-
Chương 116
Trong lúc thám báo Vương Đình đưa về từng phong từng phong tin, mật thám bên Bắc Nhung cũng một phong lại một phong chuyển đến trong tay Ngõa Hãn Khả Hãn.
Quan Đoạn Sự nói: “Bốn quân Vương Đình vừa mới trải qua một trận náo động, lòng quân chưa ổn định, quan tướng tiếp quản còn chưa thể phục chúng. Bây giờ Tô Đan Cổ đã chết, không có Nhiếp Chính Vương đại diện triều chính, Phật Tử bận rộn chính vụ, lại thêm sắp đến sinh thần, sứ đoàn và dân chúng các nước chen chúc đến Thánh Thành, Thánh Thành đang ca múa thái bình, náo nhiệt hơn bình thường, chắc trong ngoài triều Vương Đình đều bề bộn lo cho chuyện này, không còn sức bận tâm chuyện khác.”
Ngõa Hãn Khả Hãn trầm ngâm một lát, gọi mấy đứa con trai và Hải Đô A Lăng đến cho chúng phân tích thế cục.
Mấy đứa con trai cũng cảm thấy lúc này Vương Đình vừa trải qua nội loạn, phòng giữ còn trống không, là thời cơ tốt để đánh úp. Mượn cớ xé bỏ minh ước ư, tùy tiện bắt giết một nhóm dân du mục, là có.
Chỉ có Kim Bột vẻ mặt hơi khác lạ.
Ngõa Hãn Khả Hãn đuổi mấy đứa kia ra, giữ lại Kim Bột, hỏi: “Ngươi có nhận xét gì?”
Kim Bột thấy trong trướng không còn ai, bước lên mấy bước, trưng một khuôn mặt vui vẻ, nói: “Phụ Hãn, Vương Đình có ân cứu mạng với con… Một đoàn buôn của họ đã từng cứu mạng con…”
Ngõa Hãn Khả Hãn ngó lên trời trợn trắng mắt, “Ngốc! Người của đội buôn thì sao có khả năng ai nấy đều có thân thủ tốt chứ? Người cứu ngươi chắc chắn là có lai lịch lớn, kế hoạch ám sát của A Lăng tiến hành được có thể không thiếu tay chúng đổ dầu vô lửa. Huống hồ mùa đông năm nay phá lệ dài đăng đẳng, chúng ta nhất định phải nghĩ cách để tất cả bộ lạc được no ấm, nếu không chúng lại phản loạn!”
Kim Bột gãi gãi da đầu: “Nhưng sau đó con đã hứa sẽ báo đáp ân tình của Vương Đình, Phụ Hãn, con là con trai ngài, con cháu Thần Lang sao có thể nói mà không giữ lời chứ?”
Mi mắt Ngõa Hãn Khả Hãn thẳng đứng: “Chúng ta là Lang tộc lớn lên trên lưng ngựa, cướp bóc và chinh phạt là đạo sinh tồn của chúng ta, ân là ân, oán là oán. Đối diện với kẻ địch bên ngoài, mọi minh ước đều tạm thời ngủ đông đi. Ngươi đã hứa sẽ báo đáp ân tình, không có nghĩa là Bắc Nhung sẽ không tập kích Vương Đình.”
Mặt Kim Bột ngu ra: “Phụ Hãn, chứ không phải trước giờ ngài luôn dạy con phải giữ lời hứa sao ạ?”
Ngõa Hãn Khả Hãn thản nhiên cười: “Kim Bột, chừng nào ngươi là kẻ mạnh, ngươi mới có tư cách giữ lời hứa, người Bắc Nhung chúng ta chỉ cần kẻ mạnh, không cần kẻ chết có đức hạnh. Chờ ngươi đánh bại Vương Đình rồi hãy đi thực hiện lời hứa của cá nhân ngươi.”
Kim Bột rớt miệng: Thì ra ý của Phụ Hãn nói giữ lời hứa là thế! Trước đánh bại đối phương, sau lại nhân từ tha thứ hắn.
Ngõa Hãn Khả Hãn nhìn thằng con trước mắt chưa từng một mình lãnh binh tác chiến bao giờ, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Mấy thằng anh của ngươi sẽ theo ta xuất chinh, A Lăng mang ba ngàn người tập kích bất ngờ, ta để cho ngươi bốn ngàn kỵ binh, ngươi đi trông chừng con đường Sa Hải.”
Kim Bột thất vọng nói: “Con cũng muốn theo Phụ Hãn xuất chinh.”
Ngõa Hãn Khả Hãn lắc đầu: “Ngươi đã thiếu Vương Đình một phần ân tình, lần tập kích bất ngờ này nên tránh mặt đi. Cần bảo vệ con đường Sa Hải cho tốt, không được khinh thường, nếu chiến sự không thuận lợi, ta sẽ dẫn Trung quân lui theo đường này.”
Kim Bột vội cung kính vâng lời, thầm nói, không biết vị hộ vệ của đoàn buôn đã cứu mạng mình kia có xuất chinh không nhỉ. Nếu nhìn thấy ân nhân, hắn vẫn phải giữ lời hứa.
…
Trong lúc Bắc Nhung hành quân, Tất Sa cũng đang bận điều binh khiển tướng.
Vì sợ tin tức tiết lộ, để người Bắc Nhung thăm dò bố trí, mỗi ngày sau khi xong quân vụ, anh theo thường lệ đi võ trường tỷ thí với dũng sĩ các bộ lạc khác, tận sức đánh tiếng trước ngọn gió.
Hôm nay, anh ta mới vừa cùng Mạc Bì Đa thi bắn tiễn trên lưng ngựa, thân binh mang đến tin nhắn của Dao Anh mời ra ngoại thành một chuyến.
Không để ý đến mỏi mệt, anh thay y phục, đuổi ra ngoại thành.
Vừa sau trận tuyết rơi, bầu trời trong suốt như bảo thạch, trong một sơn cốc chỗ khuất gió, mấy chục xe ngựa phủ kín màn nỉ trên mặt tuyết chen chúc, đen kịt một mảnh, thân binh và hộ vệ đội buôn mặc áo da đang dỡ từng túi vải trên lưng lạc đà xuống, rất bận rộn.
Dao Anh mang lụa mỏng che mặt, người mặc một bộ tay áo hẹp cổ bẻ viền lông cừu, tiêu sái xinh đẹp, giẫm lên tuyết ra đón, ánh mắt rơi lên người đi cùng Tất Sa, định nói lại thôi.
Thanh niên mắt nâu tóc thắt bím áo choàng này chính là người ngày đó thắng Tất Sa ở võ trường.
Tất Sa nói: “Cậu ta là Mạc Bì Đa, công chúa yên tâm, là người Vương tin tưởng, lần này xuất chinh cậu ta cũng có mặt, không thì tôi cũng không dẫn đến.”
Dao Anh gật gật đầu, ra hiệu thân binh tiếp tục dỡ hàng hóa, nàng từng nghe về vị Vương tử trẻ tuổi này, trước đó không lâu vừa lập công lớn, hiện là một trong các cận vệ của Đàm Ma La Già.
Mạc Bì Đa nghiêng người ra trước, hai tay giơ ngang thăm hỏi nàng, nhìn tư thế có phần buồn cười.
Dao Anh trả lễ theo bộ lạc Ô Cát Lý, dùng tiếng Ô Cát Lý nói: “Ngưỡng mộ đại danh Vương tử đã lâu.”
Mạc Bì Đa sửng sốt, trong mắt hiện lên vẻ kinh ngạc.
Tất Sa cũng có phần ngạc nhiên: “Sao công chúa lại biết lễ nghi của Ô Cát Lý, còn nói tiếng bọn họ?”
Dao Anh cười, nói: “Không gạt Tướng quân, hồi ta còn làm bạn với nô lệ Bắc Nhung có từng học qua phong tục lễ nghi và ngôn ngữ mười mấy bộ lạc lớn nhỏ.”
Trong đại mạc, thông thường rong ruổi trăm dặm cũng không thấy người ở, mỗi một tòa ốc đảo sâu trong hoang mạc có thể là một nước nhỏ, bộ lạc lớn nhỏ thế lực phức tạp, mỗi bộ lạc có tiếng nói riêng, lúc nàng học tiếng Hồ cũng học qua phong tục của các bộ lạc khác, thứ nhất khi chạy trốn có thể dễ trà trộn vào dân bản xứ, thứ hai có thể tránh vô tình xúc phạm bộ lạc nào.
Mạc Bì Đa thẳng tắp nhìn Dao Anh, nói: “Công chúa học rất khá.”
Dao Anh cười cười, “Ta chỉ biết vài câu hỏi thăm đơn giản, để Vương tử chê cười.”
Tất Sa bật cười: “Còn tiếng Phạn công chúa học sao rồi?”
Nhắc đến Dao Anh liền đau đầu, mấy hôm trước Đàm Ma La Già có hỏi tiếng Phạn nàng học đến đâu, Bát Nhã lập tức phấn khởi không thôi, hận không thể trong vòng vài ngày dạy cho nàng mấy trăm bộ kinh Phật bằng tiếng Phạn.
“Pháp sư muốn độ ta xuất gia, mỗi ngày Bát Nhã bưng cả đống quyển trục dí sau lưng ta, hà khắc ép ta học hành nghiêm túc, gần đây hễ thấy Bát Nhã ta liền vòng đường khác.”
Tất Sa dừng bước, đáy mắt có một ánh lạ thường xẹt qua: “Vương muốn độ công chúa xuất gia?”
“Pháp sư có đề cập một câu…” Dao Anh gật đầu, phát hiện vẻ cổ quái trên mặt Tất Sa, dừng mắt trên mặt anh ta. “Có gì không ổn hả?”
Tất Sa rất nhanh khôi phục sắc mặt như thường, lắc đầu, nói: “Xưa nay Vương như vậy, gặp người có tuệ căn liền muốn độ người ta xuất gia.”
Đang nói, thân binh mở ra một tấm màn phủ một chiếc xe ngựa, Tất Sa và Mạc Bì Đa bước đến trước, phát hiện trong xe ngựa chất đầy trường cung màu đen và từng bó tên.
Mạc Bì Đa nhấc thử một thanh trường cung, kéo thử chân cung, khẽ cau mày, bàn tay to rộng nắm lấy một mũi tên, đi đến một chỗ địa thế trống trải, giương cung bắn tên, vút vút vài tiếng, thế tên mãnh liệt, cực nhanh, mỗi một tên đều cắm giữa một cỗ xe ngựa trống.
Binh sĩ chạy bộ đến, phí hết sức nửa ngày mới rút được mũi tên ra, khen vang một góc.
Trên mặt Mạc Bì Đa cũng không có vẻ đắc ý, đưa trường cung cho Tất Sa, nói: “Cây cung này lực gần hai thạch*, rất rắn chắc.”
Về thể tích, 1 Thạch là 10 Đấu.(~100l)
Về khối lượng, 1 Thạch là khoảng 71,616 kg. 2 thạch là sức bắn 140kg
Mắt Tất Sa lấp lánh, nhìn Dao Anh.
Đối với hành quân đánh trận mà nói, cung có lực một thạch đã thuộc dạng cường cung, bình thường công thành dùng cung một thạch bắn vào tường thành đối phương, trong khi kỵ xạ thì dùng cung có lực hơi nhỏ hơn bảy đấu chút.
Cung có lực gần hai thạch, tầm bắn gần bằng xe cung nỏ của Vương Đình.
Dao Anh đón lấy ánh mắt nghiêm túc chăm chú của Tất Sa, nói: “Xe cung nỏ của Vương Đình uy lực mạnh mẽ, khi thủ thành dùng có thể ngăn cản kỵ binh Bắc Nhung, nhưng xe nỏ cồng kềnh, lúc chinh chiến di chuyển không tiện, nên hay dùng nhiều khi thủ thành, thủ trận. Còn mấy cây trường cung này mặc dù không theo kịp tầm bắn xa như xe cung nỏ nhưng sức kéo mạnh, phối hợp trong chiến trận có thể bắn thủng ba lớp áo giáp.”
Tất Sa nhìn quanh một vòng, thầm rung động, mấy chục xe lớn nếu bên trong chất đầy tên, tổng số phải đến mấy vạn!
“Mớ vũ khí này ở đâu ra thế?”
Dao Anh đáp: “Từ Bắc Nhung đấy.”
Tất Sa há hốc miệng.
Dao Anh giải thích: “Mấy năm qua Bắc Nhung chinh phục rất nhiều bộ lạc, một số ít người không muốn đầu hàng Bắc Nhung, lưu vong khắp nơi thành kẻ liều mạng. Trong đó có một người là tù trưởng A Lặc thu nhập tàn quân và dũng sĩ lưu vong thành lập một đội quân đánh thuê, chỉ cần đưa đủ tiền của, họ sẽ bán mạng cho người.”
“Trước đó ta từng thuê A Lặc bảo vệ đội buôn của mình. Lúc từ Cao Xương về, ta muốn ông ta thừa dịp Bắc Nhung nội loạn cắt đứt tiếp tế cho Hải Đô A Lăng, mấy vũ khí này chính là do bọn họ giành được từ một doanh địa Bắc Nhung không có người phòng thủ.”
Sở dĩ Hải Đô A Lăng không có phần thắng, lựa chọn trực tiếp nhận tội, một nguyên nhân trong đó là do lực lượng của y ở một nơi bí mật gần đó cả ngày bị tù trưởng A Lặc quấy rối đến mệt mỏi.
Cuối cùng, Dao Anh bổ sung một câu: “Tướng quân yên tâm, tù trưởng A Lặc làm việc lưu loát sạch sẽ, người Bắc Nhung không biết đến chỗ cung tiễn này, bọn họ đã giả làm đội buôn vận chuyển vải vóc, trên đường không hở ra tiếng nào. Vả lại nếu có chuyện gì cũng không ai biết là ta hạ lệnh, tuyệt đối sẽ không mang đến phiền phức cho Vương Đình.”
Tất Sa nhìn Dao Anh, mãi không khép được miệng.
Trên đường từ Cao Xương trở về, họ gặp phục kích, thế nhưng Văn Chiêu công chúa vẫn không quên thuê đội bộ tộc lưu vong làm suy yếu Hải Đô A Lăng?
Dao Anh vẫn thản nhiên nói tiếp: “Cung kỵ binh Bắc Nhung huấn luyện nghiêm chỉnh, mỗi người được trang bị ba con chiến mã, dùng đoản cung, trường cung, đoản cung của họ thích hợp đánh từ xa, trường cung có thể đánh vừa gần vừa xa, tầm bắn có thể đạt đến bốn trăm bước.”
Tất Sa lấy lại tinh thần từ trong kinh ngạc, nói: “Không sai, người Bắc Nhung lớn lên trên lưng ngựa, từ nhỏ tất cả đã kéo cung bắn tên, lực cánh tay cực mạnh, kỵ binh của họ từng người đều có thể vừa phi nhanh vừa giương cung cài tên, một khi phát động công kích, vài trăm người là có thể đánh bại một doanh địa.”
Anh ta áng chừng trường cung trong tay, “Cung của Bắc Nhung nhìn thì bình thường, nhưng lại bền bỉ rắn chắc.”
Dao Anh nói: “Ta từng thấy họ chế cung, họ còn có cung song khúc, phôi cung được cải tiến, lớp bên trong là sừng trâu nấu qua, bao bên ngoài là gân trâu luộc qua, phôi cung mềm dẻo đầy lực, dây cung là gân trâu đã thuộc, có thể chịu sức kéo rất lớn, cán tên phần lớn dùng cây hoa*, cung này không khó chế tạo, chỉ cần thu thập đủ vật liệu, nam nữ đều có thể chế tạo thành thạo.”
*Betula, cây hoa, dẻo dai co giãn tốt, khô hạn dễ nứt, thường được làm gỗ ván, sàn nhà, trang trí nội thất, xe, thuyền,…
Tất Sa khẽ cau mày, “Chế tạo không khó… Cho nên cung kỵ binh của chúng dễ dàng được trang bị vũ khí thế này, mỗi người đều sử dụng thành thạo, người người đều là tay cung kỵ.”
Người Bắc Nhung dã man, nhưng bộ lạc dã man này thực lực rất mạnh.
Mạc Bì Đa ở một bên nói: “Công chúa đã nói cung song khúc chúng cải tiến chế tạo không khó, vậy có thể tìm thợ thủ công chế tạo không?”
Xe cung nỏ chế tạo rườm rà, giá vật liệu đắt đỏ, khi thao tác cần mấy người lính phối hợp, khi hư hỏng sửa chữa rất phiền phức, trong Vương Đình chỉ có những thành trì trấn quan trọng mới được phân cho xe nỏ. Cung tiễn chế tạo đơn giản, không cần phụ thuộc thợ mộc, binh sĩ trong quân đều có thể được trang bị, nếu có thể tiến hành cải tiến đã lập nửa công to.
Tất Sa lắc đầu, nói: “Từ lâu chúng ta đã biết cung song khúc người Bắc Nhung cải tiến, nhưng muốn làm ra giống như đúc, không đơn giản vậy…”
Dù ngay bây giờ họ đã đoạt được vũ khí của Bắc Nhung nhưng không thể trong thời gian ngắn bắt chước đạt tới.
Dao Anh ngắt lời, nói: “Thợ thủ công của ta làm được.”
Tất Sa giật mình, suýt sặc nước bọt chính mình.
Dao Anh ra hiệu thân binh lấy một xấp giấy được bao lại bằng vải lụa, đưa cho Tất Sa, nói: “Trước kia ta từng gặp thợ thủ công nhắc đến cung song khúc, họ luôn thử cải tiến, thử rất nhiều lần, cũng không bằng cung của Bắc Nhung, cách đây không lâu cuối cùng họ cũng nghiên cứu ra, vừa vặn có đám vũ khí này mới chuyển tới, họ đã so sánh nghiệm thu, uy lực gần đạt đến cung song khúc của người Bắc Nhung, có điều lực mềm dai còn chưa đủ mạnh, còn ưu điểm là vật liệu dễ kiếm, có thể chế tạo số lượng lớn.”
“Đây là bản vẽ.”
Tất Sa vui mừng khó nhịn, nói: “Có thể chế tạo số lượng lớn thì không còn gì bằng!”
Cung quân đội chuyên dùng cũng không phải cần cung lực càng mạnh càng tốt, tốt nhất là thỏa mãn được nhu cầu của binh sĩ, lại tiện nghi bền bỉ, trang bị được số lượng lớn.
Anh ta chần chừ rồi nói: “Những vũ khí và bản vẽ chế tạo này đều do công chúa phí hết tâm tư mới có, cứ thế mà công chúa chắp tay đưa cho Vương Đình sao?”
Dao Anh cười nói: “Đã là đồng minh, tình thế trước mắt cực kỳ nghiêm trọng, đương nhiên muốn góp một phần sức cho Vương Đình.”
Cung song khúc này cũng không phải là vũ khí hiếm có trên đời, đối mặt với kẻ địch mạnh như Bắc Nhung, giữa các phe hẳn phải đoàn kết nhất trí, vả lại xưa nay Vương Đình và Vương triều trước kia của Trung Nguyên thông thương, giữa hai nước không có xung đột về lợi ích.
Tất Sa ngắm nàng hồi lâu, nhận vải lụa, bảo thuộc hạ mình phái người đến bàn giao vũ khí.
Đợi binh sĩ tháo dỡ xong hàng hóa, Dao Anh và thân binh đi qua một bên nói chuyện bàn giáo các thứ rồi đạp lên yên ngựa. Tất Sa và Mạc Bì Đa ở trên đường núi chờ nàng.
Ba người cùng đi, ra nửa dặm, Dao Anh quay lại nhìn xe ngựa xếp thành một đường rồng rắn rời đi, hít một hơi, như suy nghĩ điều gì nói: “Kỵ binh Bắc Nhung không chỉ có kỵ xạ tinh xảo, phối hợp chặt chẽ, mà còn mọi lúc mọi nơi phát động tập kích nhanh chóng, mỗi người được trang bị vài con chiến mã, ngựa chúng đều là ngựa tốt, đủ sức chịu đựng, nếu A Lặc có thể giúp ta cướp một bầy chiến mã thì tốt biết mấy…”
Khóe miệng Tất Sa giật giật, yên lặng một lát, lắc đầu cười khẽ.
Mạc Bì Đa nghiêng đầu nhìn anh ta: “Tướng quân cười gì thế?”
Tất Sa ngó Dao Anh, cách nàng xa chút, thầm thì: “Ta đang nghĩ, nếu Hải Đô A Lăng mà biết Văn Chiêu công chúa hai năm nay làm gì, chắc chắn hối hận phát điên.”
Mạc Bì Đa nhìn theo ánh mắt anh ta.
Trên mặt Văn Chiêu công chúa che mạng kỹ lưỡng, không thấy rõ dung mạo, nhưng chỉ cần nhìn cặp mắt sáng kia và tư thái là biết, nàng quả nhiên giống như lời đồn, xinh đẹp vô cùng, sáng như trăng.
Người Thánh Thành coi thường bộ lạc Ô Cát Lý, mấy ngày này, Văn Chiêu công chúa là nữ tử đầu tiên không cười ra tiếng khi cậu hành lễ chào hỏi.
Chợt nghe Mạc Bì Đa hỏi: “Tướng quân, tin đồn giữa Văn Chiêu công chúa với Vương là thật hay giả thế?”
Tất Sa cười: “Đồn thì sao có thể thật chứ?” Nói xong, trong lòng thầm nhảy, nhìn sang Mạc Bì Đa.
Mạc Bì Đa đối mặt với anh ta, vẻ rất thản nhiên, trên gương mặt trẻ tuổi lộ nét sáng sủa phóng khoáng.
Tất Sa nhíu mày.
Ba người cùng trở lại Vương Tự, vừa lúc gặp Duyên Giác từ chỗ rừng Phật tháp đi tới, thấy Dao Anh, biến sắc, ho khan mấy tiếng, nói: “Không phải hôm nay công chúa ra khỏi thành à, sao về sớm vậy?”
Dao Anh ngẩng đầu nhìn, ráng chiều đầy trời, nắng chiều chiếu xéo, tạt lên tháp cao một tầng sáng vàng óng ánh.
Về sớm ư?
Mặt Duyên Giác ửng đỏ, ánh mắt trốn tránh.
Dao Anh nghĩ ngợi, đoán chắc trong chùa có ai tới, nàng cần tránh mặt, nhân tiện nói: “Ta từ phía cạnh Hình đường về.” Không có gặp người ngoài.
Duyên Giác không nói, trên mặt càng đỏ.
Đợi Dao Anh và thân binh quay đi, Tất Sa quét mắt một vòng qua Duyên Giác, hỏi: “Ai đến thế?”
Duyên Giác phun ra một ngụm ngột ngạt thật dài, nhỏ giọng nói: “Thiên Trúc công chúa Man Đạt đến! Người còn ở đại điện, còn chưa đi.”
Mày Tất Sa xoắn lại thật chặt.
Quan Đoạn Sự nói: “Bốn quân Vương Đình vừa mới trải qua một trận náo động, lòng quân chưa ổn định, quan tướng tiếp quản còn chưa thể phục chúng. Bây giờ Tô Đan Cổ đã chết, không có Nhiếp Chính Vương đại diện triều chính, Phật Tử bận rộn chính vụ, lại thêm sắp đến sinh thần, sứ đoàn và dân chúng các nước chen chúc đến Thánh Thành, Thánh Thành đang ca múa thái bình, náo nhiệt hơn bình thường, chắc trong ngoài triều Vương Đình đều bề bộn lo cho chuyện này, không còn sức bận tâm chuyện khác.”
Ngõa Hãn Khả Hãn trầm ngâm một lát, gọi mấy đứa con trai và Hải Đô A Lăng đến cho chúng phân tích thế cục.
Mấy đứa con trai cũng cảm thấy lúc này Vương Đình vừa trải qua nội loạn, phòng giữ còn trống không, là thời cơ tốt để đánh úp. Mượn cớ xé bỏ minh ước ư, tùy tiện bắt giết một nhóm dân du mục, là có.
Chỉ có Kim Bột vẻ mặt hơi khác lạ.
Ngõa Hãn Khả Hãn đuổi mấy đứa kia ra, giữ lại Kim Bột, hỏi: “Ngươi có nhận xét gì?”
Kim Bột thấy trong trướng không còn ai, bước lên mấy bước, trưng một khuôn mặt vui vẻ, nói: “Phụ Hãn, Vương Đình có ân cứu mạng với con… Một đoàn buôn của họ đã từng cứu mạng con…”
Ngõa Hãn Khả Hãn ngó lên trời trợn trắng mắt, “Ngốc! Người của đội buôn thì sao có khả năng ai nấy đều có thân thủ tốt chứ? Người cứu ngươi chắc chắn là có lai lịch lớn, kế hoạch ám sát của A Lăng tiến hành được có thể không thiếu tay chúng đổ dầu vô lửa. Huống hồ mùa đông năm nay phá lệ dài đăng đẳng, chúng ta nhất định phải nghĩ cách để tất cả bộ lạc được no ấm, nếu không chúng lại phản loạn!”
Kim Bột gãi gãi da đầu: “Nhưng sau đó con đã hứa sẽ báo đáp ân tình của Vương Đình, Phụ Hãn, con là con trai ngài, con cháu Thần Lang sao có thể nói mà không giữ lời chứ?”
Mi mắt Ngõa Hãn Khả Hãn thẳng đứng: “Chúng ta là Lang tộc lớn lên trên lưng ngựa, cướp bóc và chinh phạt là đạo sinh tồn của chúng ta, ân là ân, oán là oán. Đối diện với kẻ địch bên ngoài, mọi minh ước đều tạm thời ngủ đông đi. Ngươi đã hứa sẽ báo đáp ân tình, không có nghĩa là Bắc Nhung sẽ không tập kích Vương Đình.”
Mặt Kim Bột ngu ra: “Phụ Hãn, chứ không phải trước giờ ngài luôn dạy con phải giữ lời hứa sao ạ?”
Ngõa Hãn Khả Hãn thản nhiên cười: “Kim Bột, chừng nào ngươi là kẻ mạnh, ngươi mới có tư cách giữ lời hứa, người Bắc Nhung chúng ta chỉ cần kẻ mạnh, không cần kẻ chết có đức hạnh. Chờ ngươi đánh bại Vương Đình rồi hãy đi thực hiện lời hứa của cá nhân ngươi.”
Kim Bột rớt miệng: Thì ra ý của Phụ Hãn nói giữ lời hứa là thế! Trước đánh bại đối phương, sau lại nhân từ tha thứ hắn.
Ngõa Hãn Khả Hãn nhìn thằng con trước mắt chưa từng một mình lãnh binh tác chiến bao giờ, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Mấy thằng anh của ngươi sẽ theo ta xuất chinh, A Lăng mang ba ngàn người tập kích bất ngờ, ta để cho ngươi bốn ngàn kỵ binh, ngươi đi trông chừng con đường Sa Hải.”
Kim Bột thất vọng nói: “Con cũng muốn theo Phụ Hãn xuất chinh.”
Ngõa Hãn Khả Hãn lắc đầu: “Ngươi đã thiếu Vương Đình một phần ân tình, lần tập kích bất ngờ này nên tránh mặt đi. Cần bảo vệ con đường Sa Hải cho tốt, không được khinh thường, nếu chiến sự không thuận lợi, ta sẽ dẫn Trung quân lui theo đường này.”
Kim Bột vội cung kính vâng lời, thầm nói, không biết vị hộ vệ của đoàn buôn đã cứu mạng mình kia có xuất chinh không nhỉ. Nếu nhìn thấy ân nhân, hắn vẫn phải giữ lời hứa.
…
Trong lúc Bắc Nhung hành quân, Tất Sa cũng đang bận điều binh khiển tướng.
Vì sợ tin tức tiết lộ, để người Bắc Nhung thăm dò bố trí, mỗi ngày sau khi xong quân vụ, anh theo thường lệ đi võ trường tỷ thí với dũng sĩ các bộ lạc khác, tận sức đánh tiếng trước ngọn gió.
Hôm nay, anh ta mới vừa cùng Mạc Bì Đa thi bắn tiễn trên lưng ngựa, thân binh mang đến tin nhắn của Dao Anh mời ra ngoại thành một chuyến.
Không để ý đến mỏi mệt, anh thay y phục, đuổi ra ngoại thành.
Vừa sau trận tuyết rơi, bầu trời trong suốt như bảo thạch, trong một sơn cốc chỗ khuất gió, mấy chục xe ngựa phủ kín màn nỉ trên mặt tuyết chen chúc, đen kịt một mảnh, thân binh và hộ vệ đội buôn mặc áo da đang dỡ từng túi vải trên lưng lạc đà xuống, rất bận rộn.
Dao Anh mang lụa mỏng che mặt, người mặc một bộ tay áo hẹp cổ bẻ viền lông cừu, tiêu sái xinh đẹp, giẫm lên tuyết ra đón, ánh mắt rơi lên người đi cùng Tất Sa, định nói lại thôi.
Thanh niên mắt nâu tóc thắt bím áo choàng này chính là người ngày đó thắng Tất Sa ở võ trường.
Tất Sa nói: “Cậu ta là Mạc Bì Đa, công chúa yên tâm, là người Vương tin tưởng, lần này xuất chinh cậu ta cũng có mặt, không thì tôi cũng không dẫn đến.”
Dao Anh gật gật đầu, ra hiệu thân binh tiếp tục dỡ hàng hóa, nàng từng nghe về vị Vương tử trẻ tuổi này, trước đó không lâu vừa lập công lớn, hiện là một trong các cận vệ của Đàm Ma La Già.
Mạc Bì Đa nghiêng người ra trước, hai tay giơ ngang thăm hỏi nàng, nhìn tư thế có phần buồn cười.
Dao Anh trả lễ theo bộ lạc Ô Cát Lý, dùng tiếng Ô Cát Lý nói: “Ngưỡng mộ đại danh Vương tử đã lâu.”
Mạc Bì Đa sửng sốt, trong mắt hiện lên vẻ kinh ngạc.
Tất Sa cũng có phần ngạc nhiên: “Sao công chúa lại biết lễ nghi của Ô Cát Lý, còn nói tiếng bọn họ?”
Dao Anh cười, nói: “Không gạt Tướng quân, hồi ta còn làm bạn với nô lệ Bắc Nhung có từng học qua phong tục lễ nghi và ngôn ngữ mười mấy bộ lạc lớn nhỏ.”
Trong đại mạc, thông thường rong ruổi trăm dặm cũng không thấy người ở, mỗi một tòa ốc đảo sâu trong hoang mạc có thể là một nước nhỏ, bộ lạc lớn nhỏ thế lực phức tạp, mỗi bộ lạc có tiếng nói riêng, lúc nàng học tiếng Hồ cũng học qua phong tục của các bộ lạc khác, thứ nhất khi chạy trốn có thể dễ trà trộn vào dân bản xứ, thứ hai có thể tránh vô tình xúc phạm bộ lạc nào.
Mạc Bì Đa thẳng tắp nhìn Dao Anh, nói: “Công chúa học rất khá.”
Dao Anh cười cười, “Ta chỉ biết vài câu hỏi thăm đơn giản, để Vương tử chê cười.”
Tất Sa bật cười: “Còn tiếng Phạn công chúa học sao rồi?”
Nhắc đến Dao Anh liền đau đầu, mấy hôm trước Đàm Ma La Già có hỏi tiếng Phạn nàng học đến đâu, Bát Nhã lập tức phấn khởi không thôi, hận không thể trong vòng vài ngày dạy cho nàng mấy trăm bộ kinh Phật bằng tiếng Phạn.
“Pháp sư muốn độ ta xuất gia, mỗi ngày Bát Nhã bưng cả đống quyển trục dí sau lưng ta, hà khắc ép ta học hành nghiêm túc, gần đây hễ thấy Bát Nhã ta liền vòng đường khác.”
Tất Sa dừng bước, đáy mắt có một ánh lạ thường xẹt qua: “Vương muốn độ công chúa xuất gia?”
“Pháp sư có đề cập một câu…” Dao Anh gật đầu, phát hiện vẻ cổ quái trên mặt Tất Sa, dừng mắt trên mặt anh ta. “Có gì không ổn hả?”
Tất Sa rất nhanh khôi phục sắc mặt như thường, lắc đầu, nói: “Xưa nay Vương như vậy, gặp người có tuệ căn liền muốn độ người ta xuất gia.”
Đang nói, thân binh mở ra một tấm màn phủ một chiếc xe ngựa, Tất Sa và Mạc Bì Đa bước đến trước, phát hiện trong xe ngựa chất đầy trường cung màu đen và từng bó tên.
Mạc Bì Đa nhấc thử một thanh trường cung, kéo thử chân cung, khẽ cau mày, bàn tay to rộng nắm lấy một mũi tên, đi đến một chỗ địa thế trống trải, giương cung bắn tên, vút vút vài tiếng, thế tên mãnh liệt, cực nhanh, mỗi một tên đều cắm giữa một cỗ xe ngựa trống.
Binh sĩ chạy bộ đến, phí hết sức nửa ngày mới rút được mũi tên ra, khen vang một góc.
Trên mặt Mạc Bì Đa cũng không có vẻ đắc ý, đưa trường cung cho Tất Sa, nói: “Cây cung này lực gần hai thạch*, rất rắn chắc.”
Về thể tích, 1 Thạch là 10 Đấu.(~100l)
Về khối lượng, 1 Thạch là khoảng 71,616 kg. 2 thạch là sức bắn 140kg
Mắt Tất Sa lấp lánh, nhìn Dao Anh.
Đối với hành quân đánh trận mà nói, cung có lực một thạch đã thuộc dạng cường cung, bình thường công thành dùng cung một thạch bắn vào tường thành đối phương, trong khi kỵ xạ thì dùng cung có lực hơi nhỏ hơn bảy đấu chút.
Cung có lực gần hai thạch, tầm bắn gần bằng xe cung nỏ của Vương Đình.
Dao Anh đón lấy ánh mắt nghiêm túc chăm chú của Tất Sa, nói: “Xe cung nỏ của Vương Đình uy lực mạnh mẽ, khi thủ thành dùng có thể ngăn cản kỵ binh Bắc Nhung, nhưng xe nỏ cồng kềnh, lúc chinh chiến di chuyển không tiện, nên hay dùng nhiều khi thủ thành, thủ trận. Còn mấy cây trường cung này mặc dù không theo kịp tầm bắn xa như xe cung nỏ nhưng sức kéo mạnh, phối hợp trong chiến trận có thể bắn thủng ba lớp áo giáp.”
Tất Sa nhìn quanh một vòng, thầm rung động, mấy chục xe lớn nếu bên trong chất đầy tên, tổng số phải đến mấy vạn!
“Mớ vũ khí này ở đâu ra thế?”
Dao Anh đáp: “Từ Bắc Nhung đấy.”
Tất Sa há hốc miệng.
Dao Anh giải thích: “Mấy năm qua Bắc Nhung chinh phục rất nhiều bộ lạc, một số ít người không muốn đầu hàng Bắc Nhung, lưu vong khắp nơi thành kẻ liều mạng. Trong đó có một người là tù trưởng A Lặc thu nhập tàn quân và dũng sĩ lưu vong thành lập một đội quân đánh thuê, chỉ cần đưa đủ tiền của, họ sẽ bán mạng cho người.”
“Trước đó ta từng thuê A Lặc bảo vệ đội buôn của mình. Lúc từ Cao Xương về, ta muốn ông ta thừa dịp Bắc Nhung nội loạn cắt đứt tiếp tế cho Hải Đô A Lăng, mấy vũ khí này chính là do bọn họ giành được từ một doanh địa Bắc Nhung không có người phòng thủ.”
Sở dĩ Hải Đô A Lăng không có phần thắng, lựa chọn trực tiếp nhận tội, một nguyên nhân trong đó là do lực lượng của y ở một nơi bí mật gần đó cả ngày bị tù trưởng A Lặc quấy rối đến mệt mỏi.
Cuối cùng, Dao Anh bổ sung một câu: “Tướng quân yên tâm, tù trưởng A Lặc làm việc lưu loát sạch sẽ, người Bắc Nhung không biết đến chỗ cung tiễn này, bọn họ đã giả làm đội buôn vận chuyển vải vóc, trên đường không hở ra tiếng nào. Vả lại nếu có chuyện gì cũng không ai biết là ta hạ lệnh, tuyệt đối sẽ không mang đến phiền phức cho Vương Đình.”
Tất Sa nhìn Dao Anh, mãi không khép được miệng.
Trên đường từ Cao Xương trở về, họ gặp phục kích, thế nhưng Văn Chiêu công chúa vẫn không quên thuê đội bộ tộc lưu vong làm suy yếu Hải Đô A Lăng?
Dao Anh vẫn thản nhiên nói tiếp: “Cung kỵ binh Bắc Nhung huấn luyện nghiêm chỉnh, mỗi người được trang bị ba con chiến mã, dùng đoản cung, trường cung, đoản cung của họ thích hợp đánh từ xa, trường cung có thể đánh vừa gần vừa xa, tầm bắn có thể đạt đến bốn trăm bước.”
Tất Sa lấy lại tinh thần từ trong kinh ngạc, nói: “Không sai, người Bắc Nhung lớn lên trên lưng ngựa, từ nhỏ tất cả đã kéo cung bắn tên, lực cánh tay cực mạnh, kỵ binh của họ từng người đều có thể vừa phi nhanh vừa giương cung cài tên, một khi phát động công kích, vài trăm người là có thể đánh bại một doanh địa.”
Anh ta áng chừng trường cung trong tay, “Cung của Bắc Nhung nhìn thì bình thường, nhưng lại bền bỉ rắn chắc.”
Dao Anh nói: “Ta từng thấy họ chế cung, họ còn có cung song khúc, phôi cung được cải tiến, lớp bên trong là sừng trâu nấu qua, bao bên ngoài là gân trâu luộc qua, phôi cung mềm dẻo đầy lực, dây cung là gân trâu đã thuộc, có thể chịu sức kéo rất lớn, cán tên phần lớn dùng cây hoa*, cung này không khó chế tạo, chỉ cần thu thập đủ vật liệu, nam nữ đều có thể chế tạo thành thạo.”
*Betula, cây hoa, dẻo dai co giãn tốt, khô hạn dễ nứt, thường được làm gỗ ván, sàn nhà, trang trí nội thất, xe, thuyền,…
Tất Sa khẽ cau mày, “Chế tạo không khó… Cho nên cung kỵ binh của chúng dễ dàng được trang bị vũ khí thế này, mỗi người đều sử dụng thành thạo, người người đều là tay cung kỵ.”
Người Bắc Nhung dã man, nhưng bộ lạc dã man này thực lực rất mạnh.
Mạc Bì Đa ở một bên nói: “Công chúa đã nói cung song khúc chúng cải tiến chế tạo không khó, vậy có thể tìm thợ thủ công chế tạo không?”
Xe cung nỏ chế tạo rườm rà, giá vật liệu đắt đỏ, khi thao tác cần mấy người lính phối hợp, khi hư hỏng sửa chữa rất phiền phức, trong Vương Đình chỉ có những thành trì trấn quan trọng mới được phân cho xe nỏ. Cung tiễn chế tạo đơn giản, không cần phụ thuộc thợ mộc, binh sĩ trong quân đều có thể được trang bị, nếu có thể tiến hành cải tiến đã lập nửa công to.
Tất Sa lắc đầu, nói: “Từ lâu chúng ta đã biết cung song khúc người Bắc Nhung cải tiến, nhưng muốn làm ra giống như đúc, không đơn giản vậy…”
Dù ngay bây giờ họ đã đoạt được vũ khí của Bắc Nhung nhưng không thể trong thời gian ngắn bắt chước đạt tới.
Dao Anh ngắt lời, nói: “Thợ thủ công của ta làm được.”
Tất Sa giật mình, suýt sặc nước bọt chính mình.
Dao Anh ra hiệu thân binh lấy một xấp giấy được bao lại bằng vải lụa, đưa cho Tất Sa, nói: “Trước kia ta từng gặp thợ thủ công nhắc đến cung song khúc, họ luôn thử cải tiến, thử rất nhiều lần, cũng không bằng cung của Bắc Nhung, cách đây không lâu cuối cùng họ cũng nghiên cứu ra, vừa vặn có đám vũ khí này mới chuyển tới, họ đã so sánh nghiệm thu, uy lực gần đạt đến cung song khúc của người Bắc Nhung, có điều lực mềm dai còn chưa đủ mạnh, còn ưu điểm là vật liệu dễ kiếm, có thể chế tạo số lượng lớn.”
“Đây là bản vẽ.”
Tất Sa vui mừng khó nhịn, nói: “Có thể chế tạo số lượng lớn thì không còn gì bằng!”
Cung quân đội chuyên dùng cũng không phải cần cung lực càng mạnh càng tốt, tốt nhất là thỏa mãn được nhu cầu của binh sĩ, lại tiện nghi bền bỉ, trang bị được số lượng lớn.
Anh ta chần chừ rồi nói: “Những vũ khí và bản vẽ chế tạo này đều do công chúa phí hết tâm tư mới có, cứ thế mà công chúa chắp tay đưa cho Vương Đình sao?”
Dao Anh cười nói: “Đã là đồng minh, tình thế trước mắt cực kỳ nghiêm trọng, đương nhiên muốn góp một phần sức cho Vương Đình.”
Cung song khúc này cũng không phải là vũ khí hiếm có trên đời, đối mặt với kẻ địch mạnh như Bắc Nhung, giữa các phe hẳn phải đoàn kết nhất trí, vả lại xưa nay Vương Đình và Vương triều trước kia của Trung Nguyên thông thương, giữa hai nước không có xung đột về lợi ích.
Tất Sa ngắm nàng hồi lâu, nhận vải lụa, bảo thuộc hạ mình phái người đến bàn giao vũ khí.
Đợi binh sĩ tháo dỡ xong hàng hóa, Dao Anh và thân binh đi qua một bên nói chuyện bàn giáo các thứ rồi đạp lên yên ngựa. Tất Sa và Mạc Bì Đa ở trên đường núi chờ nàng.
Ba người cùng đi, ra nửa dặm, Dao Anh quay lại nhìn xe ngựa xếp thành một đường rồng rắn rời đi, hít một hơi, như suy nghĩ điều gì nói: “Kỵ binh Bắc Nhung không chỉ có kỵ xạ tinh xảo, phối hợp chặt chẽ, mà còn mọi lúc mọi nơi phát động tập kích nhanh chóng, mỗi người được trang bị vài con chiến mã, ngựa chúng đều là ngựa tốt, đủ sức chịu đựng, nếu A Lặc có thể giúp ta cướp một bầy chiến mã thì tốt biết mấy…”
Khóe miệng Tất Sa giật giật, yên lặng một lát, lắc đầu cười khẽ.
Mạc Bì Đa nghiêng đầu nhìn anh ta: “Tướng quân cười gì thế?”
Tất Sa ngó Dao Anh, cách nàng xa chút, thầm thì: “Ta đang nghĩ, nếu Hải Đô A Lăng mà biết Văn Chiêu công chúa hai năm nay làm gì, chắc chắn hối hận phát điên.”
Mạc Bì Đa nhìn theo ánh mắt anh ta.
Trên mặt Văn Chiêu công chúa che mạng kỹ lưỡng, không thấy rõ dung mạo, nhưng chỉ cần nhìn cặp mắt sáng kia và tư thái là biết, nàng quả nhiên giống như lời đồn, xinh đẹp vô cùng, sáng như trăng.
Người Thánh Thành coi thường bộ lạc Ô Cát Lý, mấy ngày này, Văn Chiêu công chúa là nữ tử đầu tiên không cười ra tiếng khi cậu hành lễ chào hỏi.
Chợt nghe Mạc Bì Đa hỏi: “Tướng quân, tin đồn giữa Văn Chiêu công chúa với Vương là thật hay giả thế?”
Tất Sa cười: “Đồn thì sao có thể thật chứ?” Nói xong, trong lòng thầm nhảy, nhìn sang Mạc Bì Đa.
Mạc Bì Đa đối mặt với anh ta, vẻ rất thản nhiên, trên gương mặt trẻ tuổi lộ nét sáng sủa phóng khoáng.
Tất Sa nhíu mày.
Ba người cùng trở lại Vương Tự, vừa lúc gặp Duyên Giác từ chỗ rừng Phật tháp đi tới, thấy Dao Anh, biến sắc, ho khan mấy tiếng, nói: “Không phải hôm nay công chúa ra khỏi thành à, sao về sớm vậy?”
Dao Anh ngẩng đầu nhìn, ráng chiều đầy trời, nắng chiều chiếu xéo, tạt lên tháp cao một tầng sáng vàng óng ánh.
Về sớm ư?
Mặt Duyên Giác ửng đỏ, ánh mắt trốn tránh.
Dao Anh nghĩ ngợi, đoán chắc trong chùa có ai tới, nàng cần tránh mặt, nhân tiện nói: “Ta từ phía cạnh Hình đường về.” Không có gặp người ngoài.
Duyên Giác không nói, trên mặt càng đỏ.
Đợi Dao Anh và thân binh quay đi, Tất Sa quét mắt một vòng qua Duyên Giác, hỏi: “Ai đến thế?”
Duyên Giác phun ra một ngụm ngột ngạt thật dài, nhỏ giọng nói: “Thiên Trúc công chúa Man Đạt đến! Người còn ở đại điện, còn chưa đi.”
Mày Tất Sa xoắn lại thật chặt.
Bình luận facebook