-
Chương 5: Bậc đế vương
Năm thứ hai sau khi thành hôn, Thâm Hoằng và Nhược Tinh còn trẻ đã làm cha làm mẹ, có đứa con gái đầu lòng của họ.
Lúc Nhược Tinh sinh tuổi còn nhỏ quá, khí hậu thành Tuyên lại lạnh lẽo quá chừng, mọi thứ đều khiến quá trình sinh nở của phụ nữ thêm rất nhiều nguy cơ. Đứa bé khi chào đời là một đứa trẻ sơ sinh nhỏ bé yếu ớt biết bao, Thâm Hoằng và Nhược Tinh thường hay lo lắng hô hấp như tơ nhện của nó có thể gián đoạn bất cứ khi nào. Sinh mạng thường xuyên lơ lửng không cố định ở ranh giới âm dương này lại khiến ba hoàng tộc của thành Tuyên chộp được một chút hy vọng. Quả nhiên, bởi vì bé gái nho nhỏ này là đứa cháu đầu tiên của hoàng đế thế nên hoàng đế đã phong nàng làm quận chúa Phượng Diệp, chuẩn tấu cho Thâm Hoằng dẫn vợ con đến cuộc đi săn của hoàng gia năm đó.
Đoan phi lấy lý do Nhược Tinh tuổi quá trẻ, không đủ để chăm sóc đứa con yếu ớt nên cũng theo Thâm Hoằng cùng đi đến khu vực săn bắn. Bà không có tư cách theo xa giá đi săn nên không mặc trang phục săn mà chọn một bộ quần áo có ống tay rộng vạt áo dài, giấu đi toàn bộ sự biến đổi của vóc người do năm tháng.
Gió trên đường thổi qua thảo nguyên đến nơi đóng quân, mặt trời mới mọc vương từng sợi vàng trên người Đoan phi, Thâm Hoằng không cầm được mỉm cười với mẹ. Ống tay áo nàng phấp phới, dáng người yểu điệu. So với hoàng hậu Uyển Vanh bên chỗ đóng quân, bà càng xứng với vị vua tư thế hiên ngang trên lưng ngựa kia hơn.
Lúc Thâm Hoằng nhìn về phía hoàng đế, hoàng đế cũng nhìn cậu nhưng ánh mắt chuyển đi rất nhanh, rơi lên người Đoan phi. Ban đầu Đoan phi đang nghiêng người về phía ông, sau một lát như là phát hiện ông đang nhìn nên chậm rãi xoay người hành lễ. Động tác của bà uyển chuyển mềm mại, giống như vẫn là cô gái xuân xanh tuổi tròn đôi mươi, vẻ mặt chẳng hề thân thiết, cũng không hiện ra sự cảm khái sâu nặng đối với lần gặp lại sau nhiều năm. Thâm Hoằng cẩn thận chú ý phản ứng của cha nhưng chỉ thấy ông làm như không có chuyện gì, tùy ý quay đầu ngựa, dường như vừa rồi chỉ là ngẫu nhiên bốn mắt nhìn nhau cùng một kẻ xa lạ giống người quen cũ mà thôi.
Trong nháy mắt ông giục ngựa xoay mình, ánh mắt Thâm Hoằng cũng lạnh đi.
“Đi theo sau ngài ấy, đến vị trí con nên ở đi.” Đoan phi không để bụng phản ứng của chồng, kéo dây cương của Thâm Hoằng, không nhanh không chậm dặn: “Sau đó, con phải bảo đảm với mẹ: bất kể là ai cũng không thể khiến con rời khỏi vị trí ấy.”
Làm đứa con trai lớn nhất, Thâm Hoằng nên đến vị trí cách đế vương thật gần, thật thân mật. Trong lòng cậu không được tự nhiên, lãnh đạm nói: “Con cùng với ngài ấy đã xa cách tám năm… Không, cha con con đã mười lăm năm chưa gặp mặt.”
“Cũng như vậy, mẹ đã đợi giờ khắc này mười lăm năm rồi.” Đoan phi mỉm cười kiên định với con trai: “Đừng để mẹ thất vọng, đừng để mẹ phải chờ lâu hơn nữa.”
Thâm Hoằng ở trên lưng ngựa nhìn xuống khuôn mặt tươi cười của mẹ, chậm rãi mỉm cười một cái đáp lễ bà.
Ngay cùng một ngày, Thâm Hoằng gặp và biết cậu em Tú vương Thâm Lẫm. Tú vương mười một tuổi rất giống Thâm Hoằng, trong số thành viên lưa thưa trong dòng họ, bọn họ giống anh em ruột nhất. Thâm Hoằng kinh ngạc thấy Tú vương ở bên cạnh đế vương lại tự tại vui chơi cười đùa như vậy, còn kinh ngạc thuật cưỡi ngựa cùng tài bắn cung của em trai lại cao siêu như thế.
Lúc hoàng hậu nhìn về phía con trai mình thì mang theo niềm tự hào của một người mẹ. Nhiều năm không gặp, bà ta vẫn nhã nhặn như trước, đuôi mắt hơi rủ xuống, thêm vài phần hiền lành, quần áo săn trên người khó giấu vẻ dịu dàng. Khi đôi mắt hiền lành của bà ta chuyển hướng sang Thâm Hoằng lại mang sự cao ngạo của kẻ thắng cuộc. So với Thâm Hoằng trầm mặc ít nói thì Tú vương là tiêu điểm của mọi người, với tư cách là mẹ và hoàng hậu, bà ta hy vọng Thâm Hoằng hiểu rõ con trai của mình có đủ sự chói lọi mà người khác không cách nào sánh được. E rằng bà ta cũng đồng thời hy vọng, Thâm Hoằng giống như mẹ con Tương phi và Ung vương, lặng lẽ ở nơi xó xỉnh không ai chú ý tới.
Thâm Hoằng lấy một nụ cười bình tĩnh nhàn nhã đáp lại tất cả. Nụ cười của cậu không thể gọi là ấm áp nhưng ung dung đúng mực. Các đại thần đi theo hộ tống cảm thấy vị Lương vương bỗng nhiên giáng lâm này thần bí khó dò, tuổi tác của cậu tuy nhỏ nhưng thái độ thành thục thâm trầm, cử chỉ chín chắn. Thế là trong lòng không ít người nảy sinh một ý tưởng kỳ diệu: so với đứa trẻ vui cười kia thì vị này dường như còn có phong độ của bậc đế vương hơn.
Thái độ của hoàng đế đối với Thâm Hoàng rất xa cách, cả đường không nói được mấy câu. Thâm Hoằng cũng không có ý định vội vã gây sự chú ý với ông, bèn dùng cơ hội này lẳng lặng quan sát phụ hoàng của mình. Ông thoạt nhìn còn rất trẻ, có lẽ năm tháng đã thiên vị ông, để lại dấu vết nhỏ bé như thế cho ông, nhỏ hơn sự tưởng tượng của Thâm Hoằng nhiều. Vẻ anh tuấn của ông cũng vượt qua tưởng tượng của Thâm Hoằng. Thâm Hoằng vẫn cho là nét đẹp trong mặt mày của mình đều đến từ mẹ, hôm nay mới phát hiện còn giống ông nhiều hơn. Cậu cứ yên lặng mà nhìn, mà nghe, từ trong mỗi cái ám hiệu hoàng đế truyền ra xung quanh, phỏng đoán ông là người như thế nào. Thấm thoắt, bọn họ đã đi tới đài Bán Túy giữa sườn núi.
Sau yến tiệc, hoàng đế đầy phấn khởi muốn đến đỉnh núi phía trước. Thấy con thơ chơi đùa hơn nửa ngày đã mỏi mệt, ông nói: “Thời gian không còn sớm, lập tức xuất phát, đi sớm về sớm.” Hoàng hậu cười dịu dàng kéo Tú vương, dự định nghỉ ngơi ở chỗ này cho tốt. Mọi khi cũng như vậy cả, bà ta và con trai ở đây chờ hoàng đế dẫn thị vệ bên cạnh đi loanh quanh trên đỉnh núi.
Thâm Hoằng vừa đứng lên, vừa nghĩ: vậy mà hoàng đế lại là một người cha biết quan tâm. Nghĩ xong, cậu đã đứng ở bên cạnh hoàng đế. Cậu đã đồng ý với mẹ, tuyệt đối không rời hoàng đế, dẫu hoàng đế đi tới chỗ nào cậu cũng phải đi theo.
Hoàng hậu thấy thế thì khẽ cau mày, âm thầm căm hận Thâm Hoằng không biết điều, không muốn cha con họ bỏ lại Tú vương dù chỉ chốc lát. “Hoằng Nhi không mệt sao?” Tiếng bà ta ấm áp mềm mại, gọi thật thân thiết.
Thâm Hoằng cười nhạt hỏi lại: “Lẫm Nhi đã mệt rồi sao?” Tiếng cậu trong suốt, tuy lời khiến người ta khó chịu nhưng giọng điệu lại lọt tai không hề có khí thế bức người, giống như anh lớn chăm sóc đứa em còn tấm bé.
Tú vương mở to mắt nhìn vị hoàng huynh xa lạ này. Từ trong ánh mắt của cậu bé, Thâm Hoằng có thể nhìn ra đứa bé này thật sự là một đứa con nít, hình như không hiểu trong màn đối thoại giữa anh trai và mẹ có gì thú vị. Ánh mắt của cậu bé đảo liên hồi, hỏi anh: “Trên đỉnh núi có gì vui?”
Trên mặt Thâm Hoằng vẫn là vẻ cười mỉm, tiếng nói nhỏ nhẹ trả lời: “Theo hầu thánh giá đương nhiên phải bảo vệ trước sau, há có thể lấy yêu ghét cực nhọc mà rời khỏi bên cạnh? Tú vương nên cùng đi mới phải.” Nói xong lời này, xung quanh có mấy người quan hầu khá đồng thuận. Tú vương im lặng không nói nữa. Thâm Hoằng nhìn ra được, từ khắc ấy em trai bắt đầu không thích mình.
Hành động của Thâm Hoằng được hoàng đế nhìn thấy, ông vẫn luôn lạnh lùng nhìn mà không nói một từ, lúc này bỗng nhiên nói: “Dẫu muốn bảo vệ ở bên cạnh trẫm cũng phải có năng lực. Phan công công, lấy một cây cung tới đây.”
Bên cạnh có một kẻ hầu gần đó cười ha ha đi tới trước. Thâm Hoằng liếc mắt nhìn thấy thái độ bình tĩnh của lão, lại thấy vẻ mặt hoàng hậu thả lỏng, biết người này nhất định đều được sủng ái ở trước mặt thánh giá và trung cung[1]. Nhìn kỹ lại thì nhận ra là Phan công công đã từng đến thành Tuyên ban kiếm. Nhìn cách ăn mặc của lão ta thì ra lại lăn lộn đến trước mặt vua.
[1] thánh giá ở đây chỉ vua, trung cung chỉ hoàng hậu.
Phan công công dâng một cây cung toàn thân đen nhánh lên. Hoàng đế ôn hoà nói với hai đứa con trai: “Ai kéo được cái cung này, bắn hạ ngọn hoa trắng kia thì người đó đi cùng ta.”
Tú vương vốn không sao cả, lúc này cũng không muốn rơi vào hạ phong trước mặt hoàng huynh, liếc mắt nhìn Thâm Hoằng liền giành lấy cung tên trước nhưng kéo bốn năm lần vẫn không kéo nổi. Từ nhỏ cậu bé đã đi săn với cha, chưa bao giờ gặp phải sự xấu hổ thế này, mặt không khỏi đỏ lên. Hoàng đế nhìn thể trạng của Thâm Hoằng, lắc đầu nói: “Cây này hình như quá mạnh rồi. Đổi lấy cây khác đi.”
“Một lời của quân tử tựa như vàng ngọc.” Thâm Hoằng nói rồi bỏ Liệt Quỷ của mình sang một bên, cầm lấy cánh cung ấy, quyết chí dốc hết sức thử một lần.
Săn bắn không phải sở trường của cậu, thuật bắn cũng chỉ biết những điều Đoan phi tự mình truyền cho. Còn cung thì… cậu và cây Liệt Quỷ làm bạn nhiều năm, không có kinh nghiệm đọ lực với cung mạnh. Nhưng một mũi tên bắn ra, ngọn cây phía xa run lên. Lúc hoa trắng rơi lả tả, Thâm Hoằng bỗng nhiên tỉnh ngộ: mẹ đã lừa cậu.
Bà nói tên của Liệt Quỷ đáng sợ nhưng không phải cung mạnh.
Bà đã nói dối.
Lần đi săn ấy lại trở thành sự kết thúc cho một thời đại và sự mở đầu của một thời đại khác.
Hoàng đế rơi xuống nước đầm lạnh trên đỉnh núi, Thâm Hoằng trầm mặc nhìn theo phụ hoàng sắc mặt xanh xao được bầy người vây quanh đưa đi xa. Cậu trầm mặc trở lại thành Tuyên, giống như chẳng hề lay động đối với các loại tin đồn trong kinh.
Tố tướng quân cùng đi săn ngày đó rất coi trọng Thâm Hoằng, muốn gửi gắm hai đứa con gái chưa xuất giá cho cậu. Hai cô chiêu họ Tố này sinh sớm hai năm, tuổi tác không thuộc hàng tuyển chọn bảy năm một lần của hoàng gia, vả còn lớn tuổi hơn Thâm Hoằng. Lúc Thâm Hoằng rầu rĩ không lên tiếng, Đoan phi đã vui vẻ mà bằng lòng.
Người đề nghị kết thông gia rời đi, Thâm Hoằng thấy Nhược Tinh yên tĩnh ở phía sau bình phong, trong chốc lát không biết nên nói gì để xua tan sự lúng túng. Nhược Tinh lại nói trước: “Hai cô Tố Quân Niệm, Tố Quân Tích tài giỏi thanh cao, rất nổi danh ở kinh thành, đủ để có thể sánh đôi với điện hạ. Tố tướng quân nắm đội binh quan trọng, bảo vệ kinh kỳ trong tay, đúng là cánh tay hiếm có. Cơ hội tốt khó gặp, điện hạ không cần do dự vì thiếp. Nếu như Tố tướng quân chịu giúp điện hạ một tay, thiếp nguyện nhường vị trí Lương vương phi lại cho con gái tướng quân.”
“Nàng không cần như vậy.” Thâm Hoằng không chấp nhận sự nhượng bộ của nàng. Nàng lùi bước này quá hiên ngang lẫm liệt khiến cho cậu không dám nhận ơn tình, vả lại cậu hoàn toàn không thể chấp nhận. Cho dù mẹ của cậu – cô của nàng – không thích Nhược Tinh cũng sẽ không đồng ý chắp tay tặng chiếc ghế vịn vợ cả cho Tố thị khác. Sự tạm nhân nhượng vì lợi ích toàn cục giả tạo của Nhược Tinh cũng không cần tìm hiểu đến cùng.
Không lâu sau cung Ly của thành Tuyên đã có thêm Quân Niệm và Quân Tích, Thâm Hoằng nhanh chóng thông qua Tố tướng quân mua chuộc đồng minh. Mỗi lần người của vương phủ Thái An đến rồi lại đi, Đoan phi liền thất vọng hồi lâu, có lúc cả ngày không lên tiếng. Thâm Hoằng có thể dựa vào nét mặt của bà đoán được: sau khi hoàng đế nhiễm lạnh thì bệnh tình ngày càng sa sút.
Cậu nhất định phải nhanh hơn, nhanh hơn mới được, đạt được nhiều sự ủng hộ hơn, hội tụ nhiều lực lượng hơn nữa. Thời khắc mấu chốt này tương tự như lúc cậu bắn rơi hoa trắng trên cây, phải quyết định thật nhanh, một kích tất trúng.
Kết quả, cậu quả thực lại một lần nữa đứng nhất.
Hoàng đế nhiễm phong hàn mà băng hà, một tờ chiếu thư đưa đến thành Tuyên. Một hoàng tử trầm mặc như Thâm Hoằng được người cha đã lìa đời gửi gắm mong chờ, giao trọn đế quốc vào trong tay cậu. Ba vị quý tộc sa sút của thành Tuyên một bước nhảy lên đỉnh cao của thiên hạ.
Đoan phi, Thâm Hoằng và Nhược Tinh đều biết gian khổ vẫn chưa kết thúc. Không, là mới chính thức bắt đầu.
Tú Vương trốn khỏi kinh thành, chiếm giữ phía bắc phản loạn. Khi Thâm Hoằng và Nhược Tinh mang theo đại quân bao vây tiêu diệt, ba người em trai của tiên hoàng lại ở kinh mưu phản, dẫn binh đánh tới ngoài tường cung. Lúc đó trong kinh thành chỉ còn lại Đoan phi đã trở thành hoàng thái hậu. Bà tự mình dẫn binh chống lại, khí thế bất phàm, song ba vị thân vương vẫn xem thường người phụ nữ này. Một vị thân vương trong đó làm nhục danh dự hoàng thái hậu trước tường cung, đề cập đến thầy dạy kiếm Lý Tích Kim từng sống ở thành Tuyên, y vẫn chưa nói hết đã chết dưới tên của hoàng thái hậu. Sau đó, Hàm Huyền mang theo một đội người ngựa số lượng không nhiều về kinh cứu hộ, ba thân vương tan tác dưới thế đánh gọng kìm trước sau, người nhà của bọn họ bị giết sạch, trong đó có chị em họ của Nhược Tinh. Bọn họ từng bước vào cung nhưng hoàng đế lại băng hà nên số con gái được chọn bị gả ra khỏi cung. Bọn họ bất hạnh phân tán vào trong phủ của ba vị thân vương mưu phản. Thâm Hoằng muốn khoan thứ cho ba chị em của Nhược Tinh, đi đày thay cái chết. Nhưng mẹ của cậu cười nhạt: “Bệ hạ còn chưa tiến bộ sao? Nếu như lúc đầu ban chết cho Tú vương thì lấy đâu ra loạn quận bắc? Kinh nghiệm của mẹ con ta đủ để chứng minh: để rơi hạt giống cỏ dại ở thành hoang thì chúng nó vẫn sẽ sống trở lại kinh thành, trở thành cây lớn che trời. Thứ cỏ như vậy chỉ cần hai cây như chúng ta là đủ rồi.”
Thâm Hoằng nhìn bà, không thể phản bác lý lẽ của bà. Bà là một người có thể giết người ruột thịt cùng một mẹ. Ngày đầu tiên bà trở lại kinh thành liền chém một kiếm xuống đầu của hoàng hậu Hoài Mẫn ngay trước áo quan của tiên hoàng. Khi đó bà cũng đã nói lời giống vậy: “Em gái à, em cầm cái gì trong tay thế? Là chiếu thư hắn để lại sao?… Em ơi, hắn đã chết rồi, một trang giấy có thể giữ được em sao? Bây giờ người có thể quyết định sự sống chết của em là chị, nhưng hai ta đều biết, chị sẽ không bỏ qua cho em. Đây là điều em dạy cho chị: cho dù trục xuất em giống như xưa kia em đối với chị thì cũng có thể em sẽ trở về.”
Hoàng hậu Hoài Mẫn mím môi không nói được một lời. Đến chết bà ta cũng không phát ra một tiếng cầu xin, chỉ là lúc nhìn về phía Thâm Hoằng thì trong mắt ẩn hiện sự cầu xin thương xót. Đó không phải là vì chính bà ta, mà là vì đứa con trai trong lòng mình. Thâm Hoằng động lòng trắc ẩn. Đương khi Đoan phi vẩy vết máu trên thân kiếm đi, giao Băng Tiển cho Thâm Hoằng, cậu thu kiếm vào vỏ chứ không đâm thẳng vào lồng ngực Tú vương giống như Đoan phi mong đợi. “Con tha cho nó không chết, đến chùa Hoàng Cực tu hành.” Giọng điệu của Thâm Hoằng chắc nịch.
Quyết định này để lại cho Tú vương một con đường sống, nhưng lại khiến gã biến mất trong một đêm nọ, mau chóng dẫn theo bè cánh phản loạn không biết tụ tập thế nào mà chiếm cứ mấy quận phía bắc. Một suy nghĩ nhân từ của Thâm Hoằng lần đầu chiến thắng đổi lấy là dây dưa dông dài không ngừng.
Hôm nay đề cập đến Tú vương, hoàng thái hậu lại chê cười Thâm Hoằng: “Con thả anh em của mình, đành phải giết chết nhiều anh em của người khác hơn, cuối cùng không thể không giết chết người con thả kia. Cần gì phải hao phí những trắc trở này chứ?”
Thâm Hoằng yên lòng nói: “Mặc dù như thế, khi đó con vẫn muốn tha cho nó. Nó có phản loạn hay không cũng còn chưa biết. Nhưng chuyện nó là em trai con là điều chính xác không thể nghi ngờ.”
“Vậy thì ta không chỉ đánh giá cao trái tim lương thiện của bệ hạ mà còn đánh giá cao mắt nhìn của bệ hạ.” Hoàng thái hậu nói một cách lạnh lùng: “‘Cũng còn chưa biết’? Gần như tất cả mọi người đều biết chuyện nó sẽ làm phản!”
“Cho dù như vậy, trong cung đình của con tuyệt đối không thể tha thứ cho việc huyết nhục tương tàn.” Thâm Hoằng nói: “Miễn tội chết cho chị em họ của hoàng hậu, đày đến thành Tiều.”
Nhược Tinh lập tức quỳ xuống tạ ơn ân điển của cậu. Còn hoàng thái hậu lại cười lạnh một tiếng: “Bệ hạ thật là một vị vua nhân từ, đối đãi với kẻ có tội còn tốt hơn nhiều so với kẻ khác đối với chúng ta!” Thành Tuyên là kết cục kém nhất, còn thành Tiều tương đối dễ dàng yên thân.
Thâm Hoằng chậm rãi nói: “Hình như thái hậu đã quên, bọn họ cũng là cháu gái của người.”
“Ta chưa quên, cháu gái của ta đều là đám người đáng sợ.” Hoàng thái hậu đáp lại cậu mà mặt không đổi sắc, hoàn toàn không để ý cô cháu gái Nhược Tinh quỳ ở một bên.
Sau khi Nhược Tinh nghe xong những lời hiếm có này, trên mặt hoàn toàn bộ không có chút khó chịu nào, ngược lại càng nín lặng trầm ngâm, cung kính nghe hoàng thái hậu dạy.
Thâm Hoằng mang theo chờ mong liếc nhìn mẹ mình. Cậu không hy vọng vào lúc này chứng kiến ba người đã từng cùng nhau trải qua những năm tháng lạnh lẽo ở thành Tuyên lại mỗi người lẻ loi trên một góc băng cao ngất, nhìn chằm chằm nhau như hổ đói. Hoàng thái hậu hiểu nỗi lòng của cậu, cười lạnh một tiếng, cho hoàng hậu lui.
“Con có biết sự thay đổi của con người đáng sợ hơn bất kỳ biến hóa nào không?” Hoàng thái hậu nói với con trai của nàng: “Chúng ta đã không còn là Đoan phi, Lương vương và Lương vương phi, không còn là ba người vì cùng một mục đích mà cùng nhau nỗ lực muốn về lại đây nữa. Chí nguyện to lớn làm cho ba người chúng ta liên hệ với nhau đã thực hiện được rồi, cuối cùng con cũng làm chủ thiên hạ. Sau khi thực hiện được nguyện vọng, mọi người sẽ có nhiều nguyện vọng hơn. Hiện tại, ba người chúng ta đều phải sống vì nguyện vọng của chính mình rồi.”
Bà hòa nhã nhìn vị vua trẻ tuổi, mỉm cười: “Cha của con chỉ có một điều khiến mẹ bội phục từ tận đáy lòng. Ông ấy chưa bao giờ coi con gái họ Tố là tri kỷ, thà rằng chịu đựng nỗi cô độc trong lòng cũng không chọn lựa yêu Tố thị.”
“Con cũng chẳng thích nàng ấy.” Thâm Hoằng chậm rãi nói: “Con chưa bao giờ hiểu loại tình cảm đó.”
Hoàng thái hậu nhìn cậu thật kỹ, ánh mắt không biết là yên lòng hay là tiếc nuối, cuối cùng chỉ gật đầu một cái nói: “Tốt. Vẫn là câu châm ngôn kia, bạc tình ít khó, đa tình nhiều nạn…”
Thâm Hoằng rời khỏi bà, nhìn thấy hoàng hậu trẻ tuổi của cậu ở đường mòn vườn hoa. Dung nhan của Nhược Tinh rực rỡ hơn người, ánh mắt dịu dàng trang nhã, ngay cả lúm đồng tiền nhạt mỗi khi cười đều mang đầy thông cảm. Bất cứ lúc nào thấy nàng, Thâm Hoằng đều tự nói với mình: Đây thật là một hoàng hậu không thể bắt bẻ.
Sau khi người chung quanh lui hết, nàng tiến lên khoác lấy cánh tay cậu, khẽ nói: “Vườn hoa đẹp quá!”
“So với thứ nàng vẫn nghĩ, giống nhau mấy phần?” Thâm Hoằng dịu dàng hỏi.
Nàng ngửa đầu, trong đôi mắt sáng như sao lóe ra sự tinh ranh: “Đến mùa xuân sang năm sẽ giống nhau như đúc.”
Đương nhiên, nàng là chủ nhân nơi này rồi, bất kỳ vật gì đều sẽ theo tâm nguyện của nàng.
Thâm Hoằng đổi đề tài: “Gần đây tâm trạng thái hậu không tốt.”
“Vì người hầu họ Lý kia.” Nhược Tinh nói: “Bởi vì ông ta theo Tú vương chạy đến quận bắc.” Mấy ngày trước tin tức này đã được chứng thực, từ khắc ấy, Nhược Tinh không hề thừa nhận Lý Tích Kim đã từng là thầy dạy kiếm thuật của nàng. “Thật lắm kẻ kỳ lạ! Ban đầu ông ta giúp chúng ta mà.”
Thâm Hoằng bất giác thương tiếc, than thở nói: “Ông ấy luôn là người xem trọng lời hứa. Có lẽ giữa ông ấy với mẹ của Thâm Lẫm cũng có lời hứa.” Cậu nhìn vợ rồi nói tiếp: “Thế nên thái hậu giận lây sang người bên cạnh, nàng phải nhường nhịn.”
“Thiếp biết người không bất mãn với thiếp mà.” Vẻ mặt Nhược Tinh thản nhiên: “Mọi người đều nói thiếp và thái hậu lúc còn trẻ rất giống nhau, có lẽ người cũng cảm thấy như vậy. Bất kể oán giận con gái họ Tố ra sao, hay là chán ghét thiếp thế nào thì nhiều nhất chỉ là căm ghét bản thân bị cuộc sống tạo thành như vậy.”
Thâm Hoằng ít khi thấy nàng lộ ra thần thái lạnh lẽo như vậy, nhỏ giọng hỏi: “Vậy còn nàng thì sao? Có từng oán giận chưa?”
“Thiếp chưa từng.” Nhược Tinh tựa đầu lên vai cậu: “Thiếp chưa hề biết cuộc sống trừ điều đó ra sẽ như thế nào, cho nên không có ước ao, không có tiếc nuối. Chỉ là…”
“Chỉ là làm sao?”
Nhược Tinh nở nụ cười vô cùng nhẹ nhàng: “Nếu có một ngày, cháu gái của thiếp vào chốn cung đình này, thiếp muốn đối với nó thật tốt, thật tốt.”
Lúc Nhược Tinh sinh tuổi còn nhỏ quá, khí hậu thành Tuyên lại lạnh lẽo quá chừng, mọi thứ đều khiến quá trình sinh nở của phụ nữ thêm rất nhiều nguy cơ. Đứa bé khi chào đời là một đứa trẻ sơ sinh nhỏ bé yếu ớt biết bao, Thâm Hoằng và Nhược Tinh thường hay lo lắng hô hấp như tơ nhện của nó có thể gián đoạn bất cứ khi nào. Sinh mạng thường xuyên lơ lửng không cố định ở ranh giới âm dương này lại khiến ba hoàng tộc của thành Tuyên chộp được một chút hy vọng. Quả nhiên, bởi vì bé gái nho nhỏ này là đứa cháu đầu tiên của hoàng đế thế nên hoàng đế đã phong nàng làm quận chúa Phượng Diệp, chuẩn tấu cho Thâm Hoằng dẫn vợ con đến cuộc đi săn của hoàng gia năm đó.
Đoan phi lấy lý do Nhược Tinh tuổi quá trẻ, không đủ để chăm sóc đứa con yếu ớt nên cũng theo Thâm Hoằng cùng đi đến khu vực săn bắn. Bà không có tư cách theo xa giá đi săn nên không mặc trang phục săn mà chọn một bộ quần áo có ống tay rộng vạt áo dài, giấu đi toàn bộ sự biến đổi của vóc người do năm tháng.
Gió trên đường thổi qua thảo nguyên đến nơi đóng quân, mặt trời mới mọc vương từng sợi vàng trên người Đoan phi, Thâm Hoằng không cầm được mỉm cười với mẹ. Ống tay áo nàng phấp phới, dáng người yểu điệu. So với hoàng hậu Uyển Vanh bên chỗ đóng quân, bà càng xứng với vị vua tư thế hiên ngang trên lưng ngựa kia hơn.
Lúc Thâm Hoằng nhìn về phía hoàng đế, hoàng đế cũng nhìn cậu nhưng ánh mắt chuyển đi rất nhanh, rơi lên người Đoan phi. Ban đầu Đoan phi đang nghiêng người về phía ông, sau một lát như là phát hiện ông đang nhìn nên chậm rãi xoay người hành lễ. Động tác của bà uyển chuyển mềm mại, giống như vẫn là cô gái xuân xanh tuổi tròn đôi mươi, vẻ mặt chẳng hề thân thiết, cũng không hiện ra sự cảm khái sâu nặng đối với lần gặp lại sau nhiều năm. Thâm Hoằng cẩn thận chú ý phản ứng của cha nhưng chỉ thấy ông làm như không có chuyện gì, tùy ý quay đầu ngựa, dường như vừa rồi chỉ là ngẫu nhiên bốn mắt nhìn nhau cùng một kẻ xa lạ giống người quen cũ mà thôi.
Trong nháy mắt ông giục ngựa xoay mình, ánh mắt Thâm Hoằng cũng lạnh đi.
“Đi theo sau ngài ấy, đến vị trí con nên ở đi.” Đoan phi không để bụng phản ứng của chồng, kéo dây cương của Thâm Hoằng, không nhanh không chậm dặn: “Sau đó, con phải bảo đảm với mẹ: bất kể là ai cũng không thể khiến con rời khỏi vị trí ấy.”
Làm đứa con trai lớn nhất, Thâm Hoằng nên đến vị trí cách đế vương thật gần, thật thân mật. Trong lòng cậu không được tự nhiên, lãnh đạm nói: “Con cùng với ngài ấy đã xa cách tám năm… Không, cha con con đã mười lăm năm chưa gặp mặt.”
“Cũng như vậy, mẹ đã đợi giờ khắc này mười lăm năm rồi.” Đoan phi mỉm cười kiên định với con trai: “Đừng để mẹ thất vọng, đừng để mẹ phải chờ lâu hơn nữa.”
Thâm Hoằng ở trên lưng ngựa nhìn xuống khuôn mặt tươi cười của mẹ, chậm rãi mỉm cười một cái đáp lễ bà.
Ngay cùng một ngày, Thâm Hoằng gặp và biết cậu em Tú vương Thâm Lẫm. Tú vương mười một tuổi rất giống Thâm Hoằng, trong số thành viên lưa thưa trong dòng họ, bọn họ giống anh em ruột nhất. Thâm Hoằng kinh ngạc thấy Tú vương ở bên cạnh đế vương lại tự tại vui chơi cười đùa như vậy, còn kinh ngạc thuật cưỡi ngựa cùng tài bắn cung của em trai lại cao siêu như thế.
Lúc hoàng hậu nhìn về phía con trai mình thì mang theo niềm tự hào của một người mẹ. Nhiều năm không gặp, bà ta vẫn nhã nhặn như trước, đuôi mắt hơi rủ xuống, thêm vài phần hiền lành, quần áo săn trên người khó giấu vẻ dịu dàng. Khi đôi mắt hiền lành của bà ta chuyển hướng sang Thâm Hoằng lại mang sự cao ngạo của kẻ thắng cuộc. So với Thâm Hoằng trầm mặc ít nói thì Tú vương là tiêu điểm của mọi người, với tư cách là mẹ và hoàng hậu, bà ta hy vọng Thâm Hoằng hiểu rõ con trai của mình có đủ sự chói lọi mà người khác không cách nào sánh được. E rằng bà ta cũng đồng thời hy vọng, Thâm Hoằng giống như mẹ con Tương phi và Ung vương, lặng lẽ ở nơi xó xỉnh không ai chú ý tới.
Thâm Hoằng lấy một nụ cười bình tĩnh nhàn nhã đáp lại tất cả. Nụ cười của cậu không thể gọi là ấm áp nhưng ung dung đúng mực. Các đại thần đi theo hộ tống cảm thấy vị Lương vương bỗng nhiên giáng lâm này thần bí khó dò, tuổi tác của cậu tuy nhỏ nhưng thái độ thành thục thâm trầm, cử chỉ chín chắn. Thế là trong lòng không ít người nảy sinh một ý tưởng kỳ diệu: so với đứa trẻ vui cười kia thì vị này dường như còn có phong độ của bậc đế vương hơn.
Thái độ của hoàng đế đối với Thâm Hoàng rất xa cách, cả đường không nói được mấy câu. Thâm Hoằng cũng không có ý định vội vã gây sự chú ý với ông, bèn dùng cơ hội này lẳng lặng quan sát phụ hoàng của mình. Ông thoạt nhìn còn rất trẻ, có lẽ năm tháng đã thiên vị ông, để lại dấu vết nhỏ bé như thế cho ông, nhỏ hơn sự tưởng tượng của Thâm Hoằng nhiều. Vẻ anh tuấn của ông cũng vượt qua tưởng tượng của Thâm Hoằng. Thâm Hoằng vẫn cho là nét đẹp trong mặt mày của mình đều đến từ mẹ, hôm nay mới phát hiện còn giống ông nhiều hơn. Cậu cứ yên lặng mà nhìn, mà nghe, từ trong mỗi cái ám hiệu hoàng đế truyền ra xung quanh, phỏng đoán ông là người như thế nào. Thấm thoắt, bọn họ đã đi tới đài Bán Túy giữa sườn núi.
Sau yến tiệc, hoàng đế đầy phấn khởi muốn đến đỉnh núi phía trước. Thấy con thơ chơi đùa hơn nửa ngày đã mỏi mệt, ông nói: “Thời gian không còn sớm, lập tức xuất phát, đi sớm về sớm.” Hoàng hậu cười dịu dàng kéo Tú vương, dự định nghỉ ngơi ở chỗ này cho tốt. Mọi khi cũng như vậy cả, bà ta và con trai ở đây chờ hoàng đế dẫn thị vệ bên cạnh đi loanh quanh trên đỉnh núi.
Thâm Hoằng vừa đứng lên, vừa nghĩ: vậy mà hoàng đế lại là một người cha biết quan tâm. Nghĩ xong, cậu đã đứng ở bên cạnh hoàng đế. Cậu đã đồng ý với mẹ, tuyệt đối không rời hoàng đế, dẫu hoàng đế đi tới chỗ nào cậu cũng phải đi theo.
Hoàng hậu thấy thế thì khẽ cau mày, âm thầm căm hận Thâm Hoằng không biết điều, không muốn cha con họ bỏ lại Tú vương dù chỉ chốc lát. “Hoằng Nhi không mệt sao?” Tiếng bà ta ấm áp mềm mại, gọi thật thân thiết.
Thâm Hoằng cười nhạt hỏi lại: “Lẫm Nhi đã mệt rồi sao?” Tiếng cậu trong suốt, tuy lời khiến người ta khó chịu nhưng giọng điệu lại lọt tai không hề có khí thế bức người, giống như anh lớn chăm sóc đứa em còn tấm bé.
Tú vương mở to mắt nhìn vị hoàng huynh xa lạ này. Từ trong ánh mắt của cậu bé, Thâm Hoằng có thể nhìn ra đứa bé này thật sự là một đứa con nít, hình như không hiểu trong màn đối thoại giữa anh trai và mẹ có gì thú vị. Ánh mắt của cậu bé đảo liên hồi, hỏi anh: “Trên đỉnh núi có gì vui?”
Trên mặt Thâm Hoằng vẫn là vẻ cười mỉm, tiếng nói nhỏ nhẹ trả lời: “Theo hầu thánh giá đương nhiên phải bảo vệ trước sau, há có thể lấy yêu ghét cực nhọc mà rời khỏi bên cạnh? Tú vương nên cùng đi mới phải.” Nói xong lời này, xung quanh có mấy người quan hầu khá đồng thuận. Tú vương im lặng không nói nữa. Thâm Hoằng nhìn ra được, từ khắc ấy em trai bắt đầu không thích mình.
Hành động của Thâm Hoằng được hoàng đế nhìn thấy, ông vẫn luôn lạnh lùng nhìn mà không nói một từ, lúc này bỗng nhiên nói: “Dẫu muốn bảo vệ ở bên cạnh trẫm cũng phải có năng lực. Phan công công, lấy một cây cung tới đây.”
Bên cạnh có một kẻ hầu gần đó cười ha ha đi tới trước. Thâm Hoằng liếc mắt nhìn thấy thái độ bình tĩnh của lão, lại thấy vẻ mặt hoàng hậu thả lỏng, biết người này nhất định đều được sủng ái ở trước mặt thánh giá và trung cung[1]. Nhìn kỹ lại thì nhận ra là Phan công công đã từng đến thành Tuyên ban kiếm. Nhìn cách ăn mặc của lão ta thì ra lại lăn lộn đến trước mặt vua.
[1] thánh giá ở đây chỉ vua, trung cung chỉ hoàng hậu.
Phan công công dâng một cây cung toàn thân đen nhánh lên. Hoàng đế ôn hoà nói với hai đứa con trai: “Ai kéo được cái cung này, bắn hạ ngọn hoa trắng kia thì người đó đi cùng ta.”
Tú vương vốn không sao cả, lúc này cũng không muốn rơi vào hạ phong trước mặt hoàng huynh, liếc mắt nhìn Thâm Hoằng liền giành lấy cung tên trước nhưng kéo bốn năm lần vẫn không kéo nổi. Từ nhỏ cậu bé đã đi săn với cha, chưa bao giờ gặp phải sự xấu hổ thế này, mặt không khỏi đỏ lên. Hoàng đế nhìn thể trạng của Thâm Hoằng, lắc đầu nói: “Cây này hình như quá mạnh rồi. Đổi lấy cây khác đi.”
“Một lời của quân tử tựa như vàng ngọc.” Thâm Hoằng nói rồi bỏ Liệt Quỷ của mình sang một bên, cầm lấy cánh cung ấy, quyết chí dốc hết sức thử một lần.
Săn bắn không phải sở trường của cậu, thuật bắn cũng chỉ biết những điều Đoan phi tự mình truyền cho. Còn cung thì… cậu và cây Liệt Quỷ làm bạn nhiều năm, không có kinh nghiệm đọ lực với cung mạnh. Nhưng một mũi tên bắn ra, ngọn cây phía xa run lên. Lúc hoa trắng rơi lả tả, Thâm Hoằng bỗng nhiên tỉnh ngộ: mẹ đã lừa cậu.
Bà nói tên của Liệt Quỷ đáng sợ nhưng không phải cung mạnh.
Bà đã nói dối.
Lần đi săn ấy lại trở thành sự kết thúc cho một thời đại và sự mở đầu của một thời đại khác.
Hoàng đế rơi xuống nước đầm lạnh trên đỉnh núi, Thâm Hoằng trầm mặc nhìn theo phụ hoàng sắc mặt xanh xao được bầy người vây quanh đưa đi xa. Cậu trầm mặc trở lại thành Tuyên, giống như chẳng hề lay động đối với các loại tin đồn trong kinh.
Tố tướng quân cùng đi săn ngày đó rất coi trọng Thâm Hoằng, muốn gửi gắm hai đứa con gái chưa xuất giá cho cậu. Hai cô chiêu họ Tố này sinh sớm hai năm, tuổi tác không thuộc hàng tuyển chọn bảy năm một lần của hoàng gia, vả còn lớn tuổi hơn Thâm Hoằng. Lúc Thâm Hoằng rầu rĩ không lên tiếng, Đoan phi đã vui vẻ mà bằng lòng.
Người đề nghị kết thông gia rời đi, Thâm Hoằng thấy Nhược Tinh yên tĩnh ở phía sau bình phong, trong chốc lát không biết nên nói gì để xua tan sự lúng túng. Nhược Tinh lại nói trước: “Hai cô Tố Quân Niệm, Tố Quân Tích tài giỏi thanh cao, rất nổi danh ở kinh thành, đủ để có thể sánh đôi với điện hạ. Tố tướng quân nắm đội binh quan trọng, bảo vệ kinh kỳ trong tay, đúng là cánh tay hiếm có. Cơ hội tốt khó gặp, điện hạ không cần do dự vì thiếp. Nếu như Tố tướng quân chịu giúp điện hạ một tay, thiếp nguyện nhường vị trí Lương vương phi lại cho con gái tướng quân.”
“Nàng không cần như vậy.” Thâm Hoằng không chấp nhận sự nhượng bộ của nàng. Nàng lùi bước này quá hiên ngang lẫm liệt khiến cho cậu không dám nhận ơn tình, vả lại cậu hoàn toàn không thể chấp nhận. Cho dù mẹ của cậu – cô của nàng – không thích Nhược Tinh cũng sẽ không đồng ý chắp tay tặng chiếc ghế vịn vợ cả cho Tố thị khác. Sự tạm nhân nhượng vì lợi ích toàn cục giả tạo của Nhược Tinh cũng không cần tìm hiểu đến cùng.
Không lâu sau cung Ly của thành Tuyên đã có thêm Quân Niệm và Quân Tích, Thâm Hoằng nhanh chóng thông qua Tố tướng quân mua chuộc đồng minh. Mỗi lần người của vương phủ Thái An đến rồi lại đi, Đoan phi liền thất vọng hồi lâu, có lúc cả ngày không lên tiếng. Thâm Hoằng có thể dựa vào nét mặt của bà đoán được: sau khi hoàng đế nhiễm lạnh thì bệnh tình ngày càng sa sút.
Cậu nhất định phải nhanh hơn, nhanh hơn mới được, đạt được nhiều sự ủng hộ hơn, hội tụ nhiều lực lượng hơn nữa. Thời khắc mấu chốt này tương tự như lúc cậu bắn rơi hoa trắng trên cây, phải quyết định thật nhanh, một kích tất trúng.
Kết quả, cậu quả thực lại một lần nữa đứng nhất.
Hoàng đế nhiễm phong hàn mà băng hà, một tờ chiếu thư đưa đến thành Tuyên. Một hoàng tử trầm mặc như Thâm Hoằng được người cha đã lìa đời gửi gắm mong chờ, giao trọn đế quốc vào trong tay cậu. Ba vị quý tộc sa sút của thành Tuyên một bước nhảy lên đỉnh cao của thiên hạ.
Đoan phi, Thâm Hoằng và Nhược Tinh đều biết gian khổ vẫn chưa kết thúc. Không, là mới chính thức bắt đầu.
Tú Vương trốn khỏi kinh thành, chiếm giữ phía bắc phản loạn. Khi Thâm Hoằng và Nhược Tinh mang theo đại quân bao vây tiêu diệt, ba người em trai của tiên hoàng lại ở kinh mưu phản, dẫn binh đánh tới ngoài tường cung. Lúc đó trong kinh thành chỉ còn lại Đoan phi đã trở thành hoàng thái hậu. Bà tự mình dẫn binh chống lại, khí thế bất phàm, song ba vị thân vương vẫn xem thường người phụ nữ này. Một vị thân vương trong đó làm nhục danh dự hoàng thái hậu trước tường cung, đề cập đến thầy dạy kiếm Lý Tích Kim từng sống ở thành Tuyên, y vẫn chưa nói hết đã chết dưới tên của hoàng thái hậu. Sau đó, Hàm Huyền mang theo một đội người ngựa số lượng không nhiều về kinh cứu hộ, ba thân vương tan tác dưới thế đánh gọng kìm trước sau, người nhà của bọn họ bị giết sạch, trong đó có chị em họ của Nhược Tinh. Bọn họ từng bước vào cung nhưng hoàng đế lại băng hà nên số con gái được chọn bị gả ra khỏi cung. Bọn họ bất hạnh phân tán vào trong phủ của ba vị thân vương mưu phản. Thâm Hoằng muốn khoan thứ cho ba chị em của Nhược Tinh, đi đày thay cái chết. Nhưng mẹ của cậu cười nhạt: “Bệ hạ còn chưa tiến bộ sao? Nếu như lúc đầu ban chết cho Tú vương thì lấy đâu ra loạn quận bắc? Kinh nghiệm của mẹ con ta đủ để chứng minh: để rơi hạt giống cỏ dại ở thành hoang thì chúng nó vẫn sẽ sống trở lại kinh thành, trở thành cây lớn che trời. Thứ cỏ như vậy chỉ cần hai cây như chúng ta là đủ rồi.”
Thâm Hoằng nhìn bà, không thể phản bác lý lẽ của bà. Bà là một người có thể giết người ruột thịt cùng một mẹ. Ngày đầu tiên bà trở lại kinh thành liền chém một kiếm xuống đầu của hoàng hậu Hoài Mẫn ngay trước áo quan của tiên hoàng. Khi đó bà cũng đã nói lời giống vậy: “Em gái à, em cầm cái gì trong tay thế? Là chiếu thư hắn để lại sao?… Em ơi, hắn đã chết rồi, một trang giấy có thể giữ được em sao? Bây giờ người có thể quyết định sự sống chết của em là chị, nhưng hai ta đều biết, chị sẽ không bỏ qua cho em. Đây là điều em dạy cho chị: cho dù trục xuất em giống như xưa kia em đối với chị thì cũng có thể em sẽ trở về.”
Hoàng hậu Hoài Mẫn mím môi không nói được một lời. Đến chết bà ta cũng không phát ra một tiếng cầu xin, chỉ là lúc nhìn về phía Thâm Hoằng thì trong mắt ẩn hiện sự cầu xin thương xót. Đó không phải là vì chính bà ta, mà là vì đứa con trai trong lòng mình. Thâm Hoằng động lòng trắc ẩn. Đương khi Đoan phi vẩy vết máu trên thân kiếm đi, giao Băng Tiển cho Thâm Hoằng, cậu thu kiếm vào vỏ chứ không đâm thẳng vào lồng ngực Tú vương giống như Đoan phi mong đợi. “Con tha cho nó không chết, đến chùa Hoàng Cực tu hành.” Giọng điệu của Thâm Hoằng chắc nịch.
Quyết định này để lại cho Tú vương một con đường sống, nhưng lại khiến gã biến mất trong một đêm nọ, mau chóng dẫn theo bè cánh phản loạn không biết tụ tập thế nào mà chiếm cứ mấy quận phía bắc. Một suy nghĩ nhân từ của Thâm Hoằng lần đầu chiến thắng đổi lấy là dây dưa dông dài không ngừng.
Hôm nay đề cập đến Tú vương, hoàng thái hậu lại chê cười Thâm Hoằng: “Con thả anh em của mình, đành phải giết chết nhiều anh em của người khác hơn, cuối cùng không thể không giết chết người con thả kia. Cần gì phải hao phí những trắc trở này chứ?”
Thâm Hoằng yên lòng nói: “Mặc dù như thế, khi đó con vẫn muốn tha cho nó. Nó có phản loạn hay không cũng còn chưa biết. Nhưng chuyện nó là em trai con là điều chính xác không thể nghi ngờ.”
“Vậy thì ta không chỉ đánh giá cao trái tim lương thiện của bệ hạ mà còn đánh giá cao mắt nhìn của bệ hạ.” Hoàng thái hậu nói một cách lạnh lùng: “‘Cũng còn chưa biết’? Gần như tất cả mọi người đều biết chuyện nó sẽ làm phản!”
“Cho dù như vậy, trong cung đình của con tuyệt đối không thể tha thứ cho việc huyết nhục tương tàn.” Thâm Hoằng nói: “Miễn tội chết cho chị em họ của hoàng hậu, đày đến thành Tiều.”
Nhược Tinh lập tức quỳ xuống tạ ơn ân điển của cậu. Còn hoàng thái hậu lại cười lạnh một tiếng: “Bệ hạ thật là một vị vua nhân từ, đối đãi với kẻ có tội còn tốt hơn nhiều so với kẻ khác đối với chúng ta!” Thành Tuyên là kết cục kém nhất, còn thành Tiều tương đối dễ dàng yên thân.
Thâm Hoằng chậm rãi nói: “Hình như thái hậu đã quên, bọn họ cũng là cháu gái của người.”
“Ta chưa quên, cháu gái của ta đều là đám người đáng sợ.” Hoàng thái hậu đáp lại cậu mà mặt không đổi sắc, hoàn toàn không để ý cô cháu gái Nhược Tinh quỳ ở một bên.
Sau khi Nhược Tinh nghe xong những lời hiếm có này, trên mặt hoàn toàn bộ không có chút khó chịu nào, ngược lại càng nín lặng trầm ngâm, cung kính nghe hoàng thái hậu dạy.
Thâm Hoằng mang theo chờ mong liếc nhìn mẹ mình. Cậu không hy vọng vào lúc này chứng kiến ba người đã từng cùng nhau trải qua những năm tháng lạnh lẽo ở thành Tuyên lại mỗi người lẻ loi trên một góc băng cao ngất, nhìn chằm chằm nhau như hổ đói. Hoàng thái hậu hiểu nỗi lòng của cậu, cười lạnh một tiếng, cho hoàng hậu lui.
“Con có biết sự thay đổi của con người đáng sợ hơn bất kỳ biến hóa nào không?” Hoàng thái hậu nói với con trai của nàng: “Chúng ta đã không còn là Đoan phi, Lương vương và Lương vương phi, không còn là ba người vì cùng một mục đích mà cùng nhau nỗ lực muốn về lại đây nữa. Chí nguyện to lớn làm cho ba người chúng ta liên hệ với nhau đã thực hiện được rồi, cuối cùng con cũng làm chủ thiên hạ. Sau khi thực hiện được nguyện vọng, mọi người sẽ có nhiều nguyện vọng hơn. Hiện tại, ba người chúng ta đều phải sống vì nguyện vọng của chính mình rồi.”
Bà hòa nhã nhìn vị vua trẻ tuổi, mỉm cười: “Cha của con chỉ có một điều khiến mẹ bội phục từ tận đáy lòng. Ông ấy chưa bao giờ coi con gái họ Tố là tri kỷ, thà rằng chịu đựng nỗi cô độc trong lòng cũng không chọn lựa yêu Tố thị.”
“Con cũng chẳng thích nàng ấy.” Thâm Hoằng chậm rãi nói: “Con chưa bao giờ hiểu loại tình cảm đó.”
Hoàng thái hậu nhìn cậu thật kỹ, ánh mắt không biết là yên lòng hay là tiếc nuối, cuối cùng chỉ gật đầu một cái nói: “Tốt. Vẫn là câu châm ngôn kia, bạc tình ít khó, đa tình nhiều nạn…”
Thâm Hoằng rời khỏi bà, nhìn thấy hoàng hậu trẻ tuổi của cậu ở đường mòn vườn hoa. Dung nhan của Nhược Tinh rực rỡ hơn người, ánh mắt dịu dàng trang nhã, ngay cả lúm đồng tiền nhạt mỗi khi cười đều mang đầy thông cảm. Bất cứ lúc nào thấy nàng, Thâm Hoằng đều tự nói với mình: Đây thật là một hoàng hậu không thể bắt bẻ.
Sau khi người chung quanh lui hết, nàng tiến lên khoác lấy cánh tay cậu, khẽ nói: “Vườn hoa đẹp quá!”
“So với thứ nàng vẫn nghĩ, giống nhau mấy phần?” Thâm Hoằng dịu dàng hỏi.
Nàng ngửa đầu, trong đôi mắt sáng như sao lóe ra sự tinh ranh: “Đến mùa xuân sang năm sẽ giống nhau như đúc.”
Đương nhiên, nàng là chủ nhân nơi này rồi, bất kỳ vật gì đều sẽ theo tâm nguyện của nàng.
Thâm Hoằng đổi đề tài: “Gần đây tâm trạng thái hậu không tốt.”
“Vì người hầu họ Lý kia.” Nhược Tinh nói: “Bởi vì ông ta theo Tú vương chạy đến quận bắc.” Mấy ngày trước tin tức này đã được chứng thực, từ khắc ấy, Nhược Tinh không hề thừa nhận Lý Tích Kim đã từng là thầy dạy kiếm thuật của nàng. “Thật lắm kẻ kỳ lạ! Ban đầu ông ta giúp chúng ta mà.”
Thâm Hoằng bất giác thương tiếc, than thở nói: “Ông ấy luôn là người xem trọng lời hứa. Có lẽ giữa ông ấy với mẹ của Thâm Lẫm cũng có lời hứa.” Cậu nhìn vợ rồi nói tiếp: “Thế nên thái hậu giận lây sang người bên cạnh, nàng phải nhường nhịn.”
“Thiếp biết người không bất mãn với thiếp mà.” Vẻ mặt Nhược Tinh thản nhiên: “Mọi người đều nói thiếp và thái hậu lúc còn trẻ rất giống nhau, có lẽ người cũng cảm thấy như vậy. Bất kể oán giận con gái họ Tố ra sao, hay là chán ghét thiếp thế nào thì nhiều nhất chỉ là căm ghét bản thân bị cuộc sống tạo thành như vậy.”
Thâm Hoằng ít khi thấy nàng lộ ra thần thái lạnh lẽo như vậy, nhỏ giọng hỏi: “Vậy còn nàng thì sao? Có từng oán giận chưa?”
“Thiếp chưa từng.” Nhược Tinh tựa đầu lên vai cậu: “Thiếp chưa hề biết cuộc sống trừ điều đó ra sẽ như thế nào, cho nên không có ước ao, không có tiếc nuối. Chỉ là…”
“Chỉ là làm sao?”
Nhược Tinh nở nụ cười vô cùng nhẹ nhàng: “Nếu có một ngày, cháu gái của thiếp vào chốn cung đình này, thiếp muốn đối với nó thật tốt, thật tốt.”
Bình luận facebook