-
Chương 3: Trầm Mộng �? Sao rơi[1]
[1] Vợ của Thâm Hoằng tên Tố Nhược Tinh, mà tinh nghĩa là ngôi sao.
Rất có thể có người cảm thấy, để Đoan phi sống thêm năm năm là đã hết lòng với nàng. Một đêm của mùa xuân năm sau, Đoan phi đi ngủ như thường lệ, ngày hôm sau không thấy tỉnh lại. Không chỉ các cung nữ luống cuống tay chân mà ngay cả Thâm Hoằng cũng đột nhiên cảm thấy không biết làm sao. Thành Tuyên chỉ có một thầy thuốc cấp cứu già hoa mắt ù tai nhưng lão cũng bó tay chịu trói đối với tình trạng của Đoan phi.
Bất kể người xung quanh mình đi đi lại lại rối ren thế nào, Thâm Hoằng vẫn đứng ở màn ngoài chiếc giường của Đoan phi. Một chiếc màn giường tách ra hai thế giới. Đoan phi bên trong yên lặng như thế, tựa như hồn phách đang khoan thai tiến về một nơi yên tĩnh khác ở phía trước, một nơi càng trống trải tịch mịch hơn cung Ly. Gió xuân ấm áp thổi vào song cửa sổ, Thâm Hoằng chỉ cảm thấy lạnh lẽo. Hơi thở quen thuộc trong gió làm cho tinh thần cậu chấn động, chợt nhớ tới điều gì, hành lễ cáo từ một cách trang trọng với Đoan phi trong màn che.
Cả đường Thâm Hoằng chạy băng băng, đi tới bên hồ ngoài cung Ly, ở chỗ này, cậu từng gặp một chàng trai áo xanh thần bí, muốn cho phép một năm nguyện vọng của cậu trở thành sự thật.
“Này.” Thâm Hoằng đứng ở bờ nước, quan sát cái bóng trong ánh sóng lăn tăn: “Thật sự có thể thực hiện sao?”
Chàng trai áo xanh mỉm cười trong sóng gợn: “Chỉ cần người bằng lòng trả giá thật lớn thì không có gì không thể thực hiện.”
“Sao tôi phải tin anh?” Thâm Hoằng không an lòng: “Nếu như không thể thực hiện nguyện vọng của tôi, tôi phải đi đâu để đòi anh trả lại hai mươi năm đây?”
Chàng trai áo xanh cười ha ha: “Có câu ‘làm việc nghĩa không được chùn bước’. Khi người cầu nguyện phải hạ quyết tâm, hai mươi năm chính là đồ tế,, tuyệt đối không thể lấy lại được. Chỉ có như thế, người mới xứng đáng đạt được thứ mình chờ mong.”
Thâm Hoằng ngơ ngẩn đứng ngây người trong khoảnh khắc, gật đầu một cái nói: “Tôi đã quyết rồi.”
“Vậy thì từ hôm nay.” Gợn nước khẽ lay động, hình bóng tan biến.
Mắt Thâm Hoằng hoa lên, chăm chú nhìn lại, chỉ thấy một mảng rêu tối tăm sâu trong nước mà không tìm thấy chàng trai nào. Lòng cậu đâm lo lắng thấp thỏm, không biết đây có phải giấc mộng Nam Kha[2] hay không. Đang ngẩn ngơ chợt nghe có người gọi mình: “Điện hạ! Điện hạ!”
[2] Giấc mộng Nam Kha: giấc mơ hão huyền, dựa theo tích: chàng trai họ Thuần nằm ngủ dưới gốc cây hoè, mơ thấy mình được lấy công chúa và được bổ làm thái thú ở quận Nam Kha, mừng quá bừng tỉnh dậy thì mới biết đó chỉ là giấc mơ.
Phương Loan chạy tới với khuôn mặt mừng rỡ, rõ là đang vui sướng nói: “Đoan phi nương nương tỉnh lại rồi ạ!”
Thâm Hoằng lặng lẽ gật đầu. Gió gợn hồ nước cách đó mấy bước, tiếng róc rách giống như đang thay một người núp nơi đáy nước người cười to mãn nguyện. Còn cậu bất kể thế nào cũng không cười nổi: cậu chờ mong Đoan phi tỉnh lại, nhưng cũng hiểu nàng vừa tỉnh lại thì nhất định sẽ có một người khác vĩnh viễn ngủ say…
Sau khi Đoan phi tỉnh lại, nhanh chóng đoán ra cung nữ thừa dịp ban đêm nhỏ độc trên gối của nàng, sau đó cung nữ ấy liền mất dạng. Thâm Hoằng không hỏi cũng biết: ả đã đến nơi Đoan phi vốn nên đến.
Cho dù là lúc Đoan phi yếu ớt nằm trên giường, trên mặt vẫn treo nụ cười ung dung. Khi nàng ngày càng khỏe lại thì nụ cười càng tràn ngập ánh sáng thắng lợi. Có một hôm nàng vẫy tay với Thâm Hoằng, gọi cậu tới bên cạnh, lấy ống trúc xanh nho nhỏ từ trong tay áo ra.
“Điện hạ mời xem. Đây chính là thuốc độc thiếu chút nữa khiến thiếp mất mạng, nó tên Trầm Mộng.” Đoan phi mở ống trúc dài ba tấc ra, nhanh chóng chấm một cái lên trên bàn, lưu lại một giọt nước tròn trong suốt, “Dính vài giọt ở bên trên gối vải thì không bao lâu sẽ biến thành chất độc mờ mờ, mãi không tan. Người sau khi hít vào, chẳng mấy chốc sẽ bị chết. Nếu như khi đó đang trong giấc mộng thì sẽ chết không hề hay biết.”
Thâm Hoằng nhìn chằm chằm giọt nước khúc xạ ra ánh nắng bảy sắc, thấy nó linh động đáng yêu như có sinh mệnh. Một trận gió thổi tới, phút chốc nó liền biến mất, chỉ giữ lại một vết tích đậm màu trên bàn.
“Đây là giọt cuối cùng, không mấy nguy hại.” Đoan phi phất ống tay áo, xua hết mùi còn lại của Trầm Mộng: “Cả ống đầy lúc trước đều đã dùng trên gối của thiếp rồi.”
Thâm Hoằng đã biết nhưng vẫn đặt câu hỏi: “Đã là như thế, sao nương nương có thể tỉnh lại?”
Đoan phi cũng không chắc chắn, chần chừ nói: “Có lẽ là bởi vì… trước đây thiếp đã từng ngửi mùi này mấy lần, quá quen thuộc với nó rồi, nó không làm tổn hại thiếp được nữa.”
Nàng không nói vì nguyên do gì mà đã từng ngửi. Nhưng Thâm Hoằng đoán được: nếu nàng còn êm đẹp ở đây, vậy mấy lần ấy nhất định là có người bên cạnh không thể tỉnh lại.
Nàng nghiêng đầu cười xinh đẹp với Thâm Hoằng: “Điện hạ đã nhớ mùi này chưa?”
“Đã nhớ.” Thâm Hoằng thu sắc mặt lại, trịnh trọng trả lời.
Đoan phi nhẹ nhàng vuốt cằm nói: “Về sau dù là trong mộng có mùi thơm này cũng phải lập tức tỉnh lại… Chỉ mong điện hạ trọn đời không ngửi thấy nữa.”
Thâm Hoằng cúi đầu xuống, thấp giọng hỏi: “Nương nương, người tin nhân quả trong kinh Phật nói không? Tất cả hành động lời nói ắt phải trả giá đắt.”
Đoan phi lặng lẽ nhìn con trai chăm chú, vẻ mặt lạnh lùng nghiêm nghị.
“Con sẽ còn ngửi thấy… Đó là những người không tỉnh lại đòi nợ nương nương đấy.” Thâm Hoằng nói.
Đoan phi hơi kinh ngạc nhìn con mình, bỗng che miệng cười rộ lên: “Điện hạ, nếu như bị ý nghĩ ngu xuẩn trong đầu ấy ràng buộc thì chiến sĩ không còn cách nào cầm lấy kiếm chứ chưa nói đến vùng vẫy về phía kẻ địch. Người phải đối mặt với cảnh tàn sát vô tình nhất trên đời, thứ người nên kiêng kỵ không phải những người đã chết mà là kẻ còn chưa chết kìa.”
Thâm Hoằng không tranh cãi với nàng.
Trên thực tế, sau khi cậu thắng lợi trong cuộc tàn sát, Đoan phi mang ống trúc xanh về cung đình, từ đó về sau mùi thơm của Trầm Mộng ở trong cung đình của Thâm Hoằng bồng bềnh không tan. Nhưng cậu vẫn còn sống, chỉ liên tục mất đi trong mùi hương ấy, mất đi những đứa con của cậu và mất đi những thiếu nữ có mang cốt nhục của cậu.
Nhiều năm về sau khi Thâm Hoằng ngồi yên trên ngai vàng, thỉnh thoảng sẽ cảm thấy vô vị. Hắn không còn trẻ nữa, cái cung đình này cũng đã trải qua biết bao gian khổ. “Phương Loan…” Giọng của hắn khản đặc: “Quả nhiên là như vậy sao?”
Phương Loan đã có tuổi, thái độ càng trầm ổn hơn lúc trẻ. “Thái hậu Khang Dự đã từng dạy nô tỳ làm thế nào để phân biệt tàn tích của Trầm Mộng.” “Khang Dự” là thụy hiệu[3] của Đoan phi.
[3] Tên sau khi mất của vua quan.
“Sau khi thiếp dùng nước ngâm qua quần áo của tài viện nương nương, thấy cổ áo lưu lại mảng lớn vết tích.” Phương Loan nói.
“Có chuyện như vậy…” Thâm Hoằng thong thả nói, trước mắt dường như thấy Văn tài viện xinh đẹo khóc lớn kêu oan trước mặt hắn. “Bệ hạ, thiếp không phải gián điệp! Thiếp không hề ngầm thông đồng với nước Nam.” Nàng la xong thì ngất không dậy nổi, mắt không mở nữa. Tài viện họ Văn lanh lợi ấy vốn là nữ quan dâng hương trong cung của hoàng hậu Tố Nhược Tinh, là một kẻ nô bộc chuyển hương cho hoàng hậu thôi mà lại mượn cơ hội gần gũi Thâm Hoằng, trong một đêm được phong làm Văn tài viện. Chắc là hoàng hậu sẽ không cho phép người bên cạnh lấy nàng làm hòn đá kê chân đâu.
Phương Loan nói: “Hai vị cung chính của Cung Chính Ty phụ trách thẩm tra chuyện này là người của hoàng hậu nương nương, chỉ sợ sẽ vô trách nhiệm.”
Thâm Hoằng trầm mặc rất lâu mới trả lời lơ đãng: “Trước đây tài viện phản bội nàng… Đây là cái giá nàng phải trả.”
“Bệ hạ có biết Văn tài viện đã mang thai không ạ?” Phương Loan trầm giọng hỏi. Thâm Hoằng nháy mắt giật mình, không nói gì thêm. Ngày đó bước chân hắn đi trong cung đình nặng nề hơn nhiều, nhưng vẫn bất giác đi tới cung Đan Xuyến.
Người con gái bên trong vẫn mỹ lệ như trước, tựa như vì sao giữa ban ngày dám tranh với vầng thái dương. Trong lúc trăm sao quỳ lễ với hắn, nàng là ngôi sao duy nhất thản nhiên toả ra hào quang của chính mình. Thâm Hoằng đưa mắt nhìn người phụ nữ này, nàng cũng không nói mà nhìn lại hắn. Rất lâu sau đó, Thâm Hoằng bảo: “Hương là thứ dùng để kính Phật, tuyệt đối không thể để trong cung đình của ta xuất hiện mùi hương ác độc.”
Mắt Hoàng hậu Tố Nhược Tinh thoáng tối sấm, không trả lời.
Đáng tiếc hắn tỏ rõ thái độ cũng không thể ngăn cản Trầm Mộng, nó vẫn giống như cơn ác mộng bồng bềnh ở chốn thâm cung.
Vì vậy hắn lại khoanh tay đứng nhìn một cô gái trẻ tuổi chết đi trong mùi hương vấn vít.
“Phương Loan…” Lần này đây, hi vọng trong lòng Thâm Hoằng còn dư lại không nhiều.
Tiếng Phương Loan vẫn bình ổn như trước: “Trên cổ áo thuần viện nương nương…”
“Diễn lại trò cũ?” Thâm Hoằng lắc đầu: “Hoàng hậu không phải kiểu người như thế.”
Phương Loan nhìn thoáng qua vị vua của mình, nói: “Nhưng trong hậu cung chỉ có họ Tố của Thái An biết cách điều chế Trầm Mộng.” Còn hoàng hậu Tố Nhược Tinh chính là Tố thị của Thái An, cháu gái ruột của thái hậu Khang Dự.
“Vậy ư?” Thâm Hoằng nhíu mày. Phương Loan thấy thế, thong dong nói: “Mấy năm trước tể tướng đại nhân từng được hoàng hậu phó thác làm một lần, quả thực ngài ấy cũng biết cách điều chế nhưng ngài ấy không hề rơi vào việc này.”
Ai có thể khẳng định tể tướng không nguyện vì hoàng hậu làm đến bước kia chứ? Hắn gần như có thể vì Tố Nhược Tinh làm bất cứ chuyện không thể nào. Thâm Hoằng nhắm mắt lại suy nghĩ, phất tay nói: “… Ta biết rồi.”
Phương Loan quỳ lạy hành đại lễ xong, lặng yên không một tiếng động lui ra bên ngoài căn phòng bí mật.
“Bà Cư.” Thâm Hoằng gọi một tiếng: “Đến nay ta vẫn không thể xác định người có hay hận nàng ấy hay không.”
“Nàng ấy?” Phương Loan xoay người lại, cười dịu dàng: “Bệ hạ cho rằng thiếp sẽ vì tể tướng mà hận hoàng hậu ư? Tể tướng và thiếp tuy có tiếng là vợ chồng, ở cùng một nhà nhưng ngài ấy chỉ là hàng xóm của thiếp, sống cùng một chỗ lại không thấy được tường mà thôi.” Bà dứt lời thì hạ thấp người cáo lui.
Thâm Hoằng ngồi xuất thần một lát rồi lại đi tới cung Đan Xuyến. Dường như đã mấy ngày chưa tới, ngay cả mặt của hoàng hậu ở trong mắt cũng như xa lạ.
“Rất lâu rồi bệ hạ chưa tới.” Tố Nhược Tinh cười nói: “Nhưng thiếp thà rằng ngày hôm nay không có phần vinh hạnh này.”
Thâm Hoằng mỉm cười trông người vợ đã bầu bạn hai mươi năm.
“Bệ hạ tới là vì hoài nghi chứ không phải để rửa sạch hiềm nghi cho thiếp.” Nàng cười khổ, đẩy một cái hộp nhỏ trong tay tới trước mặt hắn: “Cái khóa đồng tâm này một khi khóa lại, phải hai chìa khoá cùng sử dụng mới có thể mở ra.” Nàng nói rồi gỡ chìa khóa bạc từ trên cổ xuống tra vào một lỗ khóa: “Bệ hạ, của người đâu?”
Thâm Hoằng lặng lẽ cởi chìa vàng trên cổ xuống.
Khóa đáp tiếng mở ra, trong khe hở nối giữa nắp và thân hộp có vết bụi nhỏ, xác nhận đã lâu không mở ra. Trong hộp có nhánh trúc xanh, còn có một xấp giấy đã xếp gọn, Thâm Hoằng thấy liền cảm thấy buồn bã.
“Đều ở chỗ này…” Nàng nói: “Nếu người lựa chọn không tin, thiếp cũng đành chịu.”
Không tin ư? Thâm Hoằng nhìn người phụ nữ mỹ lệ đa cảm này, mỉm cười an ủi nàng. “Là ta không tốt…” Hắn không đầu không đuôi nói.
Có lẽ nàng hiểu sai ý, liếc mắt nặng tình cảm kích nhìn hắn.
Nhưng hắn không hề nói mình không nên hoài nghi nàng… Hắn không tốt ở ý nghĩ quyết tâm không muốn vô dụng hai mươi năm trước, sau này lại để nàng và hắn tin tưởng lẫn nhau, bạc tình thì khó, đa tình lại nhiều. Vậy nên ánh mắt trong sáng như bóng trăng dưới suối mới trở nên hùng hổ dọa người như thế.
Khi xưa hắn tin tưởng thiếu nữ có một đôi mắt mỹ lệ ấy, bây giờ không thể tin người phụ nữ do hắn lập nên này.
“Nhược Tinh.” Hắn nói khẽ: “Nàng từng nói chuyện thú vị duy nhất trên đời chính là trở thành chủ nhân của cung Đan Xuyến. Bây giờ còn cảm thấy thú vị không?”
Ánh mắt Hoàng hậu Tố Nhược Tinh lập tức lấp lánh, chợt ngửa đầu cười đáp: “Chỉ có những chuyện chưa làm được mới thú vị.”
Lòng Thâm Hoằng chùng xuống. Lời nói giống nhau như đúc, khi nàng ở nơi thảo nguyên gió nổi bốn phía cười nói ra lời ngây thơ mà tràn đầy lý tưởng. Lần đầu tiên nghe được khiến hắn cảm thấy trong lòng rung động, bây giờ chỉ làm hắn thấy đáng sợ.
Lần đầu tiên Tố Nhược Tinh lộ diện ở thành Tuyên, đột nhiên lại đặc biệt thế nào, trọn đời Thâm Hoằng không thể nào quên.
Hôm ấy là ngày mùng sáu nào đó của mùa hè. Nhớ mang máng là ngày mùa hè mát mẻ sau một trận mưa to, Thâm Hoằng không nhớ rõ lắm, hình như hôm ấy, tất cả ngoại trừ nàng đều mờ nhạt, chỉ có nàng là rõ nét.
Mờ nhạt thì mờ nhạt, song khó có thể hoàn toàn quên đi. Thâm Hoằng nhớ, một người trung niên nhảy xuống từ xe ngựa của vương phủ Thái An, sau đó một cậu chàng thanh tú cũng theo xuống. Người trung tuổi có thân hình khôi ngô cao lớn, phong thái bất phàm, còn thiếu niên kia không cao lắm, lanh lợi tuấn tú. Lúc Thâm Hoằng thấy bọn họ quỳ xuống trước mặt Đoan phi thì nghĩ thầm: đúng là tổ hợp kỳ diệu.
Đoan phi vừa thấy người đàn ông trung niên thì vui mừng từ tận đáy lòng. Ngay cả Thâm Hoằng cũng nhận thấy rõ ràng nàng thật lòng vui sướng. “Tích Kim!” Nàng nhiệt tình gọi tên của đối phương khiến Thâm Hoằng ở bên cạnh hết sức kinh ngạc.
“Tiểu nhân Lý Tích Kim bái kiến Lương vương điện hạ, Đoan phi nương nương.” Lúc người trung niên ngẩng đầu lên, hai mắt lộ ra ánh sáng ôn hòa kiên định. Thâm Hoằng vừa thấy cặp mắt kia đã cảm thấy không thể chán ghét ông.
“Đây là người có năng lực trong đời thứ sáu của họ Lý ở Phồn Dương.” Lúc Đoan phi giới thiệu với Thâm Hoằng, trong giọng nói để lộ ý khác. Thâm Hoằng liếc nhìn Lý Tích Kim. Họ Lý dòng dõi ở Phồn Dương lấy kiếm thuật để vang danh, một người như vậy xuất hiện ở đây dĩ nhiên không phải tới uống trà ôn chuyện. Cậu sẽ trở thành học trò của người này.
“Tiểu nhân nhận sự gửi gắm của quận vương Vĩnh Ninh, đến thăm Lương vương điện hạ và nương nương.” Cách dùng từ của Lý Tích Kim ngắn gọn mà cẩn thận.
Đoan phi gật đầu, không nói thêm gì mà chỉ hỏi: “Bây giờ có quá muộn không?” Cặp mắt của Lý Tích Kim quan sát tỉ mỉ trên người Thâm Hoằng một hồi, cười trả lời: “Đối với Lương vương điện hạ mà nói, vậy là đủ rồi.”
Thâm Hoằng vì vậy mà thở phào nhẹ nhõm. Một năm mười ba tuổi này của cậu, tuy là học được từ chỗ Hàm Huyền một chút da lông nhưng ngay cả chính mình cũng không có lòng tin có thể học kỹ thuật dùng kiếm cho tốt. Có điều người thầy này lại có lòng tin với cậu, cho là cậu có thể học được nhiều thứ hơn, đối với một học trò là vương gia mà nói cũng đủ dùng. Điều càng khiến Thâm Hoằng cảm thấy nhẹ nhõm hơn là: bản thân có thể không tốn chút sức nào đọc hiểu cuộc đối thoại của bọn họ, mặc dù cuộc đối thoại của những người lớn này đã cẩn thận bóng gió.
Cùng lúc đó cậu cũng phát hiện: đứa nhỏ bên cạnh Lý Tích Kim cũng có thể nghe hiểu được chuyện mà những người lớn đang nói, hắn đang mỉm cười với Thâm Hoằng như là chúc mừng, còn mang theo vui sướng xuất phát từ lợi ích riêng. Tim Thâm Hoằng chợt đánh thót một cái, cảm thấy đứa nhỏ này có một khuôn mặt tươi cười, sáng sủa hơn tất cả bốn bề. Cậu không biết đây là ai, Đoan phi cũng không biết. Nàng hỏi: “Tích Kim, đứa bé này là?”
“Là học trò hiện tại của tiểu nhân.” Lý Tích Kim cung kính trả lời, vẫn tiếc chữ như vàng: “Nó không có nơi nào để đi nên tiểu nhân đi tới đâu đều mang theo nó.” Đoan phi “à” một tiếng, không hỏi thêm nữa.
Ngày đó trong cung Ly cử hành lễ bái sư thuờng dùng cho các hoàng tử. Điều khiến Thâm Hoằng cảm thấy không yên là ánh mắt của Đoan phi hiện ra ánh sáng lấp lánh khi họ nhìn theo người đàn ông từ xa tới này. Thâm Hoằng không muốn ngay ngày đầu tiên Lý Tích Kim xuất hiện đã nghi ngờ mẹ mình nhưng trong lòng đã nảy mầm nỗi lo lắng khó mà kìm nén.
Đoan phi nhìn ra mối lo ngại của cậu, bình thản nói: “Ông ấy từng làm giáo viên ở nhà thiếp. Chỉ là khi đó thiếp không học kiếm hay học thuật bắn. Cho nên, thật ra ông ấy là một người thầy của hoàng hậu nương nương.”
“Vì sao người không học chứ?” Thâm Hoằng hỏi như vậy ngay trước mặt của Lý Tích Kim. Đoan phi cũng không e dè, lặng lẽ trả lời: “Thiếp không dám. Học kiếm cùng Uyển Vanh thì có lẽ nó sẽ gò ép thiếp cùng luyện tập, thiếp không chắc chắn…” chắc chắn sẽ không bị thương dưới kiếm của nàng ta, “Nhất là không dám dùng gương mặt mạo hiểm ngay trước khi vào cung.”
Thâm Hoằng nhìn lén phản ứng của Lý Tích Kim, phát hiện ông ta đang làm thinh.
“Chuôi “Băng Tiển” này vốn là thầy Lý tặng cho hoàng hậu nương nương.” Đoan phi cười nói với Thâm Hoằng: “Bọn họ đều đến bên cạnh điện hạ rồi, điện hạ phải biết trân trọng.” Nàng dứt lời, dắt Lương vương rồi tự mình đưa Lý Tích Kim đến chỗ ở tạm ông ta.
Nhưng Lý Tích Kim lại nói: “Tiểu nhân không thể ở lại chỗ này. Sau khi mặt trời lặn, tiểu nhân sẽ đến xe ngựa ngoài thành nghỉ ngơi.”
Đoan phi giật mình, chậm rãi gật đầu nói: “Vậy cũng được.”
Thâm Hoằng lập tức tiếp lời nói: “Vậy tôi sẽ sai người chuyển cho thầy tất cả vật có ích.”
Lý Tích Kim lại lễ độ cung kính nói: “Xe ngựa nhỏ hẹp, xin điện hạ và nương nương giữ học trog của tiểu nhân lại.”
Thế là chuyện này giải quyết tốt đẹp, từ ngày hôm ấy Lý Tích Kim bắt đầu dạy Thâm Hoằng một ít kỹ xảo cơ bản, khi màn đêm giăng xuống thì chạy đến xe ngựa ngoài thành.
Thâm Hoằng tự mình cân nhắc những gì ông ta dạy, cảm thấy hình như không quá thâm thuý khó hiểu. Sau khi luyện tập một hồi, cậu thấy Hàm Huyền lặng lẽ đi ngang qua từ trong góc.
“Ngươi đi đâu vậy?” Cậu hỏi.
Hàm Huyền ung dung trả lời: “Cung nữ không tiện đi khắp nơi cho nên Đoan phi nương nương sai tiểu nhân đi đưa cho thầy Lý một ít chăn mền, rượu và thức ăn.”
Thâm Hoằng không để ý, tiếp tục luyện tập. Lại qua một lát, học trò nhỏ của Lý Tích Kim lén lút xem chừng trong bóng tối. Thâm Hoằng cảm nhận được ánh mắt của hắn, bèn dừng lại hỏi: “Ngươi theo thầy Lý bao lâu rồi?”
Đứa nhóc ấy cười ngọt ngào với cậu, nói: “Bảy năm.”
Thâm Hoằng giật nảy mình: “Vậy ngươi chẳng phải là cao thủ ư?”
“Kém xa lắm!” Đứa nhóc cười rộ lên ha hả, tiếng nói nhẹ nhàng thoải mái lưu loát: “Tôi rất không nên thân.”
Thâm Hoằng thích thái độ thẳng thắn như vậy của hắn, dịu dàng hỏi: “Ngươi tên là gì?”
“Tinh Nhi.” Hắn đảo đôi mắt đen láy, giảo hoạt trả lời: “Tôi tên Tinh Nhi.”
Rất có thể có người cảm thấy, để Đoan phi sống thêm năm năm là đã hết lòng với nàng. Một đêm của mùa xuân năm sau, Đoan phi đi ngủ như thường lệ, ngày hôm sau không thấy tỉnh lại. Không chỉ các cung nữ luống cuống tay chân mà ngay cả Thâm Hoằng cũng đột nhiên cảm thấy không biết làm sao. Thành Tuyên chỉ có một thầy thuốc cấp cứu già hoa mắt ù tai nhưng lão cũng bó tay chịu trói đối với tình trạng của Đoan phi.
Bất kể người xung quanh mình đi đi lại lại rối ren thế nào, Thâm Hoằng vẫn đứng ở màn ngoài chiếc giường của Đoan phi. Một chiếc màn giường tách ra hai thế giới. Đoan phi bên trong yên lặng như thế, tựa như hồn phách đang khoan thai tiến về một nơi yên tĩnh khác ở phía trước, một nơi càng trống trải tịch mịch hơn cung Ly. Gió xuân ấm áp thổi vào song cửa sổ, Thâm Hoằng chỉ cảm thấy lạnh lẽo. Hơi thở quen thuộc trong gió làm cho tinh thần cậu chấn động, chợt nhớ tới điều gì, hành lễ cáo từ một cách trang trọng với Đoan phi trong màn che.
Cả đường Thâm Hoằng chạy băng băng, đi tới bên hồ ngoài cung Ly, ở chỗ này, cậu từng gặp một chàng trai áo xanh thần bí, muốn cho phép một năm nguyện vọng của cậu trở thành sự thật.
“Này.” Thâm Hoằng đứng ở bờ nước, quan sát cái bóng trong ánh sóng lăn tăn: “Thật sự có thể thực hiện sao?”
Chàng trai áo xanh mỉm cười trong sóng gợn: “Chỉ cần người bằng lòng trả giá thật lớn thì không có gì không thể thực hiện.”
“Sao tôi phải tin anh?” Thâm Hoằng không an lòng: “Nếu như không thể thực hiện nguyện vọng của tôi, tôi phải đi đâu để đòi anh trả lại hai mươi năm đây?”
Chàng trai áo xanh cười ha ha: “Có câu ‘làm việc nghĩa không được chùn bước’. Khi người cầu nguyện phải hạ quyết tâm, hai mươi năm chính là đồ tế,, tuyệt đối không thể lấy lại được. Chỉ có như thế, người mới xứng đáng đạt được thứ mình chờ mong.”
Thâm Hoằng ngơ ngẩn đứng ngây người trong khoảnh khắc, gật đầu một cái nói: “Tôi đã quyết rồi.”
“Vậy thì từ hôm nay.” Gợn nước khẽ lay động, hình bóng tan biến.
Mắt Thâm Hoằng hoa lên, chăm chú nhìn lại, chỉ thấy một mảng rêu tối tăm sâu trong nước mà không tìm thấy chàng trai nào. Lòng cậu đâm lo lắng thấp thỏm, không biết đây có phải giấc mộng Nam Kha[2] hay không. Đang ngẩn ngơ chợt nghe có người gọi mình: “Điện hạ! Điện hạ!”
[2] Giấc mộng Nam Kha: giấc mơ hão huyền, dựa theo tích: chàng trai họ Thuần nằm ngủ dưới gốc cây hoè, mơ thấy mình được lấy công chúa và được bổ làm thái thú ở quận Nam Kha, mừng quá bừng tỉnh dậy thì mới biết đó chỉ là giấc mơ.
Phương Loan chạy tới với khuôn mặt mừng rỡ, rõ là đang vui sướng nói: “Đoan phi nương nương tỉnh lại rồi ạ!”
Thâm Hoằng lặng lẽ gật đầu. Gió gợn hồ nước cách đó mấy bước, tiếng róc rách giống như đang thay một người núp nơi đáy nước người cười to mãn nguyện. Còn cậu bất kể thế nào cũng không cười nổi: cậu chờ mong Đoan phi tỉnh lại, nhưng cũng hiểu nàng vừa tỉnh lại thì nhất định sẽ có một người khác vĩnh viễn ngủ say…
Sau khi Đoan phi tỉnh lại, nhanh chóng đoán ra cung nữ thừa dịp ban đêm nhỏ độc trên gối của nàng, sau đó cung nữ ấy liền mất dạng. Thâm Hoằng không hỏi cũng biết: ả đã đến nơi Đoan phi vốn nên đến.
Cho dù là lúc Đoan phi yếu ớt nằm trên giường, trên mặt vẫn treo nụ cười ung dung. Khi nàng ngày càng khỏe lại thì nụ cười càng tràn ngập ánh sáng thắng lợi. Có một hôm nàng vẫy tay với Thâm Hoằng, gọi cậu tới bên cạnh, lấy ống trúc xanh nho nhỏ từ trong tay áo ra.
“Điện hạ mời xem. Đây chính là thuốc độc thiếu chút nữa khiến thiếp mất mạng, nó tên Trầm Mộng.” Đoan phi mở ống trúc dài ba tấc ra, nhanh chóng chấm một cái lên trên bàn, lưu lại một giọt nước tròn trong suốt, “Dính vài giọt ở bên trên gối vải thì không bao lâu sẽ biến thành chất độc mờ mờ, mãi không tan. Người sau khi hít vào, chẳng mấy chốc sẽ bị chết. Nếu như khi đó đang trong giấc mộng thì sẽ chết không hề hay biết.”
Thâm Hoằng nhìn chằm chằm giọt nước khúc xạ ra ánh nắng bảy sắc, thấy nó linh động đáng yêu như có sinh mệnh. Một trận gió thổi tới, phút chốc nó liền biến mất, chỉ giữ lại một vết tích đậm màu trên bàn.
“Đây là giọt cuối cùng, không mấy nguy hại.” Đoan phi phất ống tay áo, xua hết mùi còn lại của Trầm Mộng: “Cả ống đầy lúc trước đều đã dùng trên gối của thiếp rồi.”
Thâm Hoằng đã biết nhưng vẫn đặt câu hỏi: “Đã là như thế, sao nương nương có thể tỉnh lại?”
Đoan phi cũng không chắc chắn, chần chừ nói: “Có lẽ là bởi vì… trước đây thiếp đã từng ngửi mùi này mấy lần, quá quen thuộc với nó rồi, nó không làm tổn hại thiếp được nữa.”
Nàng không nói vì nguyên do gì mà đã từng ngửi. Nhưng Thâm Hoằng đoán được: nếu nàng còn êm đẹp ở đây, vậy mấy lần ấy nhất định là có người bên cạnh không thể tỉnh lại.
Nàng nghiêng đầu cười xinh đẹp với Thâm Hoằng: “Điện hạ đã nhớ mùi này chưa?”
“Đã nhớ.” Thâm Hoằng thu sắc mặt lại, trịnh trọng trả lời.
Đoan phi nhẹ nhàng vuốt cằm nói: “Về sau dù là trong mộng có mùi thơm này cũng phải lập tức tỉnh lại… Chỉ mong điện hạ trọn đời không ngửi thấy nữa.”
Thâm Hoằng cúi đầu xuống, thấp giọng hỏi: “Nương nương, người tin nhân quả trong kinh Phật nói không? Tất cả hành động lời nói ắt phải trả giá đắt.”
Đoan phi lặng lẽ nhìn con trai chăm chú, vẻ mặt lạnh lùng nghiêm nghị.
“Con sẽ còn ngửi thấy… Đó là những người không tỉnh lại đòi nợ nương nương đấy.” Thâm Hoằng nói.
Đoan phi hơi kinh ngạc nhìn con mình, bỗng che miệng cười rộ lên: “Điện hạ, nếu như bị ý nghĩ ngu xuẩn trong đầu ấy ràng buộc thì chiến sĩ không còn cách nào cầm lấy kiếm chứ chưa nói đến vùng vẫy về phía kẻ địch. Người phải đối mặt với cảnh tàn sát vô tình nhất trên đời, thứ người nên kiêng kỵ không phải những người đã chết mà là kẻ còn chưa chết kìa.”
Thâm Hoằng không tranh cãi với nàng.
Trên thực tế, sau khi cậu thắng lợi trong cuộc tàn sát, Đoan phi mang ống trúc xanh về cung đình, từ đó về sau mùi thơm của Trầm Mộng ở trong cung đình của Thâm Hoằng bồng bềnh không tan. Nhưng cậu vẫn còn sống, chỉ liên tục mất đi trong mùi hương ấy, mất đi những đứa con của cậu và mất đi những thiếu nữ có mang cốt nhục của cậu.
Nhiều năm về sau khi Thâm Hoằng ngồi yên trên ngai vàng, thỉnh thoảng sẽ cảm thấy vô vị. Hắn không còn trẻ nữa, cái cung đình này cũng đã trải qua biết bao gian khổ. “Phương Loan…” Giọng của hắn khản đặc: “Quả nhiên là như vậy sao?”
Phương Loan đã có tuổi, thái độ càng trầm ổn hơn lúc trẻ. “Thái hậu Khang Dự đã từng dạy nô tỳ làm thế nào để phân biệt tàn tích của Trầm Mộng.” “Khang Dự” là thụy hiệu[3] của Đoan phi.
[3] Tên sau khi mất của vua quan.
“Sau khi thiếp dùng nước ngâm qua quần áo của tài viện nương nương, thấy cổ áo lưu lại mảng lớn vết tích.” Phương Loan nói.
“Có chuyện như vậy…” Thâm Hoằng thong thả nói, trước mắt dường như thấy Văn tài viện xinh đẹo khóc lớn kêu oan trước mặt hắn. “Bệ hạ, thiếp không phải gián điệp! Thiếp không hề ngầm thông đồng với nước Nam.” Nàng la xong thì ngất không dậy nổi, mắt không mở nữa. Tài viện họ Văn lanh lợi ấy vốn là nữ quan dâng hương trong cung của hoàng hậu Tố Nhược Tinh, là một kẻ nô bộc chuyển hương cho hoàng hậu thôi mà lại mượn cơ hội gần gũi Thâm Hoằng, trong một đêm được phong làm Văn tài viện. Chắc là hoàng hậu sẽ không cho phép người bên cạnh lấy nàng làm hòn đá kê chân đâu.
Phương Loan nói: “Hai vị cung chính của Cung Chính Ty phụ trách thẩm tra chuyện này là người của hoàng hậu nương nương, chỉ sợ sẽ vô trách nhiệm.”
Thâm Hoằng trầm mặc rất lâu mới trả lời lơ đãng: “Trước đây tài viện phản bội nàng… Đây là cái giá nàng phải trả.”
“Bệ hạ có biết Văn tài viện đã mang thai không ạ?” Phương Loan trầm giọng hỏi. Thâm Hoằng nháy mắt giật mình, không nói gì thêm. Ngày đó bước chân hắn đi trong cung đình nặng nề hơn nhiều, nhưng vẫn bất giác đi tới cung Đan Xuyến.
Người con gái bên trong vẫn mỹ lệ như trước, tựa như vì sao giữa ban ngày dám tranh với vầng thái dương. Trong lúc trăm sao quỳ lễ với hắn, nàng là ngôi sao duy nhất thản nhiên toả ra hào quang của chính mình. Thâm Hoằng đưa mắt nhìn người phụ nữ này, nàng cũng không nói mà nhìn lại hắn. Rất lâu sau đó, Thâm Hoằng bảo: “Hương là thứ dùng để kính Phật, tuyệt đối không thể để trong cung đình của ta xuất hiện mùi hương ác độc.”
Mắt Hoàng hậu Tố Nhược Tinh thoáng tối sấm, không trả lời.
Đáng tiếc hắn tỏ rõ thái độ cũng không thể ngăn cản Trầm Mộng, nó vẫn giống như cơn ác mộng bồng bềnh ở chốn thâm cung.
Vì vậy hắn lại khoanh tay đứng nhìn một cô gái trẻ tuổi chết đi trong mùi hương vấn vít.
“Phương Loan…” Lần này đây, hi vọng trong lòng Thâm Hoằng còn dư lại không nhiều.
Tiếng Phương Loan vẫn bình ổn như trước: “Trên cổ áo thuần viện nương nương…”
“Diễn lại trò cũ?” Thâm Hoằng lắc đầu: “Hoàng hậu không phải kiểu người như thế.”
Phương Loan nhìn thoáng qua vị vua của mình, nói: “Nhưng trong hậu cung chỉ có họ Tố của Thái An biết cách điều chế Trầm Mộng.” Còn hoàng hậu Tố Nhược Tinh chính là Tố thị của Thái An, cháu gái ruột của thái hậu Khang Dự.
“Vậy ư?” Thâm Hoằng nhíu mày. Phương Loan thấy thế, thong dong nói: “Mấy năm trước tể tướng đại nhân từng được hoàng hậu phó thác làm một lần, quả thực ngài ấy cũng biết cách điều chế nhưng ngài ấy không hề rơi vào việc này.”
Ai có thể khẳng định tể tướng không nguyện vì hoàng hậu làm đến bước kia chứ? Hắn gần như có thể vì Tố Nhược Tinh làm bất cứ chuyện không thể nào. Thâm Hoằng nhắm mắt lại suy nghĩ, phất tay nói: “… Ta biết rồi.”
Phương Loan quỳ lạy hành đại lễ xong, lặng yên không một tiếng động lui ra bên ngoài căn phòng bí mật.
“Bà Cư.” Thâm Hoằng gọi một tiếng: “Đến nay ta vẫn không thể xác định người có hay hận nàng ấy hay không.”
“Nàng ấy?” Phương Loan xoay người lại, cười dịu dàng: “Bệ hạ cho rằng thiếp sẽ vì tể tướng mà hận hoàng hậu ư? Tể tướng và thiếp tuy có tiếng là vợ chồng, ở cùng một nhà nhưng ngài ấy chỉ là hàng xóm của thiếp, sống cùng một chỗ lại không thấy được tường mà thôi.” Bà dứt lời thì hạ thấp người cáo lui.
Thâm Hoằng ngồi xuất thần một lát rồi lại đi tới cung Đan Xuyến. Dường như đã mấy ngày chưa tới, ngay cả mặt của hoàng hậu ở trong mắt cũng như xa lạ.
“Rất lâu rồi bệ hạ chưa tới.” Tố Nhược Tinh cười nói: “Nhưng thiếp thà rằng ngày hôm nay không có phần vinh hạnh này.”
Thâm Hoằng mỉm cười trông người vợ đã bầu bạn hai mươi năm.
“Bệ hạ tới là vì hoài nghi chứ không phải để rửa sạch hiềm nghi cho thiếp.” Nàng cười khổ, đẩy một cái hộp nhỏ trong tay tới trước mặt hắn: “Cái khóa đồng tâm này một khi khóa lại, phải hai chìa khoá cùng sử dụng mới có thể mở ra.” Nàng nói rồi gỡ chìa khóa bạc từ trên cổ xuống tra vào một lỗ khóa: “Bệ hạ, của người đâu?”
Thâm Hoằng lặng lẽ cởi chìa vàng trên cổ xuống.
Khóa đáp tiếng mở ra, trong khe hở nối giữa nắp và thân hộp có vết bụi nhỏ, xác nhận đã lâu không mở ra. Trong hộp có nhánh trúc xanh, còn có một xấp giấy đã xếp gọn, Thâm Hoằng thấy liền cảm thấy buồn bã.
“Đều ở chỗ này…” Nàng nói: “Nếu người lựa chọn không tin, thiếp cũng đành chịu.”
Không tin ư? Thâm Hoằng nhìn người phụ nữ mỹ lệ đa cảm này, mỉm cười an ủi nàng. “Là ta không tốt…” Hắn không đầu không đuôi nói.
Có lẽ nàng hiểu sai ý, liếc mắt nặng tình cảm kích nhìn hắn.
Nhưng hắn không hề nói mình không nên hoài nghi nàng… Hắn không tốt ở ý nghĩ quyết tâm không muốn vô dụng hai mươi năm trước, sau này lại để nàng và hắn tin tưởng lẫn nhau, bạc tình thì khó, đa tình lại nhiều. Vậy nên ánh mắt trong sáng như bóng trăng dưới suối mới trở nên hùng hổ dọa người như thế.
Khi xưa hắn tin tưởng thiếu nữ có một đôi mắt mỹ lệ ấy, bây giờ không thể tin người phụ nữ do hắn lập nên này.
“Nhược Tinh.” Hắn nói khẽ: “Nàng từng nói chuyện thú vị duy nhất trên đời chính là trở thành chủ nhân của cung Đan Xuyến. Bây giờ còn cảm thấy thú vị không?”
Ánh mắt Hoàng hậu Tố Nhược Tinh lập tức lấp lánh, chợt ngửa đầu cười đáp: “Chỉ có những chuyện chưa làm được mới thú vị.”
Lòng Thâm Hoằng chùng xuống. Lời nói giống nhau như đúc, khi nàng ở nơi thảo nguyên gió nổi bốn phía cười nói ra lời ngây thơ mà tràn đầy lý tưởng. Lần đầu tiên nghe được khiến hắn cảm thấy trong lòng rung động, bây giờ chỉ làm hắn thấy đáng sợ.
Lần đầu tiên Tố Nhược Tinh lộ diện ở thành Tuyên, đột nhiên lại đặc biệt thế nào, trọn đời Thâm Hoằng không thể nào quên.
Hôm ấy là ngày mùng sáu nào đó của mùa hè. Nhớ mang máng là ngày mùa hè mát mẻ sau một trận mưa to, Thâm Hoằng không nhớ rõ lắm, hình như hôm ấy, tất cả ngoại trừ nàng đều mờ nhạt, chỉ có nàng là rõ nét.
Mờ nhạt thì mờ nhạt, song khó có thể hoàn toàn quên đi. Thâm Hoằng nhớ, một người trung niên nhảy xuống từ xe ngựa của vương phủ Thái An, sau đó một cậu chàng thanh tú cũng theo xuống. Người trung tuổi có thân hình khôi ngô cao lớn, phong thái bất phàm, còn thiếu niên kia không cao lắm, lanh lợi tuấn tú. Lúc Thâm Hoằng thấy bọn họ quỳ xuống trước mặt Đoan phi thì nghĩ thầm: đúng là tổ hợp kỳ diệu.
Đoan phi vừa thấy người đàn ông trung niên thì vui mừng từ tận đáy lòng. Ngay cả Thâm Hoằng cũng nhận thấy rõ ràng nàng thật lòng vui sướng. “Tích Kim!” Nàng nhiệt tình gọi tên của đối phương khiến Thâm Hoằng ở bên cạnh hết sức kinh ngạc.
“Tiểu nhân Lý Tích Kim bái kiến Lương vương điện hạ, Đoan phi nương nương.” Lúc người trung niên ngẩng đầu lên, hai mắt lộ ra ánh sáng ôn hòa kiên định. Thâm Hoằng vừa thấy cặp mắt kia đã cảm thấy không thể chán ghét ông.
“Đây là người có năng lực trong đời thứ sáu của họ Lý ở Phồn Dương.” Lúc Đoan phi giới thiệu với Thâm Hoằng, trong giọng nói để lộ ý khác. Thâm Hoằng liếc nhìn Lý Tích Kim. Họ Lý dòng dõi ở Phồn Dương lấy kiếm thuật để vang danh, một người như vậy xuất hiện ở đây dĩ nhiên không phải tới uống trà ôn chuyện. Cậu sẽ trở thành học trò của người này.
“Tiểu nhân nhận sự gửi gắm của quận vương Vĩnh Ninh, đến thăm Lương vương điện hạ và nương nương.” Cách dùng từ của Lý Tích Kim ngắn gọn mà cẩn thận.
Đoan phi gật đầu, không nói thêm gì mà chỉ hỏi: “Bây giờ có quá muộn không?” Cặp mắt của Lý Tích Kim quan sát tỉ mỉ trên người Thâm Hoằng một hồi, cười trả lời: “Đối với Lương vương điện hạ mà nói, vậy là đủ rồi.”
Thâm Hoằng vì vậy mà thở phào nhẹ nhõm. Một năm mười ba tuổi này của cậu, tuy là học được từ chỗ Hàm Huyền một chút da lông nhưng ngay cả chính mình cũng không có lòng tin có thể học kỹ thuật dùng kiếm cho tốt. Có điều người thầy này lại có lòng tin với cậu, cho là cậu có thể học được nhiều thứ hơn, đối với một học trò là vương gia mà nói cũng đủ dùng. Điều càng khiến Thâm Hoằng cảm thấy nhẹ nhõm hơn là: bản thân có thể không tốn chút sức nào đọc hiểu cuộc đối thoại của bọn họ, mặc dù cuộc đối thoại của những người lớn này đã cẩn thận bóng gió.
Cùng lúc đó cậu cũng phát hiện: đứa nhỏ bên cạnh Lý Tích Kim cũng có thể nghe hiểu được chuyện mà những người lớn đang nói, hắn đang mỉm cười với Thâm Hoằng như là chúc mừng, còn mang theo vui sướng xuất phát từ lợi ích riêng. Tim Thâm Hoằng chợt đánh thót một cái, cảm thấy đứa nhỏ này có một khuôn mặt tươi cười, sáng sủa hơn tất cả bốn bề. Cậu không biết đây là ai, Đoan phi cũng không biết. Nàng hỏi: “Tích Kim, đứa bé này là?”
“Là học trò hiện tại của tiểu nhân.” Lý Tích Kim cung kính trả lời, vẫn tiếc chữ như vàng: “Nó không có nơi nào để đi nên tiểu nhân đi tới đâu đều mang theo nó.” Đoan phi “à” một tiếng, không hỏi thêm nữa.
Ngày đó trong cung Ly cử hành lễ bái sư thuờng dùng cho các hoàng tử. Điều khiến Thâm Hoằng cảm thấy không yên là ánh mắt của Đoan phi hiện ra ánh sáng lấp lánh khi họ nhìn theo người đàn ông từ xa tới này. Thâm Hoằng không muốn ngay ngày đầu tiên Lý Tích Kim xuất hiện đã nghi ngờ mẹ mình nhưng trong lòng đã nảy mầm nỗi lo lắng khó mà kìm nén.
Đoan phi nhìn ra mối lo ngại của cậu, bình thản nói: “Ông ấy từng làm giáo viên ở nhà thiếp. Chỉ là khi đó thiếp không học kiếm hay học thuật bắn. Cho nên, thật ra ông ấy là một người thầy của hoàng hậu nương nương.”
“Vì sao người không học chứ?” Thâm Hoằng hỏi như vậy ngay trước mặt của Lý Tích Kim. Đoan phi cũng không e dè, lặng lẽ trả lời: “Thiếp không dám. Học kiếm cùng Uyển Vanh thì có lẽ nó sẽ gò ép thiếp cùng luyện tập, thiếp không chắc chắn…” chắc chắn sẽ không bị thương dưới kiếm của nàng ta, “Nhất là không dám dùng gương mặt mạo hiểm ngay trước khi vào cung.”
Thâm Hoằng nhìn lén phản ứng của Lý Tích Kim, phát hiện ông ta đang làm thinh.
“Chuôi “Băng Tiển” này vốn là thầy Lý tặng cho hoàng hậu nương nương.” Đoan phi cười nói với Thâm Hoằng: “Bọn họ đều đến bên cạnh điện hạ rồi, điện hạ phải biết trân trọng.” Nàng dứt lời, dắt Lương vương rồi tự mình đưa Lý Tích Kim đến chỗ ở tạm ông ta.
Nhưng Lý Tích Kim lại nói: “Tiểu nhân không thể ở lại chỗ này. Sau khi mặt trời lặn, tiểu nhân sẽ đến xe ngựa ngoài thành nghỉ ngơi.”
Đoan phi giật mình, chậm rãi gật đầu nói: “Vậy cũng được.”
Thâm Hoằng lập tức tiếp lời nói: “Vậy tôi sẽ sai người chuyển cho thầy tất cả vật có ích.”
Lý Tích Kim lại lễ độ cung kính nói: “Xe ngựa nhỏ hẹp, xin điện hạ và nương nương giữ học trog của tiểu nhân lại.”
Thế là chuyện này giải quyết tốt đẹp, từ ngày hôm ấy Lý Tích Kim bắt đầu dạy Thâm Hoằng một ít kỹ xảo cơ bản, khi màn đêm giăng xuống thì chạy đến xe ngựa ngoài thành.
Thâm Hoằng tự mình cân nhắc những gì ông ta dạy, cảm thấy hình như không quá thâm thuý khó hiểu. Sau khi luyện tập một hồi, cậu thấy Hàm Huyền lặng lẽ đi ngang qua từ trong góc.
“Ngươi đi đâu vậy?” Cậu hỏi.
Hàm Huyền ung dung trả lời: “Cung nữ không tiện đi khắp nơi cho nên Đoan phi nương nương sai tiểu nhân đi đưa cho thầy Lý một ít chăn mền, rượu và thức ăn.”
Thâm Hoằng không để ý, tiếp tục luyện tập. Lại qua một lát, học trò nhỏ của Lý Tích Kim lén lút xem chừng trong bóng tối. Thâm Hoằng cảm nhận được ánh mắt của hắn, bèn dừng lại hỏi: “Ngươi theo thầy Lý bao lâu rồi?”
Đứa nhóc ấy cười ngọt ngào với cậu, nói: “Bảy năm.”
Thâm Hoằng giật nảy mình: “Vậy ngươi chẳng phải là cao thủ ư?”
“Kém xa lắm!” Đứa nhóc cười rộ lên ha hả, tiếng nói nhẹ nhàng thoải mái lưu loát: “Tôi rất không nên thân.”
Thâm Hoằng thích thái độ thẳng thắn như vậy của hắn, dịu dàng hỏi: “Ngươi tên là gì?”
“Tinh Nhi.” Hắn đảo đôi mắt đen láy, giảo hoạt trả lời: “Tôi tên Tinh Nhi.”
Bình luận facebook