• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG 88.198.7.247 TỪ NGÀY 1/6

Full Cổ Đại Khó Kiếm Cơm (8 Viewers)

  • Chương 5

CHƯƠNG 6
Thẩm Hi lại xem kĩ từng nhà ở chỗ chợ sáng, sau đó tìm một nhà chỉ có hai vợ chồng già, dùng giá một trăm văn tiền một tháng mà thuê lấy sân nhà họ, để đặt bàn ghế trong một góc, có thể múc lấy nước giếng rửa bát. Vị Tôn đại gia tóc đã trắng xóa kia còn dựng một cái lều nói là tránh cho bàn ghế bị mưa hắt đến, Thẩm Hi luôn miệng nói cảm tạ.
Vấn đề phiền toái nhất đã giải quyết xong, nàng lập tức bắt tay vào chuẩn bị các đồ khác. Thẩm Hi đi đến chỗ cửa hàng mộc, nói chuyện với thợ mộc một lúc lâu, mới miễn cưỡng định ra một chiếc xe gần giống xe rùa ở hiện đại, hai thùng để đựng cháo. Hình dáng chiếc xe này là lúc nàng còn chưa đến đây đã đi du lịch đến vùng căn cứ địa cách mạng rồi nhìn thấy, bây giờ vừa vặn có thể lấy ra dùng một chút. Thợ mộc rất ngạc nhiên với thứ đồ mới này, Thẩm Hi cũng biết, lại không tránh khỏi cò kè trả giá một phen, cuối cùng nàng với thợ mộc quyết định: Hắn không lấy tiền làm xe với thùng của Thẩm Hi, nàng sẽ đưa bản vẽ thiết kế hai thứ này cho hắn, về sau cũng không được bán tiếp cho người khác. Còn bàn ghế, thợ mộc bảo nàng không cần đóng mới, đi cửa hàng cầm đồ mua cũng được, tiết kiệm hơn. Đến giờ Thẩm Hi mới biết thì ra hiệu cầm đồ còn bán cả đồ đạc cũ. Nhưng nghĩ lại, những đồ mà người ta cầm đứt kia họ mà không bán, chẳng lẽ để nó mốc meo sao?
Nàng đi đến hiệu cầm đồ, nói với chưởng quỹ mình muốn mua đồ cũ, hắn liền thập phần nhiệt tình mà tiếp đón, lại gọi một hỏa kế dẫn nàng đến hậu viện. Trong hậu viện quả nhiên bày rất nhiều loại đồ, cũ mới đều có, Thẩm Hi chọn một lúc lâu, mới chọn bốn cái bàn, 16 cái ghế dài, hai mươi tô gốm thô, mười mấy đĩa nhỏ, mấy cái bát nhỏ, chưởng quỹ còn khuyến mại tặng thêm hai ống đũa, hơn nữa ở đây nàng còn tìm được thứ gần giống với cái chõ gì đó, tiểu hỏa kế nói là nồi chưng trên bếp lò. Vì toàn là đồ cũ nên giá tiền cũng rẻ, nàng mua hết đống đồ này cũng chưa tiêu đến hai lượng bạc.
Thẩm Hi mua nhiều đồ nên lỉnh kỉnh, nhưng hiệu cầm đồ không đưa hàng đến cửa, nàng đành thuê chiếc xe đưa đồ đến chỗ nhà Tôn đại gia ở chợ sáng.
Đồ bán cháo đã đầy đủ, Thẩm Hi nhìn trời, mặt trời chưa lên cao, liền vòng vo đi đến huyện nha.
Nàng không quên lời Quách thẩm, ngôi nhà mà nàng với người mù ở là quan phủ phát mại, dù nàng không biết thân thể này cùng người mù làm sao sẽ ở trong đó, nhưng luôn cảm thấy nhìn bộ dạng nghèo túng của họ chắc chắn là trộm vào ở. Cho nên nếu không muốn bị quan phủ bắt lấy, mua lại ngôi nhà kia vẫn là tốt hơn.
Đi vào huyện nha,nàng hỏi thăm rõ chỗ giải quyết nhà ở, đất đai rồi đi đến. Người phụ trách việc này là một thư lại họ Vương. Thẩm Hi cũng lưu ý, không có nói thẳng mình muốn mua ngôi nhà hiệc tại mình đang ở mà chỉ nói muốn xem xem mấy ngôi nhà đang được quan phủ phát mại, Vương thư lại lấy ra cuốn sổ, Thẩm Hi nhìn thấy mặt trên có năm chỗ bán, giá rẻ nhất là căn nhà mà nàng đang ở, giá ghi trên đó chính xác như Quách thẩm nói là mười bảy lượng bạc.
Kiếp trước Thẩm Hi cũng là nhân vật trên thương trường, tự nhiên biết chính phủ cũng có việc ăn tiền, vì vậy có mối liên hệ không nhỏ với giới làm ăn, nên nàng muốn thử xem kiểu này có áp dụng được ở đây không. Nhìn nhìn xung quanh không có người nào, nàng đi đến trước mặt Vương thư lại, nói nhỏ: "Vương đại nhân, giá tiền này khá cao, ngài xem có thể giảm cho tiểu nữ chút ít được không?", từ xưa nào có quan lại nào là tuyệt đối trong sạch, Vương thư lại mỉm cười, ra vẻ nói: "Đây là giá chuẩn rồi, chỉ sợ không thể giảm được". Thẩm Hi cúi đầu, nói: "Nếu đại nhân giúp đỡ, tiểu nữ tử chắc chắn dâng lễ tạ". Vương thư lại lấy ra một tờ giấy, viết xuống địa chỉ ngôi nhà, lại viết giá nhà mười lượng bạc, mỉm cười xem Thẩm Hi.
Thẩm Hi nhìn nhìn, quả nhiên giới quan liêu hủ bại, rõ ràng ghi mười bảy lượng, nhưng mười lượng cũng bán được. Nàng không khỏi cười: "Đa tạ đại nhân thành toàn. Đại nhân, có thể ít thêm một chút nữa hay không? Tiền của tiểu nữ còn kém một chút". Dứt lời, một nén bạc năm lượng đã nhét vào trong ống tay áo của Vương thư lại. Hắn không ngờ Thẩm Hi đưa mình những năm lượng làm tạ lễ, không khỏi ngẩn ra, sau đó liếc Thẩm Hi một cái hàm ý sâu xa, mới lấy ra một tờ giấy khác vung bút lên, mười lượng đã đổi thành năm lượng, vừa viết vừa nói: "Ta chỉ là một kẻ tính tình "tiểu nhân", kẻ nào có lỗi với ta, ta hoàn lại gấp trăm lần, nếu là tốt với ta, ta tất nhiên sẽ không bạc đãi người đó". Không ngờ chỉ cần mười lượng bạc đã mua được ngôi nhà, Thẩm Hi cao hứng đến sắp bay lên, hành đại lễ với Vương thư lại, lại luôn miệng nói cảm tạ.
Viết được một nửa, Vương thư lại hỏi: "Tiểu nương tử, hộ tạ của nhà ngươi là ở đâu? Có mang đến thì trình ra đây". Thẩm Hi căn bản không biết cái gì là hộ tạ, có lẽ cũng tương đương với sổ hộ khẩu? Thời này đã có sổ hộ khẩu rồi? Nàng nảy ra một ý, nói: "Vương đại nhân, tiểu nữ tử cũng đành nói thật, nguyên tạ tiểu nữ tử ở đâu chính tiểu nữ tử cũng không biết. Lúc tiểu nữ tử còn ở nhà mẹ đẻ cũng chỉ đi loanh quanh thôn, chỉ biết tên thôn là Ỷ Truân, ngay cả trấn trên cũng chưa được đi bao giờ. Nhà tiểu nữ nghèo, ca ca không cưới được tức phụ, cha mẹ bèn lấy tiểu nữa ra hoán thân. Tiểu nữ bị cha mẹ nhốt trong một thùng xe ngựa chật hẹp, đi ba ngày hai đêm mới tới nhà chồng, khoảng cách từ đó đến đâu là bao nhiêu cũng không rõ. Phụ mẫu của phu gia tiểu nữ cũng đều đã mất, phu quân lại là người tàn tật, nói cũng không nói được. Hai chúng ta vừa thành thân được ba ngày, có người trong tộc đã chiếm lấy nhà cửa, ngay đêm tối đuổi tiểu nữ cùng phu quân ra khỏi nhà, nếu không phải phu quân chu đáo, sớm dấu mấy lượng bạc, phu thê tiểu nữ đã sớm lưu lạc đầu đường. Hộ tạ mà đại nhân nói, tiểu nữ quả thật không biết". Dứt lời, Thẩm Hi lại rớt mấy giọt nước mắt.
Đại khái là thương hại nàng, hoặc là xem năm lượng bạc, Vương thư lại trầm tư một lát, nói: "Tiểu nương tử, như vậy đi, ngươi đưa ta thêm hai lượng bạc, ta tìm một hộ neo đơn mới chết còn chưa xóa hộ rồi treo tên của ngươi, nhưng nếu làm vật, phải đổi họ, hoặc là ngươi hoặc trượng phu, nếu ghi ngươi là con gái người ta, trượng phu của ngươi là ở rể, nếu ghi là con trai, vậy phu quân của ngươi phải đổi họ".
Thẩm Hi nghe qua cũng hiểu được, đại khái là Vương thư lại sẽ lợi dụng lỗ hổng của pháp luật. Nhưng hai lượng bạc mua được cái hộ tạ, nàng cũng thấy hời, ở hiện đại đi làm hộ khẩu còn khó nữa là, chưa nói đến chỗ cổ đại giai cấp nghiêm khác này. Nàng không muốn bị ăn cơm tù hay người không hộ khẩu.
Thẩm Hi nghĩ nghĩ, dù sao cũng không biết tên người mù là gì, vậy đổi hắn cũng đươc, bèn nói: "Đổi trượng phu của tiểu nữ". Vương thư lại lấy ra một quyển sổ khác, lật lật: "Vậy thì hộ này đi, Giả Trụ bảy mươi tuổi, trượng phu của ngươi tên là gì? Ta sửa cái họ là được". Thẩm Hi nghe nói là họ Giả, liền liên tưởng đến câu đối liễn trong Hồng Lâu Mộng - Giả cũng thật thật cũng giả, chỗ vô vi đó có còn không, vì vậy nói: "Vậy thì phiền ngài đổi thành Giả Như Chân". Vương thư lại cười một tiếng, viết ba chữ Giả Như Chân lên, lại hỏi: "Vậy còn ngươi, đã có hài tử chưa?". "Tiểu nữ tên Thẩm Hi, chưa có hài tử". Sau đó Thẩm Hi trợn mắt nhìn Vương thư lại viết Giả Thẩm Thị Tây lên sổ, cạnh tên Giả Như Chân.
Giả Thẩm thị...Tây... cái tên bắt mắt như vậy khiến Giả Thẩm thị Tây mới ra là hỗn độn trước gió....
Nắm chặt lấy khế ước nhà cùng bản hộ tạ mới tinh, Thẩm Hi vui sướng trở về nhà. Sau khi về đến nhà, nàng vội tìm tờ giấy dầu gói kĩ hai thứ này, sau đó tìm một cái vò nhỏ nhét vào, đậy nắp lại rồi lấy bùn đắp kín lên trên. làm xong, nàng dấu đến một góc khuất trong bếp, cạnh đó còn đặt hai cái bình sứt. Nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất, nếu thật có trộm vào nhà, cái bình sứt cũng sẽ không khiến cho người ta chú ý, không si có thể ngờ trong cái vò mẻ lại chứa đồ quý giá cả. Huống chi thứ này là tài sản quan trọng nhất, cũng là chứng minh cho sự tồn tại của nàng trên thế gian này, không thể làm mất, cũng không thể cho chuột gián gặm cắn mất, Vương thư lại nói nếu phải làm lại sẽ rất phiền phức.
Giấu kĩ đồ, Thẩm Hi tự nhủ về sau định cư ở chỗ này, quan hệ hàng xóm láng giềng phải tốt đẹp mới được, đặc biệt là Quách thẩm nhiệt tình tốt bụng , nên phải cảm tạ nàng. Nghĩ vậy, Thẩm Hi rửa mặt chỉnh tề, lấy một gói điểm tâm đi đến nhà Quách thẩm. Hai người nói chuyện một lát, thành lập được mối quan hệ bát quái tốt đẹp. Từ lời nói của Quách thẩm, nàng biết được vài điều sơ sơ về mấy nhà hàng xóm, nhưng nàng tạm thời chưa muốn đi bái phỏng, nàng còn có chuyện phải làm, chuyện này để sau vậy.
Lúc xế chiều, Thẩm Hi không ra khỏi nhà, mà dự định quét dọn sắp xếp lại chỗ được coi là "Nhà" này. Vật không có tác dụng thì vứt, đồ nào còn dùng được đều chỉnh lí thật chỉnh tề, kể cả mạng nhện trên nóc nhà nàng cũng đạp lên ghế quét dọn sạch sẽ. Hai ngày sau đó, Thẩm Hi chỉ lúi húi trong nhà, thấy thiếu cái gì thì mua thêm cái đó, dần dần, ngôi nhà cũ rách dưới sự tân trang của Thẩm Hi đã thay da đổi thịt, nhuộm đẫm nhân tình vị.
Đến ngày thứ tư, Thẩm Hi đi cửa hàng may lấy áo bông đã đặt trước, vuốt chiếc áo bông mềm mại, nàng vui mừng đến sắp rơi lệ, mấy hôm nay nàng lạnh cóng, mấy đầu ngón tay bị lạnh đến mức sắp lên cước. Mùa đông ở đây lạnh vô cùng, lạnh hơn nhiều ở hiện đại.
Nàng mặc áo bông vào, nhưng sợ dễ dây bẩn nên lại khoác thêm một cái áo đơn ra ngoài, không cần soi gương cũng biết giờ mình không khác gì con gấu béo, nhưng so với việc bị đông lạnh thành kem, nàng vẫn mặc dày tốt hơn.
Áo bông mới của người mù cũng giống áo của nàng, nhưng cỡ lớn hơn, Thẩm Hi mặc cho hắn xong cũng khoác thêm một cái áo đơn lên. Áo đơn của phụ nữ là kiểu trên áo dưới váy, còn kiểu đàn ông là áo trường bào. Áo bông của người mù rất vừa người, cộng với bộ dáng hắn cao gầy, hắn tuy có mặc giống kiểu Thẩm Hi mặc nhưng nhìn lại không to béo như nàng, giờ mặc thêm trường bào, càng hiển thêm khí chất yên lặng trầm ổn. Thẩm Hi cười tủm tỉm nhìn hắn mấy vòng, nhìn được đã con mắt.
Mặc ấm áp, Thẩm Hi đi tới chỗ cửa hàng mộc lấy ce cút kít với thùng đựng cháo, còn đi nhà Tôn đại gia lấy "chõ". Mọi công việc chuẩn bị cho việc khai trương đã sẵn sàng, bắt đầu từ mai là có thể bán hàng.
Ăn tối xong, nàng đi vo gạo, sau đó ngâm vào trong thùng, chuẩn bị cho gạo hút no nước mai nấu mau nhừ hơn. Lại lấy vò củ cải hôm trươc muối ra nếm thử, đã ăn được. Chuẩn bị xong mấy thứ này, Thẩm Hi mới đi hót sạch tro bụi cũ trong bếp lò, nếu có than đá, cái bếp này sẽ rất tiện lợi, chỉ cần cho gạo với nước vào nồi lò, nhen lửa rồi cho thêm than vào là đun được cả đêm, hôm sau dậy cháo đã nhừ,nàng không cần vất vả đun bếp.
· Chú giải mấy vấn đề (người edit)
Về chuyện thân thế hai người mà Thẩm Hi đã bịa ra với Vương thư lại: Thời cổ chú trọng việc thành thân an gia - người nam nhân đã thành thân đc coi à trưởng thành, có thể cáng đáng một gia đình, cha mẹ có thể phân chia tài sản và cho hai vợ chồng son ra ở riêng, lập một hộ khác. Vậy nên, Vương thư lại sẽ nghĩ đến tình huống "người họ hàng trong tộc" có thể sẽ là trưởng bối, lấy cớ người mù đã thành thân để tự lập môn hộ, do đó đuổi 2 người ra khỏi nhà.
Tên của Thẩm Hi trong hộ tịch: Vương thư lại nghe nhầm, và có thể hắn biết ít chữ nên chữ Hi có nhiều nét, khó viết, nên đổi thành chữ Tây. Chữ Hi và Tây đồng âm là Xi nên dễ nhầm.
CHƯƠNG 7
Đến nửa đêm, Thẩm Hi đã tỉnh, đốt ngọn đèn mờ nhạt xuống giường đi nhóm lò. Củi cùng than nàng đã xếp hết tvào trong lò từ lúc vo gạo, giờ chỉ cần nhóm lửa là được.
Nhưng nàng không ngờ đốt lò lại khó hơn nhóm bếp nhiều, lòng lò chỉ một lỗ nhỏ nhỏ, lại xếp đầy than với củi, muốn nhen củi cháy cũng không phải dễ, dù lúc ban sáng này có hỏi qua Quách thẩm rồi nhưng lí luận khác với thực tiễn, một lát sau, lửa chưa cháy nhưng đầy phòng khói đặc, đến cả người mù trên kháng cũng bị sặc đến ho sặc sụa.
Thẩm Hi tức giận đến điên đầu, hung hăng nghĩ: Mình không thể chịu thua cái lò chết tiệt này được, cùng lắm thì moi hết than ra, đốt mỗi củi không xem có cháy hay không! Nàng mở cửa bếp, cơn gió lạnh buốt xương liền thổi vào phòng, thổi bay làn khói dày đặc, cũng thổi hết hơi ấm trong bếp, khiến nàng lạnh đến nổi hết da gà. Nhưng Thẩm Hi là một người cố chấp không chịu thua, chịu đựng cái lạnh mà trở lại bên bếp lò, cầm lấy ít củi tiếp tục chiến đấu.
Qua nửa giờ phấn đấu, cuối cùng nàng cũng đốt được lò, có kinh nghiệm từ lần trước, lần này nàng cho thêm mấy viên than lớn vào lò ngay lúc củi đang cháy lớn, cảm ơn trời đất, lần này rốt cuộc than cũng cháy. Thẩm Hi lau lau mồ hôi trên trán, vội đổ nước với gạo vào nồi, dần dần, khói trong bếp tan dần, trong bếp cũng ấm trở lại, nàng trở lại trên kháng, nhưng không thể ngủ yên được, nàng băn khoăn nồi cháo, một chốc dậy xem cần thêm than chưa, một chốc lại dậy đổ thêm nước, thêm than vào trong lò, dù sao qua nửa đêm nàng không ngủ yên được, chốc chốc lại dậy xem. Điều duy nhất khiến nàng vui mừng là đến lúc trời tờ mờ sáng,cháo đã ăn được.
Thẩm Hi trước hết buộc thùng đựng cháo vào xe cút kít, mới múc cháo từ trong nồi ra đổ vào thùng, đậy kín nắp, đặt bồn nhỏ đựng dưa muối lên xe, rồi đẩy xe ra cửa.
Bởi vì là ngày đầu bán, nàng không dám làm nhiều, để tránh bán không hết lãng phí, nên đẩy xe cũng không nặng cho lắm, nhưng việc giữ thăng bằng cho xe lại không dễ, nàng phải dùng hết sức để giữ,nhưng suýt nữa cũng bị lật xe.
Vì người ở đây dậy sớm, lúc Thẩm Hi đi đến chợ đã thấy nhiều người bày quán ở đó. Nàng nhanh chóng đẩy xe đến trước cửa nhà Tôn đại gia, đã thấy ông dọn xong bàn ghế cho nàng rồi, đang ngồi trên bậc cửa nhìn người ta bày quán, cũng sợ người ta lấy mất bàn ghế.
Cảm kích lòng nhiệt tình của Tôn đại gia, Thẩm Hi nhanh chóng chào hỏi: "Tôn đại gia, ngài dậy sớm quá". Tôn đại gia đứng lên cười nói: "Thẩm nha đầu, không còn sớm đâu, là ngươi tới quá muộn, ngươi xem, người ta đều bày xong quán rồi, việc buôn bán là không thể lười biếng". Dứt lời, liền bắt tay giúp Thẩm Hi khiêng thùng cháo đặt xuống, đặt xuống tấm gỗ đã đặt sẵn.
"Cảm ơn lão nhân gia ngài dạy bảo, ngài mai ta sẽ tới sơm hơn". Thẩm Hi trả lời, đặt bồn dưa muối xuống, lại bày bát đũa ra, vừa tán gẫu với Tôn đại gia. Tôn đại gia nói: "Buôn bán thì phải rao hàng, ngươi không rao hàng đi lại tán gẫu với ta cũng không có khách đâu. Mau rao đi".
Thẩm Hi cũng không ngại, gọi to: "Cháo bát bảo nóng hổi vừa thổi vừa ăn đây, ba văn một bát, đưa thêm một đĩa dưa muối, còn có chỗ ngồi, mau đến mau đến đây!". Nàng rao đi rao lại mấy lần, cho đến lúc có một vị khách ngồi vào bàn, mới dừng lại.
Vị khách đầu tiên là một lão tiên sinh lớn tuổi, y phục dù chỉnh tề nhưng hơi cũ, có chỗ đã mòn đến bị xơ sợi, xem ra là một vị địa chủ nhỏ, ông đến nhìn nhìn, thong thr ung dung hỏi: "Cháo này là cháo ngọt hay mặn?". Thẩm Hi lễ phép trả lời: "Đây là cháo trắng, trong đó chưa thêm đồ gì, nếu ngài ăn ngọt, sẽ thêm đường vào bát, nếu thêm đường là bốn văn tiền, đường đắt. Còn nếu ngài ăn mặn, tiểu nữ sẽ đưa thêm một đĩa dưa muối ăn cùng, không thêm tiền. Ngài ăn cháo ngọt hay mặn?". Đường ở nơi này không chỉ có đường mạch nha, lần trước nàng mua đường nói là "đường trắng", nên tiểu nhị tưởng nàng muốn mua đường mạch nha màu trắng. Có một loại đường khác gọi là đường cát, màu vàng. Đường cát này cùng đường trắng không quá khác biệt, nhưng không trắng cũng không tinh khiết như đường trắng. Loại đường mà Thẩm Hi dùng lần này là loại đường cát này.
Lão tiên sinh thản nhiên nói: "Một bát cháo mặn, bát đũa phải sạch sẽ". Thẩm Hi đáp một tiếng, vội múc một bát cháo đặt lên bàn, sau đó gắp mấy miếng dưa muối lên đĩa nhỏ, bưng đến trước mặt lão tiên sinh, cười tủm tỉm nói: "Lão tiên sinh xin mời dùng".
Lão tiên sinh kia lấy ta bốn đồng tiền, đưa cho Thẩm Hi, nàng lấy ba đồng, trả lại cho ông một đồng: "Ba đồng là đủ rồi, ngài trả thừa một đồng". Lão tiên sinh "Hừ" một tiếng, vẻ mặt không kiên nhẫn nói: "Cái này cũng không biết, đồng thừa lại là thưởng cho ngươi".
Lần này Thẩm Hi ngạc nhiên, chữ "thưởng" này nàng chỉ thấy trên TV, chưa bao giờ thấy trong cuộc sống thực, vì trong xã hội không ai cao hơn ai một bậc, dù là người có tiền có quyền cũng không tự tiện nói từ này, có đi nhà hàng hay mấy chỗ quán cà phê, bar linh tinh cũng chỉ dùng từ "tips" cho lịch sự. Nhưng nàng rất mau liền hiểu, ở đây là xã hội phong kiến giai cấp nghiêm ngặt, mình thuộc vào giai tầng thấp nhất, chữ này chắc về sau sẽ thường gặp phải. Nghĩ đến đây, nàng nở nụ cười, trả lời theo bộ dạng học theo trên TV: "Vậy tiểu nữ xin cảm ơn lão nhân gia ngài".
Nàng mới hành lễ xong, lão tiên sinh kia đã trầm giọng hỏi: "Ngươi chưa thành thân? Một cô nương gia sao có thể tự tiện lộ đầu lộ mặt ở ngoài, người nhà cha mẹ ngươi đâu?". Thẩm Hi nghĩ thầm ông hỏi cái này làm gì, người ta đã kết hôn hay chưa thì liên quan gì đến việc bán cháo, nhưng chỉ dám nói thầm trong lòng, ngoài mặt vẫn lễ phép đáp lời: "Tiểu nữ đã không phải là cô nương, thành hôn được hơn một tháng rồi". Lão nhân kia lại trầm mặt xuống, cả giọng nói đều tăng thêm: "Láo xược, đã thành thân còn dám tự xưng là "tiểu nữ", cha mẹ chồng ngươi dạy con dâu kiểu gì?".
Thẩm Hi giật mình, việc xưng hô như vậy sẽ không có chuyện gì chứ, nàng chỉ học theo mấy cô gái gặp được trên đường, hơn nữa lúc nói chuyện với Lâm chưởng quỹ cũng không thấy ông ấy bảo gì. Nàng vội vàng hỏi: "Lão tiên sinh, xưng hô như vậy liệu có vấn đề gì không ạ? Cha mẹ chồng đã mất từ lúc ta chưa gả đến, trong nhà chỉ có ta với trượng phu, không có trưởng bối nào. Ta có chỗ nào không ổn, còn mong tiên sinh chỉ giáo".
Lão tiên sinh nghe Thẩm Hi nói, mới bớt vẻ giận dữ mà nói: "Nếu đã không có người dạy dỗ, cái này cũng không trách ngươi. Ngươi nhớ kĩ chỉ có cô nương chưa lập gia đình mới được tự xưng là 'tiểu nữ', nếu đã thành thân, xưng là 'tiểu phụ nhân'. Hoặc xưng là 'nô' hay 'ta' cũng được, xưng hô này cả thành thân hay chưa đều dùng được. Ngươi đừng lại nói sai".
Nô, vẫn là thôi đi, Thẩm Hi thật không thể nói ra miệng, chỉ phải nói: "Tiểu phụ nhân đã biết, đa tạ lão nhân gia ngài chỉ điểm". Tiểu phụ nhân, nghe cứ mất tự nhiên kiểu gì.
Lão tiên sinh thấy Thẩm Hi sửa lại, phất tay nói: "Thôi, đi xuống đi, ta phải dùng bữa". Nàng nghe lời trở về chỗ thùng cháo, đã thấy có mấy người đứng trước thùng, một người lắm mồm nói: "Lão nhân kia là Lí tú tài, nhà hắn trước kia đúng là gia tài bạc vạn, mà Lí tú tài này chỉ biết ngâm thơ vẽ tranh, trong nhà chỉ biết tiêu tiền không biết kiếm tiền, thua lỗ hết cả gia tài, cả lương thực còn chả có bao nhiêu còn luôn thích làm vẻ rộng rãi, mua cái gì đều thưởng thêm tiền, nương tử cứ cầm đi".
Đúng là chuyện lạ nơi nào cũng có, xem ra từ cổ chí kim, chỉ cần là người, ai cũng đều có một ngọn lửa bà tám thiêu đốt trong lòng. Thẩm Hi vừa trò chuyện với mọi người, vừa tay chân nhanh nhẹn múc hết bát này đến bát kia cho người ta. Bán cháo ở cạnh một đống sạp bánh bao bánh nướng đúng là không sai, tuy nàng có nghĩ đến việc buôn bán suôn sẻ nhưng không ngờ lại bán chạy đến vậy, người đến mua cháo liên tục, hai mươi cái bát to kia không đủ dùng, may là Tôn đại gia nhiệt tình, gọi Tôn đại nương đem hết bát to của nhà mình ra, lại múc đến một chậu nước giúp Thẩm Hi rửa bát. Nếu không có hai ông bà giúp đỡ, nàng đúng là tay chân rối loạn không bán được hàng.
Đến khoảng 9 giờ sáng đã bán xong thùng cháo, Tôn đại nương giúp nàng thu dọn bát đũa, rửa sạch sẽ, lại dọn bàn ghế vào chỗ góc sân. Thẩm Hi luôn miệng cảm tạ hai người, nhưng hai ông bà chỉ xua tay, nói dù sao người già rồi không làm được cái gì, giúp đỡ một chút coi như là vận động tay chân. Thẩm Hi bận tâm đến người mù đang ở nhà, trò chuyện một lát sau liền đẩy xe trở về. Trên chợ, nàng còn mua mấy cái bánh bao, một miếng thịt thủ lợn ở chỗ hàng bán đồ kho rồi mới về.
Về đến nhà, nàng trước vào phòng nhìn xem người mù, thấy hắn đã mặc quần áo tử tế ngồi dựa vào trên kháng. Nàng lấy bánh bao ra bón từng miếng cho người mù ăn với thịt thủ, mình cũng ăn cái bánh bao, lựa mấy miếng thịt nạc, đã xong bữa sáng. Ăn xong, nàng vội vã đếm tiền. Đổ ra một túi tiền đồng nặng trịch, chưa tính tiền nhưng bằng này chắc cũng đủ nhiều, Thẩm Hi vui mừng, dù không bao nhiêu nhưng đây chính là số tiền đầu tiên nàng dùng chính sức mình kiếm được, không giống như trước kia chỉ cần ngồi trong văn phòng là đã được tiền.
Thẩm Hi hớn hở đếm tiền, vui sướng không khác gì lúc kiêm được mấy chục lượng bạc ở chỗ Lâm chưởng quỹ. Một đồng, hai đồng, ba đồng.... đếm được đến 246 đồng tiền. Đếm xong, Thẩm Hi bình tĩnh hẳn, mới được 246 văn, trừ đi tiền vốn 80 văn, chút tiền mình kiếm được chỉ bằng khoảng một phần mười của một lượng bạc. Nếu cứ đà này, muốn kiếm được một trăm lượng bạc phải bán đến bảy tám năm!
Nhưng Thẩm Hi cũng không nản chí, so với hàng bánh bao bánh nướng, mình đã kiếm được nhiều, huống chi gạo lức với bột ngũ cốc chỉ khoảng mười văn một cân, gạo trắng với bột mì thì đắt hơn, năm sáu chục văn một cân, mình còn nuôi thêm một người mù, nhưng vẫn đủ ăn.
Tối hôm qua không được ngủ đủ, buổi sáng lại vất vả bán hàng, giờ Thẩm Hi thấy mệt mỏi vô cùng, lại mới ăn no, cơn buồn ngủ kéo đến. Nàng cất kĩ tiền, đóng cửa viện, liền trèo lên kháng chui vào trong chăn, một lát sau đã ngủ say sưa. Người mù luôn yên lạng, tự nhiên sẽ không phiền nhiễu đến Thẩm Hi, nàng ngủ dậy, cảm giác mình đã ngủ được một giấc lâu dài. Đến lúc nàng dậy, đã đến giữa trưa.
Thẩm Hi gấp đệm chăn lại, thấy người mù còn ngồi ở đầu kháng, không khỏi nói nhỏ: "Ngồi cả ngày, không thấy đau mông mỏi người sao? Ngươi ngồi lâu như vậy cũng không tốt, cần đi dạo dạo bên ngoài một chút, phơi nắng phơi nắng mới được. Mà thôi, giờ ngoài trời đang lạnh lắm, ra ngoài phải gió lạnh rồi ốm thì khổ, chỗ quái quỷ này lại thiếu thốn thuốc men, tốt nhất ngươi cứ ở trong phòng đi". Dù biết người mù không nghe thấy, nàng vẫn cứ nói, trong phòng không có tiếng người, im lặng đến khó chịu. Đời trước lúc Triệu Dịch rời khỏi nhà, nàng đã quen miệng lẩm bẩm một mình.
Nhớ tới Triệu Dịch, Thẩm Hi lại buồn bã, Triệu Dịch là vết thương trong lòng nàng, chứng cứ của tình yêu hư ảo. Yêu sâu sắc thì sao chứ, đến lúc hết yêu, người mình yêu cũng sẽ bỏ mình mà đitrên đời này không bao giờ có tình yêu vĩnh cửu. Chỉ có cha ông ta là thông minh, biết tình yêu là thứ khó tin tưởng nhất, cưới vợ gả chồng cho con cháu chỉ có "Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy", khiến cái thứ tình yêu chết tiệt kia đi đâu thì đi! Nhưng hiệu quả cũng không tệ lắm, không phải tỉ lệ li hôn ở cổ đại thấp đến gần như bằng 0 sao? Lấy chủ cũ của thân thể này làm ví dụ, dù "phu quân" vừa điếc vừa mù vừa câm , dù không đối xử tử tế với trượng phu, nhưng vẫn không rời không bỏ hắn. Nếu là ở hiện đại, phỏng chừng đã chạy từ lúc chưa kịp cưới rồi.
Thẩm Hi cũng biết đây là cưỡng từ đoạt lí, nhưng nhìn nhìn người mù trầm lặng, nàng bỗng cảm thấy như vậy cũng không tồi, dù hắn có bị mù, lại còn câm điếc, nhưng ít nhất hắn sẽ không giống tên khốn Triệu Dịch mà bỏ rơi mình, cũng không khiến nàng đau lòng, nếu mình muốn, hắn sẽ ở lại bên mình cả đời, mình sẽ không phải sống cô độc một người nữa.
Không có tình cảm thì sao chứ, không có tình cảm cũng sống được với nhau cả đời, hắn không nuôi được bản thân, mình có chân có tay, có thể nuôi hắn, có một người vĩnh viễn không phản bội mình, không phải quá tốt sao?
CHƯƠNG 8
Với việc nhóm lò, Thẩm Hi đã có đầy đủ kinh nghiệm, nên lúc nàng nhóm lại lửa, đã dễ dàng mà nhóm xong lò, nàng cũng biết than cháy được lâu nên đế nửa đêm mới dậy cho thêm than và lò một lần, không bị thiếu ngủ.
Người mù tuy không nghe được không nhìn được nhưng lại rất tỉnh ngủ, mỗi lần Thẩm Hi dậy hắn cũng tĩnh, nhưng chỉ nằm đó không nhúc nhích, hơn nữa mặc kệ nàng có mang theo hơi lạnh chui vào ổ chăn cũng hờ hững không phản ứng gì, như một đầu gỗ.
Qua hôm nay, người đi chợ cũng biết được trong chợ mới mở một hàng cháo, có thể ngồi ăn trong quán, còn được ăn thêm dưa muối miễn phí, nên hôm nay Thẩm Hi bán đắt hàng hơn hôm qua, cũng may tối qua nàng nấu nhiều hơn hôm trước nên cũng đủ bán. Bận rộn một buổi sáng, hai vợ chồng Tôn lão gia lại tới giúp nàng. Thẩm Hi khá áy náy, bán xong cháo, nàng nói chuyện với hai ông bà, nhờ ông bà giúp thêm mình việc bưng bát rửa bát, mỗi ngày nàng đưa thêm mười lăm văn tiền. Đừng nhìn mười lăm văn tiền không nhiều lắm, một tháng mỗi ngày bằng đó tiền cũng góp được gần nửa lượng bạc. Số tiền lương Thẩm Hi đưa ra không phải thấp, như tiệm cơm có thuê hỏa kế tiểu nhị còn chưa bằng, tiểu nhị mỗi ngày mười văn, hỏa kế chỉ hai ba văn, huống chi làm giúp Thẩm Hi còn chưa đến nửa ngày công. Hai ông bà lại không đồng ý, chỉ nói là giúp đỡ chút việc thôi, không tiện lấy tiền. Nhưng Thẩm Hi biết hai ông bà không có con trai, chỉ có hai con gái đã gả chồng, bình thường chỉ dựa vào tiền biếu ủa con gái con rể mà sống, cuộc sống cũng khó khăn nên mỏi miệng khuyên hai người nhận lấy.
Cứ như vậy, cuộc sống của Thẩm Hi coi như là ổn định xong. Buổi sáng bán cháo, buổi chiều hoặc quét tước, dọn dẹp nhà cửa, hoặc đi mấy nhà hàng xóm nói chuyện phiếm linh tinh. Ở chỗ này được một thời gian, nàng cũng làm quen được với mấy nhà hàng xóm.
Bên trái nhà Thẩm Hi là nhà một đôi vợ chồng già họ Cao, sống cùng hai cháu gái. Hai người này tính tình cổ quái,lúc Thẩm Hi đến gõ cửa làm quen, hai người không hoan nghênh thì thôi, lại còn nhìn nàng chằm chằm đề phòng, khiếng nàng thập phần ngại ngùng, nói chuyện mấy câu rồi vội vàng cáo từ ra về. Về sau nàng nói chuyện này với Quách thẩm, mới biết thì ra hai ông bà có chút tiền bạc, cảm thấy ai cũng đang nhìn chằm chằm số tiền kia, cùng với con trai không ở nhà nên suốt ngày sợ bóng sợ gió, lo tiền bị người ta trộm mất. Trong nhà lúc nào cũng kín cổng cài then, chưa bao giờ qua lại với làng xóm láng giềng. Thẩm Hi nghe xong, lần sau đi nhà người khác, tránh nhà này ra.
Bên phải nhà nàng là một hộ họ Trương, có sáu người, hai vợ chồng già với hai vợ chồng người con trai và một đứa cháu sáu tuổi cùng một chú em chồng. Cả nhà đều là người hiền hòa, đặc biệt là nàng dâu tên Thúy Cô, ngay thẳng hào phóng, rất hợp tính Thẩm Hi. Lui tói nói chuyện mấy lần, hai người liền xưng tỉ muội với nhau.
Mấy khác Thẩm Hi cũng đăng môn bái phỏng qua, nhưng chỉ tùy tiện gọi thúc bá thím chị dâu linh tinh, nhà hiền hòa thiện lương nàng lâu lâu sẽ đi nói chuyện, còn mấy nhà phức tạp hoặc thanh danh không tốt nàng chỉ qua loa, chạm mặt thò chào hỏi một câu, không thâm giao.
Thẩm Hi xử thế hiền hòa, không cãi nhau với người ta, lại làm việc rộng rãi không tính toán chi li nên rất được hoan nghênh. Nhưng xã hội phong kiến quy củ rất nghiêm khắc với phụ nữ, nhất là quan hệ giữa người phụ nữ với nam giới rất quy củ, mặc dù không bằng thời Minh Thanh nhưng cô nương hay phụ nhân cũng không được tùy tiện đi lại trên đường. Vừa nge Thẩm Hi đã có chồng, các cô nương tiểu tức phụ cũng không dám đến chơi nhà nàng thường xuyên, chỉ có Quách thẩm với mấy thím lớn tuổi, không có cố kị gì mới thường đến.
Chiều nay Quách thẩm với ba thím nữa đến chơi, Thẩm Hi vội chào hỏi, mời mọi người vào nhà, vừa pha trà vừa cười nói: "Hôm nay ngọn gió nào thổi mấy thẩm đến đây cùng nhau vậy, thật khó được dịp tốt, mời các vị thẩm thẩm vào nhà uống trà". Mấy người trêu ghẹo, một bên ngồi xuống mấy chiếc ghế cạnh kháng: "Xem miệng Thẩm nương tử ngọt chưa này, nói toàn lời dễ nghe thôi".
Trong mấy người Quách thẩm lớn tuổi nhất, nàn g lên tiếng: "Thẩm nương tử, hôm nay bọn ta đến để bàn với ngươi chuyện này". Thẩm Hi bưng trà đến, cũng ngồi xuống: "Có chuyện gì vậy mà các thẩm thẩm cùng nhau bàn bạc đấy ạ". Quách thẩm trả lời: "Đến mùa đông nhàn rỗi không có việc gì, dù sao rảnh thì làm mấy việc lặt vặt vậy, mấy người bọn ta có thương lượng một chút, định dệt mấy thước vải, nên tới hỏi Thẩm nương tử xem ngươi có muốn dệt cùng không? Nếu muốn dệt, chúng ta cùng nhau đi mua bông về kéo sợi, giá tiền sẽ rẻ hơn một chút". Một vị thẩm thẩm ngồi bên cũng nói: "Nếu mua được nhiều loại sợi, có thể nhuộm thêm màu lên đó nữa, sẽ nhìn đẹp hơn, vải dệt có hoa văn đẹp hơn vải trơn".
Canh cửi? Thẩm Hi vừa nghe thấy hai từ mang phong cách cổ phong dày đặc này, cảm giác như mình đang nằm mơ. Dệt vải? Chính mình dệt vải?
Đời trươc khoa học kĩ thuật phát triển như vậy, quần áo toàn là đồ may swaxn bán trong trung tâm thương mại, cửa hàng hoặc chợ, đừng nói là canh cửi, cả máy dệt nàng cũng chưa thấy qua, giờ để nàng tự mình dệt vải, đây chẳng phải là mission impossible sao?
Thấy Thẩm Hi chần chờ, Quách thẩm cẩn thận hỏi: "Thẩm nương tử, có phải là nhà ngươi kẹt tiền không? Bọn ta cũng biết bông khá đắt, nếu chưa mua được cũng không sao, bọn ta chỉ tới hỏi hỏi một chút thôi". Thẩm HI thở dài: "Thẩm thẩm, không phải là vấn đề tiền nong, mà là khung cửi, ta không biết dệt, cũng không biết dùng khung cửi như thế nào".
Nghe nàng nói không biết dệt, mấy phụ nhân thở phào một hơi, một phụ nhân nhanh miệng nói: "Canh cửi rất đơn giản, nếu ngươi không biết, thẩm có thể dạy, không có việc gì". Lại một vị thẩm tử khác nói: "Nếu ngươi không học được cũng không sao, bọn ta mỗi người dệt thêm mấy thước, vài ngày cũng dệt xong thôi". Quách thẩm cũng khuyên: "Tiền mua vải đắt hơn mua bông nhiều, chúng ta đều là người dân bá tính, tiết kiệm được bao nhiêu hay bấy nhiêu, như ta đây này, số tiền chênh lệch kia còn mua được mấy cân thịt lợn ăn tết kia".
Thẩm HI thấy mọi người đều mong nàng góp phần, cũng không từ chối nữa, đáp ứng: "Vậy đành làm phiền các thẩm tử rồi, nhưng đến khi dạy ta dệt vải, nếu ta ngu dốt khó dạy mong các thẩm đừng chê cười, ta cũng là đại cô nương lên kiệu hoa thôi" (Câu này chỉ việc đang sờ soạng tìm tòi làm việc gì đó lần đầu tiên).
Các thẩm tử đều cười vui vẻ, hỏi nàng muốn dệt bao nhiêu vải, sau đó chưa đợi nàng trả lời, đã mồm năm miệng mười thương lượng mua bao nhiêu bông là vừa, có thể dệt ra bao nhiêu vải, đại khái cần dệt bao nhiêu ngày thì xong. Thẩm Hi thì bỡ ngỡ không biết gì, liền cho mấy thẩm thẩm kia quyết định, nàng chỉ cần ra tiền là được.
Đám người Quách thẩm làm việc dứt khoát, Thẩm Hi mới đưa tiền mấy ngày, đã mua xong bông về. Quách thẩm còn mượn cho Thẩm Hi một guồng quay tơ, khiến nàng kéo bông thành sợi. Việc này chắc chắn nàng không biết làm, cũng may Quách thẩm không chê phiền, tay cầm tay dạy nàng kéo tơ như thế nào, kéo đều tay để sợi tơ đều nhau, không đứt cũng tiết kiệm được bông. Cũng may việc này không đòi hỏi kĩ thuật quá cao, Thẩm Hi cũng học được mau, dạy một ngày nàng đã kéo được sợi đều đều, nhưng không làm được nhanh như Quách thẩm. Mọi người đã kéo xong sợi, chỉ có Thẩm Hi mới kéo được một nửa, vì vậy các thẩm thẩm lại cùng nhau đến hộ nàng, một ngày đã kéo xong rồi.
Kéo xong sợi, mọi người lại mang sợi đi nhuộm màu, mấy ngày sau đã mang một đống sợi đủ màu trở về. Nhưng có thể là do kĩ thuật có hạn chế, sợi vải chỉ được nhuộm màu lam, đen và đỏ thẫm chứ không có nhiều màu khác. Mọi người lại cuộn hết sợi vải thành cuộn tròn, sau đó đặt từng cuộn vải vào từng ô nhỏ, lấy đầu sợi ra, để người có kinh nghiệm xếp thành hoa văn hình dáng khác nhau từ những đầu sợi đó.
Những việc này Thẩm Hi chỉ nhìn là chính chứ không hiểu gì, nhưng thấy rất mới lạ, rõ ràng chỉ là từng sợi vải, nhưng kéo thế nào đã ra một hoa văn phức tạp, trí tuệ của nhân dân lao động đúng là siêu phàm.
Đã xếp xong sợi vải, bắt đầu dệt được rồi. Giăng sợi ra, bắt đầu máng sợi. Máng sợi, là mắc tất cả các sợi vải vào một trục gỗ nằm ngang, quấn lại rồi đặt trục này lên khung cửi, rồi một người khéo tay mắc từng sợi vải một lên khung cửi, xuyên qua thanh tăng, qua khung cửi, cuối cùng là mắc đến một thanh gỗ dài như chài cán bột có thể chuyển động.
Quá trình này hết sức phức tạp, hơn nữa Thẩm Hi cũng không thể gọi tên hết được các bộ phận của khung cửi, cho nên về sau nàng cũng không nghiên cứu nữa, chăm chú xem người ta dệt vải, sợ mình không biết làm lại phải phiền hà mọi người.
Nàng thấy người ta dệt rất dễ dàng, nhanh tay ném con thoi, đạp đạp khung cửi kêu kèn kẹt suốt buổi, tiết tấu đều nhịp, nhìn các sợi vải đan xen lẫn nhau dần thành hình một tấm vải. Thẩm Hi xem thích thú, cũng đi lên dệt thử, nhưng mới ném con thoi đã xuyên qua lớp sợi vải, rơi bộp xuống đất, mọi người bật cười. Thẩm HI đỏ mặt, lại ném lại, lần này con thoi không rơi, mà lại cắm vào lưới sợi, kéo đứt mấy sợi vải, lại khiến mọi người cười một trận. Có người lên nối lại sợi, nàng đành phải tránh ra ngoài.
Đợt dệt vải này là Quách thẩm khởi xướng, nên mấy cái khung cửi cũng đặt ở nhà Quách thẩm. Đại khái nàng sợ Thẩm Hi dệt làm chậm chân người khác nên xếp nàng dệt cuối, chỉ xếp trước mỗi Quách thẩm. Tuy người ta canh cửi Thẩm Hi cũng đi nhìn nhìn, xem người ta dệt ra sao, mọi người cũng biết nàng không biết dệt, mỗi lần nàng đến xem cũng sẽ dạy mấy câu, cũng cho nàng dệt thử mấy thoi. Cứ như vậy, đến phiên Thẩm HI dệt, nàng đã học được tám chín phần mười.
Nhìn kĩ thuật dệt của người khác, nàng càng cảm thấy bái phục, chỉ có mấy màu sợi vải thôi mà kéo ra sao, dệt kiểu gì cùng với sợi chỉ màu của con thoi đã dệt ra được các tấm vải màu sắc và hoa văn khác biệt, có tấm thích hợp cho người trẻ tuổi, tấm thì dành cho người lớn tuổi hơn, tấm thì màu trầm để làm quần áo cho đàn ông.
Thẩm Hi dệt không nhanh, dệt được hai cuộn vải cần đến hơn nửa tháng, Quách thẩm còn nói đùa nếu để nàng dệt vải kiếm sống chắc cả nhà phải chết đói. Nhưng Thẩm Hi đã cảm thấy thỏa mãn, lúc trước nàng chưa bao giờ nghĩ đến mình có thể canh cửi dệt được tấm vải để mặc, nghĩ lại đều thấy hão huyền. Mà giờ chính mình thực sự dệt được vải, hơn nữa còn là vải có hoa văn màu không phải vải trơn.
Dệt xong vải, nànn thích chí ôm cuộn vải về nhà, vừa vào nhà đã đặt tấm vải lên kháng, vuốt mặt vải bóng loáng, nàng khoe với người mù: "Người mù, nhìn thế thôi mà ta dệt được vải rồi đấy, lợi hại không? Có hai loại màu sắc với hoa văn, màu trắng với lam, về sau y phục của ta màu trắng, ngươi màu lam. Ta cũng đã là người có vải rồi đấy, mỗi người chúng ta làm hai bộ quần áo mới, mặc một bộ, mặc xong vứt, hahaha...". Vì vậy, hai cuộn vải này biến thành ga giường vỏ chăn và quần áo mới của Thẩm Hi với người mù.
Thẩm Hi dù không biết làm quần áo, nhưng nàng khiêm tốn nhờ Quách thẩm chỉ bảo, làm xong hai bộ quần áo, nàng cũng học xong việc cắt may. Nhưng với việc nàng lấy vải tốt làm ga giường với vỏ chăn, Quách thẩm lại không đồng ý, khiến nàng lấy vải thô làm ga giường, còn có y phục nàng mặc đi bán cháo, cũng nên dùng vải thô, vải bông mềm mại thoải mái cần dùng tiết kiệm, để dành sau này có con dẽ lấy làm đệm chăn quần áo cho đứa trẻ.
Nói đến trẻ con, Quách thẩm mờ mịt liếc người mù đang ngồi trên kháng một cái, Thẩm Hi không ngốc, nàng cũng hiểu Quách thẩm có ý gì, nhưng nàng cũng không bày tỏ gì, chỉ cười cười nói: "Lão nhân gia ngài nói đúng, ngày ngày ta bán cháo bẩn bụi một ngày, mặc quần áo bông đúng là phí, nhưng trước đó không phải là ta không có vải thô sao, nên mới dùng vải bông trước".
Quách thẩm gật gật đầu: "Như vậy là được rồi, cuộc sống phải biết tiết kiệm. Mấy ngày nữa ta với Lí thẩm còn dệt mấy thước vải thô, đến lúc đó lại gọi ngươi cùng nhau dệt, còn vải bông thì để dành đi". Thẩm Hi gật đầu đồng ý.
Phụ nữ cổ đại, nhất là tầng lớp lao động không bao giờ được rảnh tay, chưa đến mười ngày, mấy vị thẩm thẩm lại tìm đến nàng, mọi người cùng nhau mua không ít chỉ gai, lại bắt đầu dệt vải thô. Thẩm Hi cũng dệt, nhưng chỉ dệt một hai thước cho có, vải này thô, còn cấn người nên nàng cũng không muốn mặc, chỉ dệt một ít.
Nhưng dệt ít về ít, dù sao dệt xong nàng cũng thông thạo kĩ thuật canh cửi. Ở cổ đại, đây là một tay nghề cơ bản của người phụ nữ.
*Note:
Việc dệt này hồi nhỏ ta có thấy mẹ, bà nội và bà ngoại dệt mấy lần nhưng về sau trên chợ có nhiều vải dệt sẵn bán nên ngta bỏ dần khung cửi ko dệt nữa, t thấy rất tiếc. Đến giờ cũng lâu r nên ko nhớ đc hết chi tiết dệt vải, với cả t là người Nùng, ko rõ lắm mấy từ về dệt trong tiếng Nùng dịch ta tiếng Kinh kiểu gì nên cũng chịu, tra GG thì ko có nhiều thông tin chi tiết nên chắc chắn chương này sẽ có sai sót.


Khung cửi

Thôi bonus thêm tấm ảnh khung cửi cho mng. Đây là khung cửi của người Nùng An (t ko phải ng Nùng An nhưng kiểu dệt về cơ bản thì vẫn giống nhau).



Ảnh dưới trang phục gần giống ng Nùng nhánh t ấy.
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom