• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG 88.198.7.247 TỪ NGÀY 1/6

Full Cổ Đại Khó Kiếm Cơm (3 Viewers)

  • Chương 9

T đã trở lại, sau một ngày suy nghĩ thì hôm trc t đã sửa chế độ truyện thành riêng tư, mong mng chịu khó follow để đọc truyện. Mấy chương này khá là cảm xúc, tự dưng t thấy đúng là thế sự vô thường lắm.
Mấy chương này t edit k đc mượt lắm, câu cú hơi lủng củng, có mấy lỗi chính tả với tên của Thúy Cô t quên replace nên nó k viết hoa, mng đọc tạm vậy.
Chương 20
Buối tối Thẩm Hi nằm trong lòng Người mù mà không dám chợp mắt, nỗi sợ hãi cùng căng thẳng gặm nhấm tinh thần khiến nàng không thể ngủ yên. Nàng không ngừng lẩm bẩm, liên tục nói nhỏ với Người mù: "Người mù, ngoài kia có rất nhiều người bị chết đói, trong trấn sắp loạn lên rồi. Bây giờ chúng ta phải làm sao, làm sao đây, ta rất sợ hãi..."
"Người mù, ngươi nói xem có khi nào có kẻ đột nhập vào nhà chúng ta không, giờ hai vợ chồng chúng ta tay không tấc sắt, ngươi lại thế này, căn bản là không thể tự vệ, làm sao bây giờ...."
"Nếu có người đến cướp thật, chắc chắn chúng ta không phản kháng được, chỉ cần chúng ta co lại một góc không dám làm gì chắc sẽ không sao đâu, Người mù ngươi đừng sợ, nếu chúng có đánh ngươi chỉ cần nhẫn nại là được, đừng dại dột chống lại, nếu không sợ là cả mạng sống cũng không giữ được..."
"Người mù, nếu có chuyện không hay xảy ra, nếu ta có chuyện gì, chỉ còn lại mỗi ngươi thì phải làm sao được, Người mù, ta không nỡ ngươi lại bơ vơ một mình, ngơ ngác sống như hồi hai ta mới gặp..."
"Loạn thế thật đáng sợ, ta rất muốn về nhà,... ba, mẹ... con nhớ nhà lắm..."
Trong đêm tối tĩnh mịch, Thẩm Hi chôn đầu vào trong lòng Người mù mà khóc, nàng sợ hãi loạn thế đang đến gần, run rẩy như mảnh lá khô trong gió. Người mù cũng nhận thấy nàng bất an, nhưng có lẽ hắn không có cách nào biểu đạt, chỉ có thể vươn cánh tay ôm chặt lấy Thẩm Hi, sưởi ấm cho nàng.
Chắc hẳn hắn cũng biết Thẩm Hi khác thường, nên cũng không nghỉ ngơi đúng giờ giấc như trước. Có mấy lần Thẩm Hi ngủ mơ tỉnh lại, trời đã khuya rồi nhưng hắn vẫn chưa ngủ mà chỉ nằm yên ở đó, không biết đang suy nghĩ cái gì. Chỉ cần Thẩm Hi động đạy, hắn sẽ đưa tay ra ôm chặt lấy nàng như muốn bảo vệ nàng, cho nàng một cảng tránh gió an toàn. Dù trong lúc nước sôi lửa bỏng tai họa có thể đến bất ngờ, hai người lại càng thêm quan tâm lẫn nhau.
Thẩm Hi thời khắc lo lắng không yên, mà một đêm nàng tỉnh dậy mới phát hiện ra khóe mắt Người mù thế nhưng chảy xuống hai hàng lệ máu! Nàng giật mình, sợ hãi đến gần chết: "Người mù, Người mù mắt của ngươi làm sao vậy?!?" - vừa kêu nàng vừa túm lấy tay hắn lắc lắc, âm thanh run rẩy.
Người mù vẫn còn tỉnh táo, hắn điềm nhiên giơ tay lên, lột tấm vỏ gối ra lau khô dòng máu, sau đó vỗ vỗ tay nàng, ý bảo hắn không sao.
Thẩm Hi run rẩy đưa tay ra định sờ mắt Người mù, nhưng bị hắn ngăn lại. Hắn ôm Thẩm Hi vào lòng, không ngừng vỗ lưng cho nàng như dỗ trẻ con ngủ vậy. Sự dịu dàng của Người mù làm Thẩm Hi càng sợ hãi, nàng sợ sẽ mất đi hắn, ở nơi này hắn là người thân duy nhất của nàng, cũng là động lực sống duy nhất. Nếu Người mù không còn nữa... Thẩm Hi không dám nghĩ đến một mình nàng sẽ sống ra sao trong thời buổi rối ren này.
"Người mù, ngươi không được chết, không được bỏ lại ta một mình, nếu chỉ còn lại mình ta, chỉ sợ ta sẽ không muốn sống nữa, ta sợ cô độc..." - Thẩm Hi ôm chặt lấy Người mù, lệ tuôn như suối, khóc đến nấc nghẹn.
Nàng lo lắng bệnh tình của Người mù nên mất ngủ cả đêm, chỉ hận lúc đó mải giấu lương thực mà quên mua chút dược liệu để dành,cũng hận thời thế bây giờ, không để cho con người được sống tử tế, nếu y quán vẫn còn mở cửa, đại phu vẫn ngồi khám bệnh thì nàng nhất định bất chấp tất cả dẫn hắn đi khám bệnh, nhưng giờ trên trấn đã loạn, đại phu cũng không biết đi đâu...
Đến hừng đông, chợt nghe thấy bên nhà thúy cô truyền đến một trận kêu khóc, làm Thẩm Hi sợ đến giật nảy mình. Nàng cố lấy can đảm đi đến chân tường nghe ngóng, hồi lâu mới biết tối qua mẹ chồng thúy cô đã chết đói. Tiếng khóc kéo dài nửa ngày, sau đó cửa nhà thúy cô mở ra, có hai người mang thi thể bà ra khỏi nhà. Đây là lần đầu tận mắt nàng thấy người chết, lại còn ở ngay bên cạnh nhà, khiến thần kinh yếu ớt của nàng vỡ nát, sau đó là bệnh không dậy nổi.
Bình thường ở nơi này một cơn sốt cũng đủ lấy mạng người, huống chi là thời loạn lạc bây giờ. May mắn là Thẩm Hi mạng lớn, sốt cao hai ngày một đêm rồi cũng hạ sốt. Người mù không nhìn thấy, cũng không biết hắn làm thế nào mà sờ soạng xuống bếp nấu được bát cháo bưng đến cho Thẩm Hi, nàng nhìn khuôn mặt sầu lo của hắn, trong lòng vui buồn đan xen.
Vui là rốt cuộc hắn đã đáp lại tình cảm của mình, mà đáng buồn là thời thế loạn lạc bây giờ, sống nay chết mai, cả hai người đều không có khả năng tự vệ, nếu có người có ý xấu nổi lên chắc hẳn hai người đều sẽ nguy hiểm. Tuy nhiên hiện giờ Thẩm Hi chưa bị bệnh chết, mà Người mù vẫn còn khỏe mạnh ngồi ở đây, Thẩm Hi cũng thấy yên ổn một chút.
Trong lúc nàng đang ốm, hôm trước cả nhà Cao đại nương với Cao đại gia cùng hai đứa cháu gái đều đã chết đói. Mà nhà thúy cô, công công nàng với em chồng cũng không qua nổi. Lúc tiếng khóc bên nhà thúy cô lại vọng ra, Thẩm Hi không chịu nổi mà đến bên chân tường trèo lên an ủi thúy cô vài câu, nàng nhìn thúy cô mà giật mình: con của thúy cô đã gầy đến suy kiệt, lồng ngực với bụng hóp sâu vào, không khác gì cái thây khô. Thằng bé ngơ ngác nằm trên mặt đất, đôi mắt lõm sâu hoắm tuyệt vọng nhìn vào gia gia với tiểu thúc đang nằm cạnh đó.
Nhìn đứa bé, Thẩm Hi không có cách nào nhẫn tâm được, nàng không kịp nói lời nào, chạy vào nhà bếp, chốc lát bên nhà thúy cô đã nổi lên một ngọn khói nhỏ, có lẽ chưa đợi hạt gạo nở hết, thúy cô đã vội vàng bưng ra đút cho đứa con. Thằng bé vội đến sặc, nhưng vẫn không buông bát mà nuốt ừng ực. Thẩm Hi không dám nhìn mấy cảnh thương tâm này nữa, lại chạy vào phòng.
Mấy hôm sau, Thẩm Hi đoán số lương thực cho nhà thúy cô đã hết, lại ném qua mặt tường cho nàng một ít, thúy cô cũng không dám ra tiếng, chỉ lặng lẽ nhặt lên mang đi nấu nồi cháo loãng, cứ như vậy một nhà ba người sống leo lắt qua ngày.
Qua mấy ngày, thế cục trên trấn lại biến đổi. Có một nhóm người không biết từ đâu đến đây, ngày ngày xông vào nhà người ta khám xét lung tung, tựa như đang tìm kiếm cái gì đó. Bọn họ rất hung dữ, thấy nhà ai phản kháng liền ra tay giết chết cả nhà. Có mấy nhà có thế lực trong trấn bắt tay nhau cùng tiễu trừ nhóm người này nhưng không thành công, ngược lại còn bị chúng quay ra đánh giết đến tan tác, trong đêm liền xông vào mấy nhà đó diệt hết cả nhà, ngay cả đại nhân vật lần trước bình ổn phong ba lương thực lúc trước cũng không thoát khỏi.
Các thế lực khác trên trấn thấy vật cũng không dám làm gì nữa, tùy ý bọn chúng muốn làm gì thì làm, mặc kệ nhà ai cũng phải mở toang cửa ra cho chúng khám xét. Mới đầu bọn chúng không động gì đến tiền bạc của cải, về sau thấy không ai phản kháng càng trầm trọng hơn, cướp bóc từng nhà, cũng không ít cô nương bị mất trong sạch. Trên trấn loạn tùng phèo, không ít người gói ghém đồ đạc chạy trốn, có người thành công, có người bị bọn cướp kia giết chết ngay cổng thành.
Mấy ngày sau bọn cướp đã soát xong ba hướng đông nam bắc trong trấn, lập tức sẽ đến khu dân nghèo nơi Thẩm Hi ở. Nàng sợ hãi, trốn trong lòng Người mù mà run rẩy, Thẩm Hi biết rõ Người mù không thể che chở được nàng nhưng hắn cho nàng đủ ấm áp.
Qua mấy đêm mất ngủ, Thẩm Hi đã khẩn trương đến cực hạn, lúc nào nàng cũng chú ý động tĩnh bên ngoài, chỉ sợ có ai xông đến phá cổng. Trong màn đêm yên tĩnh, nàng thậm chí nghe thấy có người kêu cứu mạng, có tiếng kêu giết, còn có người đang kinh hoảng chạy trên đường cái, có người ho khan, có người nói chuyện, thậm chí có người gõ thử cổng nhà nàng... Mỗi lần nghe thấy một tiếng động lạ, thần kinh của nàng đều căng thẳng đến sắp đứt, nỗi sợ hãi vây lấy nàng, khiến nàng thao thức cả đêm, mấy ngày trôi qua mà Thẩm Hi đã gầy gò rất nhiều.
Mà không chỉ Thẩm Hi mất ngủ, Người mù dường như muốn cho nàng yên tâm nên thức cùng nàng cả đêm, chỉ là hắn không nói được, nên chỉ nằm yên trên giường, Thẩm Hi cũng không biết hắn đang nghĩ gì.
Nhưng điều Thẩm Hi không ngờ đến là những kẻ xông vào nhà nàng không phải bọn cướp kia mà là mấy tên côn đồ đói đến đỏ mắt. Hai người Thẩm Hi ném lương thực, thúy cô nhặt cứ nghĩ làm đủ bí ẩn nhưng vẫn bị tiết lộ ra ngoài. Người tiết lộ bí mật này chính là đứa bé trai gần năm tuổi - con trai của thúy cô.
Thời thế loạn, người lớn biết chuyện nghiêm trọng nên không dám ra cửa, mà trẻ con lại không biết. thúy cô chỉ sơ sẩy một lát mà thằng bé đã chạy tót ra ngoài đường. Nhà vị Chu nương tử lươn lẹo kia cũng ở cạnh đó, nên khi thấy đứa bé này còn có sức lực mà nhảy nhót chơi trên đường, bèn cố kéo thân thể gầy nhom ra dỗ ngọt thằng bé, đứa trẻ mới năm tuổi còn ngơ ngác, kể chuyện Thẩm Hi ném lương thực sang nhà nó ra. Chu nương tử kia về nhà kể với đệ đệ mình, một tên côn đồ, sau đó chính hắn ta tụ tập mấy tên ngày thường quan hệ tốt lại, thừa dịp đêm tối xông vào nhà Thẩm Hi.
Thẩm Hi nghe thấy tiếng động trong sân vội vàng trở dậy, chưa kịp đặt chân xuống đất đã thấy cánh cửa bị đạp bung ra, theo sau là một cây gỗ đánh tới trước mặt nàng. May mắn Người mù không biết vì sao nàng đột nhiên rời giường, kéo lấy tay nàng, khiến Thẩm Hi né được đòn này, nhưng lực tay hắn khỏe nên đầu Thẩm Hi bị đập vào tường, lập tức ngất đi.
Không biết qua bao lâu, Thẩm Hi tỉnh lại, nàng xoay người ngồi dậy, phát hiện mình nằm trong góc sân. Đầu nàng đau nhức, đưa tay sờ thử thấy ướt dính, nhìn lại thấy bàn tay đã dính đầy máu. Nhìn vết máu, nàng mới nhớ ra chuyện xảy ra lúc trước, không để ý vết thương mà chạy thẳng vào nhà, chỉ thấy ngôi nhà đã loạn tung tóe, bóng người quen thuộc ngồi yên trên kháng cũng không biết đi nơi nào. Thẩm Hi vội chạy đến phòng bếp, đồ đạc trong phòng bếp cũng bị lật lọng lung tung, bát đũa nồi niêu vỡ nát, mà Người mù vẫn không thấy đâu.
Người mù...
Nước mắt Thẩm Hi lập tức trào ra, nàng lấy ống tay áo quệt vội dòng lệ, lại tìm lại trong nhà bếp một lần, ngoại trừ một mảnh máu đã đọng lại trên kháng, chỗ Người mù nằm thì không thấy hắn đâu cả. Nàng nhìn chằm chằm vào vết máu, không dám nghĩ đến kết quả nàng phỏng đoán...
"Người mù! Người mù ngươi ở đâu!??!" - Thẩm Hi chạy ra khỏi nhà, vừa kêu vừa nhìn dáo dác xung quanh.
Trên phố đồ đạc ném ngổn ngang, nhưng vắng lặng không một bóng người, Thẩm Hi lại chạy vào nhà thúy cô, từ xa đã thấy cửa sân nhà thúy cô mở toang, đi vào trong sân, đập vào mắt nàng là thi thể ba người nhà thúy cô. Lệ rơi càng nhiều, Thẩm Hi không dám chạm vào thi thể thúy cô, cố nén sợ hãi và buồn nôn mà lục soát khắp nhà thúy cô, vừa tìm vừa gọi Người mù, cuối cùng đành thất vọng đi ra, ngoài, Người mù không ở đây...
Tầm mắt đã bị nước mắt che mờ, Thẩm Hi lại không thèm lau một cái, điên cuồng gõ cửa từng nhà hỏi thăm tung tích của Người mù. Có nhà sẽ nói vọng ra không biết hắn đi đâu, nhưng có nhà đóng cửa kín mít không trả lời một tiếng.
Đi hết cả dãy phố, không ai biết Người mù ở đâu. Thẩm Hi tuyệt vọng, lí trí nhắc nhở nàng một Người mù không thể sống nổi trong thời loạn thế này, nhưng nàng vẫn điên cuồng tìm kiếm, trong lòng tự thôi miên mình: Có lẽ hắn vẫn còn sống, phải tìm được hắn! Ít nhất sống phải thấy người, chết phải thấy thi thể!!
Chương 21
*Note: Khuyến cáo ai đang ăn thì ăn tiếp mấy miếng cho nốt hoặc dừng lại, đoạn sau có cảnh....
Thẩm Hi chạy lung tung trên đường, gặp ai liền hỏi người ta xem có thấy một người đàn ông bị mù, trên mặt buộc mảnh vải che mắt hay không, nhưng ai cũng đã trơ lặng với cái chết, chỉ lạnh lùng lắc đầu, khiến nàng như bị đẩy vào vực sâu tuyệt vọng.
Thời gian trôi qua, rốt cuộc Thẩm Hi khóc không nổi nữa, nước mắt nàng đã chảy khô, cổ họng khàn rát, đôi mắt cũng sưng vù, mới có người hảo tâm nói cho nàng một câu, đi ra bãi tha ma ngoài thành bên cạnh trấn xem thử xem, xác chết đều bị kéo ra chỗ đó.
Thẩm Hi ngơ ngác gật đầu, theo chỉ dẫn của người nọ mà đi ra khỏi trấn.
Còn chưa đến bãi tha ma, nàng đứng ở nơi xa đã ngửi thấy một mùi hôi thối phả vào mặt. Nàngđau buồn chết lặng mà bước chậm đến bãi tha ma, chỉ mới nhìn qua đã cong người nôn đến quặn ruột.
Trên bãi tha ma là vô số thi thể, ruồi nhặng bay vù vù, giòi bọ bò đầy đất, các loại sâu giòi chui nhủi trong hốc mắt thi thể, có cái xác đã thối nát không nhìn ra hình thù, có xác máu me nhầy nhụa, có cái xác bụng căng trướng tròn vo, cảm tưởng nó sẽ nổ tung ngay lập tức... Thẩm Hi chưa từng nhìn qua cảnh tượng khủng khiếp như địa ngục trần gian như vậy, lại bị mùi hôi thối xông đầy mũi, suýt nữa ngất đi.
Nghĩ đến Người mù, nhớ đến khoảng thời gian giữa hai người, Thẩm Hi lại dũng cảm lên, nàng bắt mình nhìn lại xung quanh, từ một đống một đống thi thể cố tìm ra được hình bóng quen thuộc kia. Nàng đi một đoạn, phát hiện ra càng đi vào trong các xác chết càng phân hủy nặng, mà đống xác bên ngoài thì vẫn khá nguyên vẹn, chứng tỏ những người chết trước bị ném ở bên trong, càng đi ra ngoài là những xác chết mới được đưa đến, vì vậy Thẩm Hi lại đi vòng ra ngoài tìm kiếm, mỗi lần thấy bóng dáng áo lam nàng lại tuyệt vọng một lần.
Thẩm Hi đi quanh bãi tha ma tìm khắp một lần, cũng không thấy được thi thể Người mù, lại thấy không ít hàng xóm cùng khách quen đến ăn cháo mỗi sáng. Quách thẩm đã gầy sọp như que củi, cũng bỏ mạng trong tràng nhân họa này, khuôn mặt nàng vẫn hằn rõ nét thống khổ trước khi chết; có đứa bé đã từng đến chúc tết nhà Thẩm Hi, vẻ mặt ngơ ngác như đang muốn hỏi tại sao chuyện này lại xảy ra, sao không cho nó có cơ hội được trưởng thành; còn có chàng thư sinh Thanh Hiên, đã từng hăng hái chỉ điểm câu đối trước cửa nhà nàng hôm mùng một tết, hắn không bị đói chết, nhưng trên cổ hắn là một vết đao sâu hoắm, khuôn mặt trẻ tuổi tuấn tú đã mất đi sinh khí...
Mạng người yếu ớt, con người mấy hôm trước trông thấy còn vui vẻ cười nói, đi lại, hôm nay đã biến thành một xác chết lạnh băng, không có người chôn cất khóc than, chỉ dư lại một cái xác dần mục ruỗng...vì cái gì, vì cái gì họ phải chết như vậy??
Mỗi lần nhìn thấy một khuôn mặt quen thuộc, Thẩm Hi lại đau lòng một lần, dần dần, nàng đã đau đến chết lặng, không biết cái gì là đau đớn nữa. Dòng lệ tưởng chừng như đã cạn khô lại chảy xuống. Đến lúc đi đến chỗ sâu trong bãi tha ma, nàng mới thấy có mấy người xanh xao vàng vọt đang mệt mỏi cầm xẻng đào từng xẻng đất đem các thi thể kia chôn cất.
Thẩm Hi vội vàng chạy tới, nhưng chưa kịp đến gần đã nghe tiếng quát: "Tiểu nương tử kia đừng đến đây, cẩn thận trúng thi khí!". Nàng vội dừng bước, khàn khàn giọng hỏi: "Các ngươi đang làm gì vậy?". Người quát nàng lúc nãy trả lời: "Thời tiết nóng nực, nếu không chôn những thi thể này sợ rằng sẽ bùng phát ôn dịch. Tiểu nương tử, ngươi đến nơi này làm gì?". Thẩm Hi nức nở: "Hôm qua nhà ta bị người ta xông vào, trượng phu của ta không thấy..."
Người kia thương tình nhìn nàng: "Tiểu nương tử, không phải ta muốn ngươi từ bỏ, nhưng ta nói thật, tôn phu chỉ sợ đã dữ nhiều lành ít. Ngươi cũng đừng tìm tiếp nữa, chỗ này trở lên bọn ta đã chôn hết rồi, có muốn tìm cũng không tìm được đâu". Nghe hắn nói, Thẩm Hi như sét đánh ngang tai, nàng xây xẩm mặt mày, ngồi bệt xuống đất, khiến ruồi muỗi chung quanh bay vù vù.
Nàng ngồi một lúc, mới chống tay đứng dậy, miễn cưỡng nói cảm ơn, mới tập tễnh rời đi. Không biết bao lâu, đến lúc nàng lấy lại tinh thần đã ngồi ngây ngẩn ở nhà, ngôi nhà đã không còn là tổ ấm như trước nữa.
Cửa hỏng, nghiêng ở một bên, cửa sổ bị chém làm hai nửa, kháng bị người đào lên, gạch đá với đệm chăn lẫn lộn một chỗ. Quần áo trong tủ không bị cướp mất, nhưng bị ném hết ra khỏi tủ, vương vãi trên nền nhà. Phòng bếp đã trống trơn, cả mấy cái bình rỗng cũng bị đập vỡ, khế ước mua bán nhà mà nàng giấu đi cũng mất, chỉ còn bản hộ tịch ghi tên Giả Như Chân và Giả Thẩm thị Tây bị ném xuống đất. Hơn mười cân gạo Thẩm Hi mới mua cùng dầu muối... đều bị cướp hết sạch, ngay cả mấy luống ra ngoài vườn cũng bị nhổ sạch.
Nhìn ngôi nhà chính tay mình gầy dựng bị phá thành như vậy, Thẩm Hi đau lòng đến không thở nổi. Nàng đứng ngơ ngác trong sân một hồi, đến lúc mệt đến đứng không vững mới đi vào nhà, cửa cũng không đóng, nằm co vào góc tường mà nửa tỉnh nửa mê.
Không biết nàng đã nằm đó bao lâu, bị tiếng động làm tỉnh lại, thấy hai bóng người gầy tóp đang lật tủ. Nàng không ra tiếng, cũng không đứng dậy đuổi người, chỉ hờ hững mà nhìn, đôi mắt tối tăm không chút ánh sáng. Hai người kia tìm thêm một lát, không có đồ nào có thể dùng bèn liếc Thẩm Hi một cái rồi bỏ đi.
Người mù đã chết, Thẩm Hi cũng như chết theo. Nàng không biết mình còn sống thêm để làm gì, ở nơi loạn thế này đã không có người nào khiến nàng để tâm nữa, nàng cũng không cần sống trong cảm xúc sợ hãi luôn bủa vây. Chẳng bằng cứ như vậy, có lẽ đến lúc mở mắt ra nàng sẽ thấy mình vẫn đang nằm trên chiếc giường Simmons êm ấm, thở ra một hơi mà nhớ về cơn ác mộng đêm qua. Thẩm Hi nghĩ như vậy, cũng nhắm mắt lại.
Trong luc mơ màng, nàng lại nghe thấy tiếng động lục đục, có lẽ là lại có người vào nhà lục lọi đồ đạc, nhìn thấy nàng đang nằm đó cũng mặc kệ, cho rằng nàng đang nằm chờ chết đói, thế nên may mắn mà không ai đụng phải nàng. Thẩm Hi cứ nằm như vậy, tỉnh rồi lại nhắm mắt lại, không ăn không uống ngày qua ngày, có lẽ qua rất lâu, hay chỉ qua mấy ngày, khi đó nàng đã sắp hôn mê, bỗng cảm giác được có người đỡ nàng dậy, mớm chút nước cho nàng.
Người mù trở lại sao??
Thẩm Hi cố hết sưc mở mắt ra nhìn, ánh vào mắt không phải khuôn mặt quen thuộc của Người mù mà là Lý lão tiên sinh đầu tóc bạc trắng. Ông thấy Thẩm Hi tỉnh, lại bưng bát đến bên miệng nàng, giọng hiền từ: "Thẩm nương tử, uống chút nước đi, chỗ ta còn có một nắm gạo, ngươi yên tâm đi không chết đói được". Thẩm Hi lại cố sức ngoảnh đầu sang một bên, giọng thều thào: "Không,.. ta muốn đi ... tìm tướng công... nhà ta...". Thời gian này Lý lão tiên sinh đã nhìn quen sinh tử, nghe nàng nói vậy cũng không ngừng lại, chỉ là khuyên tiếp: "Thẩm nương tử, ngươi đừng nghĩ vậy, thấy ngươi như bây giờ, chắc chắn tướng công nhà ngươi cũng không muốn ngươi đi tìm hắn".
Thấy nàng vẫn nhắm mắt lại, Lý lão tiên sinh vội nói tiếp: "Chết có gì khó, nhưng ngươi đã chết, nhà tướng công ngươi cũng bị chặt đứt huyết mạch, nếu là tướng công của ngươi trên trời có linh, cũng không muốn nhà mình bị đứt hương khói".
Huyết mạch?
Thẩm Hi giật mình, mở to mắt, nàng không dám tin: "Ta... mang thai rồi?". Lý lão tiên sinh vội đáp: "Ngươi đúng là ngốc, đang có thai mà cũng không biết, vừa nãy ta có bắt mạch qua, ngươi đã mang thai được hơn tháng rồi" .
Nàng thật có thai? Con của Người mù? Đứa bé mà mình mong đợi đã lâu đã lặng lẽ đến rồi sao?
Niềm vui đến bất ngờ, Thẩm Hi vừa vui vừa sợ, tim nàng đập thình thịch, bỗng nhiên đảo mắt, ngất đi.
Đến lúc nàng tỉnh lại trời đã tối rồi. Lý lão tiên sinh vẫn ngồi trông nàng, thấy nàng tỉnh liền đem sang một bát cháo, gọi là cháo nhưng thực chất là nước cơm, dưới đáy chỉ có một tầng gạo mỏng: "Thẩm nương tử, mau ăn cháo đi, ăn rồi mới khỏe lên được". Thẩm Hi nghe lời, nhưng nàng đã đói lâu lắm, giờ kiệt sức, chỉ hơi nhúc nhích đã đầu váng mắt hoa. Lý lão tiên sinh thấy nàng không dậy nổi đành ngồi lại, đỡ nàng dậy rồi đưa bát đến bên miệng nàng. Lúc này Thẩm Hi như được quỳnh tương ngọc lộ, uống sạch bát cháo loãng.
Lý lão tiên sinh lại dìu nàng nằm xuống, lúc này mới nở nụ cười: "Vậy là được rồi, ngươi không muốn sống nhưng phải cố sống cho đứa nhỏ chứ. Đừng quá tuyệt vọng, không chừng qua mấy hôm sau triều đình sẽ đến đây cứu tế, ngươi cố đợi mấy ngày". Thẩm Hi thở phào nhẹ nhõm, yếu ớt cảm tạ ông: "Lý tiên sinh, cảm ơn ngài..."
Lý lão tiên sinh cười, khuôn mặt ông gầy yếu đến má hóp lại, nụ cười có hơi đáng sợ: "Cần gì cảm tạ, ai cũng có lúc gặp rủi ro mà. Giờ được rồi, ngươi mau nghỉ ngơi đi, ta phải đi rồi, cả nhà đang đợi ta về ăn cơm, ta phải đi nhặt chút củi". Thẩm Hi vội hỏi: "Nhà ngài ở đâu... để ta có việc còn tìm ngài...?"
Lý lão tiên sinh đáp: "Ta ở Lý gia cựu trạch (nhà cũ Lý gia) chỗ cửa thành Nam, nếu có chuyện gì hay thân thể không thoải mái thì tới tìm ta. Một ít bệnh nhỏ ta vẫn chưa được". Nói xong, ông tập tễnh đi rồi.
Nhà cũ Lý gia phía cửa nam, Thẩm Hi nhớ đinh ninh địa chỉ vào trong lòng, chờ lúc mình khỏe lại, nhất định phải trả ơn lão nhân gia.
Lý lão tiên sinh đi rồi, Thẩm Hi lại nằm trên mặt đất đến nửa đêm, có lẽ là có bát cháo loãng vào bụng nên nàng cũng khỏe dần, tay chân cũng có chút sức. Nàng đứng dậy, chậm rãi đi sửa lại cánh cửa, nhưng mỗi việc này cũng khiến nàng mệt đến bở hơi tai, phải ngồi nghỉ chốc lát.
Nàng nghỉ xong, mới đi nhặt mấy hòn đá chèn lại vào cổng, sợ ít đá người ta đẩy được cổng, vừa nghỉ vừa chèn thêm hơn mười hòn đá mới dừng lại. Nàng mệt đến nằm bệt xuống đất, cũng chưa vội đứng lên mà còn chú ý lắng nghe động tĩnh ngoài đường xem có ai qua lại không. Đợi đến ngoài kia thật sự đã yên tĩnh rồi nàng mới đi vào trong bếp, cầm lấy cái xẻng bị gãy cán, nghĩ nghĩ, nàng lại tìm thêm một con dao với cái chậu gỗ chưa bị vỡ. Mấy thứ đồ nhỏ nhặt này không ăn được, lấy lại không có tác dụng gì nên mới không bị người ta lấy đi.
Thẩm Hi mang mấy thứ này ra vườn, tìm đến chỗ chôn gạo, ngồi xổm xuống cẩn thận đào từng nhát, sợ tiếng động quá lớn dẫn đến chú ý nên nàng đào rất chậm, cũng xúc rất nhẹ. Nàng lại đang suy yếu nên đào mấy xẻng lại dừng lại, vừa nghỉ vừa nghe ngóng động tĩnh bên ngoài, không nghe thất gì nàng mới đào tiếp. Qua hơn nửa đêm Thẩm Hi mới đào được một bao gạo lên.
Nàng cầm dao cắt mở vải dầu và miệng túi, lặng lẽ đổ ra một chậu gạo, sau đó lại gói kĩ túi lại, kéo kĩ vải dầu rồi chôn lại bao gạo xuống. Vùi đất xong, Thẩm Hi cố hết sức đi cạnh giếng múc một thùng nước, xách ra chỗ chôn gạo rồi vẩy đều nước lên che dấu. Nhân lúc trời chưa sáng, Thẩm Hi vội trở vào phòng bếp nấu nửa nồi cháo.
Cháo mới nấu xong, nàng không kịp đợi nó nguội, vội vàng múc một bát ăn ngấu nghiến, nhưng sợ dạ dày bị đói lâu không tiêu hóa được nên Thẩm Hi cũng không dám ăn nhiều, bèn đặt bát xuống. Ăn xong, nàng cũng khỏe lại một chút, nàng đổ số gạo còn lại vào một túi vải, sau đó dập tắt lửa trong bếp, lại nhét túi gạo vào trong lòng cái lò chuyên để nấu cháo, để ngụy trang, nàng còn đem tro bụi rắc đầy lên túi.
Số cháo dư lại, Thẩm Hi đợi qua một lúc lại ăn tiếp hai bát, sau đó đậy kín vung nồi, nhét cả nồi vào trong lòng kháng đã bị đập phá.
Chương 22
Đến khi trời sáng, Thẩm Hi đã khôi phục khá tốt, nàng tìm hai tấm ván gỗ, đặt tạm làm ván giường, rồi nằm đó nghỉ cho lại sức, giấc ngủ này khá tốt, có thể do cổng bị chặn nên không có người tới, lại có hi vọng nên Thẩm Hi thả lỏng thần kinh. Buổi trưa tỉnh lại, nàng lấy nồi cháo ra ăn tiếp, còn thừa lại một ít, lại để vào chỗ cũ.
Ăn mấy bữa cơm, Thẩm Hi cũng khỏe dần, nàng chợt nhớ đến nhà thúy cô, bèn trèo lên chỗ cao nhìn sang nhà bên, thi thể ba người đã không ở đó, có lẽ là bị người t a khiêng đi rồi. Nàng biết giờ nhà thúy cô không có chủ, mà tường nhà mình liền với nhà thúy cô, cũng không cao lắm nên dễ bị người từ ngoài nhảy vào được, vì vậy nàng lại mở cửa lách người ra ngoài, đóng cổng nhà thúy cô lại, lấy dây buộc chặt, trở về nàng lại nhặt thêm không ít gạch đá với gỗ vụn. Trời đã gần tối, Thẩm Hi mới vào nhà, nhặt đá chèn lại cổng. Nàng ăn hết số cháo để dành, nằm trên ván gỗ nghỉ ngơi, đến nửa đêm nàng mới dậy, vo gạo, bắc nồi lên bếp, dùng những đầu gỗ mà buổi chiều nhặt nhạnh làm củi đun, nấu cháo xong nàng múc một bát, còn thừa lại thì giấu đi như hôm qua.
Hôm sau Thẩm Hi cũng lấy lại sức, nàng ra đường nhặt được không ít đồ, giờ người chết đi nhiều, rất nhiều nhà đã biến thành vô chủ, gạch đá với đầu gỗ nơi nào cũng có. Trên đường rất vắng, cơ bản mọi người giờ ai cũng đói đến sắp suy kiệt nên không có sức lực đi lại, cũng sợ bị cướp bóc nên luôn đóng chặt cửa nhà, Thẩm Hi cũng chọn những nơi thường ít người qua lại mà đi nên không gặp nguy hiểm gì.
Nàng thấy gạch đá đã nhặt được khá nhiều, bèn trộn bùn, đắp thêm gạch lên đầu tường, đến lúc bức tường đủ độ cao khiến nàng an toàn rồi mới dừng lại. Mấy hôm sau nàng vẫn không ngừng đi nhặt thêm gỗ vụn, chân bàn ghế, song cửa sổ... về xếp đầy sân, để dành làm củi đốt, rồi mới lấy mấy khúc gỗ lớn chèn chặt cổng.
Dù làm nhiều đề phòng như vậy, Thẩm Hi vẫn không cảm thấy an toàn, mỗi khi trời tối, nàng sẽ nằm co rúm trên tấm ván giường mà sợ chuyện tối hôm trước lại xảy ra, đột nhiên có người xông vào muốn giết nàng. Khoảng thời gian này nàng thấy sống một ngày mà dài bằng một năm, chỉ đến khi đặt nhẹ tay lên bụng, cảm nhận được một sinh mạng nhỏ bé đang nằm bên trong, nàng mới tìm được dũng khí để mình sống tiếp.
Sinh mạng nhỏ này là mong nhớ hơn năm tháng của nàng, là giọt máu của Người mù để lại...
Người mù, Người mù, sao ngươi lại nhẫn tâm như vậy, bỏ lại ta cô đơn một mình tại nhân thế hiểm ác này...
Người mù....
Thẩm Hi nước mắt tuôn trào, không ngừng gọi tên hắn.
Những ngày tiếp theo, không biết có phải nơi này đã bị lục soát qua nên không ai đến chỗ nhà Thẩm Hi nữa.Hàng ngày nàng đều nửa đêm lén lút dậy nấu cơm, nhưng giờ đang vào cuối tháng bảy, trời vẫn nóng nực nên cơm để sang ngày sau sẽ thiu, Thẩm Hi không dám nấu nhiều, chỉ đủ lượng cơm một ngày ăn, đến đêm lại dậy nấu tiếp. Nàng cố gắng ăn một ngày bốn bữa cơm, cuối cùng cũng khỏe hẳn, dù người nàng nhìn vẫn rất gầy yếu, nhưng không đến mức động tí là chóng mặt thở phì phò như hôm trước.
Nàng cứ đóng cửa sống qua mấy ngày, một buổi trưa mới ăn cơm xong, Thẩm Hi bỗng nghe được tiếng đập cửa.
Thẩm Hi như chim sợ cành cong. Lại có người đến cướp lương thực?
Nàng vèo một cái nhảy xuống giường, xông đến phòng bếp cầm lấy vũ khí duy nhất trong nhà là con dao phay ra, mới nép vào sau cánh cổng, chuẩn bị nếu có người xông tới là chém một dao. Đang lúc nàng hồi hộp đến không dám thở mạnh, người ở ngoài lại gọi: "Thẩm nương tử, Thẩm nương tử có ở bên trong không? Ngươi còn sống chứ? Có tin tốt rồi, ngươi không cần trốn nữa, chiến tranh không lan đến chỗ chúng ta rồi! Trung Nhạc quốc sẽ không diệt vong, chúng ta thắng rồi! Bảy ngày trước Kiếm Thần Hoắc Trung Khê đã xuất hiện trên chiến trường, giết chết Hồng Phong. Thẩm nương tử, chúng ta không phải chịu khổ nữa rồi, triều đình đã hạ lệnh cứu trợ thiên tai, chúng ta sắp có lương thực rồi! Thẩm nương tử, ngươi có còn ở đó không?"
Nghe giọng nói, Thẩm Hi biết là Lý lão tiên sinh đến, lại nghe được ông nói về sau không có chiến tranh, Hoắc Trung Khê xuất hiện, nàng đã nhẹ cả người, sau đó là mừng đến muốn khóc. Giờ khắc này, nàng cảm thấy Hoắc Trung Khê không khác gì thần tiên giáng thế, còn vĩ đại hơn Phật Tổ Như Lai hay Ngọc Hoàng Đại đế nhiều lắm.
Nàng vui mừng hỏi lại Lý lão tiên sinh: "Thật vậy chăng tiên sinh? Chiến tranh kết thúc rồi sao?". Lý lão tiên sinh cười lớn: "Đúng vậy! Ta không lừa ngươi. Thẩm nương tử, ta thề nếu ta nói dối thì kiếp sau ta sẽ làm con trâu cho trẻ con nó cưỡi!"
Đến cả Lý lão tiên sinh cũng nói đùa, xem ra ông ấy đã vui đến sắp ngất rồi. Thẩm Hi không do dự nữa, nàng vừa lau nước mắt vừa dọn gạch đá ra khỏi cổng. Dọn một lúc lâu, rốt cuộc cánh cổng cũng mở ra, cửa vừa mở Thẩm Hi đã thấy Lý lão tiên sinh đang mỉm cười đứng trên đường, chỉ là ông đã gầy đến da bọc xương. Thẩm Hi rơi lệ, cười nói: "Lý lão tiên sinh, ngài xác định tin này là thật sao?". Lý lão tiên sinh đáp: "Là thật, tuyệt đối là vậy, ngươi xem bây giờ không phải người ta đã ra đường rồi sao?"
Thẩm Hi nhìn lại hai bên, quả thật trên đường có mấy người gầy ốm đang lung lay đi lại, trên mặt đều mang tươi cười. Lúc này nàng mới thở dài một hơi nhẹ nhõm, yên tâm trở lại. Lý lão tiên sinh báo tin cho nàng xong, cũng cáo từ: "Thẩm nương tử lát nữa ngươi vẫn đóng kín cổng lại tốt hơn, lương thực cứu tai phải mấy ngày nữa mới đến được đây, ngươi vẫn phải cẩn thận chút cho thỏa đáng". Nói xong ông đã quay người đi, Thẩm Hi vội gọi lại, thấp giọng hỏi: "Tiên sinh, có phải nhà ngài đã cạn hết lương thực rồi không?"
Ông cười khổ: "Nhà ta sớm đã thua lỗ, chút tiền còn dư dù có mua được lương thực nhưng trong nhà đông người, lại thêm cả nhà lão bằng hữu nên có thể chống đến giờ cũng tốt lắm rồi". Thẩm Hi nói nhỏ: "Tiên sinh, nhà ta vẫn còn chút lương thực, đến tối ngài qua đây một lát, giờ ban ngày sợ người ta thấy". Lý lão tiên sinh quả quyết từ chối: "Không cần lo cho ta, nhà ta tùy tiện ăn cái gì lấp đầy bụng cũng được, ngươi bây giờ không phải là một người, lương thực đó ngươi để lại đi".
Thẩm Hi kiên trì: "Tiên sinh, bản thân ta có chừng mực, ngài cứ nhận đi". Lý lão tiên sinh biết nàng không phải người lỗ mãng, cân nhắc một lát rồi gật đầu. Ông đi rồi, Thẩm Hi lại đóng kín cổng, vui sướng chạy nửa vòng quanh sân. Trước kia khi nhắc tới vo thần, Thẩm Hi không cho là đúng, ở kiếp trước vận mệnh quốc gia đều là phụ thuộc vào quốc phòng, chưa từng tùy vào vận mệnh một con người nào đó. Dù lực lượng một người có mạnh cỡ nào cũng không thể chưởng khống được cả một quốc gia, nguyên nhân chính là võ thuật đã suy đồi, có người cả đời cũng chưa từng chân chính tiếp xúc với võ thuật, hơn nữa võ thuật ở đó chỉ là thuật, ít có võ, càng không nói đến khinh công hay nội công, những cái đó chỉ tồn tại trong tiểu thuyết. Vậy nên đối với võ học, Thẩm Hi luôn hoài nghi chứ không tin tưởng vào nó. Thế nhưng trong xã hội này, trải qua một hồi phong ba sau nàng rốt cuộc hiểu được sự quan trọng của võ lực, cũng đổi mới cái nhìn về võ thần. Con người tên là Hoắc Trung Khê này xứng đáng là một nhân vật đáng kính.
"Người mù, ngươi có nghe thấy không, không có chiến tranh nữa rồi, kết thúc rồi, Người mù...". Thẩm Hi lẩm bẩm nức nở, cười đến rơi lệ, không biết giờ nên vui hay buồn.
Buổi tối Thẩm Hi nghe ngóng xung quanh đã yên tĩnh, liền cầm cái xẻng đến trong sân lặng lẽ đào ra một túi lương thực, sau đó kéo cái túi đến bên cổng chờ Lý lão tiên sinh. Nàng đợi ở đó đến nửa đêm mới nghe tiếng bước chân đến gần, sau đó là giọng Lý lão tiên sinh vang lên khe khẽ: "Thẩm nương tử, Thẩm nương tử". Thẩm Hi hé cửa ra nhìn, thấy đúng là ông liền nhẹ nhàng đẩy cửa ra, cũng không bảo ông tiến vào, nhanh chóng đẩy túi gạo ra rồi ý bảo ông đi mau, mới đóng kín cửa lại. Lý lão tiên sinh thấp giọng: "Thẩm nương tử, đại ân này không lời nào cảm tạ hết được", nói xong, ông liền vác túi đi.
Lúc trước Thẩm Hi dấu rất nhiều lương thực, cả sân đều chôn kín, ăn qua mấy tháng nay cũng chưa hết một nửa, lại thêm lần trước nếu không có ông, nàng cùng đứa bé trong bụng đã mất mạng, giờ triều đình đã chuẩn bị cứu đói, số lương thực này nàng không luyến tiếc.
Lại qua hai ngày, Lý lão tiên sinh đến báo cho nàng biết triều đình đã phái người xuống, lương thực với bạc cứu nạn cũng đang trên đường, nhiều nạn dân nghe được tin cũng trở lại, ông dặn Thẩm Hi khóa cổng cẩn thận, vào lúc này không được lơ là chủ quan.
Nghe lời Lý lão tiên sinh, Thẩm Hi lập tức tìm thêm mấy khúc gỗ to chặn lại cổng, bóng tối trước bình minh dễ khiến người ta thả lỏng cảnh giác nhất, cũng dễ khiến người mất mạng nhất. Nàng một thân một mình, cẩn thận là trên hết. Thẩm Hi đếm từng ngày, chờ mong triều đình mang lương thực và bạc đến, mọi người không bị đói, mình cũng yên tâm, nhưng ba ngày sau Lý lão tiên sinh hớt hải chạy đến, đập cửa ầm ầm.
Thẩm Hi vừa đến cạnh cửa đã nghe ông gọi: "Thẩm nương tử, mau mở cửa, ta có việc gấp". Nàng vội chạy đến, chưa kịp mở cửa đã hỏi: "Lão tiên sinh, lương thực của triều đình đến nơi rồi sao?". Lý lão tiên sinh ghé vào khe cửa, thấp giọng nói: "Thẩm nương tử, không hay rồi, có lẽ chúng ta không được cứu trợ đâu".
Thẩm Hi giật mình, không lẽ Hoắc Trung Khê đã xảy ra chuyện, Bắc Nhạc quốc lại đánh vào sao? Nàng vội vàng hỏi: "Sao vậy? Chiến tranh lại xảy ra sao?"
Lý lão tiên sinh lắc đầu: "Không phải chuyện này". Ông nhỏ giọng nói vào khe cửa: "Thẩm nương tử, mấy hôm nay nạn dân tràn vào trong trấn nhiều lắm, hôm trước có mấy người sốt cao đột ngột rồi thượng thổ hạ tả (nôn mửa tiêu chảy), hôm qua lại thêm gần 30 người cũng bị theo. Ta có biết sơ y thuật, nếu đoán không lầm thì nơi này đang có dịch bệnh".
"Dịch bệnh?!" Thẩm Hi hô khẽ một tiếng, lại nhanh lấy tay bịt miệng, không để mình kêu to.
Dịch bệnh, chính là bệnh truyền nhiễm ở đời sau. Khi đó y học đã phát triển nhưng mỗi năm vẫn có người chết vì dịch cúm, sốt xuất huyết, huống chi đây là thời cổ đại, thiếu thốn thuốc thang, lại không có vacxin tiêm chủng, dịch bệnh đồng nghĩa với cái chết, hơn nữa còn là chết rất nhiều người. Thẩm Hi nhớ trong lịch sử cũng có ghi lại mấy đợt dịch bệnh lớn, chết đến mấy triệu người, hình như là dịch tả hay bệnh đen gì gì đó.
[Note: Vào khoảng từ TK XIV ở châu Á và châu Âu có xảy ra đại dịch hạch, đỉnh điểm ở châu Âu từ năm 1348 - năm 1350 , giết chết từ 30 - 60% dân số châu Âu. Dịch bệnh bị lan truyền bởi cá thể trung gian là chuột, sau đó lây sang người. Các nhà sử học gọi đợt đại dịch này là Cái Chết Đen. Về sau dịch bệnh này vẫn bùng phát trở lại và đến cuối TK XIX mới biến mất]
Thẩm Hi không biết y thuật, không biết bệnh truyền nhiễm biể hiện ra sao, nhưng nàng tin lời Lý lão tiên sinh. Ở cổ đại, y học không phát triển mạnh, đại phu cũng ít nên một số người đọc sách cũng sẽ biết bắt mạch, bốc một ít thuốc trị bệnh vặt, cũng không ít người đọc sách trở thành y giả vĩ đại. Thẩm Hi biết Lý lão tiên sinh là người cổ hủ lại ngay thẳng, nếu chuyện không chắc chắn ông sẽ không nói ra.
Huống chi, từ đầu tháng sáu đã có một số người chết, đến tháng bảy dân đói càng chết như ngả rạ, hàng ngàn hàng vạn thi thể thối rữa ở bãi tha ma ngay đúng lúc tiết trời nắng nóng, rất dễ bùng phát dịch bệnh, điều này Thẩm Hi cũng tận mắt chứng kiến.
Chương 23
Lý lão tiên sinh khuyên Thẩm Hi: "Thẩm nương tử, nếu ngươi tin ta thì mau nghe lời, sớm rời khỏi đây đi. Bây giờ bệnh dịch bùng phát, xung quanh rất nguy hiểm. Ngươi nghe lời ta, đi thật xa, đừng trở lại". Thẩm Hi thương tâm: "Tiên sinh, ngài xem thiên hạ này còn có chỗ cho tiểu nữ tử dung thân sao? Người muốn sống mà sao khó đến vậy?"
Lý lão tiên sinh cười khổ: "Ngươi nghe cho rõ, đi ra khỏi thôn trấn này, ngươi hãy đi về phía đông đi, đừng dừng lại, đi cho đến bờ biển mới thôi. Người sống cạnh biển có lề thói đóng thuyền, nếu trên bờ xảy ra dịch bệnh, họ sẽ dong thuyền chuyển ra đảo, ở bờ biển ngươi sẽ được an toàn".
Thẩm Hi nghe ông nói đầy bi ai, tựa hồ ông không muốn ròi khỏi, vì vậy hỏi: "Tiên sinh, ngài có đi không? Ta chỉ là một phụ nhân yếu đuối, đơn độc đi đường rất nguy hiểm, thân mình lại không tiện, nên muốn đi theo mọi người để dễ bề chăm sóc nhau". Lý lão tiên sinh im lặng một lát, mói nói : "Cả gia tài nhà ta đều mang ra mua lương thực hết rồi, bây giờ không còn đồng nào, làm sao đi được đây. Đành ở lại đây thôi, chờ triều đình phát lương thực tiền bạc xuống rồi tính tiếp vậy".
Thẩm Hi cũng không khuyên ông nữa, nàng nói: "Tiên sinh, đêm nay ngài lại tới đây đi, ta để lương thực dư lại cho ngài, sáng sớm mai ta sẽ rời khỏi đây". Lý lão tiên sinh thở dài: "Sáng mai ta tới tiễn ngươi ra khỏi thành, ngươi ngàn vạn đừng đi một mình, bây giờ nạn dân trôi dạt khắp nơi, chỉ sợ sẽ có người xấu". Thẩm Hi gật đầu.
Lý lão tiên sinh đi rồi, nàng nhặt hết đống quần áo ném lung tung dưới chân tường ra, cái nào không mặc được thì cắt ra, khâu lại thành hai cái bao đựng đồ. Vừa khâu Thẩm Hi lại không dừng được nước mắt. Cái áo này là của Người mù. Chính tay nàng kiếm được tiền, vào tiệm quần áo mua cho hắn, ngày ngày giúp hắn cởi ra giúp hắn giặt, ngay cả chỗ ống tay áo bị rách cũng là nàng lấy kim may lại, đường chỉ xộc xệch, mặt vải nhăn nhúm nhưng hắn vẫn mặc như thường. Bây giờ áo còn ở, người đã không ở đây.
Giờ Thẩm Hi đã biết vì sao Lý Thanh Chiếu viết được câu "Vật thị nhân phi sự sự hưu/ Dục ngữ lệ tiên lưu" (Vật đổi sao dời mọi việc thôi/ Chưa nói lệ tuôn rồi) tồn lại cho hậu thế, bởi vì trượng phu của hai người đều đã mất, hai người đều mất đi người quan trọng nhất của đời mình.
Nàng cố nén nước mắt, chăm chú từng mũi kim làm xong bao đựng đồ, sau đó nhặt lấy hai bộ quần áo tươm tất nhất của mình với Người mù gói lại, nghĩ đến đồ nhu yếu phẩm, Thẩm Hi lại gói thêm vào một túi muối. Đến buổi chiều, nàng đã đi đi lại lại vòng hết mấy lần quanh sân, muốn ghi khắc hết hình ảnh ngôi nhà từng cho nàng ấm áp vào tâm khảm, một ít chi tiết nhỏ cũng không bỏ sót, ở chỗ này nàng yêu một người, lại mất đi hắn....
Đến nửa đêm Lý lão tiên sinh quả nhiên đã tới. Thẩm Hi bảo ông vào nhà, đào hết mấy chỗ lương thực dầu muối còn lại để ông man đi, sau đó hẹn nhau tảng sáng ông sẽ đến đón nàng. Tiễn xong Lý lão tiên sinh Thẩm Hi mới trở vào nhà, nhào bột, ấn hơn hai mươi cái bánh bột rồi mang đi hấp. Để bánh giữ được lâu không bị hỏng, nàng không thêm chút dầu nào, chỉ thêm đủ muối. Đợi đến bánh nguội, nàng mới lấy cái áo bông dày gói lại, bảo đảm người ngoài nhìn vào không biết có bánh ở trong đó.
Làm xong, Thẩm Hi đi đến cạnh giếng, cạy bỏ mấy viên gạch, lấy hai mươi nén bạc ra, mới tìm ít bông với vải vụn gói bạc lại, cho vào một miếng vải rách rồi khâu lại, cải trang thành một cái đệm nhỏ. Nàng nhìn nhìn, từ bên ngoài cái đệm này trông có vẻ cũ nát không bắt mắt, không thấy được có gì ở trong, mới yên tâm nhét cái đệm này vào hành lý.
Còn thừa mười nén bạc, Thẩm Hi cầm một cái nhét vào trong ngực, còn chín nén kia thì lấy miếng vải gói lại. Nàng đeo thử túi đựng bánh lên lưng, còn túi quần áo thì buộc lại làm tay nải, khoác vào tay. Nàng nhìn nhìn, thấy hình tượng của mình bây giờ không kém gì một dân chạy nạn nghèo khổ.
Nàng án chừng tay nải trên tay khá nhẹ, bèn gói thêm chút bột mì nhét vào, trên đường đi có thêm lương thực càng thêm khả năng sống sót. Nghĩ đến thức ăn, nàng mới nhớ đi đường cũng phải uống nước, lại nhét thêm một cái bình nhỏ.
Hôm sau trời còn chưa sáng Lý lão tiên sinh đã tới gọi Thẩm Hi. Nhìn dáng đi khập khiễng vì đói cơm của ông, nàng áy náy: "Tiên sinh, cũng trách ta không sớm mang lược thực tới cho ngài, thật là do ta bị cướp đến sợ, nếu không phải lần trước bị lộ, tướng công nhà ta cũng...". Nhớ đến vũng máu trên kháng cùng Người mù bị chết mất xác, Thẩm Hi rơm rớm nước mắt. Lý lão tiên sinh lại rộng rãi hơn, ông khuyên Thẩm Hi: "Ngươi đã để lại nhiều lương thực như vậy cho ta, ta làm sao còn trách ngươi đây, cảm tạ còn không kịp. Về sau ngươi cố sống cho tốt, nuôi dạy đứa bé thành người, lưu lại một tia huyết mạch cho trượng phu ngươi, khiếm hắn không phải làm quỷ vô hậu cũng như không phụ hắn".
Thẩm Hi lau nước mắt, gật đầu.
Ông giục Thẩm Hi: "Trời mau sáng rồi, chúng ta mau đi thôi, nếu không đợi đến lúc nạn dân đến đây người ta sẽ đóng lại cổng thành, muốn ra cũng không kịp rồi". Thẩm Hi ngoái đầu nhìn lại tổ ấm ngày xưa, sau đó đi theo Lý lão tiên sinh rời khỏi nơi này. Trời còn sớm nên trên đường còn vắng người, chỉ có các nạn dân xanh xao vàng vọt co ro nằm ngủ ở dưới hiên những ngôi nhà ven đường. Lý lão tiên sinh quen thuộc địa hình, chuyên chọn những hẻm ít người qua lại mà đi nên cũng không khiến ai chú ý.
Hai người đi hơn một chén trà, mới đi ra khỏi cửa thành. Lý lão tiên tiễn Thẩm Hi ra đến gần hai dặm đường, không thấy nạn dân nào mới dừng lại, dặn nàng: "Ngươi đi theo con đường này, hướng về phía đông mà đi. Nhớ kĩ, thấy có thành trấn cũng đừng vào, tránh xa chút, bây giờ các thành trấn lớn đều đã phong tỏa cổng thành, không cho nạn dân đi vào, còn mấy trấn nhỏ đều giống nơi đây, chật ních nạn dân. Ngươi đi theo mấy con đường nhỏ vắng người, chỉ cần đi đúng hướng mặt trời mọc cuối cùng sẽ đến bờ biển".
Thẩm Hi nhìn con đường mờ mịt trước mặt, trong lòng không khỏi sợ hãi. Lý lão tiên sinh tựa hồ nhìn ra nỗi sợ của nàng, lại dặn thêm: "Dọc theo đường đi ngươi phải cẩn thận chút, nếu thấy có người đáng nghi thì tránh cho xa vào, nếu tránh không khỏi thì mềm giọng cầu xin người ta, dù sao người ta ác cũng là do thời thế này bức bách cả, có lẽ sẽ bỏ qua phụ nhân cơ khổ như ngươi. Hơn nữa ngươi đừng rửa mặt, cả quần áo hành lí cũng lấm càng bẩn càng tốt, như vậy người ta mới không để ý. Đừng sợ, đi đi, đừng bao giờ trở lại, nếu thật có bệnh dịch bùng phát, e rằng trấn này sẽ bị san thành đất bằng!".
Nàng chăm chú nghe lời dặn tha thiết của Lý lão tiên sinh, giọng ông bình thản nhưng kiên quyết, có lẽ ông không thể rời khỏi nơi này. Thẩm Hi cúi đầu, lấy từ trong hành lý ra một gói vải không biết đựng gì, đưa cho ông: "Lão tiên sinh, từ biệt nơi đây chỉ sợ sau này không có ngày gặp lại, cảm tạ đại ân đức của ngài, tiểu nữ không có gì báo đáp ơn ngài cứu mạng hai mẹ con, chỉ đành đưa ít vật nhỏ làm kỉ niệm. Trước tiên ngài cứ giữ lấy, đợi ta đi khuất hẵng mở ra". Lý lão tiên sinh nhận lấy cái gói, gật đầu: "Mau đi đi, sớm đi sớm đến. Nhớ kĩ, ngươi đừng vào mấy thành trấn, hiện giờ người trong thành trấn đông đúc, trời lại nóng, dịch bệnh lan rất nhanh".
Thẩm Hi vâng dạ, lúc này mới từ biệt ông, dạm bước hướng phía đông mà đi.
Thấy Thẩm Hi đã đi xa, không còn trông thấy bóng lưng gầy yếu của nàng, ông mới duỗi bàn tay khô gầy mở các bọc ra. Ánh sáng lóe lên, trong bọc là chín nén bạc. Lý lão tiên sinh run rẩy, mắt nhòe lệ: "Thẩm nương tử, ngươi là ân nhân của cả nhà ta! Lý Trinh ta thề, tộc Lý thị chúng ta tất sẽ báo đáp đại ân của Thẩm nương tử, nếu có nuốt lời, trời đất không tha!". Ông vội trở về nhà, hối thúc mọi người thu dọn đồ đạc chuẩn bị trốn đi. Đến tối, ông dẫn con trai với lão hữu đến nhà Thẩm Hi, đào lấy lương thực dầu muối mà nàng để lại mang về, để lại cho nhà mình một phần rồi đem chia cho tộc nhân cùng nhà lão hữu. Đến lúc trời sáng, ông cùng người nhà mang theo lương thực cùng chín mươi lượng bạc Thẩm Hi đưa rời đi trấn nhỏ.
Bốn ngày sau khi nhà Lý lão tiên sinh rời đi, dịch bệnh bùng phát trong trấn, lan sang các thành trấn bên cạnh, người trong thành đa phần đều nhiễm bệnh, những người còn khỏe vội thu thập đồ đạc trốn khỏi, sau đó đổ bệnh trên đường, lây lan cơn bệnh cho càng nhiều người, dịch bệnh càng ngày càng mở rộng. Ngày thứ bảy, quân đội triều đình phái xuống đi đến nơi này, xác định tình hình dịch bệnh không thể khống chế, cuối cùng đành đóng cổng, tàn sát hàng loạt dân trong thành, đốt hết thi thể. Đúng như Lý lão tiên sinh đã nói, trấn nhỏ bị san thành đất bằng.
Cùng lúc đó, Thẩm Hi đã cách trấn nhỏ vài trăm dặm.
Nàng đi ra khỏi trấn, một đường hướng về phía đông, đói thì ăn bánh, khát thì uống nước mang trong bình hoặc múc nước trong giếng ven đường, trời tối không dám vào nhà người ta nghỉ nhờ, sợ thời buổi loạn lạc sinh giặc cướp, chỉ dám tìm một chỗ đồng không mông quạnh có đống củi hay đống rơm mà ngủ tạm một đêm. May là tiết trời chưa vào thu, buổi tối chưa có sương, Thẩm Hi trải hết mấy bộ quần áo ra quấn vào người nên không bị cảm lạnh hay trúng gió gì.
Hiện giờ mới là đầu tháng tám, đáng ra trong ruộng vườn phải đầy cây lương thực hoa màu mới phải, nhưng người đã đói đến sắp chết, không đợi đến ngày mùa mà hoa màu trong đất đều bị nhổ lên ăn sạch, cả mặt đất cũng sạch bóng cỏ dại, ruộng ngô chỉ còn những gốc trơ trọi, thân cây cũng bị bẻ đi ăn tuốt. Mấy cái cây ven đường cũng trụi lủi cành, lá cây nào ăn được là vặt hết, ngay cả vỏ cây cũng bị bóc đi từng mảng, chỉ thừa lại những thân cây khẳng khiu đứng trơ giữa nắng. Thảm trạng nạn đói tàn khốc hiện ra trước mắt Thẩm Hi.
Nàng nhớ đinh ninh lời dặn của Lý lão tiên sinh, sợ bệnh dịch bùng phát nên thấy thành trấn là đi đường vòng để tránh, chỉ dám đi đường đất ở nông thôn, không dám dừng lại quá lâu, đi đường cả ngày, cho đến khi chân mỏi không bước nổi mới dừng lại nghỉ chốc lát.Ngày đầu tiên lên đường, chân nàng đã sưng phù lên, nhưng Thẩm Hi không dám dừng lại, chịu đau đi tiếp.
Cuộc sống khổ cực như vậy, nàng chưa từng tưởng tượng đến, có nhiều lần Thẩm Hi tưởng như mệt đến không dậy nổi, bước chân nặng như chì, nhưng đến khi nằm bệt xuống, đặt tay lên bụng, nàng lại tràn đầy sức mạnh, không vì mình, chỉ vì đứa bé, nàng cũng phải cố gắng sống sót. Đây là đứa con nàng đã mong chờ hai kiếp.
*Note: Nguyên văn hai câu thơ trong truyện, tác giả bài thơ là Lý Thanh Chiếu, một nữ thi sĩ nổi tiếng thời Nam Tống. Bài thơ này nằm trong tập thơ Sấu ngọc từ.
Vũ Lăng xuân - Vãn xuân
Phong trú trần hương hoa dĩ tận,
Nhật vãn quyện sơ đầu.
Vật thị nhân phi sự sự hưu,
Dục ngữ lệ tiên lưu.

Văn thuyết Song Khê xuân thượng hảo,
Dã nghĩ phiếm khinh châu.
Chỉ khủng Song Khê trách mãnh châu,
Tái bất động, hứa đa sầu.
Dịch nghĩa
Gió lặng, bụi thơm, hoa rụng hết,
Ngày tàn, mệt mỏi chải đầu.
Vật như xưa, người đã khác, mọi sự đều thôi rồi
Muốn nói, nước mắt đã tuôn trào.

Nghe nói ở Song Khê mùa xuân còn đẹp,
Cũng định dong chiếc thuyền nhỏ du lãm.
Chỉ sợ những chiếc thuyền nhỏ nhẹ ở Song Khê
Chở không nổi quá nhiều nỗi buồn.
Có lẽ dịch thơ sẽ xuôi hơn nhưng sẽ k chứa hết cái hay của bài thơ nên t k cho vào nữa vậy.
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom