-
Chương 11
Bốn
Năm 581, triều nhà Trần
Mùi thức ăn xộc vào mũi làm bụng chàng bắt đầu cồn cào. Thẩm Phong mở mí mắt. Ngọn lửa chập chờn trong nhà. Người thợ đàn già đã trở về và nấu thức ăn trong khi chàng ngủ. Thẩm Phong nhảy dựng dậy mừng rỡ. Hai mắt chàng lướt qua căn nhà trống và nhanh chóng nhìn về phía cửa. Bên ngoài, mặt trời đang xuống núi nhuộm những mái nhà trong làng bằng một màu cam huyền hoặc. Trong khoảnh vườn rào bằng tre, sư phụ chàng nấu cơm chiều.
Thẩm Phong chào thầy vui vẻ:
- Sư phụ đã về rồi!
Chàng lập tức cảm thấy hối hận vô cùng. Trên tấm bàn đá, chỉ có một chén rau muối để ăn với cơm. Đêm trước, vì bị Chu Bảo thôi thúc đi mở cửa hầm mộ nên chàng rời Kinh Châu mà không mua thứ gì. Chàng mở mắt và thấy tấm nắp quan tài bị lấy cắp vẫn nằm dưới gốc cây đào.
Chàng ngồi vào bàn, nhìn chằm chằm khuôn mặt sư phụ và quyết định giấu đi tin buồn: không còn một ai đặt làm đàn. Chàng mỉm cười ném túi bạc của Lỗ Tứ lên bàn, bạc leng keng trong túi.
- Con đã bán cây đàn cổ cầm, ngày mai con đi chợ! Con mua rượu gạo, thịt lợn chỗ bác Tống và bánh mật ong quế nhé? Con may cho sư phụ bộ đồ mới nhé? Áo sư phụ thủng lỗ chỗ cả rồi! Nếu con có đem cho bé Hoa vá lại thì cũng không mặc được lâu nữa. Tốt nhất nên mua một cái mới.
Người thợ đàn già không để ý. Mặt cúi gằm, ông tiếp tục ăn bữa tối.
- Lâu nay sư phụ đi đâu vậy? - Thẩm Phong hỏi tiếp. - Lần này con đã đếm đấy nhé, nhìn này.
Dưới chân tường nhà mười viên sỏi nhỏ xếp hàng.
- Mười ngày! Trong mười ngày con đã không có tin tức gì của sư phụ. Vì trời mưa nên con sợ sư phụ bị ngã dưới thung… hay sư phụ bị hổ tấn công rồi đấy…
Người thợ đàn gia giống như vừa trở về sau nhiều đêm trường giữa rừng. Gò má hõm vào, lưng còng xuống. Mái tóc ông rối bù như tổ chim. Đầu ngón tay đen sạm và nứt nẻ, các móng tay đã bị gãy và đôi chỗ có dấu máu tím bầm.
Thẩm Phong thở dài. Rồi chàng cố mỉm cười lần nữa.
- Ở thác lớn, nước vẫn còn lạnh. Sau bữa tối, con sẽ chuẩn bị cho sư phụ một chậu nước nóng trong nhà, được không sư phụ?
Người thợ đàn già không trả lời. Khuôn mặt nâu đậm có những nếp nhăn sâu hoắm vẫn im lìm. Những nếp nhăn nhúc nhích khi ông nhai. Thật khó mà biết ông đang nghĩ gì.
Thẩm Phong đứng dậy, lấy một bát cơm rồi quay lại. Chàng cố gắng tiếp chuyện:
- Tấm gỗ ở ngoài kia… sư phụ đoán nó bao nhiêu tuổi?
Người thợ đàn già vẫn im lặng, không thèm ngước mắt nhìn.
Hai người đàn ông tiếp tục ngồi ăn đối diện nhau mà không nói lời nào. Bỗng người thợ đàn đứng dậy, tay cầm cái chén không, đi ngang qua cây đào rồi nhìn sơ qua tấm gỗ. Thẩm Phong nín thở. Sư phụ là người thành tâm với Phật. Ông sẽ nổi giận nếu biết Thẩm Phong và Chu Bảo trộm nó từ chùa Đại Bi.
Người thợ đàn già cúi xuống, lấy tay áo chùi một góc tấm gỗ, lẩm bẩm vài lời không rõ. Ông lắc đầu rồi quay lại ngôi nhà. Khi Thẩm Phong ăn sạch bát cơm, người thợ đàn già đi ra, mang theo một bọc quần áo trên lưng. Cổ Thẩm Phong nghẹn lại, chàng đứng dậy. Sao sư phụ chàng lại chuẩn bị lên đường? Lần này ông sẽ đi vài ngày hay đi mãi?
Thẩm Phong chặn lối đi lại. Chàng gằn giọng hỏi sư phụ:
- Sư phụ mới đi mười ngày. Giờ sư phụ còn đi đâu nữa?
Người thợ đàn già lẩm nhẩm, lảng tránh ánh mắt của Thẩm Phong.
- Sư phụ không điếc, con biết mà!- Thẩm Phong hét lên.- Ở đây là nhà sư phụ, nhà của chúng ta, sư phụ còn đi đâu?
Chàng giơ tay lên tìm cách lấy lại túi đồ. Dù tay đã run nhưng người thợ đàn già vẫn tránh né được, chính ông đã dạy võ cho Thẩm Phong. Ông đánh bật cánh tay chàng ra rồi vụt né qua một bên, bước một chân về phía trước. Thẩm Phong nắm vai ông giữ lại.
- Sư phụ thậm chí không phải cha con, nhưng sư phụ đã cứu mạng con và nuôi con lớn lên như con đẻ. Với người Hoa Hạ, một người cha không thể bỏ rơi con mình, một đứa con phải nuôi cha mẹ đến khi cha mẹ chết. Nó phải chôn cha nó đàng hoàng và chăm lo phần mộ cho đến khi tới lượt mình phải chết. Sư phụ đã sống giữa những người Hoa Hạ, sư phụ không còn là ngươi Tiên Ti nữa!
Thẩm Phong cố kìm nước mắt.
- Khi con còn nhỏ, sư phụ dẫn con theo bất cứ nơi nào sư phụ đến. Chúng ta đã làm việc trong xưởng, đã ở trong thành và sống trong rừng. Chúng ta đã cùng chọn ngôi làng này. Sư phụ đã dạy con làm đàn cổ cầm, dạy con dựng nhà. Giờ sư phụ đi đâu? Con đi với sư phụ!
Người thợ đàn già nhìn chằm chằm xuống đất, lắc đầu, hạ vai xuống thoát khỏi tay Thẩm Phong rồi đi ra phía cổng. Thẩm Phong lao theo để cản ngăn, nhưng người thợ đàn già đẩy chàng lại.
- Sư phụ! Hãy nhìn ngôi nhà xem. Chân nhà, chái nhà, mỗi lớp đất nện trên tường đều đẫm mồ hôi của cả hai! Hãy nhìn khoảnh vườn! Chúng ta đã khai khẩn cùng nhau!
Nước mắt làm mắt Thẩm Phong mờ đi rồi chàng giơ tay chùi mắt. Không thèm nhìn chàng, không thèm ngoảnh đầu lại, người thợ đàn già mở cửa rồi đi theo con đường mòn có hoa mùa xuân nở đầy hai bên. Nỗi buồn trùm kín Thẩm Phong làm chàng như hóa đá. Sư phụ chàng không phải người Hán. Trong người ông chảy dòng máu của tộc người Tiên Ti, một bộ lạc du mục ở phương Bắc. Những người Tiên Ti không có khái niệm gia đình. Các bà mẹ nuôi lớn tất cả những đứa con trong tộc và lũ con gọi tất cả những người đàn ông là “cha”. Không giống như người Hán vốn sống tình cảm, một người Tiên Ti không gắn bó với bất cứ thứ gì. Cách đây hai mươi năm, khi sư phụ chàng lang thang trên những con đường ở phương Nam, ông đã nhặt được chàng và nuôi chàng lớn, bây giờ, ông bỏ chàng lại không một lời giải thích. Trở lại thành một người tự do, du ngoạn thật xa, luôn rất xa, có lẽ là ý nguyện của ông.
Sải từng bước dài, sư phụ chàng đi xuống làng. Thẩm Phong nghiến răng cố ngăn tiếng nức nở. Bỗng chàng nhớ nhiều năm trước, khi sư phụ vừa thấy tóc điểm trắng lốm đốm, ông đã nói với chàng một ngày kia ông sẽ trở lại phương Bắc và chết ở đó. Ông cũng nói thêm: “Ta sẽ để lại cho con ngôi nhà này. Nó sẽ đủ cho con và vợ con.”
- Dẫn con về phương Bắc với! - Thẩm Phong hét lên.
Bên thềm nhà, chàng vẫy vẫy tay, làm những ký hiệu mà sư phụ chàng chẳng thấy. Ngôi nhà của họ dựng trên đỉnh đồi nhìn xuống toàn bộ ngôi làng. Lúc hoàng hôn, khói trong các ngôi nhà bay lên khỏi những mái nhà bằng lá tre rồi chầm chậm lên trời. Từ phía tây, mặt trời ném những tia sáng cuối cùng lên cánh rừng. Thẩm Phong hạ tay xuống.
Tên của chàng, Thẩm Phong, có nghĩa là “ngọn gió”, dựa theo tên của người thợ đàn già là Thẩm Phụng. Từ “Phụng” phát âm nặng hơn, có nghĩa là “chim phượng”. Cả hai cái tên đều có ký tự tượng hình giống nhau: gồm một nét như cánh chim và một nét cong như vòm trời. Vì trong buổi dựng trời dựng đất, khi những người thư lại Hoa Hạ viết trên mai rùa, cả hai cái tên chỉ là một. Gió là một cánh chim thần.
Giống như gió và phượng hoàng không biết mệt mỏi, trong đời mình, người thợ đàn già đã đi qua hàng nghìn bản làng, từ Nam chí Bắc.
Trước khi có tên Thẩm Phụng, ông tên là Đỗ Phụng. Tổ tiên ông là thợ săn sói và chăn nuôi ngựa sống trong những thảo nguyên Đại Bắc. Hàng trăm năm trước, theo chân đại hãn, thủ lĩnh của tộc người Tiên Ti, họ đã thúc ngựa đến Trung Nguyên, đánh nhau với lính Hoa Hạ, bắn cung tên không bao giờ trượt. Người Tiên Ti thành lập nhiều vương quốc trên mảnh đất ngày xưa vốn của người Hán rồi đánh nhau tranh giành mảnh đất Trung Nguyên với bốn bộ tộc du mục khác. Sau vô số cuộc chiến tranh, một đại hãn Tiên Ti đã thống nhất miền Bắc, lập ra vương quốc bá chủ là nhà Ngụy. Một trong những con cháu của ông đã theo hệ thống triều chính Hoa Hạ, bắt dân chúng phải ăn mặc như người Hán, dùng tiếng Hán và viết những cái tên Tiên Ti bằng ký tự Hán.
Người thợ đàn già sinh ra trong Dự thành, phía đông bắc Trung Nguyên, họ của ông viết bằng tiếng Hán là Đỗ. Ở đó, vào mùa đông, những vú băng treo trên nóc nhà chĩa xuống mặt đất đầy tuyết. Mùa hè, dưới sức nóng khủng khiếp, những con cò rên rỉ ngày đêm trong tàn cây. Một ngày nọ, khi mới vừa biết đi, ông đã có thể bước qua thềm nhà, bò trong sân và lăn ra đường. Bất thình lình mặt đất rung chuyển rồi gió thổi tung những làn cát bụi liên hồi. Trước mặt ông, những bóng người chạy vùn vụt, làm sỏi đá và bùn đất tung lên. Sau đó, người ta tìm được ông ở giữa đường, ngạc nhiên khi thấy ông không bị đám kỵ binh đi đánh một bộ tộc Đại Bắc giẫm nát. Cha ông từ lúc đó gọi ông là Phụng, vì Phụng là loài chim mang lại may mắn.
Thời chiến, người Tiên Ti đi lính; thời bình, họ nuôi gia súc và làm thương nhân. Từ hai thế hệ nay, gia đình ông làm bánh mì nướng, những chiếc bánh mì đã trở thành nổi tiếng trong Dự thành. Đỗ Phụng lớn lên giữa đám bụi bột mì. Ông ngủ và học nói trên lưng những chị lớn đang xay bột bằng cối đá.
Đỗ Phụng có một người anh họ tên là Đỗ Cố. Những người đàn ông trong tộc quyết định mua một chức quan cho Đỗ Cố, cháu đích tôn của chi trưởng trong gia tộc, với hy vọng chức quan sẽ cho họ vị trí cao trong xã hội. Mọi người cũng quyết định rằng, Đỗ Phụng, cháu đích tôn của chi dưới được truyền lại công thức làm bánh mì nướng, với hy vọng kể từ ông và các con cháu, nghề làm ăn của dòng họ sẽ được phát đạt. Đỗ Cố được gửi đến học ở một trường do người Hán dạy. Đỗ Phụng đi theo. Ông phải học tính toán và những ký tự cần thiết để làm bảng tính.
Năm 581, triều nhà Trần
Mùi thức ăn xộc vào mũi làm bụng chàng bắt đầu cồn cào. Thẩm Phong mở mí mắt. Ngọn lửa chập chờn trong nhà. Người thợ đàn già đã trở về và nấu thức ăn trong khi chàng ngủ. Thẩm Phong nhảy dựng dậy mừng rỡ. Hai mắt chàng lướt qua căn nhà trống và nhanh chóng nhìn về phía cửa. Bên ngoài, mặt trời đang xuống núi nhuộm những mái nhà trong làng bằng một màu cam huyền hoặc. Trong khoảnh vườn rào bằng tre, sư phụ chàng nấu cơm chiều.
Thẩm Phong chào thầy vui vẻ:
- Sư phụ đã về rồi!
Chàng lập tức cảm thấy hối hận vô cùng. Trên tấm bàn đá, chỉ có một chén rau muối để ăn với cơm. Đêm trước, vì bị Chu Bảo thôi thúc đi mở cửa hầm mộ nên chàng rời Kinh Châu mà không mua thứ gì. Chàng mở mắt và thấy tấm nắp quan tài bị lấy cắp vẫn nằm dưới gốc cây đào.
Chàng ngồi vào bàn, nhìn chằm chằm khuôn mặt sư phụ và quyết định giấu đi tin buồn: không còn một ai đặt làm đàn. Chàng mỉm cười ném túi bạc của Lỗ Tứ lên bàn, bạc leng keng trong túi.
- Con đã bán cây đàn cổ cầm, ngày mai con đi chợ! Con mua rượu gạo, thịt lợn chỗ bác Tống và bánh mật ong quế nhé? Con may cho sư phụ bộ đồ mới nhé? Áo sư phụ thủng lỗ chỗ cả rồi! Nếu con có đem cho bé Hoa vá lại thì cũng không mặc được lâu nữa. Tốt nhất nên mua một cái mới.
Người thợ đàn già không để ý. Mặt cúi gằm, ông tiếp tục ăn bữa tối.
- Lâu nay sư phụ đi đâu vậy? - Thẩm Phong hỏi tiếp. - Lần này con đã đếm đấy nhé, nhìn này.
Dưới chân tường nhà mười viên sỏi nhỏ xếp hàng.
- Mười ngày! Trong mười ngày con đã không có tin tức gì của sư phụ. Vì trời mưa nên con sợ sư phụ bị ngã dưới thung… hay sư phụ bị hổ tấn công rồi đấy…
Người thợ đàn gia giống như vừa trở về sau nhiều đêm trường giữa rừng. Gò má hõm vào, lưng còng xuống. Mái tóc ông rối bù như tổ chim. Đầu ngón tay đen sạm và nứt nẻ, các móng tay đã bị gãy và đôi chỗ có dấu máu tím bầm.
Thẩm Phong thở dài. Rồi chàng cố mỉm cười lần nữa.
- Ở thác lớn, nước vẫn còn lạnh. Sau bữa tối, con sẽ chuẩn bị cho sư phụ một chậu nước nóng trong nhà, được không sư phụ?
Người thợ đàn già không trả lời. Khuôn mặt nâu đậm có những nếp nhăn sâu hoắm vẫn im lìm. Những nếp nhăn nhúc nhích khi ông nhai. Thật khó mà biết ông đang nghĩ gì.
Thẩm Phong đứng dậy, lấy một bát cơm rồi quay lại. Chàng cố gắng tiếp chuyện:
- Tấm gỗ ở ngoài kia… sư phụ đoán nó bao nhiêu tuổi?
Người thợ đàn già vẫn im lặng, không thèm ngước mắt nhìn.
Hai người đàn ông tiếp tục ngồi ăn đối diện nhau mà không nói lời nào. Bỗng người thợ đàn đứng dậy, tay cầm cái chén không, đi ngang qua cây đào rồi nhìn sơ qua tấm gỗ. Thẩm Phong nín thở. Sư phụ là người thành tâm với Phật. Ông sẽ nổi giận nếu biết Thẩm Phong và Chu Bảo trộm nó từ chùa Đại Bi.
Người thợ đàn già cúi xuống, lấy tay áo chùi một góc tấm gỗ, lẩm bẩm vài lời không rõ. Ông lắc đầu rồi quay lại ngôi nhà. Khi Thẩm Phong ăn sạch bát cơm, người thợ đàn già đi ra, mang theo một bọc quần áo trên lưng. Cổ Thẩm Phong nghẹn lại, chàng đứng dậy. Sao sư phụ chàng lại chuẩn bị lên đường? Lần này ông sẽ đi vài ngày hay đi mãi?
Thẩm Phong chặn lối đi lại. Chàng gằn giọng hỏi sư phụ:
- Sư phụ mới đi mười ngày. Giờ sư phụ còn đi đâu nữa?
Người thợ đàn già lẩm nhẩm, lảng tránh ánh mắt của Thẩm Phong.
- Sư phụ không điếc, con biết mà!- Thẩm Phong hét lên.- Ở đây là nhà sư phụ, nhà của chúng ta, sư phụ còn đi đâu?
Chàng giơ tay lên tìm cách lấy lại túi đồ. Dù tay đã run nhưng người thợ đàn già vẫn tránh né được, chính ông đã dạy võ cho Thẩm Phong. Ông đánh bật cánh tay chàng ra rồi vụt né qua một bên, bước một chân về phía trước. Thẩm Phong nắm vai ông giữ lại.
- Sư phụ thậm chí không phải cha con, nhưng sư phụ đã cứu mạng con và nuôi con lớn lên như con đẻ. Với người Hoa Hạ, một người cha không thể bỏ rơi con mình, một đứa con phải nuôi cha mẹ đến khi cha mẹ chết. Nó phải chôn cha nó đàng hoàng và chăm lo phần mộ cho đến khi tới lượt mình phải chết. Sư phụ đã sống giữa những người Hoa Hạ, sư phụ không còn là ngươi Tiên Ti nữa!
Thẩm Phong cố kìm nước mắt.
- Khi con còn nhỏ, sư phụ dẫn con theo bất cứ nơi nào sư phụ đến. Chúng ta đã làm việc trong xưởng, đã ở trong thành và sống trong rừng. Chúng ta đã cùng chọn ngôi làng này. Sư phụ đã dạy con làm đàn cổ cầm, dạy con dựng nhà. Giờ sư phụ đi đâu? Con đi với sư phụ!
Người thợ đàn già nhìn chằm chằm xuống đất, lắc đầu, hạ vai xuống thoát khỏi tay Thẩm Phong rồi đi ra phía cổng. Thẩm Phong lao theo để cản ngăn, nhưng người thợ đàn già đẩy chàng lại.
- Sư phụ! Hãy nhìn ngôi nhà xem. Chân nhà, chái nhà, mỗi lớp đất nện trên tường đều đẫm mồ hôi của cả hai! Hãy nhìn khoảnh vườn! Chúng ta đã khai khẩn cùng nhau!
Nước mắt làm mắt Thẩm Phong mờ đi rồi chàng giơ tay chùi mắt. Không thèm nhìn chàng, không thèm ngoảnh đầu lại, người thợ đàn già mở cửa rồi đi theo con đường mòn có hoa mùa xuân nở đầy hai bên. Nỗi buồn trùm kín Thẩm Phong làm chàng như hóa đá. Sư phụ chàng không phải người Hán. Trong người ông chảy dòng máu của tộc người Tiên Ti, một bộ lạc du mục ở phương Bắc. Những người Tiên Ti không có khái niệm gia đình. Các bà mẹ nuôi lớn tất cả những đứa con trong tộc và lũ con gọi tất cả những người đàn ông là “cha”. Không giống như người Hán vốn sống tình cảm, một người Tiên Ti không gắn bó với bất cứ thứ gì. Cách đây hai mươi năm, khi sư phụ chàng lang thang trên những con đường ở phương Nam, ông đã nhặt được chàng và nuôi chàng lớn, bây giờ, ông bỏ chàng lại không một lời giải thích. Trở lại thành một người tự do, du ngoạn thật xa, luôn rất xa, có lẽ là ý nguyện của ông.
Sải từng bước dài, sư phụ chàng đi xuống làng. Thẩm Phong nghiến răng cố ngăn tiếng nức nở. Bỗng chàng nhớ nhiều năm trước, khi sư phụ vừa thấy tóc điểm trắng lốm đốm, ông đã nói với chàng một ngày kia ông sẽ trở lại phương Bắc và chết ở đó. Ông cũng nói thêm: “Ta sẽ để lại cho con ngôi nhà này. Nó sẽ đủ cho con và vợ con.”
- Dẫn con về phương Bắc với! - Thẩm Phong hét lên.
Bên thềm nhà, chàng vẫy vẫy tay, làm những ký hiệu mà sư phụ chàng chẳng thấy. Ngôi nhà của họ dựng trên đỉnh đồi nhìn xuống toàn bộ ngôi làng. Lúc hoàng hôn, khói trong các ngôi nhà bay lên khỏi những mái nhà bằng lá tre rồi chầm chậm lên trời. Từ phía tây, mặt trời ném những tia sáng cuối cùng lên cánh rừng. Thẩm Phong hạ tay xuống.
Tên của chàng, Thẩm Phong, có nghĩa là “ngọn gió”, dựa theo tên của người thợ đàn già là Thẩm Phụng. Từ “Phụng” phát âm nặng hơn, có nghĩa là “chim phượng”. Cả hai cái tên đều có ký tự tượng hình giống nhau: gồm một nét như cánh chim và một nét cong như vòm trời. Vì trong buổi dựng trời dựng đất, khi những người thư lại Hoa Hạ viết trên mai rùa, cả hai cái tên chỉ là một. Gió là một cánh chim thần.
Giống như gió và phượng hoàng không biết mệt mỏi, trong đời mình, người thợ đàn già đã đi qua hàng nghìn bản làng, từ Nam chí Bắc.
Trước khi có tên Thẩm Phụng, ông tên là Đỗ Phụng. Tổ tiên ông là thợ săn sói và chăn nuôi ngựa sống trong những thảo nguyên Đại Bắc. Hàng trăm năm trước, theo chân đại hãn, thủ lĩnh của tộc người Tiên Ti, họ đã thúc ngựa đến Trung Nguyên, đánh nhau với lính Hoa Hạ, bắn cung tên không bao giờ trượt. Người Tiên Ti thành lập nhiều vương quốc trên mảnh đất ngày xưa vốn của người Hán rồi đánh nhau tranh giành mảnh đất Trung Nguyên với bốn bộ tộc du mục khác. Sau vô số cuộc chiến tranh, một đại hãn Tiên Ti đã thống nhất miền Bắc, lập ra vương quốc bá chủ là nhà Ngụy. Một trong những con cháu của ông đã theo hệ thống triều chính Hoa Hạ, bắt dân chúng phải ăn mặc như người Hán, dùng tiếng Hán và viết những cái tên Tiên Ti bằng ký tự Hán.
Người thợ đàn già sinh ra trong Dự thành, phía đông bắc Trung Nguyên, họ của ông viết bằng tiếng Hán là Đỗ. Ở đó, vào mùa đông, những vú băng treo trên nóc nhà chĩa xuống mặt đất đầy tuyết. Mùa hè, dưới sức nóng khủng khiếp, những con cò rên rỉ ngày đêm trong tàn cây. Một ngày nọ, khi mới vừa biết đi, ông đã có thể bước qua thềm nhà, bò trong sân và lăn ra đường. Bất thình lình mặt đất rung chuyển rồi gió thổi tung những làn cát bụi liên hồi. Trước mặt ông, những bóng người chạy vùn vụt, làm sỏi đá và bùn đất tung lên. Sau đó, người ta tìm được ông ở giữa đường, ngạc nhiên khi thấy ông không bị đám kỵ binh đi đánh một bộ tộc Đại Bắc giẫm nát. Cha ông từ lúc đó gọi ông là Phụng, vì Phụng là loài chim mang lại may mắn.
Thời chiến, người Tiên Ti đi lính; thời bình, họ nuôi gia súc và làm thương nhân. Từ hai thế hệ nay, gia đình ông làm bánh mì nướng, những chiếc bánh mì đã trở thành nổi tiếng trong Dự thành. Đỗ Phụng lớn lên giữa đám bụi bột mì. Ông ngủ và học nói trên lưng những chị lớn đang xay bột bằng cối đá.
Đỗ Phụng có một người anh họ tên là Đỗ Cố. Những người đàn ông trong tộc quyết định mua một chức quan cho Đỗ Cố, cháu đích tôn của chi trưởng trong gia tộc, với hy vọng chức quan sẽ cho họ vị trí cao trong xã hội. Mọi người cũng quyết định rằng, Đỗ Phụng, cháu đích tôn của chi dưới được truyền lại công thức làm bánh mì nướng, với hy vọng kể từ ông và các con cháu, nghề làm ăn của dòng họ sẽ được phát đạt. Đỗ Cố được gửi đến học ở một trường do người Hán dạy. Đỗ Phụng đi theo. Ông phải học tính toán và những ký tự cần thiết để làm bảng tính.
Bình luận facebook