-
P1-Chương 1+2
[1]
Năm mới xuân sang chừ, ngày dài đằng đẵng.
Gột tấm thương, ta vui chơi chừ,
Theo Giang, Hạ cho đỡ lòng lo lắng!*
* Hai câu thơ được trích từ tác phẩm Cửu chương - Tư mỹ nhân của nhà thơ Khuất Nguyên người nước Sở cuối thời Chiến Quốc. Bản dịch của Nhượng Tống.
***
[1]
Năm Thiên Hán* thứ nhất.
* Niên hiệu thứ tám của thời Hán Vũ đế. Triều Hán sử dụng niên hiệu này tổng cộng bốn năm.
Dưới bóng chiều cuối xuân, có một thiếu nữ đang cầm cung săn chim trĩ giữa rừng hoang ở Vân Mộng. Nàng mặc áo khoác ngắn và váy dài, đeo ống đựng tên bằng da tê giác, trông như người tập võ. Còn một thiếu nữ khác là người bản địa thì đang đứng trong bóng cây, mặc áo tay hẹp, gắng chịu đựng cái oi bức của buổi chiều tà, trong tay còn cầm con mồi mà bạn nàng vừa săn được.
Cây cung trong tay thiếu nữ là do cha nàng tặng, được thợ thủ công Trường An chế tác theo phương thức cổ xưa. Phải mất hơn một năm mới có thể tạo ra một cây cung như vậy. Thân cung được làm từ gỗ chá của quận Đông Hải chặt vào mùa đông. Sau đầu xuân, dùng sừng trâu được lấy xuống từ mùa thu năm trước đi ngâm tẩm, chuẩn bị sử dụng. Lại tinh chế gân hươu vào mùa hè. Thu sang, lấy sừng trâu và gân hươu đã qua xử lý gắn vào trong ngoài gỗ chá bằng chất keo màu đỏ, sau đó quấn tơ, sơn màu, rồi giữ qua một mùa đông để sơn và chất keo bám chặt.
Nàng luôn trân trọng món quà này, mỗi khi tập bắn đều giữ gìn rất cẩn thận, không để nó dính bẩn bao giờ. Đây cũng là lần đầu tiên nàng dùng nó để bắn vật sống. Ban đầu nàng vẫn chưa lĩnh hội được kỹ thuật bắn mục tiêu động nên bắn lệch vài mũi tên, còn bị bạn mình cười nhạo một phen. Nhưng khi tiếng cười của đối phương còn vang vọng trong rừng thì máu của con mồi đầu tiên đã bắn tung tóe lên hoa bìm bìm đỏ thắm.
Thiếu nữ cầm cung sinh ra và lớn lên ở Trường An. Phần lớn núi rừng chốn kinh đô đều đã thuộc về hoàng tộc, nên tuy nàng học được tài nghệ bắn cung từ một vị tướng quân là chỗ quen biết song cũng hiếm có cơ hội thể hiện tài năng. Được tự do săn bắn như ngày hôm nay chính là một tâm nguyện của nàng.
Huống chi vùng đất này từng là bãi săn của Sở vương.
Ngày trước mỗi khi quân đội tập trận vào dịp đầu đông, Sở vương sẽ lên chiến xa được tô điểm bởi những vật trang trí bằng ngọc, cầm cung có chạm trổ hoa văn và tên đặc chế, dẫn người đi khắp rừng săn bắn thú lạ. Nhất thời tên bắn như mưa, máu dây khắp chốn. Con mồi bị trúng tên, gục xuống đất không thể gượng dậy, chẳng thể tránh khỏi số kiếp bị bánh xe nghiền nát và bộ binh giẫm đạp. Súc thịt non tơ mỡ màng chưa được người ta nếm thử đã nát bét trong đất bùn. Sau một hồi tàn sát, Sở vương hài lòng đặt cung tên xuống, thưởng thức thi cốt khắp nơi và nhìn đám binh sĩ hãy còn khát máu. Các thiếu nữ mặc những bộ y phục vải the mỏng tựa sương sớm bắt đầu ca múa trong mùi gió tanh gay mũi. Vạt váy của các nàng rủ trên nền đất, lập tức nhuộm đỏ máu tươi…
Tuy nhiên đến năm hai mươi mốt* thời Khoảnh Tương vương**, đại tướng nước Tần là Bạch Khởi*** đem quân đánh chiếm Dĩnh Đô****, Vân Mộng trạch cũng bị chiếm đóng. Sau đó nước Tần thiết lập Nam Quận ở đây, hủy lệnh cấm lên núi, lại lập ra chức “quan Vân Mộng” chuyên cai quản vùng đất này. Hơn trăm năm sau, chốn bình nguyên ở Vân Mộng đã sớm được khai khẩn thành đồng ruộng, chỉ còn sót lại chút núi non hiểm trở giữ được diện mạo vốn có, tới nay vẫn để dân thường lên đốn củi hoặc săn bắn.
* Chú thích của tác giả: Tức năm 278 trước Công Nguyên.
** Khoảnh Tương vương hay còn gọi là Sở Tương vương, là vị vua thứ 41 của nước Sở.
*** Bạch Khởi: Danh tướng vô địch của nước Tần trong thời Chiến Quốc, lập nhiều công lao, góp phần lớn chiến tích trong việc thống nhất Trung Quốc của nước Tần.
**** Kinh đô của nước Sở từ thời Sở Văn vương.
“Ta nghe nói nhà Nho chỉ dùng cần câu để câu cá mà chưa bao giờ giăng lưới để bắt cá, khi săn thú cũng chưa từng bắn chim đã về tổ. Nếu Tiểu Quỳ tôn sùng học thuật nhà Nho thì đáng lẽ ra không nên ra tay sát sinh như vậy chứ?”
Thiếu nữ bản địa mặc áo tay hẹp vừa nhặt con chim trĩ đã chết lên, vừa nói với vẻ ai oán. Dứt lời nàng khinh bỉ quay mặt đi, nhưng vẫn nắm chặt con chim trĩ đã bị bắn chết nọ. Thực ra khi Vu Lăng Quỳ tới từ Trường An đề nghị đi săn vài con chim trĩ về nhắm rượu, cái lưỡi chẳng giỏi ăn nói của Quan Lộ Thân cũng tiết ra một chút nước bọt, mà trong khoảnh khắc mũi tên đâm vào mỡ và lông chim trĩ thì nàng cũng chẳng xót thương là bao.
Nàng nói như vậy chẳng qua vì nàng không biết giương cung bắn tên, cảm thấy mình thua kém Quỳ ở mặt đó, âm thầm không cam tâm. Nhưng thực ra cuộc so tài giữa nàng và Quỳ, cuộc so tài mà nàng sẽ bị áp đảo hoàn toàn ấy, lúc này mới chỉ bắt đầu.
Tương lai còn có nỗi chán nản và tự ti vô tận đang chờ đợi nàng.
“Có lẽ Lộ Thân không biết rồi.” Quỳ luôn vào đề bằng câu nói này, còn Lộ Thân thì chưa bao giờ đoán được nàng định nói gì. “Chính vị học giả ‘Điếu nhi bất cương, dặc bất xạ túc’* ấy, sau khi chuồng ngựa bị cháy chỉ hỏi một câu ‘Có người bị thương không?’, vốn chẳng quan tâm tới sự sống chết của ngựa. Nếu Lộ Thân đã mang lòng thương cảm với đồ ăn của con người thì cớ sao lại theo ta đi săn?”
* Chỉ dùng cần câu cá mà không giăng lưới đánh cá, chỉ bắn con chim đang bay chứ không bắn con chim đã về tổ nghỉ ngơi.
“Ta chỉ dẫn đường cho ngươi theo lệnh của phụ thân chứ chưa từng có ý tiếp tay cho ngươi.”
Rõ ràng là buổi sáng nay hai thiếu nữ mới gặp nhau lần đầu, song giờ đã bắt đầu tranh luận như những người bạn lâu năm.
“Trái ngược với những gì ngươi đã nói, thuật bắn cung không chỉ là thuật giết chóc, theo kiến giải trong Lễ thư, ‘Người bắn cung cũng phải có lòng nhân ái. Bắn cung trước hết phải điều chỉnh lại tư thế của mình cho đoan chính rồi mới buông dây, nếu bắn không trúng cũng không nên oán người thắng mình, tự xét lại mình là được.’ Nếu so với thuật đánh đấm, thuật bắn cung phần nhiều không phải là so tài với đối thủ mà là đọ sức với chính mình, nhờ đó khắc phục được nhược điểm của bản thân, đạt đến cảnh giới ‘nhân ái’.”
“Nói thì nghe huyền diệu lắm, có điều Tiểu Quỳ à, ngươi vẫn nên sớm nhìn vào hiện thực đẫm máu đi. Trông mấy thi thể này và những vết thương trí mệnh trên người chúng, chẳng lẽ đây chính là ‘nhân ái’ mà ngươi nói tới? Nếu chỉ theo đuổi đức hạnh thì có thể luyện tập bắn bia, hoặc so tài với nhau là được, cớ gì phải tàn sát sinh linh? Nói cho cùng thì ngươi cũng chỉ lưu luyến món ngon dân dã, vậy mà còn nêu ra một đống đạo lý để ngụy biện cho mình, không lẽ đây chính là thói quen của người Trường An các ngươi?”
“Phải rồi, nếu Lộ Thân đã là người địa phương, hẳn phải biết tại sao ‘Vân Mộng trạch’ lại gọi là ‘trạch’ nhỉ?”
“Đương nhiên là biết chứ. Tuy học vấn của ta không bằng ngươi nhưng ít ra cũng là con cháu quý tộc, chút tri thức ấy không thể không biết.” Lộ Thân tức giận đến phùng má, tuy nhiên trong lòng lại chẳng mấy tự tin. “Vì Vân Mộng có nhiều ao hồ, hệ thống sông ngòi phát triển, nên mới được gọi là ‘Vân Mộng trạch*’.”
* Trạch nghĩa là sông suối, ẩm ướt.
Nghe được câu trả lời của Lộ Thân, Quỳ không khỏi bật cười thành tiếng.
“Đây chỉ là lối giải thích nông cạn mà thôi, đúng kiểu nhìn chữ đoán ý, khó tránh được việc bị các vị ‘thông Nho*’ cười chê.”
* Người thông thạo, am hiểu học thuật Nho giáo.
“Vậy ‘thông Nho’ các ngươi giải thích thế nào?”
“Trạch, cũng là tuyển trạch, chọn lựa.” Quỳ giải thích từng chữ từng chữ một, “Trong Lễ thư có nói, ‘Thiên tử muốn tế bái thì trước tiên phải tập bắn cung ở chốn sông ngòi. Bởi vậy ở chốn sông ngòi mới chọn được người có tài.’ Có nghĩa là chỉ người có thể bắn trúng con mồi ở ‘trạch’ như ta mới đủ tư cách tham gia tế bái. Tuy Vân Mộng không ít ao đầm song tới ngày nay vẫn còn rất nhiều núi rừng chưa khai khẩn, chim muông đủ loại đủ loài, chính là một bãi săn tuyệt hảo. Chẳng mấy khi tới chơi, dù nơi này đã sớm không còn quy mô như thời Sở vương đi săn, song phóng mắt nhìn ngắm phong cảnh cũng có thể ngẫm được vài phần cảnh tượng hùng tráng năm nào. Đương nhiên ta cũng phải học tập người xưa, săn vài con chim trĩ về để làm kỷ niệm chứ.”
“Tóm lại vẫn vì ăn thịt mà thôi…”
Nói rồi nàng áng chừng con thú trong tay - Có lẽ cũng làm được một bữa ngon.
“Lộ Thân nói như thể mình chưa bao giờ ăn thịt chim trĩ ấy.” Quỳ rút từ sau lưng ra một mũi tên, nở nụ cười chòng ghẹo, “Dù sao người vụng về như Lộ Thân cũng không bắn trúng được mục tiêu di động đâu nhỉ?”
“Nếu dùng nỏ thì ta bắn được.”
Gia tộc họ Quan ở ẩn chốn núi rừng, để phòng thú dữ nên chưa từng bỏ bê việc luyện tập võ nghệ. Kể cả phụ nữ và trẻ em không biết dùng binh khí ngắn thì cũng thường xuyên luyện cách dùng nỏ.
“Hừ, nỏ ấy à?” Vẻ khinh thường lộ rõ trên mặt Quỳ, đến Lộ Thân chậm chạp cũng có thể nhận ra. “Nếu vũ khí cũng được chia thành quân tử và tiểu nhân, vậy chắc chắn nỏ là thứ chỉ tiểu nhân mới dùng. Lộ Thân, dù sao ngươi cũng là con cháu quý tộc, không nên chạm vào những thứ hạ thấp bản thân, vũ nhục tổ tiên ấy mới phải.”
“Nỏ thì có gì không tốt? Tại sao Tiểu Quỳ lại ghét bỏ nó như thế?” Lộ Thân phản bác, “Ta nghe nói, dù là Tướng quân Lý Quảng xuất thân từ thế gia thiện xạ, khi chỉ huy tác chiến cũng gần như là ‘Nghìn nỏ cùng bắn’. Thuật bắn cung của ngài ấy chắc chắn giỏi hơn ngươi nhiều, ngài ấy cũng không cấm binh sĩ dưới trướng dùng nỏ.”
“Lý Quảng là vị tướng quân mà ta ngưỡng mộ nhất, tiếc là ta sinh ra quá muộn, không thể tới trước mặt ngài ấy để xin chỉ giáo. Ngươi nói đúng, ngài ấy luôn chỉ huy binh sĩ dùng nỏ để bắn quân Hung Nô, dù sao nỏ cũng có hiệu quả cao hơn cung tên. Tốc độ bắn của nỏ nhanh hơn, có thể tiết kiệm thể lực của binh sĩ, lại dễ học dễ dùng hơn cung tên. Chỉ cần huấn luyện ở mức độ sơ đẳng là có thể phát huy được uy lực tối đa. Huống chi, dù là mãnh tướng uy dũng nhất cũng chỉ giương được cây cung chừng ba thạch*, trong khi cường độ của nỏ có thể dễ dàng đạt tới bốn thạch trở lên.”
* Thạch: Đơn vị trọng lượng lương thực thời xưa, 1 thạch tương đương 250 cân (125kg).
“Vậy mới nói…”
“Vậy mới nói nó là thứ vũ khí phù hợp nhất cho những người kém cỏi.” Nói rồi Quỳ quay đầu đi nơi khác, lại cố ý liếc Lộ Thân một thoáng. “Ta vừa phát hiện ra, có một người kém cỏi chỉ xứng sử dụng nỏ đang đứng trước mặt mình.”
“Ngươi tốn bao công sức để luyện tập giương cung bắn tên, người khác chỉ cần kéo nhẹ lẫy nỏ là có thể bắn được xa hơn, chuẩn hơn ngươi, không biết rốt cuộc ngươi thấy mình giỏi giang hơn người ở điểm nào? Cầm một thứ phế phẩm bị thời đại đào thải mà miệng còn khoe khoang ‘quý tộc’, ‘quân tử’, ‘thông Nho’, suy cho cùng cũng chỉ là một cách tự thương lấy mình thôi thì phải?”
Quỳ đáp lại, “Đúng thế, ta cũng giống như tổ tiên của ngươi, chắc chắn đều sẽ bị người đời chế nhạo. Ta là một kẻ cổ hủ lỗi thời, luôn trông ngóng theo phong thái và trí tuệ của người xưa, không thể tán đồng những thứ đang lưu hành ngày nay được.” Ráng đỏ buông xuống nơi chân trời cũng tối đi trong chớp mắt. “Dù sao đây cũng là thời đại của các ngươi chứ không phải của ta.”
“Tiểu Quỳ…”
Thấy Quỳ rầu rĩ như vậy, nhất thời Lộ Thân bối rối. Cho dù nàng biết mình là loại “người kém cỏi” mà Quỳ nói, lại thầm bực bội trong lòng, có điều nàng cũng không thấy phản cảm là bao. Nàng cũng biết rõ rằng học thức và tài nghệ của mình đúng là đã làm xấu mặt tổ tiên.
Đương nhiên, nàng cũng chẳng biết nhiều về tổ tiên của mình.
Quỳ chợt nghĩ tới điều gì đó, ánh sáng ảm đạm theo mây chiều khi nãy lại thoáng bừng lên trong mắt nàng. “Kể ra thì Lộ Thân sống ở đây từ nhỏ, không biết đã từng đọc bài Tử Hư phú của Tư Mã Tương Như* hay chưa? Bài phú viết về sứ giả nước Sở là Tử Hư** đi sứ nước Tề rồi cùng Tề vương đi săn, có nói về Vân Mộng.”
* Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh (179 TCN - 117 TCN), người ở Thành Đô đời nhà Hán, rất đa tài, văn hay, đàn giỏi. Bài Tử Hư phú của ông được Hán Vũ đế rất khen ngợi, cùng với bài Thượng lâm phú được viết sau này có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử thể phú đời Hán. Cả hai bài tả những cuộc săn bắn và du ngoạn của nhà vua, có ngụ ít nhiều ý can gián, nhưng thực tế là “châm biếm một lời, khuyến khích trăm lời”, chủ yếu vẫn là phản ánh và ca tụng sự thịnh vượng nhất thời của giai cấp thống trị.
** Tử Hư là một nhân vật trong bài Tử Hư phú, nói năng hư huyễn, thổi phồng.
“Chưa đọc bao giờ.”
“Tử Hư phú miêu tả Vân Mộng thế này.” Quỳ bắt đầu thong thả ngâm tụng…
Vân Mộng trải dài chín trăm dặm, bên trong có núi. Thế núi uốn quanh, vòng vèo khúc khuỷu, cheo leo hiểm trở, đỉnh núi cao và dốc nhấp nhô trập trùng, mặt trời mặt trăng bị che khuất, nửa ẩn nửa hiện. Dãy núi trùng trùng, đan xen hỗn độn, vươn thẳng lên tận mây xanh; sườn núi nghiêng nghiêng, nối liền với sông lớn. Trong thổ nhưỡng có chu sa, khoáng xanh, đất sét đỏ, đất thó trắng, thư hoàng(1), thạch anh trắng, khoáng thiếc, ngọc bích, vàng, bạc, đủ loại màu sắc, lấp lánh rực rỡ như vảy rồng. Đá nơi đó có mã não đỏ, ngọc lưu ly, lâm mân(2), côn ngô(3), giam lặc(4), huyền lệ(5), nhuyễn thạch, vũ phu(6). Phía Đông có hoa thơm cỏ lạ như đỗ hành, phong lan, bạch chỉ, đỗ nhược(7), khung cùng(8-), xương bồ(9), giang ly(10), mía, chuối. Phía Nam có đồng bằng sông lớn, địa thế thoai thoải, vùng trũng rộng lớn bằng phẳng, kéo dài dọc theo sông lớn, cho tới tận chân núi Vu. Nơi cao dốc khô ráo thì có cây mã lam, cỏ bao(11), cỏ lệ, cỏ ngải, cỏ gấu. Nơi ẩm thấp thì có cỏ đuôi chó, cỏ lau, tường vi, măng nước, ngó sen, cây bầu, cỏ tranh, cỏ du(12), rất nhiều loài cây sống ở nơi đây, nhiều tới mức không đếm xuể. Phía Tây có suối nước dâng trào, ao hồ trong vắt, sóng nước lay động, sóng sau xô sóng trước; hoa sen và hoa súng cùng nở trên mặt nước, dưới nước lại có đá tảng và cát trắng. Trong nước có rùa thần, thuồng luồng, đồi mồi, ba ba. Phía Bắc có rừng rậm với những cây to như: tiện, lim, long não, quế, tiêu, mộc lan, hoàng phách(13), liễu đỏ, sơn tra, lê, dẻ, quýt, bưởi, hương thơm tỏa khắp xa gần. Trên cây có uyên sồ(14), khổng tước, chim loan, vượn, khỉ. Dưới cây lại có hổ trắng, báo đen, cáo chồn, chó rừng…
(1) Một loại khoáng sản có thành phần là As2S3, màu vàng cam, nửa trong suốt.
(2) Một loại ngọc/đá đẹp.
(3) Một loại đá được dùng để luyện thép làm kiếm.
(4) Một loại đá quý, chỉ thua ngọc.
(5) Một loại đá màu đen dùng để mài đao.
(6) Nhuyễn thạch, vũ phu đều là loại đá đẹp gần giống như ngọc.
(7) Đỗ hành, bạch chỉ, đỗ nhược đều là những thứ cỏ thơm, rễ được dùng làm thuốc.
(8-) Một loài cỏ, sinh ở đất Thục gọi là xuyên khung, củ được dùng làm thuốc.
(9) Một loài cỏ mọc ở vệ sông vệ suối, mùi thơm sặc, dùng làm thuốc.
(10) Một loài cỏ thơm, còn có tên khác là mi vu hoặc kì chỉ.
(11) Một loài cỏ có cọng rắn chắc, dùng để đan dép và dệt chiếu.
(12) Một loài cỏ có lá như răng cưa, mùi rất hôi.
(13) Một loài cây cao rụng lá, cành có thể dùng làm thuốc nhuộm vàng, vỏ cây làm thuốc.
(14) Một loài chim phượng.
“Ta thấy áng văn này chẳng khác nào được viết bằng ngôn ngữ nước khác, phải phiên dịch chín lần mới nghe hiểu được.”
“Đoạn phú này chỉ viết về phong thổ và sản vật của vùng Vân Mộng mà thôi. Lộ Thân đúng là chẳng biết gì về văn hóa của quê hương mình cả.” Quỳ tiến lên phía trước một bước, quay lưng lại với Lộ Thân mà nói, “Tuy ta sinh ra và lớn lên ở Trường An nhưng lại là con cháu người Tề. Song tổ tiên của ta không hiển hách được như của ngươi. Đúng là gia tộc của ta phất lên nhờ kinh thương buôn bán, vào năm Nguyên Sóc* thứ hai, khi gia nghiệp lên tới hơn ba trăm vạn thì chuyển đến ấp Mậu Lăng. Lúc còn ở cố hương, người sống quanh đó đều biết trước đây gia tộc của ta chỉ là nô bộc của hiền giả Vu Lăng Trọng Tử nước Tề. Vu Lăng Trọng Tử sống liêm khiết cả đời, từ chối mọi ân huệ dù là nhỏ nhất của người khác, cuối cùng không biết kết cục của ông ra sao, cũng có lời đồn rằng ông đã chết vì đói, sau đó tổ tiên ta liền mượn luôn họ của ông. Từ khi chuyển đến Trường An, bắt đầu từ đời cha ta đã nói dối với người khác rằng chúng ta là con cháu của Vu Lăng Trọng Tử. Tuy nhiên làm gì có ai tin bậc thánh hiền khắc khổ như vậy lại có đám hậu duệ người đầy mùi tiền thế này.”
* Niên hiệu thứ ba của thời Hán Vũ đế.
Nói tới đây, nàng nở một nụ cười cô tịch.
“Bởi vậy Tiểu Quỳ mới ghét người xuất thân từ gia đình quý tộc cũ như ta sao?”
“Ta không hề ghét ngươi, có điều ít nhiều có chút đố kị. Nếu ta cũng có xuất thân như thế thì tốt biết bao. Dù ta nghiên cứu kinh thư ra sao, luyện tập võ nghệ thế nào, thử đủ mọi cách để bắt chước theo phong thái và ngôn ngữ của bậc hiền nhân thời cổ thì xuất thân này vẫn không thể thay đổi được, vì trong cơ thể ta vẫn chảy dòng máu của nô bộc. Hơn nữa từ nhỏ ta đã sống trong gấm vóc lụa là, hào hoa xa xỉ, trên người khó tránh nhiễm phải nhiều thói hư tật xấu đi ngược lại lễ giáo cổ xưa, bởi vậy cũng từng làm một số chuyện hoang đường hư hỏng. Trên đường tới Vân Mộng ta luôn nghĩ, nếu ta sinh ra trong gia đình quý tộc cũ như nhà họ Quan thì tốt biết bao. Nhưng cuối cùng thì…”
“Nhưng cuối cùng thì con cháu quý tộc là ta đây lại làm ngươi thất vọng, đúng không?”
“Đúng vậy, ta thực sự rất thất vọng.” Quỳ hồi đáp mà chẳng hề kiêng nể, “Ta cứ nghĩ rằng, giữa thời đại sa đọa suy đồi này, chỉ có những quý tộc cũ như các ngươi là đáng tin. Ta vốn tưởng trên người các ngươi sẽ giữ lại được những thứ mà ta luôn kiếm tìm, có thể giúp ta hiểu thêm một chút về nước Sở diệt vong đã lâu. Thế mà ngươi không chỉ hiểu biết rất ít về thời xa xưa đó, mà chuyện thời nay ngươi cũng chẳng hay biết gì, kém cỏi vô vị hơn cả đám bạn bè ở Trường An của ta. Ít ra ta và bọn họ còn có thể trò chuyện về thú vui và văn chương đang lưu hành, còn ở cạnh ngươi, ta thực sự không có lời nào để nói…”
Lộ Thân nghe vậy thì im lặng hồi lâu, nàng bỗng nhận ra sự khác biệt lớn nhất giữa mình và một cô thôn nữ không phải ở việc có biết chữ hay không, mà là mình không biết làm việc nhà nông. Lộ Thân cố nén những giọt nước mắt nhục nhã, nắm chặt lấy tà áo của mình, gắng bình ổn lại hơi thở dồn dập.
“Có lẽ nên để Nhã Anh tỷ tiếp đón ngươi. Tỷ ấy là người hiểu lễ cổ nhất trong gia tộc.”
“Ngươi đang nói về đường tỷ* Quan Nhã Anh của ngươi sao? Nàng ta bằng tuổi chúng ta cơ mà, tại sao lại là người hiểu lễ cổ nhất gia tộc họ Quan?”
* Chị họ bên nội.
“Bởi vì phụ thân ta không phải con trưởng trong nhà, học về tri thức gia truyền rất sơ sài. Mãi đến bốn năm trước, tộc trưởng của gia tộc họ Quan vẫn không phải phụ thân ta mà là bá phụ* Vô Cữu. Đồ dùng tế lễ vốn đều ở chỗ bá phụ Vô Cữu, việc thờ cúng lễ bái cũng thường do bá phụ và Thượng Nguyên ca chủ trì. Học vấn của họ đủ để chỉ bảo cho tiến sĩ trong Thái học**, thường xuyên có học giả viết thư xin bá phụ chỉ giáo, mà bá phụ cũng hay để Thượng Nguyên ca hồi đáp thay ông. Tuy nhiên bốn năm trước họ đã qua đời, bởi vậy e là rất nhiều lễ cổ đều bị thất truyền mất rồi.” Dứt lời Lộ Thân nhíu chặt mày hơn, “Bá phụ và Thượng Nguyên ca đều qua đời vào đêm hôm ấy, chỉ có Nhã Anh tỷ còn sống thôi.”
* Bác - anh trai của cha.
** Trường đại học do triều đình thành lập, là cấp học cao nhất của Trung Quốc thời xưa.
“Hôm ấy đã xảy ra chuyện gì?”
“Ta cũng không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.” Lộ Thân thành thực đáp, khiến Quỳ càng nghi hoặc hơn. “Nhưng mọi người đã qua đời cả rồi, vậy thôi.”
“Cả nhà bá phụ của ngươi sao?”
“Bá phụ, bá mẫu*, Thượng Nguyên ca và đường đệ** mới sáu tuổi, tất cả đều chết trong nhà. Khi ấy trùng hợp Nhã Anh tỷ ở nhà ta nên mới tránh được kiếp nạn đó. Ký Y tỷ là người phát hiện ra thi thể.” Nói tới đây nàng chợt nhớ ra, “À phải, Ký Y tỷ cũng qua đời rồi…”
* Bác dâu - Vợ của bác anh trai của cha.
** Em trai họ bên nội.
“Nếu là như thế, tại sao ngươi lại nói mình ‘không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì’?”
“Tiểu Quỳ thật là quá đáng, nhắc tới chuyện tang thương như vậy mà cũng không an ủi ta, lại còn thản nhiên hỏi tới hỏi lui như thế.” Cuối cùng Lộ Thân cũng rơi nước mắt, “Chúng ta thực sự không biết chuyện gì đã xảy ra, khi Ký Y tỷ qua đó thì thảm kịch đã xảy ra rồi. Tới tận bây giờ ta vẫn không biết rốt cuộc hung thủ là ai, vì lý do gì mà kẻ đó lại làm ra chuyện tàn nhẫn như vậy, chuyện hôm ấy vẫn còn lưu lại rất nhiều bí ẩn chưa được giải đáp. Tiểu Quỳ vừa thông minh vừa hiểu biết rộng, biết đâu có thể đưa ra đáp án.”
“Kể cho ta nghe những điều ngươi biết được không?”
“Được…” Lộ Thân gật đầu nói, “Chỉ mong ta có thể kể hết…”
Dứt lời nàng lại lấy ống tay áo lau nước mắt, rồi nhìn về phía rừng cây xa xa. Dường như nơi ấy chẳng có chi cả, lại như đang ẩn giấu thứ gì đó dưới bóng cây âm u. Tịch dương từ từ chìm xuống, bóng đêm lan dần lan dần bên chân Quỳ. Lộ Thân thoáng hy vọng rằng nàng có thể kể xong câu chuyện này trước khi sao Trường Canh* xuất hiện.
* Sao Hôm.
--------------
[2]
Đầu xuân mà trời vẫn lạnh lẽo vô cùng.
Khi gió thổi vang vọng trong thung lũng, hơi lạnh cũng thấm dần vào xương cốt người ta.
Dù là Quan Ký Y nổi tiếng cần cù chăm chỉ, lúc này cũng chỉ ngồi yên trên sàn nhà trải chiếu cói trong gian chính, tựa lưng vào ghế dựa, trên đầu gối có một cuốn cầm phổ được mở ra, nàng đang cố cưỡng lại cơn buồn ngủ. Ký Y khoác trên người một bộ y phục rất dày. Tiếng nhạc cổ xưa ngân vang trong đầu nàng, đầu ngón tay lạnh đến tê cứng của nàng không hề nhúc nhích.
Mí mắt Ký Y ngày càng díu lại, cơn buồn ngủ từ từ kéo tới. Vì chưa ôn lại khúc nhạc mới học nên nàng không muốn quay về phòng để ngủ.
Một tràng tiếng đập cửa đã xua tan cơn buồn ngủ của nàng.
Cửa viện cách gian chính khoảng ba mươi bước, tuy gió vẫn rít gào song có thể nghe thấy tiếng đập cửa rất rõ ràng, không mạnh nhưng vô cùng gấp gáp.
Ký Y đứng dậy chỉnh lại áo choàng trên người mình xong, bèn ra khỏi gian chính, đi về phía cửa viện.
Sau khi mặt trời lặn, trời đã đổ một trận tuyết nhỏ, lưng núi và đất bằng đều nhuốm màu trắng bạc. Sân viện nhà Ký Y cũng không phải ngoại lệ, cho dù trăng sao đều đã bị mây mù che khuất, chỉ có ánh nến mờ nhạt trong gian chính hắt ra sân thì lớp tuyết đọng mỏng manh vẫn được phản chiếu sáng lên như ánh trăng.
Có lẽ vì đã nghe được tiếng bước chân, người bên ngoài không đập cửa nữa. Ký Y nghe thấy tiếng thở hổn hển của đối phương, bèn hỏi thử:
“… Nhã Anh?”
“Ký Y tỷ…”
Quan Ký Y vội gỡ then cài rồi mở cửa ra.
Khi ấy Quan Nhã Anh mới mười ba tuổi cứ thế ngã thẳng vào lòng Ký Y, dáng vẻ hồn bay phách lạc. Lúc Ký Y đỡ đường muội* đã không còn hơi sức vào gian chính thì phụ thân Quan Vô Dật và muội muội Giang Ly của Ký Y cũng vội bước tới.
* Em gái họ bên nội.
Quan Vô Dật hỏi Nhã Anh rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì nhưng Nhã Anh chỉ vùi đầu giữa hai cánh tay Ký Y, co mình lại mà không hề đáp lời. Cuối cùng bọn họ đành để Ký Y thì thầm hỏi bên tai Nhã Anh, Nhã Anh mới nói ra sự tình với giọng nhỏ như muỗi kêu.
“Bị phụ thân… đánh…”
Bấy giờ Ký Y mới để ý, rõ là trời lạnh như vậy mà Nhã Anh chỉ mặc một chiếc áo mỏng, phần áo trắng dính chặt vào lưng Nhã Anh còn nhuốm đầy vết máu.
Nàng xin phụ thân cho Nhã Anh ngủ lại, sau khi ông đồng ý nàng liền dìu đường muội về phòng mình. Phòng của Ký Y cách gian chính một quãng, nàng đành cởi áo choàng của mình khoác lên người Nhã Anh, sau đó lại bảo Giang Ly đi lấy ít y phục cho Nhã Anh tắm rửa thay đồ.
Quay về đến phòng, Ký Y cởi y phục giúp Nhã Anh kiểm tra một thoáng, thấy trên người Nhã Anh từ lưng đến giữa đùi chằng chịt vết roi. Làn da của Nhã Anh thực sự giống với chiếc áo trắng mỏng mà nàng khoác trên người ban nãy, những vết roi đan vào nhau ngang dọc. Nơi bị thương nặng da thịt đã rách ra, nơi bị thương nhẹ cũng sưng đỏ bầm tím.
Bá phụ Quan Vô Cữu quả thực rất nghiêm khắc với con cái, mà Nhã Anh cũng quả thực là một đứa trẻ ngỗ nghịch. Từ nhỏ nàng đã cùng học các nghi thức lễ bái thờ cúng với huynh trưởng*, cũng được kỳ vọng rằng sau này có thể trở thành Vu nữ** tham dự vào các nghi thức quốc lễ của vương triều Hán.
* Anh cả, con cả trong nhà. Huynh trưởng ở đây chỉ Thượng Nguyên.
** Nữ pháp sư, nữ tư tế, nữ phù thủy lo việc thờ cúng, tế bái thời xưa.
Trong ấn tượng của Ký Y, không phải lần đầu tiên Nhã Anh phải chịu những trận đòn thế này. Bá phụ là người rất nóng tính, thường thì không chỉ đánh Nhã Anh mà còn nhốt nàng trong nhà kho ở sau nhà một đêm mới nguôi giận. Ca ca của Nhã Anh là Thượng Nguyên từ nhỏ cũng được dạy dỗ bằng đòn roi như vậy, cuối cùng tính tình mới trở nên rụt rè nhút nhát, chưa bao giờ dám làm trái ý cha.
Nếu so với bá phụ Vô Cữu thì phụ thân của Ký Y - Quan Vô Dật đối xử với ba cô con gái của mình hiền hòa hơn nhiều. Có lẽ vì Quan Vô Cữu vốn là con trưởng, từ nhỏ đã được coi như người thừa kế chính thống của gia tộc, ông học tập cực kỳ khắc khổ, nên không những am hiểu về lễ cổ nước Sở mà còn thông thấu cả lễ thư của nhà Nho. Thân là con thứ, Quan Vô Dật cũng khá có lỗi với cái tên của mình*, bởi thời trẻ ông chỉ bận giao du bạn bè nên đã phí hoài rất nhiều thời gian.
* Vô Dật nghĩa là không lười biếng, không nhàn hạ.
“Nhã Anh, muội lén chạy tới đây sao?”
Ký Y vừa hỏi vừa lau vết thương cho nàng.
Nhã Anh nhịn đau khẽ gật đầu, Ký Y thấy vậy không kìm được nước mắt, những giọt lệ mặn đắng nhỏ vào vết thương khiến Nhã Anh khẽ kêu “a” một tiếng, Ký Y không biết ấy là tiếng than vì đau đớn hay là tiếng lòng của Nhã Anh trước sự đồng cảm của nàng. Song nàng cũng chẳng biết làm thế nào để thay đổi số mệnh của Nhã Anh, đành ngồi trông Nhã Anh chịu khổ.
“Sao bá phụ lại đối xử với muội như thế?”
Ký Y hỏi gần như vô thức. Lần này Nhã Anh lắc đầu, có thể ý của nàng ấy là “không biết”, hoặc cũng có thể là “không muốn nói”, dù sao Ký Y cũng không hiểu. Cuối cùng Nhã Anh cũng bật khóc. Bên ngoài không có tiếng côn trùng râm ran mà chỉ văng vẳng tiếng gió và tiếng khóc nức nở của hai người con gái.
“Không lẽ bá phụ lại nhốt muội vào nhà kho?”
“Lúc nào cũng thế…”
“…”
Bấy giờ muội muội Giang Ly mang đồ cho Nhã Anh vào phòng.
Ngày ấy Ký Y mười sáu tuổi còn Giang Ly mới mười bốn tuổi.
Là đường tỷ, Giang Ly luôn được cha mẹ căn dặn phải nhường nhịn Nhã Anh, còn cha của Nhã Anh thì luôn dạy con gái phải kính trên nhường dưới. Tuy nhiên cuối cùng hai cô bé đều hiểu lời dạy của người lớn theo hướng có lợi cho mình, từ nhỏ Giang Ly luôn lấy danh nghĩa trưởng bối để bắt nạt Nhã Anh, còn Nhã Anh thì phản công lại mà chẳng hề kiêng nể. Giang Ly giống phụ thân Vô Dật của mình ở rất nhiều mặt, cũng không am hiểu về thuật lễ bái, bởi vậy nàng luôn tự ti trước Nhã Anh. Có điều cách thức nàng dùng để che giấu sự tự ti của mình là đối đầu với Nhã Anh gay gắt hơn.
Chuyện xảy ra vào ba tháng trước, Giang Ly bị Nhã Anh chế giễu tư thế khi chấp lễ, bèn giận dỗi nói xấu Nhã Anh với bá phụ, hại Nhã Anh bị phụ thân cho một trận đòn đau vào đêm hôm đó. Nhã Anh cũng biết vì Giang Ly mách lẻo nên mình mới bị đánh, bởi vậy ba tháng nay luôn trốn tránh Giang Ly, cũng không nói với Giang Ly lấy một câu.
Giang Ly đi vào phòng, Nhã Anh vẫn không để ý đến nàng ta mà chỉ lấy chiếc áo choàng vốn khoác trên người che trước ngực, không muốn để Giang Ly nhìn thấy thân thể hãy còn dậy thì của mình. Giang Ly bước tới nắm chặt lấy tay Nhã Anh, nói xin lỗi hết lần này tới lần khác.
“Xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi…”
Nghe được lời xin lỗi của Giang Ly, Nhã Anh hoảng hốt nhắm mắt lại. E rằng khi bị đánh mắng, nàng cũng không ngừng nói “xin lỗi” để phụ thân nguôi giận, bởi vậy mấy từ này lại gợi nhớ về hồi ức không vui của nàng.
Ký Y nghĩ rằng đây là cơ hội tốt nhất để hai người làm hòa, mà vừa hay vết thương cũng được xử lý xong, bèn dặn muội muội trông nom Nhã Anh cho tốt, còn nói mình sẽ báo lại với bá phụ, không để cả nhà họ phải lo lắng về Nhã Anh. Vì muốn Nhã Anh yên lòng, Ký Y hứa sẽ xin bá phụ cho Nhã Anh ở lại đây mấy hôm.
“Đừng đi…”
Ký Y không nghe theo lời Nhã Anh mà biến mất sau cửa, còn Giang Ly thì lẳng lặng giúp Nhã Anh thay một bộ y phục mềm mại.
Thực ra sau khi Ký Y qua đời, người luôn quan tâm chăm sóc cho Nhã Anh vẫn là Giang Ly.
Sau khi kể lại mọi chuyện với phụ thân, Ký Y bèn lấy một chiếc đèn lồng rồi đi về phía nhà bá phụ. Đi ngược lại dấu chân của Nhã Anh suốt dọc đường. Khi tới chỗ nàng, Nhã Anh chỉ đi một đôi giày cỏ, hẳn là vừa lạnh vừa trơn. Mà lúc này Ký Y lại đi một đôi guốc gỗ, còn đi tất bên trong, tuy nặng nhưng bước chân vững vàng, cũng giữ ấm tốt. Nghĩ vậy, Ký Y càng thấy Nhã Anh đáng thương.
“Bá phụ Vô Cữu, con là Ký Y đây.”
Ký Y tới nơi, vừa gọi vừa đập cửa viện, cửa chợt mở ra. Không biết là bị gió thổi hay vì Ký Y đập nên mới mở ra, nhưng có một điều chắc chắn là không có ai đi ra mở cửa.
Chẳng lẽ cả nhà bá phụ phát hiện Nhã Anh biến mất, liền đi vào trong núi tìm muội ấy?
Hai gia đình đều ở trong hẻm núi, xung quanh không phải vách núi cheo leo thì cũng là đường dốc chênh vênh. Từ nhà bá phụ ra ngoài, dù muốn vào núi hay xuống núi đều chỉ có hai con đường có thể đi được, một con đường dẫn về phía nhà Ký Y còn một con đường dẫn về phía ngược lại. Rõ ràng trời vừa đổ tuyết, nếu muốn tìm Nhã Anh thì cũng không khó, chỉ cần lần theo dấu chân của muội ấy là được. Có điều trên đường tới đây, rành rành chỉ có dấu chân của một mình Nhã Anh…
Dự cảm chẳng lành chợt nảy sinh trong lòng Ký Y rồi dần lan rộng như sương đêm, khiến ngực nàng bỗng đau nhói. Nàng hít sâu một hơi nhưng chỉ khiến trái tim đập càng nhanh hơn, cuối cùng Ký Y lấy hết dũng khí bước một bước về phía trước, đi qua cửa viện, chuẩn bị đối mặt với mây đen, sương mù và hiểm nguy sắp ập tới.
Tuyết đọng trong sân đã bị dọn dẹp qua loa, để lộ ra một con đường dẫn đến gian chính.
Nhờ ánh sáng yếu ớt hắt ra từ phía trong, Ký Y phát hiện có người nằm sấp ở cửa phòng.
Bấy giờ Ký Y mới ý thức được rằng, e là những dự cảm không lành khi nãy đều sẽ trở thành sự thật, còn nàng có thể thoát thân khỏi nơi này hay không thì cũng chưa biết.Tuy nhiên nàng không có lựa chọn nào khác, đành bước lên xem xét tình thế, chứng kiến hiện trường của vụ thảm kịch này.
Cuối cùng Quan Ký Y cũng bước tới vị trí cách người đang nằm sấp trên đất kia chỉ mấy bước chân. Nàng không dám lại gần hơn, sợ mình sẽ giẫm phải vũng máu đang kết thành băng. Ký Y cẩn thận tránh khỏi vũng máu đỏ sậm ấy, vòng qua bên đầu của người nằm sấp nọ. Nàng hơi cúi người rồi chuyển chiếc đèn lồng trong tay mình ra phía trước đầu gối.
Nàng thấy người nọ nằm yên không động đậy, sợ là đã tắt thở rồi. Ở phía bên trái trên lưng thi thể có một nhát dao đâm sâu đến nội tạng. Vết thương đã đông lại, không còn chảy máu nữa.
Ký Y lùi về sau một bước, giẫm lên tuyết đọng. Nàng hơi khom chân, gần như ngồi xổm trên mặt đất rồi chuyển đèn lồng xuống thấp hơn, cuối cùng cũng thấy được khuôn mặt của người nọ.
- Bá phụ Vô Cữu.
Nàng không dám nhìn kỹ khuôn mặt của thi thể. Bá phụ Vô Cữu ngày thường luôn nghiêm mặt cau mày, Ký Y có thể tưởng tượng được phần nào vẻ mặt của ông khi hấp hối sắp đối mặt với cái chết.
Sau đó nàng chợt thấy bên chân bá phụ Vô Cữu có mấy hàng dấu chân rải rác trên tuyết đọng, những dấu chân ấy kéo dài tới vị trí mà đèn lồng và ánh sáng trong phòng không thể chiếu tới. Nàng lần theo dấu chân đi về phía khoảng sân ở phía Tây gian chính, một cái cây to đã khô héo choán hết tầm nhìn của nàng.
Một đoạn dây thừng đã bị cắt đứt rủ xuống từ trên cây, cách mặt đất khoảng bảy, tám thước*.
* Thước: Đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc, bằng khoảng một phần ba mét.
Phía dưới sợi dây thừng là một thi thể đang nằm ngửa trên cái rễ lớn nhô ra khỏi mặt đất của gốc cây nọ. Đó là ca ca của Nhã Anh - Thượng Nguyên, đường đường nam nhi bảy thước cứ thế nằm lạnh băng, cứng đờ ở đó, không còn một chút sinh khí. Nhờ ánh sáng từ đèn lồng, Ký Y phát hiện trên cổ Thượng Nguyên có một vết dao cứa dài năm, sáu tấc*, máu bắn tứ tung thành những chấm nhỏ màu đỏ sẫm trên nền tuyết đọng.
* Tấc: Một tấc bằng một phần mười một thước.
Ký Y xoay người định rời đi, nhưng rồi lại quay đầu liếc nhìn thi thể của Thượng Nguyên. Từ nhỏ bọn họ đã lớn lên cùng nhau, tình cảm thân thiết như huynh muội ruột thịt, không ai ngờ rằng chuyện sinh ly tử biệt sẽ tới đột ngột như vậy. Trong lúc thoáng liếc nhìn ấy, Ký Y lại vấp phải thứ gì đó dưới chân khiến nàng lảo đảo, không ngã xuống song đèn lồng lại tuột khỏi tay nàng rơi xuống đất.
Trước khi ánh đèn tắt ngóm, Ký Y đã kịp thấy thứ mà mình vấp phải. Ban đầu nàng tưởng đó là rễ cây, không ngờ lại là một thùng gỗ rỗng.
Nàng nhặt đèn lồng rơi trên đất lên rồi đi về phía gian chính. Thực ra Ký Y không hề muốn bước qua cánh cửa kia, nàng biết rõ nơi ấy nhất định còn có cảnh tượng thảm thương hơn đang đợi nàng. Nếu đèn không tắt, nàng vốn có thể về nhà trước, báo cho phụ thân Quan Vô Dật biết bá phụ và đường ca* đã qua đời, rồi cùng phụ thân trở lại đây tìm những thi thể còn lại.
* Anh họ bên nội.
Thế nhưng lúc này Ký Y không thể tìm đường về nhà trong đêm tối, đành phải đi vào gian chính đốt đèn lồng lên.
Đúng như dự liệu của nàng, gian chính vô cùng lộn xộn. Bá mẫu bị đâm mấy nhát dao trên lưng, còn cậu con út mới sáu tuổi được bà ôm trong lòng thì có một vết thương trí mạng ở cổ.
Y phục của hai người đều thấm máu đen sẫm.
Một con dao găm dính đầy máu bị vứt trên nền nhà.
Ký Y biết con dao này, nàng dời mắt về phía giá đặt vũ khí trong phòng, quả nhiên vỏ của con dao vẫn nằm ở đó. Rõ ràng hung thủ đã lấy con dao này từ trên giá sau đó ra tay sát hại mọi người, vậy chứng tỏ hung thủ chưa chắc đã là giặc cướp mà rất có thể là khách đến thăm. Chỉ có vậy thì hung thủ mới có thể nhân lúc mọi người không đề phòng mà rút dao ra sát hại cả nhà.
Thế nhưng…
Ký Y lại nhìn về phía giá bày vũ khí bằng gỗ, bên trên còn có một thanh kiếm dài sáu thước vẫn nằm trong vỏ. Thân kiếm được đúc từ thép, đế kiếm hình tròn bằng ngọc, khắc hoa văn, đầu vỏ kiếm, đốc kiếm và mũi kiếm đều bằng bạch ngọc. Trên đầu vỏ kiếm có hoa văn hình phượng hoàng, trên đốc kiếm khắc hoa văn hình mây. Thanh kiếm này do tổ phụ của Ký Y ủy thác thợ rèn ở Giang Lăng chế tạo, chưa dùng bao giờ, được bày ở đó suốt bao năm. Con dao kia cũng được rèn vào thời kỳ đó. Hai thứ đều được mài rất sắc, lại được giữ gìn một cách cẩn thận.
Binh khí chưa từng được sử dụng cuối cùng lại dùng để làm như vậy, Ký Y thầm thở dài, sau đó nhờ vào lò sưởi đang cháy để thắp sáng đèn lồng.
Ra khỏi cửa viện Ký Y mới cảm thấy đau đớn tang thương. Trước đó chỉ có nỗi sợ trước cái chết gần bên bao trùm cảm xúc trong lòng nàng. Mới đi vài bước mà tầm nhìn của nàng đã nhòa đi trong làn nước mắt, khiến ánh đèn cũng trở nên thấp thoáng mịt mờ. Ký Y cúi đầu, nước mắt rơi xuống mặt tuyết trước mũi chân nàng.
Cho tới tận lúc này, rốt cuộc Ký Y mới chú ý tới một sự thật.
- Tại sao lại thế?
Tim nàng bỗng đập nhanh hơn, nỗi sợ đã vơi dần lại kéo về khi nàng bước qua cửa viện.
- Không lẽ hung thủ vẫn còn trốn trong phòng?
Nàng chợt hiểu được chuyện vừa xảy ra: Hung thủ tới chơi sau khi bá phụ đánh Nhã Anh rồi nhốt nàng vào nhà kho. Lúc ấy trời còn chưa đổ tuyết. Hẳn là Nhã Anh đã trốn đi khi hung thủ trò chuyện với bá phụ ở gian chính, thời điểm đó tuyết đã rơi rồi. Ký Y suy đoán như vậy, bởi vì nhà kho nhốt Nhã Anh nằm ở phía sau gian chính, nếu Nhã Anh muốn trốn thì nhất định phải đi qua sân của gian chính. Khi Nhã Anh tới nhà nàng thì chỉ nói là mình bị đánh chứ không nhắc tới chuyện người nhà đã bị hại. Chứng tỏ lúc Nhã Anh trốn đi trong sân chưa có thi thể, án mạng còn chưa xảy ra. Sau khi sát hại mọi người, hung thủ chưa rời đi ngay mà vẫn ở lại trong viện, có lẽ là để tìm kiếm thứ gì đó. Lúc nghe được tiếng gọi cửa của Ký Y, hung thủ mới trốn đi.
Chỉ có thể giải thích mọi chuyện như vậy, nếu không…
Dù lúc này tuyết lại rơi thì dấu chân chạy trốn của Nhã Anh và dấu chân tới đây của Ký Y vẫn hiện ra rất rõ.
Tuyết rơi càng lúc càng lớn. Khi Ký Y chạy như bay về đến cửa viện nhà mình thì dấu chân phía sau nàng đã bị những bông tuyết lớn che phủ. Có nghĩa là tuyết vừa rơi cũng sẽ phủ lên thi thể của bá phụ và đường ca của nàng. Nàng dừng bước, đứng giữa trời tuyết, cố gắng sắp xếp dòng tư duy sau cơn bi lụy đau thương, song cuối cùng cũng không thể đưa ra lời giải thích hợp lý hơn.
Chỉ có thể giải thích mọi chuyện như vậy, nếu không…
Nếu không, tại sao trên một con đường khác bên ngoài nhà bá phụ lại không hề có dấu chân nào?
Năm mới xuân sang chừ, ngày dài đằng đẵng.
Gột tấm thương, ta vui chơi chừ,
Theo Giang, Hạ cho đỡ lòng lo lắng!*
* Hai câu thơ được trích từ tác phẩm Cửu chương - Tư mỹ nhân của nhà thơ Khuất Nguyên người nước Sở cuối thời Chiến Quốc. Bản dịch của Nhượng Tống.
***
[1]
Năm Thiên Hán* thứ nhất.
* Niên hiệu thứ tám của thời Hán Vũ đế. Triều Hán sử dụng niên hiệu này tổng cộng bốn năm.
Dưới bóng chiều cuối xuân, có một thiếu nữ đang cầm cung săn chim trĩ giữa rừng hoang ở Vân Mộng. Nàng mặc áo khoác ngắn và váy dài, đeo ống đựng tên bằng da tê giác, trông như người tập võ. Còn một thiếu nữ khác là người bản địa thì đang đứng trong bóng cây, mặc áo tay hẹp, gắng chịu đựng cái oi bức của buổi chiều tà, trong tay còn cầm con mồi mà bạn nàng vừa săn được.
Cây cung trong tay thiếu nữ là do cha nàng tặng, được thợ thủ công Trường An chế tác theo phương thức cổ xưa. Phải mất hơn một năm mới có thể tạo ra một cây cung như vậy. Thân cung được làm từ gỗ chá của quận Đông Hải chặt vào mùa đông. Sau đầu xuân, dùng sừng trâu được lấy xuống từ mùa thu năm trước đi ngâm tẩm, chuẩn bị sử dụng. Lại tinh chế gân hươu vào mùa hè. Thu sang, lấy sừng trâu và gân hươu đã qua xử lý gắn vào trong ngoài gỗ chá bằng chất keo màu đỏ, sau đó quấn tơ, sơn màu, rồi giữ qua một mùa đông để sơn và chất keo bám chặt.
Nàng luôn trân trọng món quà này, mỗi khi tập bắn đều giữ gìn rất cẩn thận, không để nó dính bẩn bao giờ. Đây cũng là lần đầu tiên nàng dùng nó để bắn vật sống. Ban đầu nàng vẫn chưa lĩnh hội được kỹ thuật bắn mục tiêu động nên bắn lệch vài mũi tên, còn bị bạn mình cười nhạo một phen. Nhưng khi tiếng cười của đối phương còn vang vọng trong rừng thì máu của con mồi đầu tiên đã bắn tung tóe lên hoa bìm bìm đỏ thắm.
Thiếu nữ cầm cung sinh ra và lớn lên ở Trường An. Phần lớn núi rừng chốn kinh đô đều đã thuộc về hoàng tộc, nên tuy nàng học được tài nghệ bắn cung từ một vị tướng quân là chỗ quen biết song cũng hiếm có cơ hội thể hiện tài năng. Được tự do săn bắn như ngày hôm nay chính là một tâm nguyện của nàng.
Huống chi vùng đất này từng là bãi săn của Sở vương.
Ngày trước mỗi khi quân đội tập trận vào dịp đầu đông, Sở vương sẽ lên chiến xa được tô điểm bởi những vật trang trí bằng ngọc, cầm cung có chạm trổ hoa văn và tên đặc chế, dẫn người đi khắp rừng săn bắn thú lạ. Nhất thời tên bắn như mưa, máu dây khắp chốn. Con mồi bị trúng tên, gục xuống đất không thể gượng dậy, chẳng thể tránh khỏi số kiếp bị bánh xe nghiền nát và bộ binh giẫm đạp. Súc thịt non tơ mỡ màng chưa được người ta nếm thử đã nát bét trong đất bùn. Sau một hồi tàn sát, Sở vương hài lòng đặt cung tên xuống, thưởng thức thi cốt khắp nơi và nhìn đám binh sĩ hãy còn khát máu. Các thiếu nữ mặc những bộ y phục vải the mỏng tựa sương sớm bắt đầu ca múa trong mùi gió tanh gay mũi. Vạt váy của các nàng rủ trên nền đất, lập tức nhuộm đỏ máu tươi…
Tuy nhiên đến năm hai mươi mốt* thời Khoảnh Tương vương**, đại tướng nước Tần là Bạch Khởi*** đem quân đánh chiếm Dĩnh Đô****, Vân Mộng trạch cũng bị chiếm đóng. Sau đó nước Tần thiết lập Nam Quận ở đây, hủy lệnh cấm lên núi, lại lập ra chức “quan Vân Mộng” chuyên cai quản vùng đất này. Hơn trăm năm sau, chốn bình nguyên ở Vân Mộng đã sớm được khai khẩn thành đồng ruộng, chỉ còn sót lại chút núi non hiểm trở giữ được diện mạo vốn có, tới nay vẫn để dân thường lên đốn củi hoặc săn bắn.
* Chú thích của tác giả: Tức năm 278 trước Công Nguyên.
** Khoảnh Tương vương hay còn gọi là Sở Tương vương, là vị vua thứ 41 của nước Sở.
*** Bạch Khởi: Danh tướng vô địch của nước Tần trong thời Chiến Quốc, lập nhiều công lao, góp phần lớn chiến tích trong việc thống nhất Trung Quốc của nước Tần.
**** Kinh đô của nước Sở từ thời Sở Văn vương.
“Ta nghe nói nhà Nho chỉ dùng cần câu để câu cá mà chưa bao giờ giăng lưới để bắt cá, khi săn thú cũng chưa từng bắn chim đã về tổ. Nếu Tiểu Quỳ tôn sùng học thuật nhà Nho thì đáng lẽ ra không nên ra tay sát sinh như vậy chứ?”
Thiếu nữ bản địa mặc áo tay hẹp vừa nhặt con chim trĩ đã chết lên, vừa nói với vẻ ai oán. Dứt lời nàng khinh bỉ quay mặt đi, nhưng vẫn nắm chặt con chim trĩ đã bị bắn chết nọ. Thực ra khi Vu Lăng Quỳ tới từ Trường An đề nghị đi săn vài con chim trĩ về nhắm rượu, cái lưỡi chẳng giỏi ăn nói của Quan Lộ Thân cũng tiết ra một chút nước bọt, mà trong khoảnh khắc mũi tên đâm vào mỡ và lông chim trĩ thì nàng cũng chẳng xót thương là bao.
Nàng nói như vậy chẳng qua vì nàng không biết giương cung bắn tên, cảm thấy mình thua kém Quỳ ở mặt đó, âm thầm không cam tâm. Nhưng thực ra cuộc so tài giữa nàng và Quỳ, cuộc so tài mà nàng sẽ bị áp đảo hoàn toàn ấy, lúc này mới chỉ bắt đầu.
Tương lai còn có nỗi chán nản và tự ti vô tận đang chờ đợi nàng.
“Có lẽ Lộ Thân không biết rồi.” Quỳ luôn vào đề bằng câu nói này, còn Lộ Thân thì chưa bao giờ đoán được nàng định nói gì. “Chính vị học giả ‘Điếu nhi bất cương, dặc bất xạ túc’* ấy, sau khi chuồng ngựa bị cháy chỉ hỏi một câu ‘Có người bị thương không?’, vốn chẳng quan tâm tới sự sống chết của ngựa. Nếu Lộ Thân đã mang lòng thương cảm với đồ ăn của con người thì cớ sao lại theo ta đi săn?”
* Chỉ dùng cần câu cá mà không giăng lưới đánh cá, chỉ bắn con chim đang bay chứ không bắn con chim đã về tổ nghỉ ngơi.
“Ta chỉ dẫn đường cho ngươi theo lệnh của phụ thân chứ chưa từng có ý tiếp tay cho ngươi.”
Rõ ràng là buổi sáng nay hai thiếu nữ mới gặp nhau lần đầu, song giờ đã bắt đầu tranh luận như những người bạn lâu năm.
“Trái ngược với những gì ngươi đã nói, thuật bắn cung không chỉ là thuật giết chóc, theo kiến giải trong Lễ thư, ‘Người bắn cung cũng phải có lòng nhân ái. Bắn cung trước hết phải điều chỉnh lại tư thế của mình cho đoan chính rồi mới buông dây, nếu bắn không trúng cũng không nên oán người thắng mình, tự xét lại mình là được.’ Nếu so với thuật đánh đấm, thuật bắn cung phần nhiều không phải là so tài với đối thủ mà là đọ sức với chính mình, nhờ đó khắc phục được nhược điểm của bản thân, đạt đến cảnh giới ‘nhân ái’.”
“Nói thì nghe huyền diệu lắm, có điều Tiểu Quỳ à, ngươi vẫn nên sớm nhìn vào hiện thực đẫm máu đi. Trông mấy thi thể này và những vết thương trí mệnh trên người chúng, chẳng lẽ đây chính là ‘nhân ái’ mà ngươi nói tới? Nếu chỉ theo đuổi đức hạnh thì có thể luyện tập bắn bia, hoặc so tài với nhau là được, cớ gì phải tàn sát sinh linh? Nói cho cùng thì ngươi cũng chỉ lưu luyến món ngon dân dã, vậy mà còn nêu ra một đống đạo lý để ngụy biện cho mình, không lẽ đây chính là thói quen của người Trường An các ngươi?”
“Phải rồi, nếu Lộ Thân đã là người địa phương, hẳn phải biết tại sao ‘Vân Mộng trạch’ lại gọi là ‘trạch’ nhỉ?”
“Đương nhiên là biết chứ. Tuy học vấn của ta không bằng ngươi nhưng ít ra cũng là con cháu quý tộc, chút tri thức ấy không thể không biết.” Lộ Thân tức giận đến phùng má, tuy nhiên trong lòng lại chẳng mấy tự tin. “Vì Vân Mộng có nhiều ao hồ, hệ thống sông ngòi phát triển, nên mới được gọi là ‘Vân Mộng trạch*’.”
* Trạch nghĩa là sông suối, ẩm ướt.
Nghe được câu trả lời của Lộ Thân, Quỳ không khỏi bật cười thành tiếng.
“Đây chỉ là lối giải thích nông cạn mà thôi, đúng kiểu nhìn chữ đoán ý, khó tránh được việc bị các vị ‘thông Nho*’ cười chê.”
* Người thông thạo, am hiểu học thuật Nho giáo.
“Vậy ‘thông Nho’ các ngươi giải thích thế nào?”
“Trạch, cũng là tuyển trạch, chọn lựa.” Quỳ giải thích từng chữ từng chữ một, “Trong Lễ thư có nói, ‘Thiên tử muốn tế bái thì trước tiên phải tập bắn cung ở chốn sông ngòi. Bởi vậy ở chốn sông ngòi mới chọn được người có tài.’ Có nghĩa là chỉ người có thể bắn trúng con mồi ở ‘trạch’ như ta mới đủ tư cách tham gia tế bái. Tuy Vân Mộng không ít ao đầm song tới ngày nay vẫn còn rất nhiều núi rừng chưa khai khẩn, chim muông đủ loại đủ loài, chính là một bãi săn tuyệt hảo. Chẳng mấy khi tới chơi, dù nơi này đã sớm không còn quy mô như thời Sở vương đi săn, song phóng mắt nhìn ngắm phong cảnh cũng có thể ngẫm được vài phần cảnh tượng hùng tráng năm nào. Đương nhiên ta cũng phải học tập người xưa, săn vài con chim trĩ về để làm kỷ niệm chứ.”
“Tóm lại vẫn vì ăn thịt mà thôi…”
Nói rồi nàng áng chừng con thú trong tay - Có lẽ cũng làm được một bữa ngon.
“Lộ Thân nói như thể mình chưa bao giờ ăn thịt chim trĩ ấy.” Quỳ rút từ sau lưng ra một mũi tên, nở nụ cười chòng ghẹo, “Dù sao người vụng về như Lộ Thân cũng không bắn trúng được mục tiêu di động đâu nhỉ?”
“Nếu dùng nỏ thì ta bắn được.”
Gia tộc họ Quan ở ẩn chốn núi rừng, để phòng thú dữ nên chưa từng bỏ bê việc luyện tập võ nghệ. Kể cả phụ nữ và trẻ em không biết dùng binh khí ngắn thì cũng thường xuyên luyện cách dùng nỏ.
“Hừ, nỏ ấy à?” Vẻ khinh thường lộ rõ trên mặt Quỳ, đến Lộ Thân chậm chạp cũng có thể nhận ra. “Nếu vũ khí cũng được chia thành quân tử và tiểu nhân, vậy chắc chắn nỏ là thứ chỉ tiểu nhân mới dùng. Lộ Thân, dù sao ngươi cũng là con cháu quý tộc, không nên chạm vào những thứ hạ thấp bản thân, vũ nhục tổ tiên ấy mới phải.”
“Nỏ thì có gì không tốt? Tại sao Tiểu Quỳ lại ghét bỏ nó như thế?” Lộ Thân phản bác, “Ta nghe nói, dù là Tướng quân Lý Quảng xuất thân từ thế gia thiện xạ, khi chỉ huy tác chiến cũng gần như là ‘Nghìn nỏ cùng bắn’. Thuật bắn cung của ngài ấy chắc chắn giỏi hơn ngươi nhiều, ngài ấy cũng không cấm binh sĩ dưới trướng dùng nỏ.”
“Lý Quảng là vị tướng quân mà ta ngưỡng mộ nhất, tiếc là ta sinh ra quá muộn, không thể tới trước mặt ngài ấy để xin chỉ giáo. Ngươi nói đúng, ngài ấy luôn chỉ huy binh sĩ dùng nỏ để bắn quân Hung Nô, dù sao nỏ cũng có hiệu quả cao hơn cung tên. Tốc độ bắn của nỏ nhanh hơn, có thể tiết kiệm thể lực của binh sĩ, lại dễ học dễ dùng hơn cung tên. Chỉ cần huấn luyện ở mức độ sơ đẳng là có thể phát huy được uy lực tối đa. Huống chi, dù là mãnh tướng uy dũng nhất cũng chỉ giương được cây cung chừng ba thạch*, trong khi cường độ của nỏ có thể dễ dàng đạt tới bốn thạch trở lên.”
* Thạch: Đơn vị trọng lượng lương thực thời xưa, 1 thạch tương đương 250 cân (125kg).
“Vậy mới nói…”
“Vậy mới nói nó là thứ vũ khí phù hợp nhất cho những người kém cỏi.” Nói rồi Quỳ quay đầu đi nơi khác, lại cố ý liếc Lộ Thân một thoáng. “Ta vừa phát hiện ra, có một người kém cỏi chỉ xứng sử dụng nỏ đang đứng trước mặt mình.”
“Ngươi tốn bao công sức để luyện tập giương cung bắn tên, người khác chỉ cần kéo nhẹ lẫy nỏ là có thể bắn được xa hơn, chuẩn hơn ngươi, không biết rốt cuộc ngươi thấy mình giỏi giang hơn người ở điểm nào? Cầm một thứ phế phẩm bị thời đại đào thải mà miệng còn khoe khoang ‘quý tộc’, ‘quân tử’, ‘thông Nho’, suy cho cùng cũng chỉ là một cách tự thương lấy mình thôi thì phải?”
Quỳ đáp lại, “Đúng thế, ta cũng giống như tổ tiên của ngươi, chắc chắn đều sẽ bị người đời chế nhạo. Ta là một kẻ cổ hủ lỗi thời, luôn trông ngóng theo phong thái và trí tuệ của người xưa, không thể tán đồng những thứ đang lưu hành ngày nay được.” Ráng đỏ buông xuống nơi chân trời cũng tối đi trong chớp mắt. “Dù sao đây cũng là thời đại của các ngươi chứ không phải của ta.”
“Tiểu Quỳ…”
Thấy Quỳ rầu rĩ như vậy, nhất thời Lộ Thân bối rối. Cho dù nàng biết mình là loại “người kém cỏi” mà Quỳ nói, lại thầm bực bội trong lòng, có điều nàng cũng không thấy phản cảm là bao. Nàng cũng biết rõ rằng học thức và tài nghệ của mình đúng là đã làm xấu mặt tổ tiên.
Đương nhiên, nàng cũng chẳng biết nhiều về tổ tiên của mình.
Quỳ chợt nghĩ tới điều gì đó, ánh sáng ảm đạm theo mây chiều khi nãy lại thoáng bừng lên trong mắt nàng. “Kể ra thì Lộ Thân sống ở đây từ nhỏ, không biết đã từng đọc bài Tử Hư phú của Tư Mã Tương Như* hay chưa? Bài phú viết về sứ giả nước Sở là Tử Hư** đi sứ nước Tề rồi cùng Tề vương đi săn, có nói về Vân Mộng.”
* Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh (179 TCN - 117 TCN), người ở Thành Đô đời nhà Hán, rất đa tài, văn hay, đàn giỏi. Bài Tử Hư phú của ông được Hán Vũ đế rất khen ngợi, cùng với bài Thượng lâm phú được viết sau này có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử thể phú đời Hán. Cả hai bài tả những cuộc săn bắn và du ngoạn của nhà vua, có ngụ ít nhiều ý can gián, nhưng thực tế là “châm biếm một lời, khuyến khích trăm lời”, chủ yếu vẫn là phản ánh và ca tụng sự thịnh vượng nhất thời của giai cấp thống trị.
** Tử Hư là một nhân vật trong bài Tử Hư phú, nói năng hư huyễn, thổi phồng.
“Chưa đọc bao giờ.”
“Tử Hư phú miêu tả Vân Mộng thế này.” Quỳ bắt đầu thong thả ngâm tụng…
Vân Mộng trải dài chín trăm dặm, bên trong có núi. Thế núi uốn quanh, vòng vèo khúc khuỷu, cheo leo hiểm trở, đỉnh núi cao và dốc nhấp nhô trập trùng, mặt trời mặt trăng bị che khuất, nửa ẩn nửa hiện. Dãy núi trùng trùng, đan xen hỗn độn, vươn thẳng lên tận mây xanh; sườn núi nghiêng nghiêng, nối liền với sông lớn. Trong thổ nhưỡng có chu sa, khoáng xanh, đất sét đỏ, đất thó trắng, thư hoàng(1), thạch anh trắng, khoáng thiếc, ngọc bích, vàng, bạc, đủ loại màu sắc, lấp lánh rực rỡ như vảy rồng. Đá nơi đó có mã não đỏ, ngọc lưu ly, lâm mân(2), côn ngô(3), giam lặc(4), huyền lệ(5), nhuyễn thạch, vũ phu(6). Phía Đông có hoa thơm cỏ lạ như đỗ hành, phong lan, bạch chỉ, đỗ nhược(7), khung cùng(8-), xương bồ(9), giang ly(10), mía, chuối. Phía Nam có đồng bằng sông lớn, địa thế thoai thoải, vùng trũng rộng lớn bằng phẳng, kéo dài dọc theo sông lớn, cho tới tận chân núi Vu. Nơi cao dốc khô ráo thì có cây mã lam, cỏ bao(11), cỏ lệ, cỏ ngải, cỏ gấu. Nơi ẩm thấp thì có cỏ đuôi chó, cỏ lau, tường vi, măng nước, ngó sen, cây bầu, cỏ tranh, cỏ du(12), rất nhiều loài cây sống ở nơi đây, nhiều tới mức không đếm xuể. Phía Tây có suối nước dâng trào, ao hồ trong vắt, sóng nước lay động, sóng sau xô sóng trước; hoa sen và hoa súng cùng nở trên mặt nước, dưới nước lại có đá tảng và cát trắng. Trong nước có rùa thần, thuồng luồng, đồi mồi, ba ba. Phía Bắc có rừng rậm với những cây to như: tiện, lim, long não, quế, tiêu, mộc lan, hoàng phách(13), liễu đỏ, sơn tra, lê, dẻ, quýt, bưởi, hương thơm tỏa khắp xa gần. Trên cây có uyên sồ(14), khổng tước, chim loan, vượn, khỉ. Dưới cây lại có hổ trắng, báo đen, cáo chồn, chó rừng…
(1) Một loại khoáng sản có thành phần là As2S3, màu vàng cam, nửa trong suốt.
(2) Một loại ngọc/đá đẹp.
(3) Một loại đá được dùng để luyện thép làm kiếm.
(4) Một loại đá quý, chỉ thua ngọc.
(5) Một loại đá màu đen dùng để mài đao.
(6) Nhuyễn thạch, vũ phu đều là loại đá đẹp gần giống như ngọc.
(7) Đỗ hành, bạch chỉ, đỗ nhược đều là những thứ cỏ thơm, rễ được dùng làm thuốc.
(8-) Một loài cỏ, sinh ở đất Thục gọi là xuyên khung, củ được dùng làm thuốc.
(9) Một loài cỏ mọc ở vệ sông vệ suối, mùi thơm sặc, dùng làm thuốc.
(10) Một loài cỏ thơm, còn có tên khác là mi vu hoặc kì chỉ.
(11) Một loài cỏ có cọng rắn chắc, dùng để đan dép và dệt chiếu.
(12) Một loài cỏ có lá như răng cưa, mùi rất hôi.
(13) Một loài cây cao rụng lá, cành có thể dùng làm thuốc nhuộm vàng, vỏ cây làm thuốc.
(14) Một loài chim phượng.
“Ta thấy áng văn này chẳng khác nào được viết bằng ngôn ngữ nước khác, phải phiên dịch chín lần mới nghe hiểu được.”
“Đoạn phú này chỉ viết về phong thổ và sản vật của vùng Vân Mộng mà thôi. Lộ Thân đúng là chẳng biết gì về văn hóa của quê hương mình cả.” Quỳ tiến lên phía trước một bước, quay lưng lại với Lộ Thân mà nói, “Tuy ta sinh ra và lớn lên ở Trường An nhưng lại là con cháu người Tề. Song tổ tiên của ta không hiển hách được như của ngươi. Đúng là gia tộc của ta phất lên nhờ kinh thương buôn bán, vào năm Nguyên Sóc* thứ hai, khi gia nghiệp lên tới hơn ba trăm vạn thì chuyển đến ấp Mậu Lăng. Lúc còn ở cố hương, người sống quanh đó đều biết trước đây gia tộc của ta chỉ là nô bộc của hiền giả Vu Lăng Trọng Tử nước Tề. Vu Lăng Trọng Tử sống liêm khiết cả đời, từ chối mọi ân huệ dù là nhỏ nhất của người khác, cuối cùng không biết kết cục của ông ra sao, cũng có lời đồn rằng ông đã chết vì đói, sau đó tổ tiên ta liền mượn luôn họ của ông. Từ khi chuyển đến Trường An, bắt đầu từ đời cha ta đã nói dối với người khác rằng chúng ta là con cháu của Vu Lăng Trọng Tử. Tuy nhiên làm gì có ai tin bậc thánh hiền khắc khổ như vậy lại có đám hậu duệ người đầy mùi tiền thế này.”
* Niên hiệu thứ ba của thời Hán Vũ đế.
Nói tới đây, nàng nở một nụ cười cô tịch.
“Bởi vậy Tiểu Quỳ mới ghét người xuất thân từ gia đình quý tộc cũ như ta sao?”
“Ta không hề ghét ngươi, có điều ít nhiều có chút đố kị. Nếu ta cũng có xuất thân như thế thì tốt biết bao. Dù ta nghiên cứu kinh thư ra sao, luyện tập võ nghệ thế nào, thử đủ mọi cách để bắt chước theo phong thái và ngôn ngữ của bậc hiền nhân thời cổ thì xuất thân này vẫn không thể thay đổi được, vì trong cơ thể ta vẫn chảy dòng máu của nô bộc. Hơn nữa từ nhỏ ta đã sống trong gấm vóc lụa là, hào hoa xa xỉ, trên người khó tránh nhiễm phải nhiều thói hư tật xấu đi ngược lại lễ giáo cổ xưa, bởi vậy cũng từng làm một số chuyện hoang đường hư hỏng. Trên đường tới Vân Mộng ta luôn nghĩ, nếu ta sinh ra trong gia đình quý tộc cũ như nhà họ Quan thì tốt biết bao. Nhưng cuối cùng thì…”
“Nhưng cuối cùng thì con cháu quý tộc là ta đây lại làm ngươi thất vọng, đúng không?”
“Đúng vậy, ta thực sự rất thất vọng.” Quỳ hồi đáp mà chẳng hề kiêng nể, “Ta cứ nghĩ rằng, giữa thời đại sa đọa suy đồi này, chỉ có những quý tộc cũ như các ngươi là đáng tin. Ta vốn tưởng trên người các ngươi sẽ giữ lại được những thứ mà ta luôn kiếm tìm, có thể giúp ta hiểu thêm một chút về nước Sở diệt vong đã lâu. Thế mà ngươi không chỉ hiểu biết rất ít về thời xa xưa đó, mà chuyện thời nay ngươi cũng chẳng hay biết gì, kém cỏi vô vị hơn cả đám bạn bè ở Trường An của ta. Ít ra ta và bọn họ còn có thể trò chuyện về thú vui và văn chương đang lưu hành, còn ở cạnh ngươi, ta thực sự không có lời nào để nói…”
Lộ Thân nghe vậy thì im lặng hồi lâu, nàng bỗng nhận ra sự khác biệt lớn nhất giữa mình và một cô thôn nữ không phải ở việc có biết chữ hay không, mà là mình không biết làm việc nhà nông. Lộ Thân cố nén những giọt nước mắt nhục nhã, nắm chặt lấy tà áo của mình, gắng bình ổn lại hơi thở dồn dập.
“Có lẽ nên để Nhã Anh tỷ tiếp đón ngươi. Tỷ ấy là người hiểu lễ cổ nhất trong gia tộc.”
“Ngươi đang nói về đường tỷ* Quan Nhã Anh của ngươi sao? Nàng ta bằng tuổi chúng ta cơ mà, tại sao lại là người hiểu lễ cổ nhất gia tộc họ Quan?”
* Chị họ bên nội.
“Bởi vì phụ thân ta không phải con trưởng trong nhà, học về tri thức gia truyền rất sơ sài. Mãi đến bốn năm trước, tộc trưởng của gia tộc họ Quan vẫn không phải phụ thân ta mà là bá phụ* Vô Cữu. Đồ dùng tế lễ vốn đều ở chỗ bá phụ Vô Cữu, việc thờ cúng lễ bái cũng thường do bá phụ và Thượng Nguyên ca chủ trì. Học vấn của họ đủ để chỉ bảo cho tiến sĩ trong Thái học**, thường xuyên có học giả viết thư xin bá phụ chỉ giáo, mà bá phụ cũng hay để Thượng Nguyên ca hồi đáp thay ông. Tuy nhiên bốn năm trước họ đã qua đời, bởi vậy e là rất nhiều lễ cổ đều bị thất truyền mất rồi.” Dứt lời Lộ Thân nhíu chặt mày hơn, “Bá phụ và Thượng Nguyên ca đều qua đời vào đêm hôm ấy, chỉ có Nhã Anh tỷ còn sống thôi.”
* Bác - anh trai của cha.
** Trường đại học do triều đình thành lập, là cấp học cao nhất của Trung Quốc thời xưa.
“Hôm ấy đã xảy ra chuyện gì?”
“Ta cũng không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.” Lộ Thân thành thực đáp, khiến Quỳ càng nghi hoặc hơn. “Nhưng mọi người đã qua đời cả rồi, vậy thôi.”
“Cả nhà bá phụ của ngươi sao?”
“Bá phụ, bá mẫu*, Thượng Nguyên ca và đường đệ** mới sáu tuổi, tất cả đều chết trong nhà. Khi ấy trùng hợp Nhã Anh tỷ ở nhà ta nên mới tránh được kiếp nạn đó. Ký Y tỷ là người phát hiện ra thi thể.” Nói tới đây nàng chợt nhớ ra, “À phải, Ký Y tỷ cũng qua đời rồi…”
* Bác dâu - Vợ của bác anh trai của cha.
** Em trai họ bên nội.
“Nếu là như thế, tại sao ngươi lại nói mình ‘không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì’?”
“Tiểu Quỳ thật là quá đáng, nhắc tới chuyện tang thương như vậy mà cũng không an ủi ta, lại còn thản nhiên hỏi tới hỏi lui như thế.” Cuối cùng Lộ Thân cũng rơi nước mắt, “Chúng ta thực sự không biết chuyện gì đã xảy ra, khi Ký Y tỷ qua đó thì thảm kịch đã xảy ra rồi. Tới tận bây giờ ta vẫn không biết rốt cuộc hung thủ là ai, vì lý do gì mà kẻ đó lại làm ra chuyện tàn nhẫn như vậy, chuyện hôm ấy vẫn còn lưu lại rất nhiều bí ẩn chưa được giải đáp. Tiểu Quỳ vừa thông minh vừa hiểu biết rộng, biết đâu có thể đưa ra đáp án.”
“Kể cho ta nghe những điều ngươi biết được không?”
“Được…” Lộ Thân gật đầu nói, “Chỉ mong ta có thể kể hết…”
Dứt lời nàng lại lấy ống tay áo lau nước mắt, rồi nhìn về phía rừng cây xa xa. Dường như nơi ấy chẳng có chi cả, lại như đang ẩn giấu thứ gì đó dưới bóng cây âm u. Tịch dương từ từ chìm xuống, bóng đêm lan dần lan dần bên chân Quỳ. Lộ Thân thoáng hy vọng rằng nàng có thể kể xong câu chuyện này trước khi sao Trường Canh* xuất hiện.
* Sao Hôm.
--------------
[2]
Đầu xuân mà trời vẫn lạnh lẽo vô cùng.
Khi gió thổi vang vọng trong thung lũng, hơi lạnh cũng thấm dần vào xương cốt người ta.
Dù là Quan Ký Y nổi tiếng cần cù chăm chỉ, lúc này cũng chỉ ngồi yên trên sàn nhà trải chiếu cói trong gian chính, tựa lưng vào ghế dựa, trên đầu gối có một cuốn cầm phổ được mở ra, nàng đang cố cưỡng lại cơn buồn ngủ. Ký Y khoác trên người một bộ y phục rất dày. Tiếng nhạc cổ xưa ngân vang trong đầu nàng, đầu ngón tay lạnh đến tê cứng của nàng không hề nhúc nhích.
Mí mắt Ký Y ngày càng díu lại, cơn buồn ngủ từ từ kéo tới. Vì chưa ôn lại khúc nhạc mới học nên nàng không muốn quay về phòng để ngủ.
Một tràng tiếng đập cửa đã xua tan cơn buồn ngủ của nàng.
Cửa viện cách gian chính khoảng ba mươi bước, tuy gió vẫn rít gào song có thể nghe thấy tiếng đập cửa rất rõ ràng, không mạnh nhưng vô cùng gấp gáp.
Ký Y đứng dậy chỉnh lại áo choàng trên người mình xong, bèn ra khỏi gian chính, đi về phía cửa viện.
Sau khi mặt trời lặn, trời đã đổ một trận tuyết nhỏ, lưng núi và đất bằng đều nhuốm màu trắng bạc. Sân viện nhà Ký Y cũng không phải ngoại lệ, cho dù trăng sao đều đã bị mây mù che khuất, chỉ có ánh nến mờ nhạt trong gian chính hắt ra sân thì lớp tuyết đọng mỏng manh vẫn được phản chiếu sáng lên như ánh trăng.
Có lẽ vì đã nghe được tiếng bước chân, người bên ngoài không đập cửa nữa. Ký Y nghe thấy tiếng thở hổn hển của đối phương, bèn hỏi thử:
“… Nhã Anh?”
“Ký Y tỷ…”
Quan Ký Y vội gỡ then cài rồi mở cửa ra.
Khi ấy Quan Nhã Anh mới mười ba tuổi cứ thế ngã thẳng vào lòng Ký Y, dáng vẻ hồn bay phách lạc. Lúc Ký Y đỡ đường muội* đã không còn hơi sức vào gian chính thì phụ thân Quan Vô Dật và muội muội Giang Ly của Ký Y cũng vội bước tới.
* Em gái họ bên nội.
Quan Vô Dật hỏi Nhã Anh rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì nhưng Nhã Anh chỉ vùi đầu giữa hai cánh tay Ký Y, co mình lại mà không hề đáp lời. Cuối cùng bọn họ đành để Ký Y thì thầm hỏi bên tai Nhã Anh, Nhã Anh mới nói ra sự tình với giọng nhỏ như muỗi kêu.
“Bị phụ thân… đánh…”
Bấy giờ Ký Y mới để ý, rõ là trời lạnh như vậy mà Nhã Anh chỉ mặc một chiếc áo mỏng, phần áo trắng dính chặt vào lưng Nhã Anh còn nhuốm đầy vết máu.
Nàng xin phụ thân cho Nhã Anh ngủ lại, sau khi ông đồng ý nàng liền dìu đường muội về phòng mình. Phòng của Ký Y cách gian chính một quãng, nàng đành cởi áo choàng của mình khoác lên người Nhã Anh, sau đó lại bảo Giang Ly đi lấy ít y phục cho Nhã Anh tắm rửa thay đồ.
Quay về đến phòng, Ký Y cởi y phục giúp Nhã Anh kiểm tra một thoáng, thấy trên người Nhã Anh từ lưng đến giữa đùi chằng chịt vết roi. Làn da của Nhã Anh thực sự giống với chiếc áo trắng mỏng mà nàng khoác trên người ban nãy, những vết roi đan vào nhau ngang dọc. Nơi bị thương nặng da thịt đã rách ra, nơi bị thương nhẹ cũng sưng đỏ bầm tím.
Bá phụ Quan Vô Cữu quả thực rất nghiêm khắc với con cái, mà Nhã Anh cũng quả thực là một đứa trẻ ngỗ nghịch. Từ nhỏ nàng đã cùng học các nghi thức lễ bái thờ cúng với huynh trưởng*, cũng được kỳ vọng rằng sau này có thể trở thành Vu nữ** tham dự vào các nghi thức quốc lễ của vương triều Hán.
* Anh cả, con cả trong nhà. Huynh trưởng ở đây chỉ Thượng Nguyên.
** Nữ pháp sư, nữ tư tế, nữ phù thủy lo việc thờ cúng, tế bái thời xưa.
Trong ấn tượng của Ký Y, không phải lần đầu tiên Nhã Anh phải chịu những trận đòn thế này. Bá phụ là người rất nóng tính, thường thì không chỉ đánh Nhã Anh mà còn nhốt nàng trong nhà kho ở sau nhà một đêm mới nguôi giận. Ca ca của Nhã Anh là Thượng Nguyên từ nhỏ cũng được dạy dỗ bằng đòn roi như vậy, cuối cùng tính tình mới trở nên rụt rè nhút nhát, chưa bao giờ dám làm trái ý cha.
Nếu so với bá phụ Vô Cữu thì phụ thân của Ký Y - Quan Vô Dật đối xử với ba cô con gái của mình hiền hòa hơn nhiều. Có lẽ vì Quan Vô Cữu vốn là con trưởng, từ nhỏ đã được coi như người thừa kế chính thống của gia tộc, ông học tập cực kỳ khắc khổ, nên không những am hiểu về lễ cổ nước Sở mà còn thông thấu cả lễ thư của nhà Nho. Thân là con thứ, Quan Vô Dật cũng khá có lỗi với cái tên của mình*, bởi thời trẻ ông chỉ bận giao du bạn bè nên đã phí hoài rất nhiều thời gian.
* Vô Dật nghĩa là không lười biếng, không nhàn hạ.
“Nhã Anh, muội lén chạy tới đây sao?”
Ký Y vừa hỏi vừa lau vết thương cho nàng.
Nhã Anh nhịn đau khẽ gật đầu, Ký Y thấy vậy không kìm được nước mắt, những giọt lệ mặn đắng nhỏ vào vết thương khiến Nhã Anh khẽ kêu “a” một tiếng, Ký Y không biết ấy là tiếng than vì đau đớn hay là tiếng lòng của Nhã Anh trước sự đồng cảm của nàng. Song nàng cũng chẳng biết làm thế nào để thay đổi số mệnh của Nhã Anh, đành ngồi trông Nhã Anh chịu khổ.
“Sao bá phụ lại đối xử với muội như thế?”
Ký Y hỏi gần như vô thức. Lần này Nhã Anh lắc đầu, có thể ý của nàng ấy là “không biết”, hoặc cũng có thể là “không muốn nói”, dù sao Ký Y cũng không hiểu. Cuối cùng Nhã Anh cũng bật khóc. Bên ngoài không có tiếng côn trùng râm ran mà chỉ văng vẳng tiếng gió và tiếng khóc nức nở của hai người con gái.
“Không lẽ bá phụ lại nhốt muội vào nhà kho?”
“Lúc nào cũng thế…”
“…”
Bấy giờ muội muội Giang Ly mang đồ cho Nhã Anh vào phòng.
Ngày ấy Ký Y mười sáu tuổi còn Giang Ly mới mười bốn tuổi.
Là đường tỷ, Giang Ly luôn được cha mẹ căn dặn phải nhường nhịn Nhã Anh, còn cha của Nhã Anh thì luôn dạy con gái phải kính trên nhường dưới. Tuy nhiên cuối cùng hai cô bé đều hiểu lời dạy của người lớn theo hướng có lợi cho mình, từ nhỏ Giang Ly luôn lấy danh nghĩa trưởng bối để bắt nạt Nhã Anh, còn Nhã Anh thì phản công lại mà chẳng hề kiêng nể. Giang Ly giống phụ thân Vô Dật của mình ở rất nhiều mặt, cũng không am hiểu về thuật lễ bái, bởi vậy nàng luôn tự ti trước Nhã Anh. Có điều cách thức nàng dùng để che giấu sự tự ti của mình là đối đầu với Nhã Anh gay gắt hơn.
Chuyện xảy ra vào ba tháng trước, Giang Ly bị Nhã Anh chế giễu tư thế khi chấp lễ, bèn giận dỗi nói xấu Nhã Anh với bá phụ, hại Nhã Anh bị phụ thân cho một trận đòn đau vào đêm hôm đó. Nhã Anh cũng biết vì Giang Ly mách lẻo nên mình mới bị đánh, bởi vậy ba tháng nay luôn trốn tránh Giang Ly, cũng không nói với Giang Ly lấy một câu.
Giang Ly đi vào phòng, Nhã Anh vẫn không để ý đến nàng ta mà chỉ lấy chiếc áo choàng vốn khoác trên người che trước ngực, không muốn để Giang Ly nhìn thấy thân thể hãy còn dậy thì của mình. Giang Ly bước tới nắm chặt lấy tay Nhã Anh, nói xin lỗi hết lần này tới lần khác.
“Xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi…”
Nghe được lời xin lỗi của Giang Ly, Nhã Anh hoảng hốt nhắm mắt lại. E rằng khi bị đánh mắng, nàng cũng không ngừng nói “xin lỗi” để phụ thân nguôi giận, bởi vậy mấy từ này lại gợi nhớ về hồi ức không vui của nàng.
Ký Y nghĩ rằng đây là cơ hội tốt nhất để hai người làm hòa, mà vừa hay vết thương cũng được xử lý xong, bèn dặn muội muội trông nom Nhã Anh cho tốt, còn nói mình sẽ báo lại với bá phụ, không để cả nhà họ phải lo lắng về Nhã Anh. Vì muốn Nhã Anh yên lòng, Ký Y hứa sẽ xin bá phụ cho Nhã Anh ở lại đây mấy hôm.
“Đừng đi…”
Ký Y không nghe theo lời Nhã Anh mà biến mất sau cửa, còn Giang Ly thì lẳng lặng giúp Nhã Anh thay một bộ y phục mềm mại.
Thực ra sau khi Ký Y qua đời, người luôn quan tâm chăm sóc cho Nhã Anh vẫn là Giang Ly.
Sau khi kể lại mọi chuyện với phụ thân, Ký Y bèn lấy một chiếc đèn lồng rồi đi về phía nhà bá phụ. Đi ngược lại dấu chân của Nhã Anh suốt dọc đường. Khi tới chỗ nàng, Nhã Anh chỉ đi một đôi giày cỏ, hẳn là vừa lạnh vừa trơn. Mà lúc này Ký Y lại đi một đôi guốc gỗ, còn đi tất bên trong, tuy nặng nhưng bước chân vững vàng, cũng giữ ấm tốt. Nghĩ vậy, Ký Y càng thấy Nhã Anh đáng thương.
“Bá phụ Vô Cữu, con là Ký Y đây.”
Ký Y tới nơi, vừa gọi vừa đập cửa viện, cửa chợt mở ra. Không biết là bị gió thổi hay vì Ký Y đập nên mới mở ra, nhưng có một điều chắc chắn là không có ai đi ra mở cửa.
Chẳng lẽ cả nhà bá phụ phát hiện Nhã Anh biến mất, liền đi vào trong núi tìm muội ấy?
Hai gia đình đều ở trong hẻm núi, xung quanh không phải vách núi cheo leo thì cũng là đường dốc chênh vênh. Từ nhà bá phụ ra ngoài, dù muốn vào núi hay xuống núi đều chỉ có hai con đường có thể đi được, một con đường dẫn về phía nhà Ký Y còn một con đường dẫn về phía ngược lại. Rõ ràng trời vừa đổ tuyết, nếu muốn tìm Nhã Anh thì cũng không khó, chỉ cần lần theo dấu chân của muội ấy là được. Có điều trên đường tới đây, rành rành chỉ có dấu chân của một mình Nhã Anh…
Dự cảm chẳng lành chợt nảy sinh trong lòng Ký Y rồi dần lan rộng như sương đêm, khiến ngực nàng bỗng đau nhói. Nàng hít sâu một hơi nhưng chỉ khiến trái tim đập càng nhanh hơn, cuối cùng Ký Y lấy hết dũng khí bước một bước về phía trước, đi qua cửa viện, chuẩn bị đối mặt với mây đen, sương mù và hiểm nguy sắp ập tới.
Tuyết đọng trong sân đã bị dọn dẹp qua loa, để lộ ra một con đường dẫn đến gian chính.
Nhờ ánh sáng yếu ớt hắt ra từ phía trong, Ký Y phát hiện có người nằm sấp ở cửa phòng.
Bấy giờ Ký Y mới ý thức được rằng, e là những dự cảm không lành khi nãy đều sẽ trở thành sự thật, còn nàng có thể thoát thân khỏi nơi này hay không thì cũng chưa biết.Tuy nhiên nàng không có lựa chọn nào khác, đành bước lên xem xét tình thế, chứng kiến hiện trường của vụ thảm kịch này.
Cuối cùng Quan Ký Y cũng bước tới vị trí cách người đang nằm sấp trên đất kia chỉ mấy bước chân. Nàng không dám lại gần hơn, sợ mình sẽ giẫm phải vũng máu đang kết thành băng. Ký Y cẩn thận tránh khỏi vũng máu đỏ sậm ấy, vòng qua bên đầu của người nằm sấp nọ. Nàng hơi cúi người rồi chuyển chiếc đèn lồng trong tay mình ra phía trước đầu gối.
Nàng thấy người nọ nằm yên không động đậy, sợ là đã tắt thở rồi. Ở phía bên trái trên lưng thi thể có một nhát dao đâm sâu đến nội tạng. Vết thương đã đông lại, không còn chảy máu nữa.
Ký Y lùi về sau một bước, giẫm lên tuyết đọng. Nàng hơi khom chân, gần như ngồi xổm trên mặt đất rồi chuyển đèn lồng xuống thấp hơn, cuối cùng cũng thấy được khuôn mặt của người nọ.
- Bá phụ Vô Cữu.
Nàng không dám nhìn kỹ khuôn mặt của thi thể. Bá phụ Vô Cữu ngày thường luôn nghiêm mặt cau mày, Ký Y có thể tưởng tượng được phần nào vẻ mặt của ông khi hấp hối sắp đối mặt với cái chết.
Sau đó nàng chợt thấy bên chân bá phụ Vô Cữu có mấy hàng dấu chân rải rác trên tuyết đọng, những dấu chân ấy kéo dài tới vị trí mà đèn lồng và ánh sáng trong phòng không thể chiếu tới. Nàng lần theo dấu chân đi về phía khoảng sân ở phía Tây gian chính, một cái cây to đã khô héo choán hết tầm nhìn của nàng.
Một đoạn dây thừng đã bị cắt đứt rủ xuống từ trên cây, cách mặt đất khoảng bảy, tám thước*.
* Thước: Đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc, bằng khoảng một phần ba mét.
Phía dưới sợi dây thừng là một thi thể đang nằm ngửa trên cái rễ lớn nhô ra khỏi mặt đất của gốc cây nọ. Đó là ca ca của Nhã Anh - Thượng Nguyên, đường đường nam nhi bảy thước cứ thế nằm lạnh băng, cứng đờ ở đó, không còn một chút sinh khí. Nhờ ánh sáng từ đèn lồng, Ký Y phát hiện trên cổ Thượng Nguyên có một vết dao cứa dài năm, sáu tấc*, máu bắn tứ tung thành những chấm nhỏ màu đỏ sẫm trên nền tuyết đọng.
* Tấc: Một tấc bằng một phần mười một thước.
Ký Y xoay người định rời đi, nhưng rồi lại quay đầu liếc nhìn thi thể của Thượng Nguyên. Từ nhỏ bọn họ đã lớn lên cùng nhau, tình cảm thân thiết như huynh muội ruột thịt, không ai ngờ rằng chuyện sinh ly tử biệt sẽ tới đột ngột như vậy. Trong lúc thoáng liếc nhìn ấy, Ký Y lại vấp phải thứ gì đó dưới chân khiến nàng lảo đảo, không ngã xuống song đèn lồng lại tuột khỏi tay nàng rơi xuống đất.
Trước khi ánh đèn tắt ngóm, Ký Y đã kịp thấy thứ mà mình vấp phải. Ban đầu nàng tưởng đó là rễ cây, không ngờ lại là một thùng gỗ rỗng.
Nàng nhặt đèn lồng rơi trên đất lên rồi đi về phía gian chính. Thực ra Ký Y không hề muốn bước qua cánh cửa kia, nàng biết rõ nơi ấy nhất định còn có cảnh tượng thảm thương hơn đang đợi nàng. Nếu đèn không tắt, nàng vốn có thể về nhà trước, báo cho phụ thân Quan Vô Dật biết bá phụ và đường ca* đã qua đời, rồi cùng phụ thân trở lại đây tìm những thi thể còn lại.
* Anh họ bên nội.
Thế nhưng lúc này Ký Y không thể tìm đường về nhà trong đêm tối, đành phải đi vào gian chính đốt đèn lồng lên.
Đúng như dự liệu của nàng, gian chính vô cùng lộn xộn. Bá mẫu bị đâm mấy nhát dao trên lưng, còn cậu con út mới sáu tuổi được bà ôm trong lòng thì có một vết thương trí mạng ở cổ.
Y phục của hai người đều thấm máu đen sẫm.
Một con dao găm dính đầy máu bị vứt trên nền nhà.
Ký Y biết con dao này, nàng dời mắt về phía giá đặt vũ khí trong phòng, quả nhiên vỏ của con dao vẫn nằm ở đó. Rõ ràng hung thủ đã lấy con dao này từ trên giá sau đó ra tay sát hại mọi người, vậy chứng tỏ hung thủ chưa chắc đã là giặc cướp mà rất có thể là khách đến thăm. Chỉ có vậy thì hung thủ mới có thể nhân lúc mọi người không đề phòng mà rút dao ra sát hại cả nhà.
Thế nhưng…
Ký Y lại nhìn về phía giá bày vũ khí bằng gỗ, bên trên còn có một thanh kiếm dài sáu thước vẫn nằm trong vỏ. Thân kiếm được đúc từ thép, đế kiếm hình tròn bằng ngọc, khắc hoa văn, đầu vỏ kiếm, đốc kiếm và mũi kiếm đều bằng bạch ngọc. Trên đầu vỏ kiếm có hoa văn hình phượng hoàng, trên đốc kiếm khắc hoa văn hình mây. Thanh kiếm này do tổ phụ của Ký Y ủy thác thợ rèn ở Giang Lăng chế tạo, chưa dùng bao giờ, được bày ở đó suốt bao năm. Con dao kia cũng được rèn vào thời kỳ đó. Hai thứ đều được mài rất sắc, lại được giữ gìn một cách cẩn thận.
Binh khí chưa từng được sử dụng cuối cùng lại dùng để làm như vậy, Ký Y thầm thở dài, sau đó nhờ vào lò sưởi đang cháy để thắp sáng đèn lồng.
Ra khỏi cửa viện Ký Y mới cảm thấy đau đớn tang thương. Trước đó chỉ có nỗi sợ trước cái chết gần bên bao trùm cảm xúc trong lòng nàng. Mới đi vài bước mà tầm nhìn của nàng đã nhòa đi trong làn nước mắt, khiến ánh đèn cũng trở nên thấp thoáng mịt mờ. Ký Y cúi đầu, nước mắt rơi xuống mặt tuyết trước mũi chân nàng.
Cho tới tận lúc này, rốt cuộc Ký Y mới chú ý tới một sự thật.
- Tại sao lại thế?
Tim nàng bỗng đập nhanh hơn, nỗi sợ đã vơi dần lại kéo về khi nàng bước qua cửa viện.
- Không lẽ hung thủ vẫn còn trốn trong phòng?
Nàng chợt hiểu được chuyện vừa xảy ra: Hung thủ tới chơi sau khi bá phụ đánh Nhã Anh rồi nhốt nàng vào nhà kho. Lúc ấy trời còn chưa đổ tuyết. Hẳn là Nhã Anh đã trốn đi khi hung thủ trò chuyện với bá phụ ở gian chính, thời điểm đó tuyết đã rơi rồi. Ký Y suy đoán như vậy, bởi vì nhà kho nhốt Nhã Anh nằm ở phía sau gian chính, nếu Nhã Anh muốn trốn thì nhất định phải đi qua sân của gian chính. Khi Nhã Anh tới nhà nàng thì chỉ nói là mình bị đánh chứ không nhắc tới chuyện người nhà đã bị hại. Chứng tỏ lúc Nhã Anh trốn đi trong sân chưa có thi thể, án mạng còn chưa xảy ra. Sau khi sát hại mọi người, hung thủ chưa rời đi ngay mà vẫn ở lại trong viện, có lẽ là để tìm kiếm thứ gì đó. Lúc nghe được tiếng gọi cửa của Ký Y, hung thủ mới trốn đi.
Chỉ có thể giải thích mọi chuyện như vậy, nếu không…
Dù lúc này tuyết lại rơi thì dấu chân chạy trốn của Nhã Anh và dấu chân tới đây của Ký Y vẫn hiện ra rất rõ.
Tuyết rơi càng lúc càng lớn. Khi Ký Y chạy như bay về đến cửa viện nhà mình thì dấu chân phía sau nàng đã bị những bông tuyết lớn che phủ. Có nghĩa là tuyết vừa rơi cũng sẽ phủ lên thi thể của bá phụ và đường ca của nàng. Nàng dừng bước, đứng giữa trời tuyết, cố gắng sắp xếp dòng tư duy sau cơn bi lụy đau thương, song cuối cùng cũng không thể đưa ra lời giải thích hợp lý hơn.
Chỉ có thể giải thích mọi chuyện như vậy, nếu không…
Nếu không, tại sao trên một con đường khác bên ngoài nhà bá phụ lại không hề có dấu chân nào?