạn đường đầu tiên Tu Nhàn còn có thể cử động một chút, anh ta đưa tay đẩy đất để di chuyển về phía trước, dần dần chẳng còn chút sức lực nào, tay mềm nhũn, thậm chí gục đầu luôn trên đất, Bì Bì nói chuyện cũng không thấy anh ta trả lời. Nhưng cô vẫn không ngừng kéo, từng chút từng chút một, gần một tiếng đồng hồ sau cuối cùng cũng kéo được anh ta ra đến cửa động. Ngẩng đầu lên có thể nhìn thấy một vòm trời, bầu không khí trong lành tràn đến, Bì Bì mở to miệng hít thở, lúc này mới phát hiện ra lưng và cánh tay mình bỏng rát, có lẽ ban nãy chỉ để ý đến chuyện cố gắng bò ra ngoài, mà không để ý đến vết thương do bị đất và đá cứa vào.
Cô đỡ Tu Nhàn ngồi dậy, nhưng lưng anh ta cứ mềm oặt, cả người không chút sức lực, lại ngã xuống như một bệnh nhân bại liệt vậy. Đồng thời đôi mắt anh ta cũng nhắm lại, hơi thở yếu ớt. Bì Bì bất chợt thấy vô cùng hoảng hốt, bèn đưa tay kiểm tra nhịp tim anh ta, nhưng Tu Nhàn nào có nhịp tim. Hồ ly giống chỉ có thể xác và một cơ quan sinh dục mà thôi, khi khỏe họ mạnh hơn bất cứ ai, song lúc suy yếu, họ lại chẳng chịu nổi một cú đánh.
Bì Bì nhanh trí, vội ôm lấy mặt anh ta, rồi hôn thật sâu.
Cơ thể Tu Nhàn khẽ động, liền đẩy cô ra, nói ấp úng, “Cô… cô… cô đang làm gì vậy?”.
“Cho anh chút dương khí.”
Dương khí nói có là có, Tu Nhàn lập tức có thể tự ngồi dậy một mình, ngẩng đầu lên, nhìn cô chằm chằm trong bóng tối.
Cô không để ý đến bất cứ thứ gì, lại cúi xuống hôn anh ta một lần nữa, lần này dừng lại rất lâu trên môi Tu Nhàn. Anh ta vô cùng bị động, cũng không đáp trả.
“Được rồi”, Bì Bì lau miệng, “Đừng nghĩ nhiều, tôi chỉ đang trị bệnh giúp anh thôi”.
Mãi anh ta không lên tiếng, một lúc lâu sau mới nói, “Trên mảnh gỗ đó có khắc hình hạc tiên, nhưng thời gian lâu như vậy, có lẽ hoa văn ấy cũng không dễ nhìn thấy đâu”.
“Nó là một cột gỗ rất lớn sao?”, Bì Bì hỏi.
“Không phải. Hạ Lan cũng chỉ tìm được một đoạn thôi, nó đã bị vỡ thành những mảnh nhỏ rồi. Mỗi mảnh chỉ to bằng chiếc đũa. Cô phải hết sức cẩn thận. Hạ Lan nói, khi anh ấy tìm thấy đoạn gỗ đó, nó đã được ngâm mấy nghìn năm trong mỡ rồng rồi. Thứ này không được để gần lửa, gặp lửa là cháy ngay. Thậm chí ở nhiệt độ cao nó cũng sẽ cháy. Hạ Lan vốn định lấy một chút đồ trong ngôi mộ này, nhưng vì tránh gỗ Hằng Xuân và đá chiếu nên không dám ở lại lâu, mà phải vội vàng rời đi ngay.”
Bì Bì gật đầu, ngậm đèn pin vào miệng, một mình quay trở lại một thất theo con đường đi.
Trước mặt là một huyệt động sâu thẳm và tĩnh mịch, Bì Bì vô cùng sợ hãi, nhưng cô chẳng còn sự lựa chọn nào khác cả.
Căn mộ thất không hề lớn, rọi đèn pin vào, còn có một vài ánh sáng mỏng manh phản chiếu lại. Nhìn kỹ, quả nhiên trên đất ngổn ngang những hòn đá màu đen, mỏng như đá mi ca, nhưng hầu như đều bị lớp bụi đen dày bao lấy. Bì Bì nhặt một miếng lên, lau lớp bụi bám bên trên đi, bề mặt liền sáng như gương. Chiếu ánh đèn pin vào đó, lập tức ánh sáng phản quang sáng rực. Bây giờ cô mới hiểu hóa ra không phải chỉ khi nào đốt mỡ rồng đá chiếu mới có tác dụng. Vừa rồi nếu như không phải có quá nhiều bụi bám trên lớp đá này, thì có lẽ Tu Nhàn đã mất mạng ngay tại đây từ lâu rồi!
Cô nhặt mấy miếng đá lên, dùng khăn tay bọc lại rồi cất vào trong túi, sau đó lấy xẻng đào xung quanh để tìm kiếm gỗ cột trụ trong truyền thuyết.
Không khí trong căn mộ thất khiến người ta ngạt thở, những thứ bị vùi lấp bao nhiêu năm qua dưới đấy nay được lật lên, nhất thời tỏa ra thứ mùi gây mũi, khiến cô buồn nôn. Toàn thân nổi da gà, Bì Bì bèn mở MP3 vẫn để trong túi áo ra, mở một bản nhạc thật vui nhộn để xua tan nỗi sợ hãi trong lòng, miệng cũng lẩm nhẩm hát theo. Mặc dù như vậy, cô vẫn vô cùng sợ hãi. Khi không lên tiếng, trong mộ yên tĩnh đến mức khiến người ta tan vỡ, nhưng vừa lên tiếng lại sợ đánh thức linh hồn nghìn năm cô đơn nơi đây. Bì Bì vốn không tin chuyện ma quỷ, nhưng nếu như hồ tiên là có thật, thì ma quỷ chắc cũng sẽ có thật?
Chính giữa căn mộ thất đặt một cỗ quan tài mục nát, trông giống như một hộp gỗ hình chữ nhật. Có thể nhận ra cỗ quan tài đã bị người ta mở ra, bên mép còn có vết tích bị cạy bởi một dụng cụ bằng sắt.
Mặc dù không hiểu gì về khảo cổ, nhưng Bì Bì cũng đã tham quan Viện bảo tàng rồi, ở đó có đặt rất nhiều những cỗ quan tài kiểu cổ. Cỗ quan tài được sơn hoa văn lặng lẽ nằm trên kệ đá, căn mộ thất rộng gấp mười lần so với gian bên cạnh, địa vị của chủ ngôi nhà này chắc chắn không hề nhỏ. Nếu như thực sự là Yên Chiêu Vương thì bên trong có khả năng còn có vài cái quách nữa. Cô cầm đèn pin, khom lưng tìm kiếm thật kỹ trên đất, bên tai vẫn mang bản nhạc Rock của Michael Jackson.
Chẳng bao lâu, cô phát hiện một góc trên kệ đá có xếp vài mảnh gỗ mục. Cô bèn cầm một mảnh lên rồi áng chừng trên tay mình, mảnh gỗ rất nặng, được bọc bởi một thứ gì đó giống như nhựa đường, giống như thanh bánh bích quy có bọc chocolate hay bán trong các cửa hàng tạp hóa vậy. Cô dùng con dao nhỏ cạy bỏ lớp nhựa đường đi, bèn lộ ra những hình khắc. Bao nhiêu năm trôi đi, đường khắc đã bị mờ, đồng thời chỉ có một phần nhỏ nên không nhìn rõ hình dáng cụ thể. Lớp nhựa đường kia có màu tím đậm, dinh dính, giống với màu sắc như đã miêu tả mỡ rồng. Nhưng cô vẫn không dám chắc chắn đây chính là gỗ cột trụ, liền đi một vòng quanh mộ thất. Không cẩn thận, chân cô liền giẫm vào thứ gì đó tròn tròn. Cô soi đèn pin, thì ra là xương sọ người. Cô sợ hãi vội vàng nhắm nghiền mắt lại, tiện tay nhặt chiếc bát to bằng đồng thau dậy lên xương sọ đó, rồi vờ như không có chuyện gì xảy ra.
Trên đất ngổn ngang rất nhiều thứ: ngọc, xương người, đồ sứ, ngọc trai, còn một số dụng cụ bằng đồng và bằng sắt mà cô không biết tên là gì. Đương nhiên nhiều nhất vẫn là những mảnh gỗ vỡ vụn. Chúng cũng màu đen, rất nhỏ, cũng bị khắc hoa văn, nhưng bên trên không có vết tích của mỡ. Bì Bì đành quay lại nghiên cứu chồng gỗ trên kệ đá, so sánh đi so sánh lại hai loại với nhau.
Trong lúc vô tình cô thoáng nhìn thấy có ai đó đã vẽ một vòng tròn lớn trên kệ đá bằng than củi, gom chỗ gỗ ấy lại bên trong. Muốn xem kỹ xem bên trong vòng tròn đó còn có ký hiệu gì nữa không, cô gạt đống gỗ sang một bên, bất chợt trước mắt liền hiện lên hai chữ, trong đó một chữ rất nhiều nét: “Huề”.
Chữ còn lại là nét chữ của người khác, “Cẩn”. Chữ “Cẩn”rất nhỏ, viết ngay ngắn nào, nằm cạnh chữ “Huề”, có vẻ vô cùng thân thiết, ngọt ngào.
Lồng ngực cô tựa như vừa cháy lên ngọn lửa, cứ cho là cô không biết chữ này, thì cũng nhận ra nét bút của anh. Trong đầu cô liền hiện lên câu mà Tiểu Cúc đã từng nói:
“… Bì Bì, cậu không thể ngồi nhìn mọi việc xảy ra với mình mà không làm gì giống tớ được…”
Đúng thế, cô không thể ngồi nhìn Hạ Lan Tịnh Đình chết được.
Cô vội vàng gom tất cả những mảnh gỗ đó lại, rồi cất đầy trong một hộp đá đã chuẩn bị trước, sau đó bỏ vào túi rồi ra ngoài theo đường cũ.
Tu Nhàn vẫn ngồi ở cửa động, khuôn mặt trắng bệch.
Bì Bì hỏi, “Anh còn có thể đứng lên không? Tôi ra ngoài trước, rồi từ bên ngoài kéo anh ra nhé”.
Tu Nhàn lắc đầu.
“Đỡ vào cái này”, cô đặt vào tay anh ta chiếc rìu sắt dài chừng ba thước, sau đó ôm lấy mặt anh ta, hôn thật sâu.
Nhờ dương khí được tryền đến từ nụ hôn kéo dài đó, Tu Nhàn đã gắng gượng đứng dậy được.
Bì Bì chui ra ngoài hang, buộc thắt lưng vào sườn Tu Nhàn, cố hết sức kéo anh ta ra ngoài từng chút một.
Đường vào trộm mộ vốn ở một nơi vô cùng kín đáo, Bì Bì vội vàng lấp đất đi, rồi kéo cây mây cùng những dây leo xung quanh che lại. Cô đỡ Tu Nhàn đến bên một con đường núi rộng rãi, sau đó gọi điện thoại cho tài xế.
Tiếp đó cô gọi cho khách sạn, nhờ nhân viên đặt giúp mình vé máy bay trở về thành pố C chuyến sớm nhất ngày mai.
“Xin hỏi quý khách cần đặt mấy chiếc vé ạ?”, cô nhân viên nọ thành thạo gõ bàn phím.
“Hai chiếc.”
Cô bịt tay vào điện thoại, hỏi, “Tu Nhàn, anh không về cùng tôi sao?”.
Anh ta nhìn Bì Bì, trả lời, “Tôi phải về hang động của tôi tu luyện”.
Bì Bì nhìn xung quanh, “Ở đây? Trên ngọn núi này ư?”.
Anh ta lắc đầu, “Động của tôi nằm trên núi Võ Đang. Tôi sẽ tìm tạm một nơi nào đó ở đây để tu luyện trước khi nào chân khí hồi phục được một chút tôi sẽ khởi hành về núi Võ Đang”.
Bì Bì không kìm được hỏi, “Vậy anh cần phải tuy luyện bao nhiêu thời gian?”.
“Nhiều nhất là ba mươi năm”, anh ta cười, “Xem ra lần này chúng ta vĩnh biệt nhau thật rồi”.
“Sao có thể chứ?”, cô nói, “Chỉ có ba mươi năm, sau ba mươi năm, tôi mới hơn năm mươi tuổi mà”.
Nói được một nửa, Bì Bì bỗng nhớ tới lời nguyền của ngài Thanh Mộc, khuôn mặt liền xám xịt trong phúc chốc.
Quả nhiên là vĩnh biệt.
“Vậy thì kiếp sau tôi sẽ gặp lại anh”, cô cười thản nhiên.
“Thứ nhất, tôi không phải Hạ Lan, tôi sẽ không tới tìm cô đâu. Thứ hai, tôi mong cô sẽ không gặp lại chúng tôi nữa, như vậy cô sẽ có một cuộc sống của con người thuần túy, không bị hồ tiên làm phiền.”
Tu Nhàn cố tình nhấn mạnh từ “con người”.
Người của công ty taxi nói cô phải đợi hai mươi phút nữa họ mới tới nơi.
Bì Bì đỡ Tu Nhàn đến dưới một gốc cây, để anh ta tựa người vào đó.
Trầm mặc một lúc lâu, cố mới hỏi, “Hạ Lan đến ngôi mộ này không chỉ một lần, đúng không?”.
Anh ta gật đầu, “Sao cô biết?”.
“Người đầu tiên đi cùng anh ấy đến là một người có tên Cẩn”, Bì Bì ngừng một chút, rồi nói tiếp, “Có thể là một cô gái”.
“Đúng thế, tôi đã từng nghe Hạ Lan nói tới”, Tu Nhàn nói, “Anh ấy đã từng đưa cô đến nơi này… Tôi muốn nói tới mấy trăm năm trước. Anh ấy nói, cô rất gan dạ, cũng rất nghịch ngợm, nhất định muốn được vào trong cùng Hạ Lan”.
Bì Bì trợn tròn mắt.
“Kết quả là cô đã không cẩn thận chạm phải cơ quan chống trộm trong mật thất nên bị một mũi tên đâm xuyên qua tim và mất ngay tại đó.”
Khuôn mặt Bì Bì nhất thời sợ hãi đến biến sắc, “Anh tha cho tôi đi, Tu Nhàn, chuyện này quá nực cười, quá hài hước!”.
“Không hề hài hước”, anh ta nói, “Hạ Lan bảo, khi đó cô hơi sợ, để không khí được ấm áp hơn, anh ấy đã kể chuyện cười cho cô nghe, cô vui đến mức khoa chân múa tay, không cẩn thận liền chạm vào cơ quan. Trong cơn giận dữ, Hạ Lan đã ném Yên Chiêu Vương ra ngoài, sau đó dọn dẹp bên trong thật sạch sẽ, đặt cô vào đó, Sau này tôi còn đến cùng anh ấy mấy lần làm lễ truy điệu. Anh ấy thường nói, đã hai mươi mấy lần anh ấy gặp được cô, nhưng kiếp đó là lần cô chết oan uổng nhất”.
[1] Đây là một câu thơ trong bài Yên Chiêu Vương mộ của La Ân. Câu thơ nguyên gốc chữ Hán là, “Dục điếu di hồn dã thảo thâm” (欲吊遗魂野草深). Yên Chiêu Vương nổi tiếng là người chiêu mộ nhân tài hiền sĩ, nhưng khi mất thì không biết được chôn ở đâu. Ý câu thơ trên muốn nói, tác giả muốn tìm mộ của Yên Chiêu Vương, nhưng xung quanh toàn là cỏ dại, không tìm thấy tung tích gì của cổ mộ. Tác giả mượn câu thơ của người xưa chỉ để muốn nói “cổ mộ khó tìm” mà thôi.
Tám giờ sáng máy bay cất cánh. Bì Bì dậy từ sáu giờ, thấy Hạ Lan Tịnh Đình đang sắp xếp hành lý cho mình. Cô đi tắm rửa, sau đó đến thư phòng tìm tấm bản đồ giao thông của các tỉnh trong toàn quốc, rồi cất vào túi.
Chuẩn bị đồ đạc xong xuôi, ra khỏi phòng, Bì Bì phát hiện Tu Nhàn đang đợi mình ở phòng khách cùng chiếc chìa khóa xe trong tay.
Hai người nhìn nhau không nói, Bì Bì ôm thật chặt lấy Hạ Lan Tịnh Đình, nhìn anh chằm chằm, nói: “Đợi em về”.
Hạ Lan Tịnh Đình gật đầu, rồi tiễn cô và Tu Nhàn ra cửa.
Chiếc xe ra khỏi cửa thì chạy xuống một con dốc, men theo con đường nhỏ đó rất nhanh chóng tới được dưới chân núi. Hình bóng anh mờ dần, khuôn mặt chẳng chút biểu cảm, thấy chiếc xe chuẩn bị chuyển sang một ngã rẽ, anh mới đột nhiên giơ tay lên vẫy, Bì Bì liền nước mắt như mưa.
Cô khóc thút thít cả dọc đường cho tới khi đến sân bay.
Vừa bước xuống xe, Bì Bì lau khô nước mắt, sau đó xé đôi tấm vé, nói với Tu Nhàn, “Tôi muốn đi tìm lăng mộ của Yên Chiêu Vương. Anh có muốn đi cùng tôi không?”.
Dường như đây cũng là kế hoạch của Tu Nhàn, anh ta lập tức gật đầu, “Lăng mộ đó nằm ở huyến Kế, tỉnh Thiên Tân. Tôi đi mua vé máy bay đến Thiên Tân”.
Anh ta vẫn đi đôi tông, phía sau chiếc áo màu trắng vẫn vẽ hình một con chim bằng mực tàu. Đôi cánh của con chim màu đen, trông rất giống con quạ, bộ dạng hờ hững, đôi mắt chất chứa nỗi đau buồn.
“Anh đã ăn sáng chưa?”, Bì Bì hỏi.
“Chưa.”
“Để tôi đi mua cho anh.”
Anh ta gật đầu, rồi đi thẳng tới quầy bán vé. Bì Bì bỗng nhận ra dạo gần đây trông Tu Nhàn có vẻ lôi thôi, lếch thếch. Anh ta không buồn cạo râu, đầu tóc rối bù. May mà ngoại hình Tu Nhàn vô cùng đẹp nên những khuyết điểm liền trở thành một phong cách. Anh ta đi tới quầy bán vé với một làn hương kiều diễm, khiến mọi người trên đường ai ai cũng phải ngoái đầu nhìn, dù là gái hay trai.
Cô mua lạp xường và bánh bao nhân thịt cho bữa sáng, khi quay về đã thấy Tu Nhàn ngồi trên hàng ghế gần lối vào cửa kiểm soát an ninh rồi.
Cô đưa đồ ăn, còn kèm theo cả một đôi đũa và một chiếc đĩa dùng một lần cho anh ta.
Anh ta ngẩng đầu nhìn cô, ánh nhìn tựa như một mũi tên, sau đó lập tức lấy đũa ra và từ từ ăn sáng.
Cô ngồi xuống, uống một ngụm sữa đậu nành, có ý định tiếp chuyện, “Khoan Vĩnh là người Thiên Thủy sao? Sao tôi lại nghe Hạ Lan nói anh ấy là người Anh nhỉ?”.
“Đừng nhắc đến anh ấy, được không?”, anh ta đột nhiên không kiên nhẫn thêm được nữa.
“Xin lỗi.”
Thời gian còn lại cho đến khi lên máy bay, rồi xuống máy bay, sau đó ngồi xe buýt hai tiếng đồng hồ trên đường cao tốc đến huyện Kế, Tu Nhàn không nói thêm một câu nào.
Hai người ở trọ trong khách sạn Ngư Dương thuộc huyện Kế.
Khách sạn này nằm gần ngọn núi Phủ Quân. Hai người cất hành lý, sau đó bắt xe tới chân núi Phủ Quân. Tu Nhàn nói, “Tôi đưa cô lên núi đi dạo một lát”.
Bì Bì nhìn anh ta, hỏi, “Anh… từng đến nơi này ư?”.
Anh ta gật đầu.
“Hạ Lan cũng đến nơi này rồi sao?”
“Đúng thế.”
“Các anh biết cột trụ nằm ở đâu?”
“Đây là điều cơ mật của tộc chúng tôi, cứ cho là Triệu Tùng, cung chưa chắc đã biết nhiều thứ. Hạ Lan đã mất rất nhiều thời gian nghiên cứu, mới tìm được gỗ của cột trụ, sau đó giấu lại trong lăng mộ của Yên Chiêu Vương.”
Bì Bì chớp mắt, “Cho nên, Hạ Lan cũng từng tới lăng mộ của Yên Chiêu Vương?”
Đúng vậy, làm việc này cần phải thật can đảm. Núi Phủ Quân còn có tên gọi là núi Không Động, là cấm địa của tộc hồ ly, không chỉ vì nơi đây có gỗ Hằng Xuân kìm hãm tộc hồ ly, mà còn một vài thứ khác nữa cũng có thể lấy mạng chúng tôi. Sở thích của Yên Chiêu Vương rất phong phú, ông ta cất giấu nhiều bảo vật, trong lăng mộ có rất nhiều cơ quan.”
Bì Bì không khỏi dừng bước, nhìn về phía trước.
Cô cảm thấy ngọn núi Phủ Quân này trông có vẻ rất bình thường, không cao lắm, không cheo leo và hùng vĩ như cô tưởng tượng. Nơi đây được mệnh danh là thánh địa Đạo giáo, là nơi Hoàng Đế [2] nghe Quảng Thành Tử [3] giảng đạo, nhưng cô chẳng cảm nhận được chút tiên khí gì.
[2] Hoàng Đế, còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế, là một vị vua huyền thoại và anh hùng văn hóa Trung Quốc, được coi là thủy tổ của người Hán. Chữ Hoàng 黄 ởđây hàm nghĩa sắc vàng, là màu biểu trưng cho hành thổ. Hiểu nôm na “Hoàng Đế” là “Vua Vàng”, khác với 皇 trong hoàng đế 皇帝 là danh xưng của các vua Trung Quốc kể từ thời nhà Tần.
[3] Là một vị thần tiên được dân gian dân tộc Hán Trung Quốc tín ngưỡng.
Cô đợi Tu Nhàn nói tiếp.
“Yên Chiêu Vương năm thứ hai tại vị, trong những bảo vật mà ngư dân tiến cống, ngoài cây Hằng Xuân ra còn có cả mỡ rồng.”
“Mỡ rồng?”
“Theo truyền thuyết, ở nước ngoài có núi Phương Trượng, phía Đông núi có một trường đấu rồng. Những con rồng lớn thường giao đấu ở đó, mỡ và máu tuôn ra như nước chảy. Người ngư dân kia liền đựng mỡ rồng trong bình chạm trổ tiến cống cho Chiêu Vương. Chiêu Vương ngồi trên đài Thông Vân, đốt mỡ rồng làm đèn, ánh sáng tỏa ra trăm dặm, khói có màu tím đỏ.”
Bì Bì nói tiếp, “Mỡ rồng mà anh nói tới cũng có thể lấy mạng các anh sao?”.
“Không phải”, Tu Nhàn giải thích, “Phía Tây của núi Phương Trượng có một loại đá chiếu, viên đá ấy vỡ ra thành những mảnh như mảnh gương, đốt mỡ rồng lên chiếu, vạn vật sẽ hiện nguyên hình, yêu nghiệt sẽ bị mất mạng. Khi Chiêu Vương mất, những người thợ thủ công đã nghiền loại đá này ra trộn vào bùn, có tác dụng bảo vệ quan tài. Cho nên năm đó Hạ Lan một mình vào lăng mộ chỉ mang theo một chiếc đèn pin cầm tay thôi. Bất cứ thứ gì bốc cháy đều có thể khiến anh ấy mất mạng”.
Đi dạo nửa tiếng đồng hồ trên núi, đến Tỏa Tử Lĩnh ở chân núi phía Tây, Tu Nhàn chỉ vào một đống đất rất lớn cách đó không xa, nói: “Có nhìn thấy gò đất kia không? Dân quanh vùng này đều gọi nó là mộ Đậu Vương, nhưng Đậu Vương là ai thì không biết. Chu vi của gò đất này hơn một trăm thước vuông, nhưng trên bề mặt không có lấy một cái cây, cô không cảm thấy kỳ lạ sao? Đó là bởi vì trên phần mộ của quân vương thời cổ đại thường được phủ một lớp bụi đất được tạo thành từ tương gạo nếp trộn đều với vôi. Loại đất này có thể chống ẩm, không thấm nước, rất kiên cố, rễ cây không thể hấp thụ chất dinh dưỡng từ bên trong, chỉ có những loại cỏ rễ không bám sâu mới có thể sinh trưởng ở đó được. Ngoài ra, Tỏa Tử Lĩnh chính là nơi long mạch hội tụ, theo cách đánh giá của các nhà phong thủy thì khí thế cổ mộ phi phàm, Đông hướng về sườn núi, Tây hướng về kinh đô. Nhìn thẳng có hình chòm sao Thương Long, miệng phun suối nguồn, có thế rồng lượn hổ ngồi, là kiểu lăng tẩm điển hình của bậc đế vương. Yên Chiêu Vương cả đời say mê với các phương thuật thần tiên, tất nhiên sẽ chọn nơi có phong thủy thuận lợi nhất để làm chỗ quy tiên cho mình”.
Bì Bì bỗng có cái nhìn khác về người đàn ông này, “Chẳng phải anh là bác sĩ sao? Sao tôi cứ cảm thấy anh cũng là một nhà Khảo cổ học nhỉ?”.
Tu Nhàn cười nhạt, “Nói tới Khảo cổ học, với con mắt của các nhà Khảo cổ học, mộ đạo trong lăng mộ của các bậc đế vương thường theo hướng Tây, từ mé Tây đi vào sơn động, sau đó xây dựng lăng mộ ở mé Đông. Đây là kết cấu lăng mộ điển hình của vương tôn quý tộc trước thời nhà Hán… Trước khi học y, tôi thường đi theo giúp việc cho Hạ Lan, tất cả những điều này đều là anh ấy dạy tôi đó”.
Nói rồi, anh ta tiện tay nhặt nửa viên ngói dưới đất lên, “Cô nhìn viên ngói có chạm hình ác thú này đi, loại này cũng thường gặp ở Yên Đô”.
Bì Bì nói, “Mộ đạo ở đâu? Bây giờ chúng ta bắt đầu đào, được không?”.
Tu Nhàn nhìn chằm chằm cô, “Sao có thể làm việc này vào ban ngày chứ? Phá hoại di vật văn hóa quốc gia, lẽ nào cô không sợ bị bắt?”.
Đợi cả một ngày cũng không nhận được bất cứ cuộc điện thoại nào của Hạ Lan Tịnh Đình. Nhân lúc đó, Bì Bì và Tu Nhàn đi mua một vài thứ như xẻng, rìu và đèn pin.
Trước tiên hai người ra khỏi khách sạn, đi dạo phố, ăn cơm, cho tới tận nửa đêm mới lên núi rồi đến Tỏa Tử Lĩnh.
Tu Nhàn nhanh chóng tìm thấy lối vào mộ đạo ngày trước đã đào. Hai người hai chiếc xẻng, đào hai tiếng đồng hồ, bỗng nhiên xẻng chạm vào một phiến đá lớn, Tu Nhàn bèn nói, “Lối vào chính là ở bên dưới phiến đá này”.
Bì Bì lấy từ trong túi ra một chai rượu xái, ngẩng đầu uống một ngụm, sau đó lau miệng, cầm xẻng lên ra sức đào xung quanh. Chẳng bao lâu, một phiến đá màu xanh chừng một thước vuông lộ ra ngoài. Tu Nhàn dùng xẻng bậy thật mahj, phiến đá liền hé ra một khe. Anh ta ra sức đẩy, cuosi cùng đẩy ra được một cái lỗ đủ cho một người chui vào.
Một cơn gió lạnh thình lình từ bên trong ùa ra.
Trên núi chỉ có tiếng côn trùng kêu. Cơn gió lạnh cuốn theo cả mùi mục nát, Bì Bì liền thay hai cục pin mới vào đèn pin, sau đó nhìn Tu Nhàn, bốn bề xung quanh âm u, như thể có vô số âm hồn vừa từ hang đọng bay ra nhảy nhót xung quanh cô.
Cô sợ hãi, toàn thân nổi da gà.
“Lần trước… anh đã vào đây chưa?”, hai chân Bì Bì run rẩy, không khỏi dịch sát vào Tu Nhàn.
“Chưa. Hạ Lan không cho tôi vào trong. Tôi luôn đứng ở cửa động tiếp ứng cho anh ấy. Nếu như cô sợ thì cứ đứng ở ngoài đợi tôi.”
Dứt lời, anh ta đưa đèn pin lên miệng cắn, sau đó khẽ nhảy vào bên trong.
Đương nhiên Bì Bì rất sợ, tim không ngừng đập loạn, nhưng cô vẫn giậm giậm chân, cắn răng thật chặt rồi nhảy theo.
Hóa ra cái động này không hề sâu, chỉ cao bằng một người mà thôi. Khi nhảy xuống, Tu Nhàn còn đưa tay đỡ cô, dưới chân cô là những khối đất và mảnh gói vỡ, cô giẫm chân lên đó tiến về phía trước, không ngừng phát ra những tiếng lạch cạch. Đi được vài bước bỗng bị cản lại bởi một khối đá to, hai người buộc phải cúi lưng đục một lối đi khác bên cạnh phiến đá to kia. Cái động này rất nhỏ, chỉ chứa được một người. Tu Nhàn cởi áo ra, để mình trần đi vào bên trong. Người Bì Bì nhỏ hơn Tu Nhàn, nhưng cũng cởi bỏ chiếc áo jacket của mình ra, chỉ mặc một chiếc áo phông cộc tay bó sát người bò vào bên trong…
Đó là một lối đi dài đến hơn hai mươi mét, có lẽ là do Hạ Lan Tịnh Đình đào. Bò được một nửa, ô xy trong mộ rất ít, Bì Bì liền dừng lại giữa chừng. Bò được một nửa, ô xy trong mộ rất ít, Bì Bì liền dừng lại giữa chừng, thở hổn hển. Một lúc sau, cô cố nín thở, tiếp tục bò bạt mạng về phía trước, một lúc sau thì đến cuối lối đi. Cô chui ra ngoài với một mái đầu đầy bụi và một khuôn mặt lấm lem bùn đất, lúc này không gian trở nên rộng rãi hơn.
Trong lăng mộ đầy mùi chết chóc.
Đèn pin chỉ chiếu được một quầng sáng nhỏ bé, cô chạm vào Tu Nhàn ở phía trước, “Đây chính là mộ thất sao?”.
“Ừm.”
Rọi đèn pin đi khắp nơi căn mộ, dường như hai người đã đến một căn phòng trong lòng đất. Trên nóc là những hàng gỗ lim lớn, trên sàn ngỏn ngang bừa bộn. Có một bên tường đã bị đổ, đất bên ngoài rơi vào trong một từ mảnh gỗ nghiên nghiêng, dường như cả căn mộ thất này có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.
Bì Bì bỗng ngửi thấy mùi thối rữa, bầu không khí mỏng tang khiến người ta nghẹt thở. Tu Nhàn cầm một miếng lật đi lật lại trên đất, một vài chiếc bình bằng đồng thau bị lật lên kêu leng keng. Suy nghĩ một lúc, đột nhiên anh ta lắc đầu, “Xem ra gian này không phải là gian mộ chính, mà là gian mộ bên cạnh… Những thứ này đều là những dụng cụ và dùng trong tế lễ và dùng khi ăn uống.
Bì Bì hoàn toàn đồng tình với nhận đinh của Tu Nhàn, mặc dù trên đất ngổn ngang rất nhiều thứ nào bình nào chậu, nhưng Bì Bì hoàn toàn không nhìn thấy quan tài đâu. Sau đó, Tu Nhàn đột nhiên đi về hướng Đông, “Ở bên này, ở đây có một cửa nhỏ”.
Cửa nhỏ cũng là một hang động, nhưng chỉ cao bằng nửa người, hai người chui vào. Tu Nhàn rọi đèn pin tới, bất chợt có thứ ánh sáng gì đó phản chiếu lại, anh ta kêu lên một tiếng rồi ngã xuống đất.
Bì Bì vốn đăng căng thẳng, cho rằng Tu Nhàn gặp ma, tay run rẩy, làm rơi đèn pin xuống đất, không nghĩ được gì nhiều, vội vàng đến kéo Tu Nhàn, “Này, anh làm sao thế? Xảy ra chuyện gì vậy?”.
“Tắt… tắt đèn pin đi”, anh ta thì thào.
Bì Bì lập tức tắt đèn pin. Không gian nhất thời tối om, tối đến mức chẳng thể nhìn thấy năm đầu ngón tay.
“Anh bị thương rồi?”, cô hoảng hốt, đưa tay đỡ Tu Nhàn.
“Gần đây có đá chiếu”, anh ta nói.
“Chẳng phải anh bảo cần đốt mỡ rồng lên mới có thể chiếu được… các anh sao?”, cô vốn định nói là chiếu được “yêu hình”, nhưng sợ Tu Nhàn để ý, nên vội nuốt hai từ đó vào trong.
“Có thể là… truyền thuyết đã sai.”
“Vậy thì Hạ Lan vào đây bằng cách nào?”
“Năm tu hành của anh ấy… nhiều gấp đôi tôi”, Tu Nhàn bắt đầu nói khó khăn, hơi thở hổn hển, nằm trên đất như thể trúng phải chất kịch độc, tay chân cứng đơ, không ngừng run rẩy.
“Anh phải nhanh chóng rời khỏi nơi này, để tôi đưa anh ra ngoài trước”, Bì Bì đeo lại ba lô, cúi người định bế Tu Nhàn lên, bỗng nghe thấy tiếng thở gấp của anh ta, dường như hô hấp đang vô cùng khó khăn.
Dáng người Tu Nhàn không cao lắm, người cũng gầy nhưng Bì Bì vẫn cảm thấy anh ta rất nặng. Cô cố hết sức muốn kéo anh ta từ trên đất dậy, nhưng thử mấy lần vẫn không sao làm được. Cô khoác cánh tay anh ta rồi ra sức kéo. Kéo được mười mấy phút, cuối cùng cô cũng đưa được Tu Nhàn đến căn mộ thất ban đầu.
Bật đèn pin soi vào mặt Tu Nhàn, khuôn mặt anh ta tái xanh, mắt hằn lên những tia máu, hình dáng quỷ mị. Anh ta nắm lấy tay cô, nói, “Có lẽ tôi không cố được bao lâu nữa đâu, cô phải nhanh chóng tìm thấy gỗ Hằng Xuân”.
Nghe anh ta nói thế, Bì Bì như thể bị giội gáo nước lạnh, “Anh… anh sẽ chết sao?”.
“Tôi thấy rất mệt mỏi”, anh ta thì thào, “Tôi không biết chết là như thế nào, tôi đã chết bao giờ đâu”.
Bì Bì bất chấp tất cả, đỡ người anh ta dậy, kéo ra bên ngoài, “Không khí ở đây không trong lành, tôi đưa anh ra ngoài trước đã”.
“Đừng lo cho tôi, đi tìm cây Hằng Xuân trước đi”, anh ta vội vàng quát lên.
“Không! Tôi phải đưa anh ra ngoài trước đã!”, cô nói, “Khoan Vĩnh không còn nữa, anh mà cũng chết thì Hạ Lan sẽ rất đau lòng”.
Cô bước vào lối đi hẹp trước, sau đó lấy áo buộc chặt tay Tu Nhàn, dồn hết sức kéo anh ta ra ngoài. Nửa đoạn đường đầu tiên Tu Nhàn còn có thể cử động một chút, anh ta đưa tay đẩy đất để di chuyển về phía trước, dần dần chẳng còn chút sức lực nào, tay mềm nhũn, thậm chí gục đầu luôn trên đất, Bì Bì nói chuyện cũng không thấy anh ta trả lời. Nhưng cô vẫn không ngừng kéo, từng chút từng chút một, gần một tiếng đồng hồ sau cuối cùng cũng kéo được anh ta ra đến cửa động. Ngẩng đầu lên có thể nhìn thấy một vòm trời, bầu không khí trong lành tràn đến, Bì Bì mở to miệng hít thở, lúc này mới phát hiện ra lưng và cánh tay mình bỏng rát, có lẽ ban nãy chỉ để ý đến chuyện cố gắng bò ra ngoài, mà không để ý đến vết thương do bị đất và đá cứa vào.
Cô đỡ Tu Nhàn ngồi dậy, nhưng lưng anh ta cứ mềm oặt, cả người không chút sức lực, lại ngã xuống như một bệnh nhân bại liệt vậy. Đồng thời đôi mắt anh ta cũng nhắm lại, hơi thở yếu ớt. Bì Bì bất chợt thấy vô cùng hoảng hốt, bèn đưa tay kiểm tra nhịp tim anh ta, nhưng Tu Nhàn nào có nhịp tim. Hồ ly giống chỉ có thể xác và một cơ quan sinh dục mà thôi, khi khỏe họ mạnh hơn bất cứ ai, song lúc suy yếu, họ lại chẳng chịu nổi một cú đánh.
Bì Bì nhanh trí, vội ôm lấy mặt anh ta, rồi hôn thật sâu.
Cơ thể Tu Nhàn khẽ động, liền đẩy cô ra, nói ấp úng, “Cô… cô… cô đang làm gì vậy?”.
“Cho anh chút dương khí.”
Dương khí nói có là có, Tu Nhàn lập tức có thể tự ngồi dậy một mình, ngẩng đầu lên, nhìn cô chằm chằm trong bóng tối.
Cô không để ý đến bất cứ thứ gì, lại cúi xuống hôn anh ta một lần nữa, lần này dừng lại rất lâu trên môi Tu Nhàn. Anh ta vô cùng bị động, cũng không đáp trả.
“Được rồi”, Bì Bì lau miệng, “Đừng nghĩ nhiều, tôi chỉ đang trị bệnh giúp anh thôi”.
Mãi anh ta không lên tiếng, một lúc lâu sau mới nói, “Trên mảnh gỗ đó có khắc hình hạc tiên, nhưng thời gian lâu như vậy, có lẽ hoa văn ấy cũng không dễ nhìn thấy đâu”.
“Nó là một cột gỗ rất lớn sao?”, Bì Bì hỏi.
“Không phải. Hạ Lan cũng chỉ tìm được một đoạn thôi, nó đã bị vỡ thành những mảnh nhỏ rồi. Mỗi mảnh chỉ to bằng chiếc đũa. Cô phải hết sức cẩn thận. Hạ Lan nói, khi anh ấy tìm thấy đoạn gỗ đó, nó đã được ngâm mấy nghìn năm trong mỡ rồng rồi. Thứ này không được để gần lửa, gặp lửa là cháy ngay. Thậm chí ở nhiệt độ cao nó cũng sẽ cháy. Hạ Lan vốn định lấy một chút đồ trong ngôi mộ này, nhưng vì tránh gỗ Hằng Xuân và đá chiếu nên không dám ở lại lâu, mà phải vội vàng rời đi ngay.”
Bì Bì gật đầu, ngậm đèn pin vào miệng, một mình quay trở lại một thất theo con đường đi.
Trước mặt là một huyệt động sâu thẳm và tĩnh mịch, Bì Bì vô cùng sợ hãi, nhưng cô chẳng còn sự lựa chọn nào khác cả.
Căn mộ thất không hề lớn, rọi đèn pin vào, còn có một vài ánh sáng mỏng manh phản chiếu lại. Nhìn kỹ, quả nhiên trên đất ngổn ngang những hòn đá màu đen, mỏng như đá mi ca, nhưng hầu như đều bị lớp bụi đen dày bao lấy. Bì Bì nhặt một miếng lên, lau lớp bụi bám bên trên đi, bề mặt liền sáng như gương. Chiếu ánh đèn pin vào đó, lập tức ánh sáng phản quang sáng rực. Bây giờ cô mới hiểu hóa ra không phải chỉ khi nào đốt mỡ rồng đá chiếu mới có tác dụng. Vừa rồi nếu như không phải có quá nhiều bụi bám trên lớp đá này, thì có lẽ Tu Nhàn đã mất mạng ngay tại đây từ lâu rồi!
Cô nhặt mấy miếng đá lên, dùng khăn tay bọc lại rồi cất vào trong túi, sau đó lấy xẻng đào xung quanh để tìm kiếm gỗ cột trụ trong truyền thuyết.
Không khí trong căn mộ thất khiến người ta ngạt thở, những thứ bị vùi lấp bao nhiêu năm qua dưới đấy nay được lật lên, nhất thời tỏa ra thứ mùi gây mũi, khiến cô buồn nôn. Toàn thân nổi da gà, Bì Bì bèn mở MP3 vẫn để trong túi áo ra, mở một bản nhạc thật vui nhộn để xua tan nỗi sợ hãi trong lòng, miệng cũng lẩm nhẩm hát theo. Mặc dù như vậy, cô vẫn vô cùng sợ hãi. Khi không lên tiếng, trong mộ yên tĩnh đến mức khiến người ta tan vỡ, nhưng vừa lên tiếng lại sợ đánh thức linh hồn nghìn năm cô đơn nơi đây. Bì Bì vốn không tin chuyện ma quỷ, nhưng nếu như hồ tiên là có thật, thì ma quỷ chắc cũng sẽ có thật?
Chính giữa căn mộ thất đặt một cỗ quan tài mục nát, trông giống như một hộp gỗ hình chữ nhật. Có thể nhận ra cỗ quan tài đã bị người ta mở ra, bên mép còn có vết tích bị cạy bởi một dụng cụ bằng sắt.
Mặc dù không hiểu gì về khảo cổ, nhưng Bì Bì cũng đã tham quan Viện bảo tàng rồi, ở đó có đặt rất nhiều những cỗ quan tài kiểu cổ. Cỗ quan tài được sơn hoa văn lặng lẽ nằm trên kệ đá, căn mộ thất rộng gấp mười lần so với gian bên cạnh, địa vị của chủ ngôi nhà này chắc chắn không hề nhỏ. Nếu như thực sự là Yên Chiêu Vương thì bên trong có khả năng còn có vài cái quách nữa. Cô cầm đèn pin, khom lưng tìm kiếm thật kỹ trên đất, bên tai vẫn mang bản nhạc Rock của Michael Jackson.
Chẳng bao lâu, cô phát hiện một góc trên kệ đá có xếp vài mảnh gỗ mục. Cô bèn cầm một mảnh lên rồi áng chừng trên tay mình, mảnh gỗ rất nặng, được bọc bởi một thứ gì đó giống như nhựa đường, giống như thanh bánh bích quy có bọc chocolate hay bán trong các cửa hàng tạp hóa vậy. Cô dùng con dao nhỏ cạy bỏ lớp nhựa đường đi, bèn lộ ra những hình khắc. Bao nhiêu năm trôi đi, đường khắc đã bị mờ, đồng thời chỉ có một phần nhỏ nên không nhìn rõ hình dáng cụ thể. Lớp nhựa đường kia có màu tím đậm, dinh dính, giống với màu sắc như đã miêu tả mỡ rồng. Nhưng cô vẫn không dám chắc chắn đây chính là gỗ cột trụ, liền đi một vòng quanh mộ thất. Không cẩn thận, chân cô liền giẫm vào thứ gì đó tròn tròn. Cô soi đèn pin, thì ra là xương sọ người. Cô sợ hãi vội vàng nhắm nghiền mắt lại, tiện tay nhặt chiếc bát to bằng đồng thau dậy lên xương sọ đó, rồi vờ như không có chuyện gì xảy ra.
Trên đất ngổn ngang rất nhiều thứ: ngọc, xương người, đồ sứ, ngọc trai, còn một số dụng cụ bằng đồng và bằng sắt mà cô không biết tên là gì. Đương nhiên nhiều nhất vẫn là những mảnh gỗ vỡ vụn. Chúng cũng màu đen, rất nhỏ, cũng bị khắc hoa văn, nhưng bên trên không có vết tích của mỡ. Bì Bì đành quay lại nghiên cứu chồng gỗ trên kệ đá, so sánh đi so sánh lại hai loại với nhau.
Trong lúc vô tình cô thoáng nhìn thấy có ai đó đã vẽ một vòng tròn lớn trên kệ đá bằng than củi, gom chỗ gỗ ấy lại bên trong. Muốn xem kỹ xem bên trong vòng tròn đó còn có ký hiệu gì nữa không, cô gạt đống gỗ sang một bên, bất chợt trước mắt liền hiện lên hai chữ, trong đó một chữ rất nhiều nét: “Huề”.
Chữ còn lại là nét chữ của người khác, “Cẩn”. Chữ “Cẩn”rất nhỏ, viết ngay ngắn nào, nằm cạnh chữ “Huề”, có vẻ vô cùng thân thiết, ngọt ngào.
Lồng ngực cô tựa như vừa cháy lên ngọn lửa, cứ cho là cô không biết chữ này, thì cũng nhận ra nét bút của anh. Trong đầu cô liền hiện lên câu mà Tiểu Cúc đã từng nói:
“… Bì Bì, cậu không thể ngồi nhìn mọi việc xảy ra với mình mà không làm gì giống tớ được…”
Đúng thế, cô không thể ngồi nhìn Hạ Lan Tịnh Đình chết được.
Cô vội vàng gom tất cả những mảnh gỗ đó lại, rồi cất đầy trong một hộp đá đã chuẩn bị trước, sau đó bỏ vào túi rồi ra ngoài theo đường cũ.
Tu Nhàn vẫn ngồi ở cửa động, khuôn mặt trắng bệch.
Bì Bì hỏi, “Anh còn có thể đứng lên không? Tôi ra ngoài trước, rồi từ bên ngoài kéo anh ra nhé”.
Tu Nhàn lắc đầu.
“Đỡ vào cái này”, cô đặt vào tay anh ta chiếc rìu sắt dài chừng ba thước, sau đó ôm lấy mặt anh ta, hôn thật sâu.
Nhờ dương khí được tryền đến từ nụ hôn kéo dài đó, Tu Nhàn đã gắng gượng đứng dậy được.
Bì Bì chui ra ngoài hang, buộc thắt lưng vào sườn Tu Nhàn, cố hết sức kéo anh ta ra ngoài từng chút một.
Đường vào trộm mộ vốn ở một nơi vô cùng kín đáo, Bì Bì vội vàng lấp đất đi, rồi kéo cây mây cùng những dây leo xung quanh che lại. Cô đỡ Tu Nhàn đến bên một con đường núi rộng rãi, sau đó gọi điện thoại cho tài xế.
Tiếp đó cô gọi cho khách sạn, nhờ nhân viên đặt giúp mình vé máy bay trở về thành pố C chuyến sớm nhất ngày mai.
“Xin hỏi quý khách cần đặt mấy chiếc vé ạ?”, cô nhân viên nọ thành thạo gõ bàn phím.
“Hai chiếc.”
Cô bịt tay vào điện thoại, hỏi, “Tu Nhàn, anh không về cùng tôi sao?”.
Anh ta nhìn Bì Bì, trả lời, “Tôi phải về hang động của tôi tu luyện”.
Bì Bì nhìn xung quanh, “Ở đây? Trên ngọn núi này ư?”.
Anh ta lắc đầu, “Động của tôi nằm trên núi Võ Đang. Tôi sẽ tìm tạm một nơi nào đó ở đây để tu luyện trước khi nào chân khí hồi phục được một chút tôi sẽ khởi hành về núi Võ Đang”.
Bì Bì không kìm được hỏi, “Vậy anh cần phải tuy luyện bao nhiêu thời gian?”.
“Nhiều nhất là ba mươi năm”, anh ta cười, “Xem ra lần này chúng ta vĩnh biệt nhau thật rồi”.
“Sao có thể chứ?”, cô nói, “Chỉ có ba mươi năm, sau ba mươi năm, tôi mới hơn năm mươi tuổi mà”.
Nói được một nửa, Bì Bì bỗng nhớ tới lời nguyền của ngài Thanh Mộc, khuôn mặt liền xám xịt trong phúc chốc.
Quả nhiên là vĩnh biệt.
“Vậy thì kiếp sau tôi sẽ gặp lại anh”, cô cười thản nhiên.
“Thứ nhất, tôi không phải Hạ Lan, tôi sẽ không tới tìm cô đâu. Thứ hai, tôi mong cô sẽ không gặp lại chúng tôi nữa, như vậy cô sẽ có một cuộc sống của con người thuần túy, không bị hồ tiên làm phiền.”
Tu Nhàn cố tình nhấn mạnh từ “con người”.
Người của công ty taxi nói cô phải đợi hai mươi phút nữa họ mới tới nơi.
Bì Bì đỡ Tu Nhàn đến dưới một gốc cây, để anh ta tựa người vào đó.
Trầm mặc một lúc lâu, cố mới hỏi, “Hạ Lan đến ngôi mộ này không chỉ một lần, đúng không?”.
Anh ta gật đầu, “Sao cô biết?”.
“Người đầu tiên đi cùng anh ấy đến là một người có tên Cẩn”, Bì Bì ngừng một chút, rồi nói tiếp, “Có thể là một cô gái”.
“Đúng thế, tôi đã từng nghe Hạ Lan nói tới”, Tu Nhàn nói, “Anh ấy đã từng đưa cô đến nơi này… Tôi muốn nói tới mấy trăm năm trước. Anh ấy nói, cô rất gan dạ, cũng rất nghịch ngợm, nhất định muốn được vào trong cùng Hạ Lan”.
Bì Bì trợn tròn mắt.
“Kết quả là cô đã không cẩn thận chạm phải cơ quan chống trộm trong mật thất nên bị một mũi tên đâm xuyên qua tim và mất ngay tại đó.”
Khuôn mặt Bì Bì nhất thời sợ hãi đến biến sắc, “Anh tha cho tôi đi, Tu Nhàn, chuyện này quá nực cười, quá hài hước!”.
“Không hề hài hước”, anh ta nói, “Hạ Lan bảo, khi đó cô hơi sợ, để không khí được ấm áp hơn, anh ấy đã kể chuyện cười cho cô nghe, cô vui đến mức khoa chân múa tay, không cẩn thận liền chạm vào cơ quan. Trong cơn giận dữ, Hạ Lan đã ném Yên Chiêu Vương ra ngoài, sau đó dọn dẹp bên trong thật sạch sẽ, đặt cô vào đó, Sau này tôi còn đến cùng anh ấy mấy lần làm lễ truy điệu. Anh ấy thường nói, đã hai mươi mấy lần anh ấy gặp được cô, nhưng kiếp đó là lần cô chết oan uổng nhất”.
Bình luận facebook