-
Chương 38
Kinh doanh chính là kinh doanh
Trở về phòng ăn, những món điểm tâm quý hiếm đã được bày đầy một bàn. Trước mặt Bì Bì là món ớt nhồi chiên Quảng Đông, đậu phụ hoa hồng, rau cải hầm đậu phụ hạt tiêu, măng và nấm xào tỏi…, cùng các món điểm tâm đủ màu sắc nữa. Trong tay Hạ Lan Tịnh Đình chỉ cầm cốc nước lọc, thậm chí còn không buồn chạm vào đôi đũa. Cuối cùng một đĩa táo nhúng caramel được mang lên, không từ chối được lời mời của Dư Man Ninh, anh đành gắp một miếng đưa vào miệng thưởng thức, sau đó liền đặt đũa xuống. Có lẽ lúc nào anh cũng như vậy nên Trịnh Thiệu Đông cũng không mấy để ý. Nhưng ngược lại, đối diện với một bàn đầy món ăn ngon thế kia, Bì Bì không sao bình tĩnh được, món nào cô cũng ăn một cách ngon lành.
“Bà Hạ Lan, nghe cô Dư nói bà không ăn chay. Đây là món ăn mặn duy nhất trên bàn ăn này, bà nếm thử một chút xem khẩu vị thế nào?”, Trịnh Thiệu Đông chỉ vào một đĩa thịt nhìn giống như thịt kho tàu, khuôn mặt tỏ vẻ đắc ý.
Cô gắp một miếng, từ từ thưởng thức, rồi lại gắp một miếng to cho vào miệng, “Ngon quá, vừa thơm vừa cay, vừa mềm vừa ngon”.
“Đây chính là thịt hồ ly.”
“Hả?...”
Suýt chút nữa thì cô nôn miếng thịt ra ngoài, nhưng lại sợ làm hỏng kế hoạch lớn của Hạ Lan Tịnh Đình, bèn miễn cưỡng nhai hai ba cái rồi vội vàng nuốt xuống, “Hóa ra thịt hồ ly cũng có thể ăn à, lần đầu tiên tôi nghe thấy điều này đó”. Cô lấy giấy ăn lau miệng, rồi liếc nhìn Hạ Lan Tịnh Đình, phát hiện khuôn mặt anh cứ nhìn chằm chằm về phía trước chẳng chút biểu cảm. Người ngoài có thể không biết nhưng Bì Bì thì biết rất rõ, mỗi khi anh không hài lòng một ai đó, sẽ có thái độ như vậy.
“Đúng thế, ngài Hạ Lan. Lần nào ngài cũng đến chỗ chúng tôi mua hồ ly sống, lần này có thể mua trực tiếp da thú về không? Hãy cho chúng tôi thời gian là hai tháng, chúng tôi sẽ tiến hành mổ một lượt, tấm da của bốn nghìn con hồ ly sẽ được phơi khô và đóng gói một cách nhanh chóng. Ngài chỉ cần cho hai chiếc xe tải đến chở hàng về là được rồi. Về giá cả chúng tôi có thể bớt cho ngài một chút.”
“Ngài Trịnh”, Hạ Lan Tịnh Đình không hề thay đổi, “Chúng tôi cần da hồ ly thượng đẳng, nên không muốn trong quá trình xử lý xảy ra bất cứ chuyện gì ảnh hưởng đến chất lượng da, do đó chúng tôi đã cố ý mời những công nhân có kinh nghiệm đến. Như thế cũng đỡ phiền lò mổ của các ngài hơn, cớ sao ngài lại không đồng ý chứ?”.
Ngừng một chút, anh từ tốn nói, “Nghe nói vùn này của các ngài sản xuất nhiều gỗ tùng, xưởng nuôi trồng hồ ly thường thích dùng mùn cưa của gỗ tùng để tẩy rửa da hồ ly. Ngài có biết, dầu của cây tùng rất dễ làm bẩn lông hồ ly không? Ngoài ra, tôi cũng đã có cuộc điều tra, có nhà buôn mua da sống của các ngài về, khi bán phát hiện có chỗ bị mốc. Nghe nói các ngài vì muốn gấp rút tung hàng ra thị trường nên khi hàm lượng nước trong một số tấm da còn vượt quá mười lăm phần trăm đã vội đóng bao rồi. Tôi làm hàng xuất khẩu, đối tác thường là những khách hàng khó tính ở châu Âu và Nga. Họ rất tin vào chất lượng hàng và danh dự của tôi. Cho nên những việc như thế này tuyệt đối tôi không thể để xảy ra”.
“Ôi dào, ngài Hạ Lan. Chúng ta là những đối tác làm ăn lâu dài, việc nhỏ thế này mà ngài vẫn không thể tin tưởng chúng tôi sao? Chúng tôi đã cải tiến về kỹ thuật từ lâu rồi, chúng tôi cũng mời đến một người có tay nghề làm quản lý và giám sát công việc. Nói thật tình, những tấm da bán cho người khác khi nào nhân công không đủ cũng làm qua qua. Thế nhưng với ngài Hạ Lan thì khác. Hàng của ngài chúng tôi sẽ làm rất cẩn thận và tỉ mỉ, đảm bảo về số lượng và chất lượng, tuyệt đối không có sai sót gì. Cô Dư, đi lấy mấy hàng mẫu mới nhất tới đây cho ngài Hạ Lan xem thử. Nói đùa chứ, bà Hạ Lan, ông xã của bà đã hợp tác cùng chúng tôi ba năm rồi, mỗi năm đều mua của chúng tôi chín mươi phần trăm thậm chí là một trăm phần trăm hàng, nhưng chưa bao giờ xem qua da mẫu của chúng tôi. Tốt xấu gì bà cũng nên cho chúng tôi một cơ hội chứ, đúng không? Ngài Hạ Lan? Nông trường của chúng tôi là nơi nuôi hồ ly lớn nhất vùng này, kiếm được nhiều tiền nhất, các nông trường khác không khỏi nhìn mà thấy ghen tỵ. Những tin đầy ác ý kia đều là đồn thổi vô căn cứ, ngài cũng đừng quá để tâm.”
Hạ Lan Tịnh Đình khẽ chau mày, “Ngài Trịnh, giá mua mà tôi đưa ra không hề rẻ. Hà tất ngài cứ khăng khăng muốn tự mổ chứ? Thực sự tôi không hiểu điều này có lợi gì cho các ngài?”.
Trịnh Thiệu Đông chỉ vào đĩa thịt hồ ly, cười khan mấy tiếng, “Lợi chính là nằm ở đây. Tôi mới phát hiện ra thịt hồ ly cũng rất được ưa chuộng, có thể chế biến thành đặc sản. Những nhà hàng quanh đây đều đến hỏi tôi. Nếu như do nông trường của chúng tôi lột da, thì riêng lượng thịt tiêu thụ hằng năm cũng có thể kiếm được mười mấy vạn Nhân dân tệ rồi”.
“Hai mươi vạn có đủ không?”
“Năm mươi vạn.”
“Ngài Trịnh, nếu mỗi con hồ ly nặng tám cân, thì bốn nghìn con hồ ly cũng phải khoảng ba mươi nghìn cân thịt. Mùi hồ ly không dễ ngửi, thịt cũng chẳng ngon gì mấy, ngài cho rằng chỗ thịt này có thể dễ dàng bán hết sao? Hai mươi vạn là giá cao nhất. Tôi đảm bảo, cho dù ngài có đi đến từng nhà một chào hàng, cũng tuyệt đối không thể bán hết con số này.”
“Được rồi, bốn mươi vạn, thế nào?”
“Hai mươi vạn, ngài Trịnh. Nếu không, tôi sẽ tìm nông trường khác, bốn nghìn con hồ ly này tôi sẽ không mua một con nào nữa.”
“… Được rồi, hai mươi vạn thì hai mươi vạn. Ngài Hạ Lan, ngài thật là tinh nhanh đó.”
Anh lấy ra tờ ngân phiếu bảo Bì Bì viết số tiền lên rồi đích thân ký tên, sau đó đưa cho Trịnh Thiệu Đông.
Trịnh Thiệu Đông nhìn tấm ngân phiếu rồi lại đưa cho cấp dưới. Sớm đã có công nhân bước vào, đưa cho Dư Man Ninh hai bộ da lông mẫu được chuẩn bị từ trước.
“Ngài Hạ Lan, ngài sờ thử xem, đây là hàng mẫu chúng tôi mới làm xong, nó chứng tỏ công nghệ cao nhất của chúng tôi. Bộ này là hồ ly trắng, bộ này là hồ ly xám. Nếu như ngài yên tâm để chúng tôi lột da ngay tại đây, thì có thể mang những hàng mẫu này và chỗ hàng hiện có đến tham gia cuộc đấu giá quần áo da thút ở Phần Lan và Mát-xcơ-va vào tháng Mười Hai”, Trịnh Thiệu Đông vẫn không muốn từ bỏ ý định, bám riết không buông.
Hạ Lan Tịnh Đình cười, từ chối, “Xin lỗi, tôi muốn đi rửa tay một chút. Có lẽ bà xã tôi sẽ đồng ý xem hàng mẫu thay tôi, cô ấy luôn rất hứng thú với công việc làm ăn của tôi”, dứt lời, anh gật đầu với mọi người, rồi lịch sự rời khỏi phòng ăn.
Nhìn theo bóng lưng anh dần khuất, Trịnh Thiệu Đông lấy ra một dây thước rất tinh tế, nói với Bì Bì, “Bà Hạ Lan, đây là những hàng mẫu lông hồ ly có xuất xứ từ Phần Lan vừa làm xong. Bà hãy xem xem, chất lượng lông này, tính đàn hồi này, độ sáng bóng này. Cùng một hiệu quả làm nở, lông của hồ ly bản địa phải kéo tới năm centimet, còn lông của hồ ly Phần Lan chỉ cần kéo một centimet là được rồi”.
Bất đắc dĩ, Bì Bì đành phải sờ vào bộ lông, rồi bình luận những câu sáo rỗng, “Cảm giác không tồi, làm thành áo khoác chắc chắn sẽ rất ấm”.
“Đúng vậy!”
Ông ta đưa cho Bì Bì một túi đựng quần áo rất lớn, “Chiếc áo khoác này là hàng mẫu do một người bạn của tôi may từ da hồ ly ở nông trường của chúng tôi. Anh ấy làm tất cả ba bộ, cỡ lớn, cỡ vừa và cỡ nhỏ, định tham gia buổi triển lãm quần áo da thú tổ chức ở Cáp Nhĩ Tân năm nay. Tôi thấy bà hợp với cỡ vừa, không bảo thợ may đến lấy số đo, cũng chẳng biết có vừa hay không. Mùa đông cũng sắp tới rồi nên tặng bà trước mặt tránh rét. Ngài Hạ Lan cũng thật là, bạn bè với nhau mà kết hôn cũng không thông báo một tiếng, khiến tôi chẳng chuẩn bị được gì cả. Tôi đang bảo công nhân chọn giúp bà một bộ lông khác, rồi may một bộ theo đúng số đo của bà, chỉ sợ phải hai tháng sau mới hoàn thành được. Món quà nhỏ, không bày tỏ được hết tấm lòng của tôi. Nếu bà Hạ Lan không nhận, thì đúng là chê chúng tôi nông thôn ít học, coi thường chúng tôi rồi”.
Bì Bì lấy chiếc áo khoác trong túi, mở ra trước mặt mọi người, quả là một chiếc áo trắng sáng vừa nhẹ vừa ấm, vô cùng đẹp đẽ.
“Vậy tôi xin cung kính không bằng tuân mệnh, cảm ơn.”
Mọi người tiếp tục dùng bữa. Một lúc lâu sau cũng không thấy Hạ Lan Tịnh Đình quay lại, Trịnh Thiệu Đông bèn lên tiếng, “Sao ngài Hạ Lan vẫn chưa quay lại nhỉ? Có khi nào bị lạc đường không? Có cần bảo người đi xem thế nào không?”.
Bì Bì vội nói, “Để tôi đi xem sao”.
Cô đi một mình tới phòng vệ sinh, tìm thấy Hạ Lan Tịnh Đình đang ngồi ngơ ngẩn trên bồn cầu.
Anh ngồi im ở đó, không một cử động, ánh mắt toát lên vẻ cô độc có từ ngàn năm trước.
Bì Bì nhớ có lần anh đã từng nói, khi còn nhỏ, hễ gặp phải chuyện gì đáng sợ, phản ứng đầu tiên của anh chính là tìm một hang động nào đó có thể trốn. Cho dù bên ngoài có điều gì dụ dỗ, anh cũng nhất quyết không ra ngoài.
“Haizzz”, cô vỗ vai anh, nói khẽ, “Không sao rồi, việc cần bàn thì cũng bàn rồi, đồ cần tặng thì cũng tặng rồi”.
Anh vẫn ngẩn người ở đó.
Một lúc sau, anh bỗng nhiên thở dài một hơi, “Bố anh nói không sai, anh không xứng là một Chủ tế. Anh không muốn nhìn thấy sự tàn bạo của loài người đối với máu của đồng bào anh”.
“Con người thật đáng ghê tởm.”
“Mỗi năm đều có thời gian như thế này. Ông chủ họ Trịnh kia vẫn được xem là văn minh, chưa bao giờ ép anh phải xem hàng mẫu. Nông trường của ông ta cũng được xem là sạch sẽ, có thể nói, trước khi chết, đám hồ ly vẫn được xem là hạnh phúc. Còn những nơi khác… haizzz…”, anh không nói tiếp nữa.
Bì Bì hiểu.
Cho nên với một cuộc làm ăn lớn như thế này, anh lựa chọn đến ban ngày, ban ngày anh sẽ không nhìn thấy thứ gì hết.
“Có lúc anh thấy may mắn vì mình là một kẻ mù”, anh thì thào, “Mỗi năm anh đều cứu hơn một vạn hồ ly ra khỏi nông trường này. Anh cứ nghĩ cuộc sống bên ngoài sẽ tốt hơn trong này, nghĩ rằng anh đang giải phóng cho chúng. Nhưng thực ra bên ngoài cũng đâu phải là thiên đường? Đám hồ ly không có kinh nghiệm sống ở môi trường bên ngoài đại đa số chỉ sinh tồn được trong vòng một năm rồi chết, chúng vùi thân ở chốn thiên nhiên hiểm độc. Nhưng khi anh hỏi bất cứ một hồ ly nào trong đám đó rằng có muốn ở lại đây không, thì chẳng có hồ ly nào muốn ở lại cả… Dù sao chúng vẫn là hồ ly, chúng biết bản thân không thuộc về nơi này. Ngày nào anh cũng tự hỏi, anh làm như vậy có đúng hay không?”.
“Đương nhiên là đúng rồi!”
Anh ngẩng đầu lên, “Tại sao?”.
“Bởi vì hạnh phúc do bản thân mình định nghĩa mà nên. Nếu như chúng cảm thấy cuộc sống bên ngoài hạnh phúc hơn cuộc sống được nuôi dưỡng trong bốn bức tường kín này, vậy thì cho dù ra ngoài cuộc sống có ngắn ngủi đến mấy, chúng cũng sẽ ra đi cùng niềm hạnh phúc, không có gì hối tiếc cả.”
Anh đứng lên, đột nhiên ôm chặt lấy cô, “Bì Bì, chúng ta hãy luôn ở bên nhau từng giây từng phút, như vậy mới có thể nhắm mắt trong niềm hạnh phúc, chẳng có gì phải tiếc nuối nữa”.
Cô cười, nhéo khuôn mặt anh, “Em mới hai mươi mấy tuổi, cái gì mà chết với sống chứ. Hóa ra ngài Chủ tế cũng có lúc buồn thương sầu muộn như vậy”.
Anh ngẩn người, không hiểu, “Buồn thương sầu muộn?”.
“Melancholy [1]. Anh đã đọc thơ của Từ Chí Ma [2] chưa? Có một bài thơ tên là Vịnh về thanh niên:
[1] Melancholy: U sầu, sầu muộn, u uất.
[2] Từ Chí Ma (15/01/1897 – 19/11/1931) là bút danh của Chương Tự, một nhà thơ người Hải Ninh, tỉnh Chiếc Giang, Trung Quốc.
Bên bờ sông buồn thương sầu muộn
Dòng nước chảy bất tận về đâu
Cành củi khô lênh đênh vô định
Chim nhạn lạc đàn kêu thảm thương
… Buồn chán
Vạn vật
Đời người một màu tro xám xịt
Anh cô độc nơi cấm cung cách liệt
Thanh niên
Mục nát thời hoàng kim với quan trường!”
Nhìn điệu bộ đọc thơ khi trầm khi bổng của cô, anh không nhịn được cười.
Ký xong hợp đồng, Trịnh Thiệu Đông hỏi, “Ngài Hạ Lan, ngài đã sắp xếp thời gian chuyển hàng đi chưa?”.
“Tôi đã đặt xong xe rồi. Phiền ngài bảo người đóng lồng lại giúp tôi. Từ đây tôi sẽ chuyển hàng tới Tây An trước bằng đường sắt, sau đó sẽ chuyển hàng từ Tây An đến Cáp Nhĩ Tân.”
“Vẫn cung đường cũ, phải không?”, Trịnh Thiệu Đông cười ha ha, “Việc đóng hàng ngài cứ yên tâm. Đoạn đường từ đây tới Tây An tôi sẽ đích thân phụ trách, cũng đã sắp xếp ổn thỏa đâu vào đấy rồi, tôi chỉ cần thời gian một ngày thôi. Đến Tây An sẽ chuyển sang xe của ngài chứ?”.
“Đúng thế.”
“Bà nhà cũng đi cùng chứ? Đoạn đường này rất vất vả đó.”
“Bà xã tôi chỉ đi cùng tôi tới đây cho khuây khỏa thôi, cô ấy còn có việc cần làm.”
“Tôi có chút thức ăn gia súc, đã chuẩn bị cho ngài một chút dùng trên đường đi. Nói gì thì nói, từ đây đến Cáp Nhĩ Tân cũng phải mất hơn ba mươi tiếng đồng hồ đó.”
“Cảm ơn, không cần đâu, tôi có thể tự chuẩn bị đồ ăn cho chúng được.”
Hai người bắt tay nhau, đột nhiên Hạ Lan Tịnh Đình lại nhớ tới một chuyện, “Đúng rồi, tôi quên mất không hỏi ngài về tình trạng phòng dịch”.
“Việc này còn cần đến ngài giao phó hay sao? Mười lăm ngày trước tôi đã tiêm vắc xin phòng các bệnh Caninedistemper [3] ở chó, viêm ruột non virut và viêm não cho chúng rồi. Giấy chứng nhận đã qua kiểm dịch và giấy chứng nhận khử trùng phương tiện vận chuyển tôi đã làm giúp ngài cả rồi. Gần dây trạm ga tàu hỏa quản lý rất nghiêm, không có hai loại giấy này ngài sẽ không chuyển được hàng đi đâu.”
[3] Là loại bệnh gây chết rất nhiều chó, đặc biệt là chó chưa được tiêm phòng, chó từ ba đến sáu tháng tuổi.
“Ngài Trịnh, ngài chu đáo quá. Những việc ở đây tôi rất yên tâm khi giao cho ngài giải quyết. Chúng ta gặp lại nhau ở trạm vận chuyển hàng hóa Tây An nhé.”
Chiếc xe con của nông trường đưa hai người trở về Tây An. Trên xe không tiện trò chuyện nên vừa về đến khách sạn, đặt hành lý xuống, Hạ Lan Tịnh Đình đột nhiên nói, “Bì Bì, đi dạo cùng anh một lúc nhé”.
“Anh muốn đưa đám hồ ly này tới Cáp Nhĩ Tân thật à?”, giờ khắc chia tay sắp gần kề, không biết tại sao cô cứ nặng trĩu tâm tư suốt dọc đường đi.
“Cụ thể là đến núi Đại Hưng An. Anh có một nông trường ở đó. Một số hồ ly sẽ được thả về núi Đại Hưng An và vùng rừng gần đó. Một số hồ ly còn lại anh sẽ đưa đến Siberia, cuối cùng là đưa đến Bắc cực”, anh nói, “Đây đều là những hồ ly sinh ra và lớn lên trong nông trường, nên khả năng mưu sinh rất kém, bọn anh phải tiến hành huấn luyện cho chúng trước đã. Đồng thời bọn anh cũng không thể thả tất cả đám hồ ly này đến một vùng được, như vậy sẽ làm nhiễu loạn cơ cấu sinh thái ở vùng đó. Cho nên chỉ có thể thả chúng về với tự nhiên theo từng tốp, từng tốp một”.
Bì Bì nhìn anh, hít một hơi thật sâu, “Đến Siberia, chẳng phải anh sẽ phải làm thủ tục hải quan sao?”.
“Anh có đầy đủ tất cả các giấy tờ chứng nhận.”
Đột nhiên cô nhớ ra chiếc áo khoác lông hồ ly, “Anh đem theo chiếc áo này đi. Ở Bắc cực rất lạnh”.
“Đây là món quà Trịnh Thiệu Đông tặng em, em không dùng ư?”
“Em? Sao em có thể dùng được chứ?”, cô thiếu chút nữa nhảy dựng lên, “Đồng bào của anh chẳng phải cũng là đồng bào của em sao? Thậm chí em còn không muốn chạm vào nó”.
“Ha ha”, anh đột nhiên bật cười.
“Anh cười cái gì?”
“Nhanh như vậy đã nhập gia tùy tục rồi? Được đối tốt như vậy anh lại thấy có chút sợ hãi đấy”, anh nói, “Anh không cần chiếc áo khoác này. Nhưng anh sẽ đem nó theo, anh sẽ chôn cất nó ở dòng băng hà nơi Bắc cực… Đây chính là nghi thức của tộc hồ ly bọn anh, cũng chính là tâm nguyện của tất cả những hồ ly khi chết đi. Bọn anh thà chết đói trong cuộc sống tự nhiên hoặc trở thành bữa tối của kẻ thù thiên nhiên, cũng không muốn để con người nuôi dưỡng, sau đó lột da, chết không có chỗ chôn”.
Đột nhiên anh rất kích động, siết chặt nắm tay, đường gân xanh nổi lên rõ rệt.
Hóa ra một Chủ tế ăn thịt người, một Chủ tế luôn điềm đạm cũng có lúc phẫn nộ đến nhường này.
“Haizzz, Hạ Lan”, cô nắm lấy tay anh, khẽ giọng bảo, “Bắc cực chính là quê hương của anh sao?”.
Anh gật đầu.
“Em có thể đi cùng anh không? Em muốn tham quan Bắc cực, nhân tiện có thể giúp được việc cho anh. Lẽ nào chỉ có một mình anh đưa bốn nghìn con hồ ly này đi sao? Như thế rất vất vả.”
Anh cười ra chiều tiếc nuối, đưa tay khẽ vuốt ve khuôn mặt cô, “Anh biết em muốn giúp anh. Nhưng anh là Chủ tế của tộc hồ ly, những việc này là trách nhiệm của anh. Hơn nữa đi theo anh, em sẽ gặp nguy hiểm. Tạm thời anh sẽ không thể chuyên tâm chăm sóc cho em được. Em yên tâm, không phải anh đi một mình, Tu Nhàn sẽ giúp anh. Hiện giờ anh ấy đang đợi anh trong nông trường ở núi Đại Hưng An”.
Bước chân của Bì Bì không kìm được bỗng dừng lại, “Nguy hiểm? Nguy hiểm gì?”.
“Em biết đấy, ba mươi độ vĩ Bắc về phương Nam là địa bàn của anh, nhưng nơi anh muốn đến lại là địa bàn của Triệu Tùng. Anh và anh ta có khúc mắc, mấy năm gần đây xích mích tương đối lớn.”
“Vậy anh ta có làm hại anh không?”
“Bọn anh cũng đã mấy lần va chạm, nhưng va chạm trên địa bàn của anh. Trước mắt anh ta vẫn chưa thắng được khả năng của anh.”
Bì Bì cảm thấy khi nói chuyện, Hạ Lan Tịnh Đình rất để ý ngôn từ. Anh rất cẩn thận, tránh dùng đến cụm từ “đánh nhau”. Nhưng cô nhanh chóng nhớ đến buổi biểu diễn của A Quy, anh đã bị thương. Mấy ngày gần đây trên người anh cũng có một vài vết thương, mặc dù không thấy rõ nhưng chắc chắn nội thương rất nặng, song anh chẳng hề bận tâm mà vẫn thân thiết với cô. Nếu như không phải công lực giảm sút, thì anh đã chẳng phải lo lắng đến điều này rồi.
“Anh ta muốn tiêu diệt anh để có thể thống nhất tộc hồ ly, đúng không?”
Chần chừ một lúc, anh mới nói, “Chuyện này rất phức tạp, đã vướng mắc mấy trăm năm rồi, liên quan đến rất nhiều vấn đề đan xen, em không nên biết quá nhiều thì hơn”.
Bì Bì trừng mắt với anh, “Hóa ra tộc hồ ly của các anh cũng trọng nam khinh nữ giống như con người hả. Các anh cho rằng phụ nữ biết càng ít thì càng an toàn ư?”.
“Không phải anh có ý đó, chỉ là không muốn em tham dự vào những chuyện này”, anh bình tĩnh giải thích, “Em còn có việc của em, em nên tập trung vào việc thi cử thì hơn”.
Hai người đi qua một khu dân cư. Một nhà có khoảnh vườn vô cùng lớn phía sau, bên trong trồng đầy hoa tươi, muôn vàn màu sắc. Hạ Lan Tịnh Đình đột nhiên dừng bước, hít một hơi thật sâu, “Bì Bì, ở đây có hoa”.
“Đúng vậy, không biết hoa ai trồng, nở đẹp quá, chắc chắn là không bón phân hóa học.”
Anh như cố níu lấy hương hoa trong không trung, “Hoa cúc, hoa chuối tây, hoa sơn trà, hoa thục quỳ, còn có cả hoa hồng nữa. Hoa hồng màu gì vậy?”.
Bì Bì kiễng chân nhìn vào, “Có màu đỏ và màu trắng. Hoa hồng ăn có ngon không?”.
“Rất ngon.”
Cô bỗng nhớ ra, ngoài uống nước, dường như cả ngày anh chưa ăn gì, vội vàng hỏi, “Ừm, anh đói chưa?”.
“Hơi hơi, chúng ta phải đi tìm người chủ trồng hoa…”
“Không cần đâu, anh cứ đợi ở đây nhé”, cô thoăn thoắt trèo từ bên ngoài vào trong, sau đó lại trèo ra với một bó hoa hồng. Bức tường rào thấp cắm đầy thủy tinh. Bì Bì chỉ nghĩ tới việc hái hoa nên khi trèo ra bên ngoài cô không cẩn thận bị thủy tinh cứa một nhát.
“Đây, đây là hoa hồng, có rất nhiều hoa, anh ăn đi.”
“…” Hạ Lan Tịnh Đình ngẩn người hồi lâu, “Em… lấy trộm hoa ư?”.
“Đúng, em hái trộm đó.”
“Làm như thế này có được không?”
“Đương nhiên là không được rồi, đối với con người mà nói hành động này là không tốt”, hai bàn tay Bì Bì mở ra, “Nhưng mà anh đâu phải là người”.
“Ồ, tin anh đi, về vấn đề đạo đức, hồ ly cũng mẫn cảm như con người vậy”, anh lấy ra hai tờ tiền rồi viết bút bi lên trên đó: “Xin lỗi, chúng tôi đã lấy hoa của ngài”.
Anh không nhìn thấy chính hàng chữ mình viết, một vài chữ không nằm cùng trên một hàng, có hai chữ chồng lên nhau. Song vẫn có thể đọc được. Anh đặt tờ tiền trước cửa nhà người trồng hoa nọ với một hòn đá chặn lên trên.
Sau đó, anh đột nhiên chau mày, “Em bị chảy máu à?”.
“Ngón tay bị đứt chút xíu, không sao đâu.”
Cô vội giấu tay sau người, nhưng lại bị anh kéo ra đưa vào miệng mình.
Khuôn mặt cô bất chợt ửng hồng, muốn rút tay về nhưng bị anh giữ thật chặt.
“Cần… cần lâu như vậy sao?”
“Cần phải cầm máu, đúng không?”, anh không đeo kính đen, ánh mắt nhìn cô lạnh lẽo mà vô định.
Nhưng cô vẫn luôn cảm thấy ẩn sâu trong đôi mắt ấy là một ngọn đèn đang lóe sáng.
Trước mắt là một công viên, hai người thả mình xuống bãi cỏ xanh. Hạ Lan Tịnh Đình ngắt từng cánh hoa cho vào miệng mình thưởng thức. Anh ăn rất nhiều, rõ ràng là đang rất đói.
“Có ngon không?”
“Rất ngon, không có chất phụ gia hóa học, rất ngọt, rất giòn, em có muốn thử một chút không?”
“Được.”
Cô liền ngắt một cánh hoa, đưa vào miệng nhai, cảm thấy không ngon như mình tưởng tượng. Chua chua, chát chát lại đăng đắng. Cô cố gắng nuốt xuống, rồi làm mặt quỷ, “Không ngon”.
Anh khẽ cười.
“Em muốn hỏi anh một chuyện”, cô gối đầu trên cánh tay anh, ánh mặt trời ấm áp xuyên qua tàng cây chiếu xuống, cô bèn lấy áo choàng che mắt lại, “Tổng cộng em có tất cả bao nhiêu kiếp trước?”.
“Anh chưa đếm bao giờ.”
“Không thể nào”, cô phản bác, “Được rồi, trả lời em một câu hỏi khác. Em chưa từng yêu anh, cũng chưa từng kết hôn với anh lần nào, vậy tại sao anh có thể tìm thấy em?”.
“Em biết không, linh hồn cũng có mùi vị đó.”
Cô ngẩn người, sau đó lắc đầu không tin.
“Linh hồn cũng có mùi vị. Khi em đi lại, những nơi linh hồn của em đi qua sẽ tràn ngập mùi vị riêng biệt của em. Chỉ cần em còn giữ lại một chút ký ức, cho dù là những ký ức mong manh, vụn vặt, khi em nhớ đến anh, anh sẽ lần theo gió đến tìm em”, ánh mắt anh mông lung hướng lên bầu trời, như thể suy nghĩ đang bay đến một nơi nào xa lắm.
Sau đó, anh đột nhiên nhắc lại chuyện xưa.
“… Hôm đó, anh bảo em hãy trốn yên ở đấy, đừng ra ngoài. Khi nào anh cùng đám người kia rời đi rồi em hãy chạy trốn tiếp. Cho dù em có chạy đến đâu, anh cũng sẽ tìm được em.”
Cô nhắm nghiền đôi mắt, bên tai bỗng vọng lại tiếng mưa rơi.
“Hôm đó trời mưa ư?”
… “Trời mưa rất to. Cơn mưa to gột rửa đi mọi mùi vị. Chúng ta rất đói, trốn trong hang núi, không dám lên tiếng, cũng chẳng dám ra ngoài. Người của bố anh đang ở quanh đấy. Em đói đến mức thậm chí còn bắt cả con sâu trên đất lên ăn, còn nói với anh rằng rất ngon”, anh như đang chìm sâu vào ký ức cùng những lời nói mê, “Anh biết người họ muốn bắt là em, cho nên anh đã lặng lẽ chuồn ra ngoài, muốn dụ họ đi xa nơi ấy. Anh nói với em, dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì, em cũng không được ra. Bố anh sẽ không giết chết anh đâu”.
… “Cuối cùng em vẫn bị trúng kế. Người của bố anh nói, hắn ta đếm đến mười, nếu em không ra, hắn ta sẽ giết chết anh. Hắn ta vừa đếm thì em đã ra rồi… Em thật ngốc.”
… “Hôm hành hình, em cắn chặt răng, không hề lên tiếng. Em cho rằng anh không nhìn thấy, không nghe thấy thì sẽ dễ chịu hơn một chút sao? Em có biết trên thế giới này có một thứ gọi là tưởng tượng không?”
Chưa bao giờ Bì Bì nhìn thấy khuôn mặt anh trắng bệch, hàm răng cắn chặt, toàn thân run rẩy, mồ hôi lạnh đầy trán như lúc này.
“Haizzz…”, cô nắm lấy bàn tay anh, “Anh hãy nghĩ thoáng ra, tất cả đã qua rồi. Mấy trăm năm đã qua rồi. Anh là một Chủ tế rất bận rộn, vì sao cứ phải nhớ tới sự việc ngày hôm ấy chứ? Em là Tuệ Nhan cũng được, không phải cũng được, nhưng em cần khai thông cho anh: Cuộc sống này rất đẹp đẽ, tương lai muôn phần tươi sáng. Anh đừng dừng mãi ở quá khứ như vậy. Lời em nói anh có muốn nghe không?”.
Bì Bì cảm thấy khi nói những lời này ra, khẩu khí của cô thật giống với giáo viên hướng dẫn cô thời sinh viên.
Anh ngồi thẳng người lên, nói, “Từ trước đến giờ anh đều muốn nghe lời em nói”.
“Vậy thì tốt, vậy thì tốt”, công cuộc dẫn dắt tâm lý nhanh chóng hoàn thành, Bì Bì có cảm giác thành tựu.
“Em từng nói, nếu như xảy ra chuyện gì, em sẽ đợi anh ở kiếp sau, bảo anh nhất định phải đến tìm em”, anh ôm lấy cô, khẽ đặt nụ hôn lên khuôn mặt cô, “Lời em nói, làm sao anh có thể quên chứ? Anh sẽ mãi mãi ghi nhớ!”.
“Hạ Lan”, Bì Bì khẽ khàng đẩy anh ra, “Câu chuyện của anh em rất cảm động, nhưng em thực sự không phải là Tuệ Nhan, em là Bì Bì. Em biết anh rất nhớ cô ấy, nhớ đến phát điên. Thế nhưng, em là chính em, em không thể vì anh mà đóng vai một người khác. Em không thể, cũng không biết. Em chỉ là một nhân vật nhỏ bé, song em cũng là một nhân vật chính trong cuộc đời của em. Em không thể sắm vai một nhân vật nào đó trong câu chuyện của người khác, cho dù làm vậy sẽ có lợi và được ủng hộ nhiều như thế nào. Em không có cách nào để phối hợp với anh được, Hạ Lan. Xin anh tha thứ cho em”.
Giữa hai người bọn họ đột nhiên xuất hiện chút yên ắng lạ thường. Sau đó, Hạ Lan Tịnh Đình bỗng cười thoải mái, rồi đứng dậy, chỉnh lại quần áo giúp cô, “Xin lỗi, anh sai rồi. Hôm nay là ngài vui của chúng ta, anh không nên nhắc tới người con gái khác với em. Anh sẽ đền bù cho em”.
Bì Bì ngẩng đầu cười nói, “Đền bù cho em như thế nào đây, ngài Chủ tế?”.
“Đối với tộc hồ ly bọn anh, tuần trăng mật không phải chỉ là dịp chồng đưa vợ đến một nơi có phong cảnh vô cùng đẹp để nghỉ ngơi”, anh khẽ ôm lấy bờ vai cô, “Tuần trăng mật ý chỉ người kia có khả năng khiến bạn cảm thấy đang hưởng tuần trăng mật cho dù ở bất cứ nơi đâu”.
Hai người trở về khách sạn, chìm trong niềm hoan lạc không kể sớm chiều.
Anh ôm cô trong lòng, cọ cằm vào mặt cô, “Quan Bì Bì, em có phải là vợ của Hạ Lan Tịnh Đình không?”.
Cô trả lời thật lớn, “Phải!”.
“Quan Bì Bì, em có yêu anh không?”
“Yêu!”
Cuối cùng, cô mệt đến mức ngủ thiếp đi, khi tỉnh lại bỗng phát hiện bản thân mình đang nằm gọn trong một thứ gì đó mềm mềm mà ấm áp.
Đó chính là một cái đuôi hồ ly màu trắng như tuyết.
Cô không hề cảm thấy giật mình.
“Chỉ thế này thôi sao?”, cô lần theo chiếc đuôi sờ lên trên, chỉ thấy thân thể của một người đàn ông.
“Chỉ thế thôi. Chẳng phải em muốn biết dáng hình anh như thế nào sao? Dáng hình anh là thế này đó”, anh uể oải trong cơn buồn ngủ.
“Những bộ phận khác đâu?”, cô nhìn chăm chú vào khuôn mặt anh, khuôn mặt của con người, hoàn mỹ chẳng chút tì vết.
“Không có.”
Chiếc đuôi đưa lên, khẽ phủi phủi, tựa nhưa cái phất trần quét qua quét lại trên cơ thể chẳng mảnh vải che thân của cô.
Cô ôm chặt chiếc đuôi vào lòng, “Thật đáng yêu, em rất thích nó”.
“Ừm, nếu như anh chết, nhất định anh sẽ tặng lại nó cho em để làm khăn quàng.”
Chiếc đuôi biến mất trong chớp mắt, anh khoác chiếc áo ngủ ngồi dậy, “Sáng nay em muốn ăn gì?”.
Bì Bì dụi dụi mắt, nhìn chăm chú vào chỗ chiếc đuôi vừa biến mất, rồi lại sờ tay vào đó nhưng vẫn chẳng thấy gì, “Có phải vừa rồi em nằm mơ không?”.
Cô bỗng nhớ đến câu chuyện Trang Chu mộng hồ điệp [4], “Có khi nào em vẫn luôn ở trong giấc mơ?”.
[4] Là tên người ta đặt cho một đoạn văn trong sách Trang tử của Trung Quốc. Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu.
Anh bỗng khựng lại một chút, “Rất có thể”.
“Ơ, ngài trước anh nói, anh không hiện được lại nguyên hình kia mà?”
“Anh lo em sẽ sợ.”
“Em không sợ, em có thể nhìn chiếc đuôi của anh thêm một chút nữa không?”
“Nhìn bao lâu?”
“Nửa tiếng nữa, được không?”
“Chiều em một lần cuối cùng đấy, cô bé”, chiếc đuôi lại vươn tới, bao trọn rồi quấn chặt lấy cô.
“Anh làm gì vậy… buộc người ta như buộc bánh chưng ấy.”
“Khi nào anh hoàn thành công việc trở về, ngày ngày anh sẽ trói chặt em bên cạnh anh như thế này…”
Trở về phòng ăn, những món điểm tâm quý hiếm đã được bày đầy một bàn. Trước mặt Bì Bì là món ớt nhồi chiên Quảng Đông, đậu phụ hoa hồng, rau cải hầm đậu phụ hạt tiêu, măng và nấm xào tỏi…, cùng các món điểm tâm đủ màu sắc nữa. Trong tay Hạ Lan Tịnh Đình chỉ cầm cốc nước lọc, thậm chí còn không buồn chạm vào đôi đũa. Cuối cùng một đĩa táo nhúng caramel được mang lên, không từ chối được lời mời của Dư Man Ninh, anh đành gắp một miếng đưa vào miệng thưởng thức, sau đó liền đặt đũa xuống. Có lẽ lúc nào anh cũng như vậy nên Trịnh Thiệu Đông cũng không mấy để ý. Nhưng ngược lại, đối diện với một bàn đầy món ăn ngon thế kia, Bì Bì không sao bình tĩnh được, món nào cô cũng ăn một cách ngon lành.
“Bà Hạ Lan, nghe cô Dư nói bà không ăn chay. Đây là món ăn mặn duy nhất trên bàn ăn này, bà nếm thử một chút xem khẩu vị thế nào?”, Trịnh Thiệu Đông chỉ vào một đĩa thịt nhìn giống như thịt kho tàu, khuôn mặt tỏ vẻ đắc ý.
Cô gắp một miếng, từ từ thưởng thức, rồi lại gắp một miếng to cho vào miệng, “Ngon quá, vừa thơm vừa cay, vừa mềm vừa ngon”.
“Đây chính là thịt hồ ly.”
“Hả?...”
Suýt chút nữa thì cô nôn miếng thịt ra ngoài, nhưng lại sợ làm hỏng kế hoạch lớn của Hạ Lan Tịnh Đình, bèn miễn cưỡng nhai hai ba cái rồi vội vàng nuốt xuống, “Hóa ra thịt hồ ly cũng có thể ăn à, lần đầu tiên tôi nghe thấy điều này đó”. Cô lấy giấy ăn lau miệng, rồi liếc nhìn Hạ Lan Tịnh Đình, phát hiện khuôn mặt anh cứ nhìn chằm chằm về phía trước chẳng chút biểu cảm. Người ngoài có thể không biết nhưng Bì Bì thì biết rất rõ, mỗi khi anh không hài lòng một ai đó, sẽ có thái độ như vậy.
“Đúng thế, ngài Hạ Lan. Lần nào ngài cũng đến chỗ chúng tôi mua hồ ly sống, lần này có thể mua trực tiếp da thú về không? Hãy cho chúng tôi thời gian là hai tháng, chúng tôi sẽ tiến hành mổ một lượt, tấm da của bốn nghìn con hồ ly sẽ được phơi khô và đóng gói một cách nhanh chóng. Ngài chỉ cần cho hai chiếc xe tải đến chở hàng về là được rồi. Về giá cả chúng tôi có thể bớt cho ngài một chút.”
“Ngài Trịnh”, Hạ Lan Tịnh Đình không hề thay đổi, “Chúng tôi cần da hồ ly thượng đẳng, nên không muốn trong quá trình xử lý xảy ra bất cứ chuyện gì ảnh hưởng đến chất lượng da, do đó chúng tôi đã cố ý mời những công nhân có kinh nghiệm đến. Như thế cũng đỡ phiền lò mổ của các ngài hơn, cớ sao ngài lại không đồng ý chứ?”.
Ngừng một chút, anh từ tốn nói, “Nghe nói vùn này của các ngài sản xuất nhiều gỗ tùng, xưởng nuôi trồng hồ ly thường thích dùng mùn cưa của gỗ tùng để tẩy rửa da hồ ly. Ngài có biết, dầu của cây tùng rất dễ làm bẩn lông hồ ly không? Ngoài ra, tôi cũng đã có cuộc điều tra, có nhà buôn mua da sống của các ngài về, khi bán phát hiện có chỗ bị mốc. Nghe nói các ngài vì muốn gấp rút tung hàng ra thị trường nên khi hàm lượng nước trong một số tấm da còn vượt quá mười lăm phần trăm đã vội đóng bao rồi. Tôi làm hàng xuất khẩu, đối tác thường là những khách hàng khó tính ở châu Âu và Nga. Họ rất tin vào chất lượng hàng và danh dự của tôi. Cho nên những việc như thế này tuyệt đối tôi không thể để xảy ra”.
“Ôi dào, ngài Hạ Lan. Chúng ta là những đối tác làm ăn lâu dài, việc nhỏ thế này mà ngài vẫn không thể tin tưởng chúng tôi sao? Chúng tôi đã cải tiến về kỹ thuật từ lâu rồi, chúng tôi cũng mời đến một người có tay nghề làm quản lý và giám sát công việc. Nói thật tình, những tấm da bán cho người khác khi nào nhân công không đủ cũng làm qua qua. Thế nhưng với ngài Hạ Lan thì khác. Hàng của ngài chúng tôi sẽ làm rất cẩn thận và tỉ mỉ, đảm bảo về số lượng và chất lượng, tuyệt đối không có sai sót gì. Cô Dư, đi lấy mấy hàng mẫu mới nhất tới đây cho ngài Hạ Lan xem thử. Nói đùa chứ, bà Hạ Lan, ông xã của bà đã hợp tác cùng chúng tôi ba năm rồi, mỗi năm đều mua của chúng tôi chín mươi phần trăm thậm chí là một trăm phần trăm hàng, nhưng chưa bao giờ xem qua da mẫu của chúng tôi. Tốt xấu gì bà cũng nên cho chúng tôi một cơ hội chứ, đúng không? Ngài Hạ Lan? Nông trường của chúng tôi là nơi nuôi hồ ly lớn nhất vùng này, kiếm được nhiều tiền nhất, các nông trường khác không khỏi nhìn mà thấy ghen tỵ. Những tin đầy ác ý kia đều là đồn thổi vô căn cứ, ngài cũng đừng quá để tâm.”
Hạ Lan Tịnh Đình khẽ chau mày, “Ngài Trịnh, giá mua mà tôi đưa ra không hề rẻ. Hà tất ngài cứ khăng khăng muốn tự mổ chứ? Thực sự tôi không hiểu điều này có lợi gì cho các ngài?”.
Trịnh Thiệu Đông chỉ vào đĩa thịt hồ ly, cười khan mấy tiếng, “Lợi chính là nằm ở đây. Tôi mới phát hiện ra thịt hồ ly cũng rất được ưa chuộng, có thể chế biến thành đặc sản. Những nhà hàng quanh đây đều đến hỏi tôi. Nếu như do nông trường của chúng tôi lột da, thì riêng lượng thịt tiêu thụ hằng năm cũng có thể kiếm được mười mấy vạn Nhân dân tệ rồi”.
“Hai mươi vạn có đủ không?”
“Năm mươi vạn.”
“Ngài Trịnh, nếu mỗi con hồ ly nặng tám cân, thì bốn nghìn con hồ ly cũng phải khoảng ba mươi nghìn cân thịt. Mùi hồ ly không dễ ngửi, thịt cũng chẳng ngon gì mấy, ngài cho rằng chỗ thịt này có thể dễ dàng bán hết sao? Hai mươi vạn là giá cao nhất. Tôi đảm bảo, cho dù ngài có đi đến từng nhà một chào hàng, cũng tuyệt đối không thể bán hết con số này.”
“Được rồi, bốn mươi vạn, thế nào?”
“Hai mươi vạn, ngài Trịnh. Nếu không, tôi sẽ tìm nông trường khác, bốn nghìn con hồ ly này tôi sẽ không mua một con nào nữa.”
“… Được rồi, hai mươi vạn thì hai mươi vạn. Ngài Hạ Lan, ngài thật là tinh nhanh đó.”
Anh lấy ra tờ ngân phiếu bảo Bì Bì viết số tiền lên rồi đích thân ký tên, sau đó đưa cho Trịnh Thiệu Đông.
Trịnh Thiệu Đông nhìn tấm ngân phiếu rồi lại đưa cho cấp dưới. Sớm đã có công nhân bước vào, đưa cho Dư Man Ninh hai bộ da lông mẫu được chuẩn bị từ trước.
“Ngài Hạ Lan, ngài sờ thử xem, đây là hàng mẫu chúng tôi mới làm xong, nó chứng tỏ công nghệ cao nhất của chúng tôi. Bộ này là hồ ly trắng, bộ này là hồ ly xám. Nếu như ngài yên tâm để chúng tôi lột da ngay tại đây, thì có thể mang những hàng mẫu này và chỗ hàng hiện có đến tham gia cuộc đấu giá quần áo da thút ở Phần Lan và Mát-xcơ-va vào tháng Mười Hai”, Trịnh Thiệu Đông vẫn không muốn từ bỏ ý định, bám riết không buông.
Hạ Lan Tịnh Đình cười, từ chối, “Xin lỗi, tôi muốn đi rửa tay một chút. Có lẽ bà xã tôi sẽ đồng ý xem hàng mẫu thay tôi, cô ấy luôn rất hứng thú với công việc làm ăn của tôi”, dứt lời, anh gật đầu với mọi người, rồi lịch sự rời khỏi phòng ăn.
Nhìn theo bóng lưng anh dần khuất, Trịnh Thiệu Đông lấy ra một dây thước rất tinh tế, nói với Bì Bì, “Bà Hạ Lan, đây là những hàng mẫu lông hồ ly có xuất xứ từ Phần Lan vừa làm xong. Bà hãy xem xem, chất lượng lông này, tính đàn hồi này, độ sáng bóng này. Cùng một hiệu quả làm nở, lông của hồ ly bản địa phải kéo tới năm centimet, còn lông của hồ ly Phần Lan chỉ cần kéo một centimet là được rồi”.
Bất đắc dĩ, Bì Bì đành phải sờ vào bộ lông, rồi bình luận những câu sáo rỗng, “Cảm giác không tồi, làm thành áo khoác chắc chắn sẽ rất ấm”.
“Đúng vậy!”
Ông ta đưa cho Bì Bì một túi đựng quần áo rất lớn, “Chiếc áo khoác này là hàng mẫu do một người bạn của tôi may từ da hồ ly ở nông trường của chúng tôi. Anh ấy làm tất cả ba bộ, cỡ lớn, cỡ vừa và cỡ nhỏ, định tham gia buổi triển lãm quần áo da thú tổ chức ở Cáp Nhĩ Tân năm nay. Tôi thấy bà hợp với cỡ vừa, không bảo thợ may đến lấy số đo, cũng chẳng biết có vừa hay không. Mùa đông cũng sắp tới rồi nên tặng bà trước mặt tránh rét. Ngài Hạ Lan cũng thật là, bạn bè với nhau mà kết hôn cũng không thông báo một tiếng, khiến tôi chẳng chuẩn bị được gì cả. Tôi đang bảo công nhân chọn giúp bà một bộ lông khác, rồi may một bộ theo đúng số đo của bà, chỉ sợ phải hai tháng sau mới hoàn thành được. Món quà nhỏ, không bày tỏ được hết tấm lòng của tôi. Nếu bà Hạ Lan không nhận, thì đúng là chê chúng tôi nông thôn ít học, coi thường chúng tôi rồi”.
Bì Bì lấy chiếc áo khoác trong túi, mở ra trước mặt mọi người, quả là một chiếc áo trắng sáng vừa nhẹ vừa ấm, vô cùng đẹp đẽ.
“Vậy tôi xin cung kính không bằng tuân mệnh, cảm ơn.”
Mọi người tiếp tục dùng bữa. Một lúc lâu sau cũng không thấy Hạ Lan Tịnh Đình quay lại, Trịnh Thiệu Đông bèn lên tiếng, “Sao ngài Hạ Lan vẫn chưa quay lại nhỉ? Có khi nào bị lạc đường không? Có cần bảo người đi xem thế nào không?”.
Bì Bì vội nói, “Để tôi đi xem sao”.
Cô đi một mình tới phòng vệ sinh, tìm thấy Hạ Lan Tịnh Đình đang ngồi ngơ ngẩn trên bồn cầu.
Anh ngồi im ở đó, không một cử động, ánh mắt toát lên vẻ cô độc có từ ngàn năm trước.
Bì Bì nhớ có lần anh đã từng nói, khi còn nhỏ, hễ gặp phải chuyện gì đáng sợ, phản ứng đầu tiên của anh chính là tìm một hang động nào đó có thể trốn. Cho dù bên ngoài có điều gì dụ dỗ, anh cũng nhất quyết không ra ngoài.
“Haizzz”, cô vỗ vai anh, nói khẽ, “Không sao rồi, việc cần bàn thì cũng bàn rồi, đồ cần tặng thì cũng tặng rồi”.
Anh vẫn ngẩn người ở đó.
Một lúc sau, anh bỗng nhiên thở dài một hơi, “Bố anh nói không sai, anh không xứng là một Chủ tế. Anh không muốn nhìn thấy sự tàn bạo của loài người đối với máu của đồng bào anh”.
“Con người thật đáng ghê tởm.”
“Mỗi năm đều có thời gian như thế này. Ông chủ họ Trịnh kia vẫn được xem là văn minh, chưa bao giờ ép anh phải xem hàng mẫu. Nông trường của ông ta cũng được xem là sạch sẽ, có thể nói, trước khi chết, đám hồ ly vẫn được xem là hạnh phúc. Còn những nơi khác… haizzz…”, anh không nói tiếp nữa.
Bì Bì hiểu.
Cho nên với một cuộc làm ăn lớn như thế này, anh lựa chọn đến ban ngày, ban ngày anh sẽ không nhìn thấy thứ gì hết.
“Có lúc anh thấy may mắn vì mình là một kẻ mù”, anh thì thào, “Mỗi năm anh đều cứu hơn một vạn hồ ly ra khỏi nông trường này. Anh cứ nghĩ cuộc sống bên ngoài sẽ tốt hơn trong này, nghĩ rằng anh đang giải phóng cho chúng. Nhưng thực ra bên ngoài cũng đâu phải là thiên đường? Đám hồ ly không có kinh nghiệm sống ở môi trường bên ngoài đại đa số chỉ sinh tồn được trong vòng một năm rồi chết, chúng vùi thân ở chốn thiên nhiên hiểm độc. Nhưng khi anh hỏi bất cứ một hồ ly nào trong đám đó rằng có muốn ở lại đây không, thì chẳng có hồ ly nào muốn ở lại cả… Dù sao chúng vẫn là hồ ly, chúng biết bản thân không thuộc về nơi này. Ngày nào anh cũng tự hỏi, anh làm như vậy có đúng hay không?”.
“Đương nhiên là đúng rồi!”
Anh ngẩng đầu lên, “Tại sao?”.
“Bởi vì hạnh phúc do bản thân mình định nghĩa mà nên. Nếu như chúng cảm thấy cuộc sống bên ngoài hạnh phúc hơn cuộc sống được nuôi dưỡng trong bốn bức tường kín này, vậy thì cho dù ra ngoài cuộc sống có ngắn ngủi đến mấy, chúng cũng sẽ ra đi cùng niềm hạnh phúc, không có gì hối tiếc cả.”
Anh đứng lên, đột nhiên ôm chặt lấy cô, “Bì Bì, chúng ta hãy luôn ở bên nhau từng giây từng phút, như vậy mới có thể nhắm mắt trong niềm hạnh phúc, chẳng có gì phải tiếc nuối nữa”.
Cô cười, nhéo khuôn mặt anh, “Em mới hai mươi mấy tuổi, cái gì mà chết với sống chứ. Hóa ra ngài Chủ tế cũng có lúc buồn thương sầu muộn như vậy”.
Anh ngẩn người, không hiểu, “Buồn thương sầu muộn?”.
“Melancholy [1]. Anh đã đọc thơ của Từ Chí Ma [2] chưa? Có một bài thơ tên là Vịnh về thanh niên:
[1] Melancholy: U sầu, sầu muộn, u uất.
[2] Từ Chí Ma (15/01/1897 – 19/11/1931) là bút danh của Chương Tự, một nhà thơ người Hải Ninh, tỉnh Chiếc Giang, Trung Quốc.
Bên bờ sông buồn thương sầu muộn
Dòng nước chảy bất tận về đâu
Cành củi khô lênh đênh vô định
Chim nhạn lạc đàn kêu thảm thương
… Buồn chán
Vạn vật
Đời người một màu tro xám xịt
Anh cô độc nơi cấm cung cách liệt
Thanh niên
Mục nát thời hoàng kim với quan trường!”
Nhìn điệu bộ đọc thơ khi trầm khi bổng của cô, anh không nhịn được cười.
Ký xong hợp đồng, Trịnh Thiệu Đông hỏi, “Ngài Hạ Lan, ngài đã sắp xếp thời gian chuyển hàng đi chưa?”.
“Tôi đã đặt xong xe rồi. Phiền ngài bảo người đóng lồng lại giúp tôi. Từ đây tôi sẽ chuyển hàng tới Tây An trước bằng đường sắt, sau đó sẽ chuyển hàng từ Tây An đến Cáp Nhĩ Tân.”
“Vẫn cung đường cũ, phải không?”, Trịnh Thiệu Đông cười ha ha, “Việc đóng hàng ngài cứ yên tâm. Đoạn đường từ đây tới Tây An tôi sẽ đích thân phụ trách, cũng đã sắp xếp ổn thỏa đâu vào đấy rồi, tôi chỉ cần thời gian một ngày thôi. Đến Tây An sẽ chuyển sang xe của ngài chứ?”.
“Đúng thế.”
“Bà nhà cũng đi cùng chứ? Đoạn đường này rất vất vả đó.”
“Bà xã tôi chỉ đi cùng tôi tới đây cho khuây khỏa thôi, cô ấy còn có việc cần làm.”
“Tôi có chút thức ăn gia súc, đã chuẩn bị cho ngài một chút dùng trên đường đi. Nói gì thì nói, từ đây đến Cáp Nhĩ Tân cũng phải mất hơn ba mươi tiếng đồng hồ đó.”
“Cảm ơn, không cần đâu, tôi có thể tự chuẩn bị đồ ăn cho chúng được.”
Hai người bắt tay nhau, đột nhiên Hạ Lan Tịnh Đình lại nhớ tới một chuyện, “Đúng rồi, tôi quên mất không hỏi ngài về tình trạng phòng dịch”.
“Việc này còn cần đến ngài giao phó hay sao? Mười lăm ngày trước tôi đã tiêm vắc xin phòng các bệnh Caninedistemper [3] ở chó, viêm ruột non virut và viêm não cho chúng rồi. Giấy chứng nhận đã qua kiểm dịch và giấy chứng nhận khử trùng phương tiện vận chuyển tôi đã làm giúp ngài cả rồi. Gần dây trạm ga tàu hỏa quản lý rất nghiêm, không có hai loại giấy này ngài sẽ không chuyển được hàng đi đâu.”
[3] Là loại bệnh gây chết rất nhiều chó, đặc biệt là chó chưa được tiêm phòng, chó từ ba đến sáu tháng tuổi.
“Ngài Trịnh, ngài chu đáo quá. Những việc ở đây tôi rất yên tâm khi giao cho ngài giải quyết. Chúng ta gặp lại nhau ở trạm vận chuyển hàng hóa Tây An nhé.”
Chiếc xe con của nông trường đưa hai người trở về Tây An. Trên xe không tiện trò chuyện nên vừa về đến khách sạn, đặt hành lý xuống, Hạ Lan Tịnh Đình đột nhiên nói, “Bì Bì, đi dạo cùng anh một lúc nhé”.
“Anh muốn đưa đám hồ ly này tới Cáp Nhĩ Tân thật à?”, giờ khắc chia tay sắp gần kề, không biết tại sao cô cứ nặng trĩu tâm tư suốt dọc đường đi.
“Cụ thể là đến núi Đại Hưng An. Anh có một nông trường ở đó. Một số hồ ly sẽ được thả về núi Đại Hưng An và vùng rừng gần đó. Một số hồ ly còn lại anh sẽ đưa đến Siberia, cuối cùng là đưa đến Bắc cực”, anh nói, “Đây đều là những hồ ly sinh ra và lớn lên trong nông trường, nên khả năng mưu sinh rất kém, bọn anh phải tiến hành huấn luyện cho chúng trước đã. Đồng thời bọn anh cũng không thể thả tất cả đám hồ ly này đến một vùng được, như vậy sẽ làm nhiễu loạn cơ cấu sinh thái ở vùng đó. Cho nên chỉ có thể thả chúng về với tự nhiên theo từng tốp, từng tốp một”.
Bì Bì nhìn anh, hít một hơi thật sâu, “Đến Siberia, chẳng phải anh sẽ phải làm thủ tục hải quan sao?”.
“Anh có đầy đủ tất cả các giấy tờ chứng nhận.”
Đột nhiên cô nhớ ra chiếc áo khoác lông hồ ly, “Anh đem theo chiếc áo này đi. Ở Bắc cực rất lạnh”.
“Đây là món quà Trịnh Thiệu Đông tặng em, em không dùng ư?”
“Em? Sao em có thể dùng được chứ?”, cô thiếu chút nữa nhảy dựng lên, “Đồng bào của anh chẳng phải cũng là đồng bào của em sao? Thậm chí em còn không muốn chạm vào nó”.
“Ha ha”, anh đột nhiên bật cười.
“Anh cười cái gì?”
“Nhanh như vậy đã nhập gia tùy tục rồi? Được đối tốt như vậy anh lại thấy có chút sợ hãi đấy”, anh nói, “Anh không cần chiếc áo khoác này. Nhưng anh sẽ đem nó theo, anh sẽ chôn cất nó ở dòng băng hà nơi Bắc cực… Đây chính là nghi thức của tộc hồ ly bọn anh, cũng chính là tâm nguyện của tất cả những hồ ly khi chết đi. Bọn anh thà chết đói trong cuộc sống tự nhiên hoặc trở thành bữa tối của kẻ thù thiên nhiên, cũng không muốn để con người nuôi dưỡng, sau đó lột da, chết không có chỗ chôn”.
Đột nhiên anh rất kích động, siết chặt nắm tay, đường gân xanh nổi lên rõ rệt.
Hóa ra một Chủ tế ăn thịt người, một Chủ tế luôn điềm đạm cũng có lúc phẫn nộ đến nhường này.
“Haizzz, Hạ Lan”, cô nắm lấy tay anh, khẽ giọng bảo, “Bắc cực chính là quê hương của anh sao?”.
Anh gật đầu.
“Em có thể đi cùng anh không? Em muốn tham quan Bắc cực, nhân tiện có thể giúp được việc cho anh. Lẽ nào chỉ có một mình anh đưa bốn nghìn con hồ ly này đi sao? Như thế rất vất vả.”
Anh cười ra chiều tiếc nuối, đưa tay khẽ vuốt ve khuôn mặt cô, “Anh biết em muốn giúp anh. Nhưng anh là Chủ tế của tộc hồ ly, những việc này là trách nhiệm của anh. Hơn nữa đi theo anh, em sẽ gặp nguy hiểm. Tạm thời anh sẽ không thể chuyên tâm chăm sóc cho em được. Em yên tâm, không phải anh đi một mình, Tu Nhàn sẽ giúp anh. Hiện giờ anh ấy đang đợi anh trong nông trường ở núi Đại Hưng An”.
Bước chân của Bì Bì không kìm được bỗng dừng lại, “Nguy hiểm? Nguy hiểm gì?”.
“Em biết đấy, ba mươi độ vĩ Bắc về phương Nam là địa bàn của anh, nhưng nơi anh muốn đến lại là địa bàn của Triệu Tùng. Anh và anh ta có khúc mắc, mấy năm gần đây xích mích tương đối lớn.”
“Vậy anh ta có làm hại anh không?”
“Bọn anh cũng đã mấy lần va chạm, nhưng va chạm trên địa bàn của anh. Trước mắt anh ta vẫn chưa thắng được khả năng của anh.”
Bì Bì cảm thấy khi nói chuyện, Hạ Lan Tịnh Đình rất để ý ngôn từ. Anh rất cẩn thận, tránh dùng đến cụm từ “đánh nhau”. Nhưng cô nhanh chóng nhớ đến buổi biểu diễn của A Quy, anh đã bị thương. Mấy ngày gần đây trên người anh cũng có một vài vết thương, mặc dù không thấy rõ nhưng chắc chắn nội thương rất nặng, song anh chẳng hề bận tâm mà vẫn thân thiết với cô. Nếu như không phải công lực giảm sút, thì anh đã chẳng phải lo lắng đến điều này rồi.
“Anh ta muốn tiêu diệt anh để có thể thống nhất tộc hồ ly, đúng không?”
Chần chừ một lúc, anh mới nói, “Chuyện này rất phức tạp, đã vướng mắc mấy trăm năm rồi, liên quan đến rất nhiều vấn đề đan xen, em không nên biết quá nhiều thì hơn”.
Bì Bì trừng mắt với anh, “Hóa ra tộc hồ ly của các anh cũng trọng nam khinh nữ giống như con người hả. Các anh cho rằng phụ nữ biết càng ít thì càng an toàn ư?”.
“Không phải anh có ý đó, chỉ là không muốn em tham dự vào những chuyện này”, anh bình tĩnh giải thích, “Em còn có việc của em, em nên tập trung vào việc thi cử thì hơn”.
Hai người đi qua một khu dân cư. Một nhà có khoảnh vườn vô cùng lớn phía sau, bên trong trồng đầy hoa tươi, muôn vàn màu sắc. Hạ Lan Tịnh Đình đột nhiên dừng bước, hít một hơi thật sâu, “Bì Bì, ở đây có hoa”.
“Đúng vậy, không biết hoa ai trồng, nở đẹp quá, chắc chắn là không bón phân hóa học.”
Anh như cố níu lấy hương hoa trong không trung, “Hoa cúc, hoa chuối tây, hoa sơn trà, hoa thục quỳ, còn có cả hoa hồng nữa. Hoa hồng màu gì vậy?”.
Bì Bì kiễng chân nhìn vào, “Có màu đỏ và màu trắng. Hoa hồng ăn có ngon không?”.
“Rất ngon.”
Cô bỗng nhớ ra, ngoài uống nước, dường như cả ngày anh chưa ăn gì, vội vàng hỏi, “Ừm, anh đói chưa?”.
“Hơi hơi, chúng ta phải đi tìm người chủ trồng hoa…”
“Không cần đâu, anh cứ đợi ở đây nhé”, cô thoăn thoắt trèo từ bên ngoài vào trong, sau đó lại trèo ra với một bó hoa hồng. Bức tường rào thấp cắm đầy thủy tinh. Bì Bì chỉ nghĩ tới việc hái hoa nên khi trèo ra bên ngoài cô không cẩn thận bị thủy tinh cứa một nhát.
“Đây, đây là hoa hồng, có rất nhiều hoa, anh ăn đi.”
“…” Hạ Lan Tịnh Đình ngẩn người hồi lâu, “Em… lấy trộm hoa ư?”.
“Đúng, em hái trộm đó.”
“Làm như thế này có được không?”
“Đương nhiên là không được rồi, đối với con người mà nói hành động này là không tốt”, hai bàn tay Bì Bì mở ra, “Nhưng mà anh đâu phải là người”.
“Ồ, tin anh đi, về vấn đề đạo đức, hồ ly cũng mẫn cảm như con người vậy”, anh lấy ra hai tờ tiền rồi viết bút bi lên trên đó: “Xin lỗi, chúng tôi đã lấy hoa của ngài”.
Anh không nhìn thấy chính hàng chữ mình viết, một vài chữ không nằm cùng trên một hàng, có hai chữ chồng lên nhau. Song vẫn có thể đọc được. Anh đặt tờ tiền trước cửa nhà người trồng hoa nọ với một hòn đá chặn lên trên.
Sau đó, anh đột nhiên chau mày, “Em bị chảy máu à?”.
“Ngón tay bị đứt chút xíu, không sao đâu.”
Cô vội giấu tay sau người, nhưng lại bị anh kéo ra đưa vào miệng mình.
Khuôn mặt cô bất chợt ửng hồng, muốn rút tay về nhưng bị anh giữ thật chặt.
“Cần… cần lâu như vậy sao?”
“Cần phải cầm máu, đúng không?”, anh không đeo kính đen, ánh mắt nhìn cô lạnh lẽo mà vô định.
Nhưng cô vẫn luôn cảm thấy ẩn sâu trong đôi mắt ấy là một ngọn đèn đang lóe sáng.
Trước mắt là một công viên, hai người thả mình xuống bãi cỏ xanh. Hạ Lan Tịnh Đình ngắt từng cánh hoa cho vào miệng mình thưởng thức. Anh ăn rất nhiều, rõ ràng là đang rất đói.
“Có ngon không?”
“Rất ngon, không có chất phụ gia hóa học, rất ngọt, rất giòn, em có muốn thử một chút không?”
“Được.”
Cô liền ngắt một cánh hoa, đưa vào miệng nhai, cảm thấy không ngon như mình tưởng tượng. Chua chua, chát chát lại đăng đắng. Cô cố gắng nuốt xuống, rồi làm mặt quỷ, “Không ngon”.
Anh khẽ cười.
“Em muốn hỏi anh một chuyện”, cô gối đầu trên cánh tay anh, ánh mặt trời ấm áp xuyên qua tàng cây chiếu xuống, cô bèn lấy áo choàng che mắt lại, “Tổng cộng em có tất cả bao nhiêu kiếp trước?”.
“Anh chưa đếm bao giờ.”
“Không thể nào”, cô phản bác, “Được rồi, trả lời em một câu hỏi khác. Em chưa từng yêu anh, cũng chưa từng kết hôn với anh lần nào, vậy tại sao anh có thể tìm thấy em?”.
“Em biết không, linh hồn cũng có mùi vị đó.”
Cô ngẩn người, sau đó lắc đầu không tin.
“Linh hồn cũng có mùi vị. Khi em đi lại, những nơi linh hồn của em đi qua sẽ tràn ngập mùi vị riêng biệt của em. Chỉ cần em còn giữ lại một chút ký ức, cho dù là những ký ức mong manh, vụn vặt, khi em nhớ đến anh, anh sẽ lần theo gió đến tìm em”, ánh mắt anh mông lung hướng lên bầu trời, như thể suy nghĩ đang bay đến một nơi nào xa lắm.
Sau đó, anh đột nhiên nhắc lại chuyện xưa.
“… Hôm đó, anh bảo em hãy trốn yên ở đấy, đừng ra ngoài. Khi nào anh cùng đám người kia rời đi rồi em hãy chạy trốn tiếp. Cho dù em có chạy đến đâu, anh cũng sẽ tìm được em.”
Cô nhắm nghiền đôi mắt, bên tai bỗng vọng lại tiếng mưa rơi.
“Hôm đó trời mưa ư?”
… “Trời mưa rất to. Cơn mưa to gột rửa đi mọi mùi vị. Chúng ta rất đói, trốn trong hang núi, không dám lên tiếng, cũng chẳng dám ra ngoài. Người của bố anh đang ở quanh đấy. Em đói đến mức thậm chí còn bắt cả con sâu trên đất lên ăn, còn nói với anh rằng rất ngon”, anh như đang chìm sâu vào ký ức cùng những lời nói mê, “Anh biết người họ muốn bắt là em, cho nên anh đã lặng lẽ chuồn ra ngoài, muốn dụ họ đi xa nơi ấy. Anh nói với em, dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì, em cũng không được ra. Bố anh sẽ không giết chết anh đâu”.
… “Cuối cùng em vẫn bị trúng kế. Người của bố anh nói, hắn ta đếm đến mười, nếu em không ra, hắn ta sẽ giết chết anh. Hắn ta vừa đếm thì em đã ra rồi… Em thật ngốc.”
… “Hôm hành hình, em cắn chặt răng, không hề lên tiếng. Em cho rằng anh không nhìn thấy, không nghe thấy thì sẽ dễ chịu hơn một chút sao? Em có biết trên thế giới này có một thứ gọi là tưởng tượng không?”
Chưa bao giờ Bì Bì nhìn thấy khuôn mặt anh trắng bệch, hàm răng cắn chặt, toàn thân run rẩy, mồ hôi lạnh đầy trán như lúc này.
“Haizzz…”, cô nắm lấy bàn tay anh, “Anh hãy nghĩ thoáng ra, tất cả đã qua rồi. Mấy trăm năm đã qua rồi. Anh là một Chủ tế rất bận rộn, vì sao cứ phải nhớ tới sự việc ngày hôm ấy chứ? Em là Tuệ Nhan cũng được, không phải cũng được, nhưng em cần khai thông cho anh: Cuộc sống này rất đẹp đẽ, tương lai muôn phần tươi sáng. Anh đừng dừng mãi ở quá khứ như vậy. Lời em nói anh có muốn nghe không?”.
Bì Bì cảm thấy khi nói những lời này ra, khẩu khí của cô thật giống với giáo viên hướng dẫn cô thời sinh viên.
Anh ngồi thẳng người lên, nói, “Từ trước đến giờ anh đều muốn nghe lời em nói”.
“Vậy thì tốt, vậy thì tốt”, công cuộc dẫn dắt tâm lý nhanh chóng hoàn thành, Bì Bì có cảm giác thành tựu.
“Em từng nói, nếu như xảy ra chuyện gì, em sẽ đợi anh ở kiếp sau, bảo anh nhất định phải đến tìm em”, anh ôm lấy cô, khẽ đặt nụ hôn lên khuôn mặt cô, “Lời em nói, làm sao anh có thể quên chứ? Anh sẽ mãi mãi ghi nhớ!”.
“Hạ Lan”, Bì Bì khẽ khàng đẩy anh ra, “Câu chuyện của anh em rất cảm động, nhưng em thực sự không phải là Tuệ Nhan, em là Bì Bì. Em biết anh rất nhớ cô ấy, nhớ đến phát điên. Thế nhưng, em là chính em, em không thể vì anh mà đóng vai một người khác. Em không thể, cũng không biết. Em chỉ là một nhân vật nhỏ bé, song em cũng là một nhân vật chính trong cuộc đời của em. Em không thể sắm vai một nhân vật nào đó trong câu chuyện của người khác, cho dù làm vậy sẽ có lợi và được ủng hộ nhiều như thế nào. Em không có cách nào để phối hợp với anh được, Hạ Lan. Xin anh tha thứ cho em”.
Giữa hai người bọn họ đột nhiên xuất hiện chút yên ắng lạ thường. Sau đó, Hạ Lan Tịnh Đình bỗng cười thoải mái, rồi đứng dậy, chỉnh lại quần áo giúp cô, “Xin lỗi, anh sai rồi. Hôm nay là ngài vui của chúng ta, anh không nên nhắc tới người con gái khác với em. Anh sẽ đền bù cho em”.
Bì Bì ngẩng đầu cười nói, “Đền bù cho em như thế nào đây, ngài Chủ tế?”.
“Đối với tộc hồ ly bọn anh, tuần trăng mật không phải chỉ là dịp chồng đưa vợ đến một nơi có phong cảnh vô cùng đẹp để nghỉ ngơi”, anh khẽ ôm lấy bờ vai cô, “Tuần trăng mật ý chỉ người kia có khả năng khiến bạn cảm thấy đang hưởng tuần trăng mật cho dù ở bất cứ nơi đâu”.
Hai người trở về khách sạn, chìm trong niềm hoan lạc không kể sớm chiều.
Anh ôm cô trong lòng, cọ cằm vào mặt cô, “Quan Bì Bì, em có phải là vợ của Hạ Lan Tịnh Đình không?”.
Cô trả lời thật lớn, “Phải!”.
“Quan Bì Bì, em có yêu anh không?”
“Yêu!”
Cuối cùng, cô mệt đến mức ngủ thiếp đi, khi tỉnh lại bỗng phát hiện bản thân mình đang nằm gọn trong một thứ gì đó mềm mềm mà ấm áp.
Đó chính là một cái đuôi hồ ly màu trắng như tuyết.
Cô không hề cảm thấy giật mình.
“Chỉ thế này thôi sao?”, cô lần theo chiếc đuôi sờ lên trên, chỉ thấy thân thể của một người đàn ông.
“Chỉ thế thôi. Chẳng phải em muốn biết dáng hình anh như thế nào sao? Dáng hình anh là thế này đó”, anh uể oải trong cơn buồn ngủ.
“Những bộ phận khác đâu?”, cô nhìn chăm chú vào khuôn mặt anh, khuôn mặt của con người, hoàn mỹ chẳng chút tì vết.
“Không có.”
Chiếc đuôi đưa lên, khẽ phủi phủi, tựa nhưa cái phất trần quét qua quét lại trên cơ thể chẳng mảnh vải che thân của cô.
Cô ôm chặt chiếc đuôi vào lòng, “Thật đáng yêu, em rất thích nó”.
“Ừm, nếu như anh chết, nhất định anh sẽ tặng lại nó cho em để làm khăn quàng.”
Chiếc đuôi biến mất trong chớp mắt, anh khoác chiếc áo ngủ ngồi dậy, “Sáng nay em muốn ăn gì?”.
Bì Bì dụi dụi mắt, nhìn chăm chú vào chỗ chiếc đuôi vừa biến mất, rồi lại sờ tay vào đó nhưng vẫn chẳng thấy gì, “Có phải vừa rồi em nằm mơ không?”.
Cô bỗng nhớ đến câu chuyện Trang Chu mộng hồ điệp [4], “Có khi nào em vẫn luôn ở trong giấc mơ?”.
[4] Là tên người ta đặt cho một đoạn văn trong sách Trang tử của Trung Quốc. Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu.
Anh bỗng khựng lại một chút, “Rất có thể”.
“Ơ, ngài trước anh nói, anh không hiện được lại nguyên hình kia mà?”
“Anh lo em sẽ sợ.”
“Em không sợ, em có thể nhìn chiếc đuôi của anh thêm một chút nữa không?”
“Nhìn bao lâu?”
“Nửa tiếng nữa, được không?”
“Chiều em một lần cuối cùng đấy, cô bé”, chiếc đuôi lại vươn tới, bao trọn rồi quấn chặt lấy cô.
“Anh làm gì vậy… buộc người ta như buộc bánh chưng ấy.”
“Khi nào anh hoàn thành công việc trở về, ngày ngày anh sẽ trói chặt em bên cạnh anh như thế này…”
Bình luận facebook