Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Chương 13 - Phần 1
Chương 13
1947-1948
Allan đã trải qua những đêm chẳng dễ chịu gì khi nằm úp sấp trên thùng xe tải trên đường tới Teheran. Trời thì lạnh quá mà chẳng có sữa dê đặc biệt để sưởi ấm. Thêm nữa, hai tay ông còn bị trói sau lưng.
Cũng dễ hiểu vì sao Allan mừng khi cuộc hành trình kết thúc. Đó là vào cuối buổi chiều khi chiếc xe tải dừng lại trước cổng chính một tòa nhà lớn màu nâu ở giữa thủ đô.
Hai anh lính vực kẻ lạ mặt đứng dậy và phủi bớt bụi bẩn. Sau đó, họ nới lỏng dây trói tay Allan và quay lại canh gác ông với khẩu súng trường.
Nếu Allan biết tiếng Ba Tư, ông đã có thể đọc tấm biển hiệu nhỏ màu vàng vàng bên cạnh lối vào, nơi mình dừng lại. Nhưng ông không đọc được. Mà cũng chẳng quan tâm. Với ông, điều quan trọng là liệu họ có cho mình ăn sáng. Hay ăn trưa. Hoặc tốt hơn là cả hai.
Nhưng, tất nhiên, những người lính biết họ phải đưa tên cộng sản tình nghi đi đâu. Và khi họ đẩy Allan qua các cửa, một trong những người lính nói lời tạm biệt với Allan bằng một nụ cười và câu chúc bằng tiếng Anh:
- Chúc may mắn!
Allan đáp cảm ơn bạn rất nhiều vì những lời chúc tốt đẹp, dù ông nhận thấy nó có vẻ mỉa mai, rồi ông nghĩ tốt nhất là mình nên quan tâm xem điều gì sắp xảy ra.
Ở đó, viên sĩ quan trong nhóm bắt giữ Allan chính thức bàn giao tù nhân của mình cho một người cấp bậc tương đương. Đăng ký xong, Allan được chuyển tới một phòng tạm giam ngay phía dưới hành lang gần nhất.
Căn phòng tạm giam là một thiên đường so với những gì gần đây Allan đã quen chịu đựng.
Bốn cái giường xếp thành dãy, mỗi giường đều có chăn dầy, đèn điện trên trần nhà, bồn rửa mặt với vòi nước trong một góc và góc kia là cái bô cho người lớn có nắp đậy. Thêm nữa, Allan có thể mang vào phòng giam một bát cháo to và cả lít nước để thỏa mãn cơn đói khát của mình.
Ba cái giường còn trống, nhưng cái thứ tư có một người đàn ông đang nằm ngửa, mắt nhắm, hai tay khoanh lại. Khi Allan được đưa vào phòng, người đàn ông tỉnh giấc ngủ và ngồi dậy. Ông ta cao, gầy, cổ áo kiểu mục sư màu trắng tương phản với trang phục toàn màu đen. Allan chìa tay ra tự giới thiệu và nói rằng tiếc là ông không biết ngôn ngữ địa phương, nhưng liệu giáo sĩ có biết một vài từ tiếng Anh?
Người đàn ông mặc đồ đen đáp là có, vì ông ta sinh ra và lớn lên ở Oxford, và cũng có giáo dục. Người đàn ông mặc đồ đen tự giới thiệu mình là Kevin Ferguson, một mục sư Anh giáo, đã có mặt tại Iran mười hai năm tìm kiếm những kẻ mất linh hồn để phục hồi đức tin chân chính cho họ. Thế ông Karlsson đang đứng về phía tôn giáo nào?
Allan trả lời, xét về khía cạnh hoàn toàn vật lý thì ông không kiểm soát được chỗ mình đang ở, nhưng điều đó không có nghĩa là ông bị mất linh hồn. Allan luôn có lập luận hợp lý về tôn giáo là nếu không biết chắc chắn thì đừng mất công suy đoán vòng vo.
Allan thấy mục sư Ferguson có hơi cố gắng nên nhanh chóng nói thêm rằng mục sư cũng nên tôn trọng mong muốn chân thành của Allan là tránh theo Anh giáo hoặc bất kì tôn giáo nào khác.
Mục sư Ferguson không phải là người dễ đầu hàng. Tuy nhiên, lần này ông hơi do dự. Có lẽ không nên quá nôn nóng với người duy nhất - ngoài Chúa ra - có thể cứu ông khỏi tình thế hiện nay?
Ông quyết định thỏa hiệp. Mục sư Ferguson làm một cố gắng nửa vời sao cho vẫn có thể tưới một chút ánh sáng lời Chúa Ba Ngôi mà không làm tổn thương ông Karlsson. Tình cờ đó là điều đầu tiên trong ba mươi chín điều răn trong kinh tín Anh giáo. Allan trả lời là mục sư có lẽ chưa hiểu Allan chẳng quan tâm đến chúa ba ngôi thế nào.
- Trong tất cả hiệp hội trên Trái đất, tôi nghĩ ba ngôi là cái mình ít quan tâm nhất, - Allan đáp.
Mục sư Ferguson thấy mình thật dại dột đã hứa để yên cho Karlsson về vấn đề tôn giáo, ‘dù Chúa hẳn phải có ý gì khi để chúng ta trong cùng một phòng giam’.
Ông đành gắng sức giải thích tình hình của mình và của Allan.
- Nó có vẻ không ổn, - mục sư Ferguson nói. - Chúng ta có thể đang trên đường đến gặp Đấng Sáng tạo ra chúng ta, và nếu không phải vì tôi đã hứa thì tôi sẽ nói thêm rằng đây chính là lúc để ông Karlsson đón nhận đức tin chân thật.
Allan nghiêm khắc nhìn mục sư mà không nói gì. Thay vào đó, ông để mục sư tiếp tục nói rằng bây giờ cả hai đang trong phòng tạm giam của bộ phận tình báo và an ninh trong nước, nói cách khác là cảnh sát mật. Có lẽ ông Karlsson tưởng nó có vẻ an toàn và ổn, nhưng sự thật là cảnh sát mật chỉ quan tâm đến an ninh của nhà vua chứ không ai khác, mục đích của họ là thực sự khiến dân chúng Iran phải sợ hãi, tôn trọng, và hết sức săn lùng, tiêu diệt cộng sản, Hồi giáo và các thành phần gây rối nói chung.
- Ví dụ như mục sư Anh giáo?
Mục sư Ferguson đáp các mục sư Anh giáo không có gì phải sợ hãi, bởi vì họ có tự do tôn giáo ở Iran. Nhưng mà riêng mục sư Anh giáo này có thể đã đi quá xa, ông tự nghĩ.
- Số phận những ai rơi vào tay cảnh sát mật chẳng có gì hay, và về phần mình, tôi sợ rằng đây là ga cuối cùng rồi, - mục sư Ferguson nói, đột nhiên trông rất buồn.
Allan lập tức thấy ái ngại cho người đồng chí mới của mình trong phòng tạm giam, dù ông ta là một mục sư. Thế là ông an ủi rằng họ có thể sẽ tìm ra cách thoát khỏi đó, nhưng cái gì cũng cần thời gian. Trước hết, ông muốn biết mục sư đã làm gì mà phải bị nhốt trong này.
Mục sư Kevin Ferguson sụt sịt và cố trấn tĩnh lại.
Ông giải thích mình chẳng sợ chết mà chỉ nghĩ rằng mình còn có quá nhiều việc để làm trên Trái đất này. Mục sư luôn luôn đặt mạng sống của mình trong tay Chúa, nhưng nếu Ông Karlsson, trong khi đang chờ đợi Chúa quyết định, có thể tìm thấy lối thoát cho bản thân và mục sư, thì ông chắc chắn rằng Chúa sẽ không phản đối.
Rồi vị mục sư bắt đầu câu chuyện của mình. Chúa đã nói chuyện với ông trong một giấc mơ khi mục sư vừa tốt nghiệp. ‘Con hãy bước ra thế giới để làm công việc truyền giáo’, Chúa nói, nhưng ngài không nói nhiều hơn, vì vậy mục sư phải nghĩ ra nơi mình nên đi.
Một ông bạn người Anh và giám mục đã khuyên ông đi Iran - đất nước mà quyền tự do tôn giáo bị xâm phạm nặng nề. Ví dụ, có thể tính đến các tín hữu Anh giáo ở Iran, nhưng nơi này sôi lên với người Siite và Sunni, người Do Thái và đám dân thờ đủ các ngẫu vật. Nói rộng ra là nếu có tín hữu Kitô giáo thì họ lại là người Armenia hay Assyria, và ai cũng biết rằng người Armenia và Assyria hay làm mọi thứ rối tung lên.
Allan nói mình không biết điều đó nhưng giờ thì ông đã biết, cảm ơn mục sư về thông tin.
Vị mục sư tiếp tục câu chuyện của mình. Iran và Anh có quan hệ tốt với nhau và nhờ những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội giúp đỡ, mục sư đã được đi nhờ đến Teheran bằng máy bay của Bộ Ngoại giao Anh.
Điều này xảy ra khoảng mười năm trước, quãng năm 1935. Kể từ đó, ông đã len lỏi qua hết tôn giáo này đến tôn giáo khác, trong một vòng tròng ngày càng rộng lớn quanh thủ đô. Lúc đầu, ông tập trung vào các nghi lễ tôn giáo khác nhau. Ông lẻn vào nhà thờ Hồi giáo, các thánh đường và đền thờ đủ loại, chờ đến thời điểm thích hợp để cắt ngang buổi lễ và với sự giúp đỡ của một thông dịch viên, rao giảng đức tin chân thật.
Allan ca ngợi người đồng chí mới trong phòng tạm giam của mình và nói rằng mục sư thực sự là một người rất dũng cảm. Điều đáng bàn là khả năng tinh thần của mục sư, bởi vì nó chắc hiếm khi có kết cục tốt đẹp?
Mục sư Ferguson thừa nhận rằng trên thực tế, chưa một lần nào nó kết thúc tốt đẹp. Ông chưa bao giờ nói được đầy đủ ý mình. Ông và người phiên dịch đã bị ném ra ngoài và thường là cả hai còn bị đánh nữa.
Nhưng không gì ngăn cản được mục sư tiếp tục cuộc đấu tranh của mình. Ông biết rằng ông đã gieo hạt giống nhỏ bé của Anh giáo trong linh hồn tất cả những ai mình đã gặp.
Tuy nhiên, cuối cùng thì danh tiếng của mục sư đã lan truyền rộng rãi đến mức nó bắt đầu trở nên khó khăn để tìm được một phiên dịch chịu hợp tác. Đến nay, không có phiên dịch nào chịu làm cho ông quá một lần, và sau một thời gian, rõ ràng là họ bắt đầu kể với nhau.
Vì vậy, mục sư đã tạm nghỉ và cố gắng hơn để nghiên cứu tiếng Ba Tư. Đồng thời, ông tìm cách trau chuốt các chiến thuật của mình và đến một ngày thấy tự tin về ngôn ngữ, ông đã bắt tay vào kế hoạch mới.
Thay vì đi đến đền thờ và các cuộc lễ, ông ra chợ, nơi ông biết rằng vờ rao giảng ở đây cũng thu được rất nhiều đệ tử trong số những người đến, thế rồi ông đứng trên một cái bục gỗ mình mang theo và kêu gọi sự chú ý của mọi người.
Phương pháp hoạt động này chắc chắn không dẫn đến kết quả bị ăn đòn nhiều như trong những năm đầu tiên, thế nhưng số lượng linh hồn được cứu vớt vẫn không hề như mong đợi.
Allan hỏi thực tế có bao nhiêu người cải đạo theo mục sư Ferguson và được trả lời rằng điều đó phụ thuộc vào cách bạn nhìn nó. Một mặt, mục sư Ferguson đã có chính xác là một người cải đạo trong mỗi tôn giáo mà ông đã từng làm việc – tất cả lên đến tám. Mặt khác, vài tháng trước, ông mới nhận ra rằng cả tám người trong thực tế, có thể là gián điệp do cảnh sát mật gửi đến để theo dõi mục sư truyền giáo.
- Thế là giữa 0 và 8, - Allan bảo.
- Có lẽ là gần với 0 hơn 8, - mục sư Ferguson đáp.
- Trong mười hai năm, - Allan nói.
Mục sư thừa nhận rằng ông thấy chán nản khi hiểu rằng kết quả vốn đã ít ỏi của mình hóa ra còn ít ỏi hơn. Và ông hiểu rằng với cùng một phương pháp làm việc, ông sẽ không bao giờ thành công ở đất nước này, bởi vì dù có bao nhiêu người Iran muốn cải đạo, họ sẽ không dám. Cảnh sát bí mật ở khắp mọi nơi và cải đạo chắc chắn sẽ có nghĩa là sẽ bị ghi tên vào sổ đen trong kho lưu trữ hồ sơ. Và từ chỗ có tên trong sổ đen đến chỗ bị thủ tiêu không dấu vết thường không xa nhau lắm.
Allan nói rằng thêm vào đó, có thể có trường hợp một hai người Iran - hoàn toàn chẳng quan tâm đến mục sư Ferguson hay cảnh sát mật - hài lòng với tôn giáo họ đang theo, mục sư có nghĩ vậy không?
Mục sư trả lời rằng ông hiếm khi nghe chuyện ngớ ngẩn như vậy, nhưng ông bị ngăn cản đưa ra câu trả lời thích hợp bởi vì ông Karlsson đã cấm mọi rao giảng Anh giáo. Liệu ông Karlsson có định nghe phần còn lại câu chuyện của mục sư mà đừng ngắt lời nhiều hơn cần thiết không?
Mục sư Ferguson tiếp tục kể, với những hiểu biết mới thu thập về chuyện cảnh sát mật thâm nhập vào công việc truyền giáo của mình, ông bắt đầu suy nghĩ theo những cách mới, ở tầm vĩ mô như thế nào.
Vì vậy, mục sư đuổi tám tên đệ tử gián điệp, rồi liên hệ với phong trào cộng sản ngầm để gặp. Ông nói với họ rằng ông là một đại diện người Anh cho Đức Tin Chân Chính và ông muốn gặp họ để thảo luận về tương lai.
Mất nhiều thời gian để sắp xếp cuộc gặp, nhưng cuối cùng ông thấy mình ngồi với năm người trong nhóm lãnh đạo cộng sản ở tỉnh Razavikhorasan. Giá mà ông được gặp những người cộng sản Teheran thì thích hơn, vì mục sư Ferguson nghĩ rằng họ mới có quyền quyết định mọi thứ, nhưng cuộc gặp này cũng tốt cho những người mới bắt đầu.
Hoặc là không.
Mục sư Ferguson đã trình bày ý tưởng của mình với những người cộng sản, ý tưởng (tóm tắt) là Anh giáo sẽ trở thành tôn giáo của nhà nước Iran ngày cộng sản thắng lợi. Nếu những người cộng sản đồng ý điều này, mục sư Ferguson hứa sẽ nhận chức bộ trưởng tôn giáo của nhà nước và đảm bảo rằng ngay từ ngày đầu sẽ có đủ sách kinh. Các nhà thờ có thể được xây dựng sau đó, nhưng để bắt đầu thì các thánh đường và nhà thờ Hồi giáo đóng cửa có thể được sử dụng cho mục đích này. Các vị cộng sản nghĩ rằng nó sẽ mất bao lâu để cách mạng cộng sản thành công?
Những người cộng sản đã không phản ứng nhiệt tình lắm, hoặc thậm chí tò mò, mục sư Ferguson thầm nghĩ. Thay vào đó, mục sư Ferguson được thông báo rất rõ ràng rằng sẽ không có bất kì Anh giáo hay bất kì tôn giáo nào khác ngoài chủ nghĩa cộng sản khi ngày thắng lợi đến. Hơn nữa, ông còn bị lớn tiếng mắng nhiếc vì đã yêu cầu cuộc gặp này dưới chiêu bài lừa đảo. Những người cộng sản chưa bao giờ bị phí thời gian khủng khiếp như thế. Với một cuộc bỏ phiếu ba trên hai, quyết định đưa ra là mục sư Ferguson sẽ bị đánh cho một trận nên thân trước khi tống lên tàu trở về Teheran, và một cuộc bỏ phiếu 5-0 ra quyết định rằng nó sẽ bất lợi cho sức khỏe của mục sư nếu ông cứ cố tình trở lại.
Allan mỉm cười nói rằng nếu mục sư cho phép, dù sao, ông cũng không muốn loại trừ khả năng rằng mục sư bị điên toàn tập. Cố gắng để thỏa thuận tôn giáo với những người cộng sản tất nhiên là vô vọng, chẳng lẽ mục sư không hiểu điều đó?
Vị mục sư trả lời rằng ngoại đạo như ông Karlsson tốt nhất là đừng đánh giá cái gì là khôn ngoan hay không. Nhưng tất nhiên, mục sư đã hiểu rằng có rất ít cơ hội thành công.
- Nhưng cứ nghĩ xem, ông Karlsson, nếu nó đã thành công. Cứ nghĩ rằng có thể gửi một điện tín cho Tổng Giám Mục Canterbury và báo cáo cùng một lúc có thêm năm mươi triệu tín hữu Anh giáo.
Allan thừa nhận rằng sự khác biệt giữa điên rồ và thiên tài là rất tinh tế, và trong trường hợp này ông không thể chắc chắn nó là loại nào, nhưng ông có những nghi ngờ của mình.
Cái gì xảy đến sẽ đến, hóa ra đám cảnh sát mật đáng nguyền của nhà vua đã nghe trộm những người cộng sản Razavikhorasan, và mục sư Ferguson bị tóm ngay sau khi bước ra khỏi xe lửa ở thủ đô, và bị lôi đi thẩm vấn.
- Và ngay lập tức tôi thừa nhận tất cả mọi thứ, còn khai thêm một chút nữa, - mục sư Ferguson cho biết, - bởi vì cơ thể gầy gò của tôi không được tạo ra để chịu tra tấn. Bị đánh đau là một chuyện, nhưng tra tấn là chuyện khác.
Với lời thú nhận ngay lập tức và phóng đại, mục sư Ferguson đã bị đưa đến phòng tạm giam này, và ông đã bị bỏ mặc ở đây suốt hai tuần không ai đụng đến vì sếp, Phó Thủ tướng, đang đi công cán ở London.
- Phó Thủ tướng ư? - Allan thắc mắc.
- Phải, hay là sếp của những kẻ giết người, - ông Kevin Ferguson đáp.
Người ta nói cảnh sát mật là một tổ chức được kiểm soát từ trên mà người ta không thể tưởng tượng được. Thường xuyên gieo rắc sợ hãi trong lòng dân, hoặc giết chết người theo cộng sản, chủ nghĩa xã hội, Hồi giáo cực đoan, mà tất nhiên là không cần sự cho phép của ông chủ tối cao. Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra chỉ hơi khác thường một chút thì ngay lập tức ông ta là người quyết định. Nhà vua đã cho ông ta danh hiệu phó thủ tướng, nhưng trên thực tế, ông ta là một kẻ giết người, theo ý kiến của mục sư Ferguson.
Và theo các lính canh tù, người ta nên quên từ ‘phó’ khi nhắc đến danh hiệu của ông ta, nếu mọi thứ tồi tệ đến mức cần phải gặp ông ta, giống như trường hợp của ông và của tôi vậy.
Có lẽ vị mục sư đã dành nhiều thời gian với nhóm cộng sản chìm lâu hơn là ông dám thừa nhận, Allan nghĩ, vì mục sư Fergusontiếp tục:
- Kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, CIA Mỹ đã tới đây và dựng lên cảnh sát mật của nhà vua.
- CIA? - Allan hỏi.
- Vâng, bây giờ họ được gọi như thế. Trước đây họ là “OSS”, nhưng vẫn là một công việc bẩn thỉu. Họ là những người đã dạy cho cảnh sát Iran tất cả các thủ đoạn và các kiểu tra tấn. Hắn có thể là cái giống gì, người đã cho phép CIA hủy diệt thế giới theo cách ấy?
- Ông định nói đến tổng thống Mỹ à?
- Harry S Truman sẽ bị thiêu trong địa ngục, tin tôi đi, - mục sư Ferguson đáp.
- Ồ, thế à, ông nghĩ vậy à? - Allan nói.
**
Nhiều ngày trôi qua trong phòng tạm giam tại trụ sở chính của cảnh sát mật ở trung tâm Teheran. Allan đã kể chuyện đời mình với mục sư Ferguson mà không giấu diếm bất cứ điều gì. Mục sư đã trở nên im lặng, ngừng nói chuyện với Allan sau khi nhận ra bạn tù của mình có quan hệ thế nào với tổng thống Mỹ và - thậm chí còn tồi tệ hơn - với những quả bom dội lên khắp Nhật Bản.
Thay vào đó, mục sư quay về với Chúa và cầu nguyện để được tư vấn. Chúa đã gửi ông Karlsson để giúp ông, hay ngược lại, đó là sự xúi giục của quỷ dữ?
1947-1948
Allan đã trải qua những đêm chẳng dễ chịu gì khi nằm úp sấp trên thùng xe tải trên đường tới Teheran. Trời thì lạnh quá mà chẳng có sữa dê đặc biệt để sưởi ấm. Thêm nữa, hai tay ông còn bị trói sau lưng.
Cũng dễ hiểu vì sao Allan mừng khi cuộc hành trình kết thúc. Đó là vào cuối buổi chiều khi chiếc xe tải dừng lại trước cổng chính một tòa nhà lớn màu nâu ở giữa thủ đô.
Hai anh lính vực kẻ lạ mặt đứng dậy và phủi bớt bụi bẩn. Sau đó, họ nới lỏng dây trói tay Allan và quay lại canh gác ông với khẩu súng trường.
Nếu Allan biết tiếng Ba Tư, ông đã có thể đọc tấm biển hiệu nhỏ màu vàng vàng bên cạnh lối vào, nơi mình dừng lại. Nhưng ông không đọc được. Mà cũng chẳng quan tâm. Với ông, điều quan trọng là liệu họ có cho mình ăn sáng. Hay ăn trưa. Hoặc tốt hơn là cả hai.
Nhưng, tất nhiên, những người lính biết họ phải đưa tên cộng sản tình nghi đi đâu. Và khi họ đẩy Allan qua các cửa, một trong những người lính nói lời tạm biệt với Allan bằng một nụ cười và câu chúc bằng tiếng Anh:
- Chúc may mắn!
Allan đáp cảm ơn bạn rất nhiều vì những lời chúc tốt đẹp, dù ông nhận thấy nó có vẻ mỉa mai, rồi ông nghĩ tốt nhất là mình nên quan tâm xem điều gì sắp xảy ra.
Ở đó, viên sĩ quan trong nhóm bắt giữ Allan chính thức bàn giao tù nhân của mình cho một người cấp bậc tương đương. Đăng ký xong, Allan được chuyển tới một phòng tạm giam ngay phía dưới hành lang gần nhất.
Căn phòng tạm giam là một thiên đường so với những gì gần đây Allan đã quen chịu đựng.
Bốn cái giường xếp thành dãy, mỗi giường đều có chăn dầy, đèn điện trên trần nhà, bồn rửa mặt với vòi nước trong một góc và góc kia là cái bô cho người lớn có nắp đậy. Thêm nữa, Allan có thể mang vào phòng giam một bát cháo to và cả lít nước để thỏa mãn cơn đói khát của mình.
Ba cái giường còn trống, nhưng cái thứ tư có một người đàn ông đang nằm ngửa, mắt nhắm, hai tay khoanh lại. Khi Allan được đưa vào phòng, người đàn ông tỉnh giấc ngủ và ngồi dậy. Ông ta cao, gầy, cổ áo kiểu mục sư màu trắng tương phản với trang phục toàn màu đen. Allan chìa tay ra tự giới thiệu và nói rằng tiếc là ông không biết ngôn ngữ địa phương, nhưng liệu giáo sĩ có biết một vài từ tiếng Anh?
Người đàn ông mặc đồ đen đáp là có, vì ông ta sinh ra và lớn lên ở Oxford, và cũng có giáo dục. Người đàn ông mặc đồ đen tự giới thiệu mình là Kevin Ferguson, một mục sư Anh giáo, đã có mặt tại Iran mười hai năm tìm kiếm những kẻ mất linh hồn để phục hồi đức tin chân chính cho họ. Thế ông Karlsson đang đứng về phía tôn giáo nào?
Allan trả lời, xét về khía cạnh hoàn toàn vật lý thì ông không kiểm soát được chỗ mình đang ở, nhưng điều đó không có nghĩa là ông bị mất linh hồn. Allan luôn có lập luận hợp lý về tôn giáo là nếu không biết chắc chắn thì đừng mất công suy đoán vòng vo.
Allan thấy mục sư Ferguson có hơi cố gắng nên nhanh chóng nói thêm rằng mục sư cũng nên tôn trọng mong muốn chân thành của Allan là tránh theo Anh giáo hoặc bất kì tôn giáo nào khác.
Mục sư Ferguson không phải là người dễ đầu hàng. Tuy nhiên, lần này ông hơi do dự. Có lẽ không nên quá nôn nóng với người duy nhất - ngoài Chúa ra - có thể cứu ông khỏi tình thế hiện nay?
Ông quyết định thỏa hiệp. Mục sư Ferguson làm một cố gắng nửa vời sao cho vẫn có thể tưới một chút ánh sáng lời Chúa Ba Ngôi mà không làm tổn thương ông Karlsson. Tình cờ đó là điều đầu tiên trong ba mươi chín điều răn trong kinh tín Anh giáo. Allan trả lời là mục sư có lẽ chưa hiểu Allan chẳng quan tâm đến chúa ba ngôi thế nào.
- Trong tất cả hiệp hội trên Trái đất, tôi nghĩ ba ngôi là cái mình ít quan tâm nhất, - Allan đáp.
Mục sư Ferguson thấy mình thật dại dột đã hứa để yên cho Karlsson về vấn đề tôn giáo, ‘dù Chúa hẳn phải có ý gì khi để chúng ta trong cùng một phòng giam’.
Ông đành gắng sức giải thích tình hình của mình và của Allan.
- Nó có vẻ không ổn, - mục sư Ferguson nói. - Chúng ta có thể đang trên đường đến gặp Đấng Sáng tạo ra chúng ta, và nếu không phải vì tôi đã hứa thì tôi sẽ nói thêm rằng đây chính là lúc để ông Karlsson đón nhận đức tin chân thật.
Allan nghiêm khắc nhìn mục sư mà không nói gì. Thay vào đó, ông để mục sư tiếp tục nói rằng bây giờ cả hai đang trong phòng tạm giam của bộ phận tình báo và an ninh trong nước, nói cách khác là cảnh sát mật. Có lẽ ông Karlsson tưởng nó có vẻ an toàn và ổn, nhưng sự thật là cảnh sát mật chỉ quan tâm đến an ninh của nhà vua chứ không ai khác, mục đích của họ là thực sự khiến dân chúng Iran phải sợ hãi, tôn trọng, và hết sức săn lùng, tiêu diệt cộng sản, Hồi giáo và các thành phần gây rối nói chung.
- Ví dụ như mục sư Anh giáo?
Mục sư Ferguson đáp các mục sư Anh giáo không có gì phải sợ hãi, bởi vì họ có tự do tôn giáo ở Iran. Nhưng mà riêng mục sư Anh giáo này có thể đã đi quá xa, ông tự nghĩ.
- Số phận những ai rơi vào tay cảnh sát mật chẳng có gì hay, và về phần mình, tôi sợ rằng đây là ga cuối cùng rồi, - mục sư Ferguson nói, đột nhiên trông rất buồn.
Allan lập tức thấy ái ngại cho người đồng chí mới của mình trong phòng tạm giam, dù ông ta là một mục sư. Thế là ông an ủi rằng họ có thể sẽ tìm ra cách thoát khỏi đó, nhưng cái gì cũng cần thời gian. Trước hết, ông muốn biết mục sư đã làm gì mà phải bị nhốt trong này.
Mục sư Kevin Ferguson sụt sịt và cố trấn tĩnh lại.
Ông giải thích mình chẳng sợ chết mà chỉ nghĩ rằng mình còn có quá nhiều việc để làm trên Trái đất này. Mục sư luôn luôn đặt mạng sống của mình trong tay Chúa, nhưng nếu Ông Karlsson, trong khi đang chờ đợi Chúa quyết định, có thể tìm thấy lối thoát cho bản thân và mục sư, thì ông chắc chắn rằng Chúa sẽ không phản đối.
Rồi vị mục sư bắt đầu câu chuyện của mình. Chúa đã nói chuyện với ông trong một giấc mơ khi mục sư vừa tốt nghiệp. ‘Con hãy bước ra thế giới để làm công việc truyền giáo’, Chúa nói, nhưng ngài không nói nhiều hơn, vì vậy mục sư phải nghĩ ra nơi mình nên đi.
Một ông bạn người Anh và giám mục đã khuyên ông đi Iran - đất nước mà quyền tự do tôn giáo bị xâm phạm nặng nề. Ví dụ, có thể tính đến các tín hữu Anh giáo ở Iran, nhưng nơi này sôi lên với người Siite và Sunni, người Do Thái và đám dân thờ đủ các ngẫu vật. Nói rộng ra là nếu có tín hữu Kitô giáo thì họ lại là người Armenia hay Assyria, và ai cũng biết rằng người Armenia và Assyria hay làm mọi thứ rối tung lên.
Allan nói mình không biết điều đó nhưng giờ thì ông đã biết, cảm ơn mục sư về thông tin.
Vị mục sư tiếp tục câu chuyện của mình. Iran và Anh có quan hệ tốt với nhau và nhờ những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội giúp đỡ, mục sư đã được đi nhờ đến Teheran bằng máy bay của Bộ Ngoại giao Anh.
Điều này xảy ra khoảng mười năm trước, quãng năm 1935. Kể từ đó, ông đã len lỏi qua hết tôn giáo này đến tôn giáo khác, trong một vòng tròng ngày càng rộng lớn quanh thủ đô. Lúc đầu, ông tập trung vào các nghi lễ tôn giáo khác nhau. Ông lẻn vào nhà thờ Hồi giáo, các thánh đường và đền thờ đủ loại, chờ đến thời điểm thích hợp để cắt ngang buổi lễ và với sự giúp đỡ của một thông dịch viên, rao giảng đức tin chân thật.
Allan ca ngợi người đồng chí mới trong phòng tạm giam của mình và nói rằng mục sư thực sự là một người rất dũng cảm. Điều đáng bàn là khả năng tinh thần của mục sư, bởi vì nó chắc hiếm khi có kết cục tốt đẹp?
Mục sư Ferguson thừa nhận rằng trên thực tế, chưa một lần nào nó kết thúc tốt đẹp. Ông chưa bao giờ nói được đầy đủ ý mình. Ông và người phiên dịch đã bị ném ra ngoài và thường là cả hai còn bị đánh nữa.
Nhưng không gì ngăn cản được mục sư tiếp tục cuộc đấu tranh của mình. Ông biết rằng ông đã gieo hạt giống nhỏ bé của Anh giáo trong linh hồn tất cả những ai mình đã gặp.
Tuy nhiên, cuối cùng thì danh tiếng của mục sư đã lan truyền rộng rãi đến mức nó bắt đầu trở nên khó khăn để tìm được một phiên dịch chịu hợp tác. Đến nay, không có phiên dịch nào chịu làm cho ông quá một lần, và sau một thời gian, rõ ràng là họ bắt đầu kể với nhau.
Vì vậy, mục sư đã tạm nghỉ và cố gắng hơn để nghiên cứu tiếng Ba Tư. Đồng thời, ông tìm cách trau chuốt các chiến thuật của mình và đến một ngày thấy tự tin về ngôn ngữ, ông đã bắt tay vào kế hoạch mới.
Thay vì đi đến đền thờ và các cuộc lễ, ông ra chợ, nơi ông biết rằng vờ rao giảng ở đây cũng thu được rất nhiều đệ tử trong số những người đến, thế rồi ông đứng trên một cái bục gỗ mình mang theo và kêu gọi sự chú ý của mọi người.
Phương pháp hoạt động này chắc chắn không dẫn đến kết quả bị ăn đòn nhiều như trong những năm đầu tiên, thế nhưng số lượng linh hồn được cứu vớt vẫn không hề như mong đợi.
Allan hỏi thực tế có bao nhiêu người cải đạo theo mục sư Ferguson và được trả lời rằng điều đó phụ thuộc vào cách bạn nhìn nó. Một mặt, mục sư Ferguson đã có chính xác là một người cải đạo trong mỗi tôn giáo mà ông đã từng làm việc – tất cả lên đến tám. Mặt khác, vài tháng trước, ông mới nhận ra rằng cả tám người trong thực tế, có thể là gián điệp do cảnh sát mật gửi đến để theo dõi mục sư truyền giáo.
- Thế là giữa 0 và 8, - Allan bảo.
- Có lẽ là gần với 0 hơn 8, - mục sư Ferguson đáp.
- Trong mười hai năm, - Allan nói.
Mục sư thừa nhận rằng ông thấy chán nản khi hiểu rằng kết quả vốn đã ít ỏi của mình hóa ra còn ít ỏi hơn. Và ông hiểu rằng với cùng một phương pháp làm việc, ông sẽ không bao giờ thành công ở đất nước này, bởi vì dù có bao nhiêu người Iran muốn cải đạo, họ sẽ không dám. Cảnh sát bí mật ở khắp mọi nơi và cải đạo chắc chắn sẽ có nghĩa là sẽ bị ghi tên vào sổ đen trong kho lưu trữ hồ sơ. Và từ chỗ có tên trong sổ đen đến chỗ bị thủ tiêu không dấu vết thường không xa nhau lắm.
Allan nói rằng thêm vào đó, có thể có trường hợp một hai người Iran - hoàn toàn chẳng quan tâm đến mục sư Ferguson hay cảnh sát mật - hài lòng với tôn giáo họ đang theo, mục sư có nghĩ vậy không?
Mục sư trả lời rằng ông hiếm khi nghe chuyện ngớ ngẩn như vậy, nhưng ông bị ngăn cản đưa ra câu trả lời thích hợp bởi vì ông Karlsson đã cấm mọi rao giảng Anh giáo. Liệu ông Karlsson có định nghe phần còn lại câu chuyện của mục sư mà đừng ngắt lời nhiều hơn cần thiết không?
Mục sư Ferguson tiếp tục kể, với những hiểu biết mới thu thập về chuyện cảnh sát mật thâm nhập vào công việc truyền giáo của mình, ông bắt đầu suy nghĩ theo những cách mới, ở tầm vĩ mô như thế nào.
Vì vậy, mục sư đuổi tám tên đệ tử gián điệp, rồi liên hệ với phong trào cộng sản ngầm để gặp. Ông nói với họ rằng ông là một đại diện người Anh cho Đức Tin Chân Chính và ông muốn gặp họ để thảo luận về tương lai.
Mất nhiều thời gian để sắp xếp cuộc gặp, nhưng cuối cùng ông thấy mình ngồi với năm người trong nhóm lãnh đạo cộng sản ở tỉnh Razavikhorasan. Giá mà ông được gặp những người cộng sản Teheran thì thích hơn, vì mục sư Ferguson nghĩ rằng họ mới có quyền quyết định mọi thứ, nhưng cuộc gặp này cũng tốt cho những người mới bắt đầu.
Hoặc là không.
Mục sư Ferguson đã trình bày ý tưởng của mình với những người cộng sản, ý tưởng (tóm tắt) là Anh giáo sẽ trở thành tôn giáo của nhà nước Iran ngày cộng sản thắng lợi. Nếu những người cộng sản đồng ý điều này, mục sư Ferguson hứa sẽ nhận chức bộ trưởng tôn giáo của nhà nước và đảm bảo rằng ngay từ ngày đầu sẽ có đủ sách kinh. Các nhà thờ có thể được xây dựng sau đó, nhưng để bắt đầu thì các thánh đường và nhà thờ Hồi giáo đóng cửa có thể được sử dụng cho mục đích này. Các vị cộng sản nghĩ rằng nó sẽ mất bao lâu để cách mạng cộng sản thành công?
Những người cộng sản đã không phản ứng nhiệt tình lắm, hoặc thậm chí tò mò, mục sư Ferguson thầm nghĩ. Thay vào đó, mục sư Ferguson được thông báo rất rõ ràng rằng sẽ không có bất kì Anh giáo hay bất kì tôn giáo nào khác ngoài chủ nghĩa cộng sản khi ngày thắng lợi đến. Hơn nữa, ông còn bị lớn tiếng mắng nhiếc vì đã yêu cầu cuộc gặp này dưới chiêu bài lừa đảo. Những người cộng sản chưa bao giờ bị phí thời gian khủng khiếp như thế. Với một cuộc bỏ phiếu ba trên hai, quyết định đưa ra là mục sư Ferguson sẽ bị đánh cho một trận nên thân trước khi tống lên tàu trở về Teheran, và một cuộc bỏ phiếu 5-0 ra quyết định rằng nó sẽ bất lợi cho sức khỏe của mục sư nếu ông cứ cố tình trở lại.
Allan mỉm cười nói rằng nếu mục sư cho phép, dù sao, ông cũng không muốn loại trừ khả năng rằng mục sư bị điên toàn tập. Cố gắng để thỏa thuận tôn giáo với những người cộng sản tất nhiên là vô vọng, chẳng lẽ mục sư không hiểu điều đó?
Vị mục sư trả lời rằng ngoại đạo như ông Karlsson tốt nhất là đừng đánh giá cái gì là khôn ngoan hay không. Nhưng tất nhiên, mục sư đã hiểu rằng có rất ít cơ hội thành công.
- Nhưng cứ nghĩ xem, ông Karlsson, nếu nó đã thành công. Cứ nghĩ rằng có thể gửi một điện tín cho Tổng Giám Mục Canterbury và báo cáo cùng một lúc có thêm năm mươi triệu tín hữu Anh giáo.
Allan thừa nhận rằng sự khác biệt giữa điên rồ và thiên tài là rất tinh tế, và trong trường hợp này ông không thể chắc chắn nó là loại nào, nhưng ông có những nghi ngờ của mình.
Cái gì xảy đến sẽ đến, hóa ra đám cảnh sát mật đáng nguyền của nhà vua đã nghe trộm những người cộng sản Razavikhorasan, và mục sư Ferguson bị tóm ngay sau khi bước ra khỏi xe lửa ở thủ đô, và bị lôi đi thẩm vấn.
- Và ngay lập tức tôi thừa nhận tất cả mọi thứ, còn khai thêm một chút nữa, - mục sư Ferguson cho biết, - bởi vì cơ thể gầy gò của tôi không được tạo ra để chịu tra tấn. Bị đánh đau là một chuyện, nhưng tra tấn là chuyện khác.
Với lời thú nhận ngay lập tức và phóng đại, mục sư Ferguson đã bị đưa đến phòng tạm giam này, và ông đã bị bỏ mặc ở đây suốt hai tuần không ai đụng đến vì sếp, Phó Thủ tướng, đang đi công cán ở London.
- Phó Thủ tướng ư? - Allan thắc mắc.
- Phải, hay là sếp của những kẻ giết người, - ông Kevin Ferguson đáp.
Người ta nói cảnh sát mật là một tổ chức được kiểm soát từ trên mà người ta không thể tưởng tượng được. Thường xuyên gieo rắc sợ hãi trong lòng dân, hoặc giết chết người theo cộng sản, chủ nghĩa xã hội, Hồi giáo cực đoan, mà tất nhiên là không cần sự cho phép của ông chủ tối cao. Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra chỉ hơi khác thường một chút thì ngay lập tức ông ta là người quyết định. Nhà vua đã cho ông ta danh hiệu phó thủ tướng, nhưng trên thực tế, ông ta là một kẻ giết người, theo ý kiến của mục sư Ferguson.
Và theo các lính canh tù, người ta nên quên từ ‘phó’ khi nhắc đến danh hiệu của ông ta, nếu mọi thứ tồi tệ đến mức cần phải gặp ông ta, giống như trường hợp của ông và của tôi vậy.
Có lẽ vị mục sư đã dành nhiều thời gian với nhóm cộng sản chìm lâu hơn là ông dám thừa nhận, Allan nghĩ, vì mục sư Fergusontiếp tục:
- Kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, CIA Mỹ đã tới đây và dựng lên cảnh sát mật của nhà vua.
- CIA? - Allan hỏi.
- Vâng, bây giờ họ được gọi như thế. Trước đây họ là “OSS”, nhưng vẫn là một công việc bẩn thỉu. Họ là những người đã dạy cho cảnh sát Iran tất cả các thủ đoạn và các kiểu tra tấn. Hắn có thể là cái giống gì, người đã cho phép CIA hủy diệt thế giới theo cách ấy?
- Ông định nói đến tổng thống Mỹ à?
- Harry S Truman sẽ bị thiêu trong địa ngục, tin tôi đi, - mục sư Ferguson đáp.
- Ồ, thế à, ông nghĩ vậy à? - Allan nói.
**
Nhiều ngày trôi qua trong phòng tạm giam tại trụ sở chính của cảnh sát mật ở trung tâm Teheran. Allan đã kể chuyện đời mình với mục sư Ferguson mà không giấu diếm bất cứ điều gì. Mục sư đã trở nên im lặng, ngừng nói chuyện với Allan sau khi nhận ra bạn tù của mình có quan hệ thế nào với tổng thống Mỹ và - thậm chí còn tồi tệ hơn - với những quả bom dội lên khắp Nhật Bản.
Thay vào đó, mục sư quay về với Chúa và cầu nguyện để được tư vấn. Chúa đã gửi ông Karlsson để giúp ông, hay ngược lại, đó là sự xúi giục của quỷ dữ?
Bình luận facebook