• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG 88.198.7.247 TỪ NGÀY 1/6

Full Hồi ký Phạm Duy (Quyển 1 - 2) (2 Viewers)

  • Hồi ký Phạm Duy (Quyển 1 - 2) - Quyển 1 - Chương 18 - Phần 2

Đứng trên bến Xuân để nhìn những cánh buồm xa và nghe tiếng chim ca lưu luyến cuộc tình của chúng ta, cuộc tình vừa mới đi qua:


Sương mênh mông che lấp kín non xanh


Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân


Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca


Cánh nhạn vào mây thiết tha


Lưu luyến tình vừa qua...


Không “ích kỉ” (!) như tôi, nghệ sĩ tài hoa Văn Cao hiến thân cho Cách Mạng. Nhưng Cách Mạng sẽ không cho anh sáng tác nữa nên sự nghiệp anh đành dở dang. Trong suốt một đời, con người tình cảm hơn tôi này chỉ soạn ra dăm bẩy bản nhạc tình trong đó hai bài Thiên Thai và Trương Chi đã làm mờ đi bốn bài còn lại như hai bài đã kể ở trên và hai bài nữa là Suối Mơ và Bến Xuân. (Cách Mạng xông tới nên Bến Xuân đã bị đổi thành Đàn Chim Việt).


Bài Buồn Tàn Thu không có giá trị nghệ thuật cao bằng những bài khác của Văn Cao nhưng vì nó được hát lên trên sân khấu gánh hát rong và trên Đài Phát Thanh Saigon trong những năm 44-45 là lúc TÂN NHẠC còn mới phôi thai, cho nên nó được nhiều người biết tới. Nhưng những bài tình ca nhỏ nhặt đó sẽ bị mờ đi khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời. Với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở.


Tôi đã có dịp nói tới không khí Đường Thi trong nhạc Văn Cao, nghĩa là nói tới chất thơ trong sáng, cô đọng ngay từ trong những bản nhạc đầu tiên của anh. Ta thấy những bài Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu... như có vẻ vừa thoát ra từ khung cảnh THU HỨNG của Đỗ Phủ. Nghe câu hát Chiều năm xưa gót hài khai hoa, mắt huyền lưu Xuân, dáng nồng thơm hương... trong bài Cung Đàn Xưa thì ta nghe ra như một câu thơ của Thôi Hiệu.


Nhưng trong thời kì thành hình và phát triển của TÂN NHẠC, Văn Cao cũng không phải là chàng nhạc sĩ trẻ tuổi độc nhất đã bị ảnh hưởng của Thơ Đường. Nhạc sĩ đàn anh Lê Thương mà đã chẳng biết dùng khung cảnh TRĂNG QUAN SAN của Lí Bạch để soạn ra câu hát: Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn khiến cho ba bản Hòn Vọng Phu của anh đã trở thành bất diệt đó à?


Có lẽ cũng cảm thấy ma lực của Đường Thi trong Tân Nhạc cho nên về sau này tôi cũng mượn không khí của Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự - Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền của Trương Kế để soạn ra câu hát trên sông Lô: Thuyền tôi đậu bến Sông Lô - Nửa đêm nghe tiếng quân thù thở than.


Nếu chúng ta đi xa thêm vào dĩ vãng, ta lại còn thấy trong truyền thống HÁT Ả ĐÀO, những bài thơ như TƯƠNG TIẾN TỬU, TIỀN-HẬU XÍCH BÍCH... của Thơ Đường đã trở thành những điệu hát hoàn toàn Việt Nam. Còn sân khấu Cải Lương Nam Kì thì có hẳn một điệu hát được gọi tên là DẠ BÁN CHUNG THINH. Ai cũng bị ảnh hưởng Đường Thi mà chẳng nói ra hay chưa có dịp để nói ra.


Nhưng với bài ThiênThai in ra vào năm 1944 thì Văn Cao tự nhận mình là “Người Sông Ngự” và không ngần ngại viết mấy câu đề tựa trên đầu bản nhạc do nhà xuất bản TINH HOA ở Huế ấn hành: Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi! Trong bản in còn đề rõ: lời ca của Văn Cao và Hoàng Thoái - tôi ngờ Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích.


Ta hãy thử xem những bài thơ Đường mà Văn Cao vừa kể ra như ĐÀO NGUYÊN HÀNH của Vương Duy và LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN THAI của Tào Đường đã có những gì khiến cho người nhạc sĩ mang thêm bí danh Người Sông Ngự này đã phải lạc cảm xúc? Trong cuốn ĐƯỜNG THI in tại Saigon vào năm 1971, Giáo Sư Phạm Liễu đã cho rằng cảnh Đào Nguyên là cảnh đẹp vô cùng lí tưởng. Bài thơ của Vương Duy dẫn chúng ta vào một khung cảnh thần tiên:


Chiếc thuyền câu đẩy đưa trên sông nước


Mê sắc trời núi đẹp ánh xuân xa...


Đôi bờ Đào Hoa, bến thuyền xưa ấy


Ngồi ngắm nhìn cây thắm, không biết xa...


Chốn suối hoa đào thần tiên đó mà có được, chẳng qua cũng chỉ vì thi sĩ có quá nhiều gian khổ trong cuộc đời nên đã phải tạo ra cho mình một nơi để ẩn lánh. Một nơi sau này thi bá Vũ Hoàng Chương bước vào thì phải lạc lối, người thơ của lên đường Tản Đà tới được thì, sau nửa năm tiên cảnh, một bước trần ai... sẽ phải giã biệt nơi cảnh đẹp lí tưởng đó với tiếng suối tiễn, tiếng oanh đưa... Và nếu chúng ta có tới được thì cũng chẳng ở được lâu, cũng giống như truyện hai chàng thư sinh mang họ Lưu, họ Nguyễn lạc vào cõi Thiên Thai vậy. Ở dưới trần thì mơ lên tiên cảnh. Ở tiên cảnh thì lại đòi về dương trần. Đó là thân phận con người, la condition humaine. Đứng núi này trông núi nọ...


Bài thơ của Tào Đường thì diễn tả cảnh hai chàng thư sinh đi hái thuốc, không ngờ lại tới được chốn Đào Nguyên:


Khe cây, lối đá nhận đường vào


Hoa cỏ không vương mảy bụi nào


Nhìn bóng dáng mây quên việc trước


Trông chiều cây nước ngỡ chiêm bao.


Muốn biết về đâu, non nước ấy


Hỏi thăm, nên tới suối Hoa Đào...


Người Sông Ngự/Văn Cao đã thú nhận rằng mình bị ảnh hưởng sông nước của hai truyện ĐÀO NGUYÊN, THIÊN THAI cho nên đã soạn ra một bài hát. Một bài hát, theo tôi thật là tuyệt diệu! Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh. Nếu hình thức ca khúc trong Tân Nhạc Việt Nam cho tới năm 1944 này vẫn còn nằm trong khuôn khổ một đoản khúc được ước định trong một số khuôn nhạc nào đó, với một lối chuyển cung, chuyển điệu công thức nào đó... thì Thiên Thai của Văn Cao đã vươn lên một thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số chín mươi bốn khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu.


Với tài năng đã nở rộ cùng với bước đi tới của Tân Nhạc, Văn Cao mô tả cảnh đầu của bài Thiên Thai của anh, cảnh hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Đào Nguyên:


Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng


Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên.


Kìa đường lên tiên,


Kìa nguồn hương duyên,


Theo gió tiếng đàn xao xuyến.


Phím tơ lưu luyến


Mấy cung u huyền


Mấy cung trìu mến


Như nước reo mạn thuyền...


Sau khi mở ra một tiếng hát của ai không biết, hát vang lừng trên sóng để đẩy đưa hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Đào Nguyên... thì, với một nét nhạc leo thang, Văn Cao vẽ ra con đường lên tiên, nơi nguồn hương duyên, theo gió bay lên với tiếng đàn xao xuyến... Ngay trong cảnh đầu của bài ca, ngay từ khi con thuyền nào đó (con thuyền câu của ĐÀO NGUYÊN HÀNH?) đưa hai kẻ si tình này đi vào cõi mộng, Văn Cao chỉ nói tới phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền, mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền. Tuyệt nhiên không có tả cảnh. Con đường lên tới suối hoa đào cũng không phải qua khe cây hay lối đá để nhận đường vào... như trong bài thơ của Tào Đường.


Tôi nghĩ rằng đây có lẽ là chiếc thuyền của anh Trương Chi mà Văn Cao đã cho hai chàng Lưu Nguyễn mượn tạm. Và những âm ba của giọng hát mà Văn Cao nói tới trong đoạn này đã làm cho hoa đào nơi suối tiên phải rụng cánh, có lẽ đó chính là tiếng hát của người thợ chài trên Sông Ngự, trong cuộc đời có thực hay trong cổ truyện lung linh vậy.


Tiếng hát đưa đẩy con thuyền tình trôi trên nước ngọc tuyền, và người trên thuyền cũng thấy quê hương dần xa lấp trong núi ngàn như trong hai bản Đường Thi... để gặp một tiếng hát khác bên bờ Đào Nguyên:


Âm ba, thoáng rung cánh đào rơi


Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.


Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan


Quê hương dần xa lấp núi ngàn


Bâng khuâng chèo khua nước ngọc tuyền


Ai hát bên bờ Đào Nguyên...


Trong đoạn này, Văn Cao đã chuyển nét nhạc một cách rất tài tình, dùng những nốt-bán-cung để di chuyển rất nhanh chóng câu hát đi từ một chủ âm mineure này qua chủ âm mineure khác, cho ta thấy được rất nhiều mầu sắc của khung cảnh thần tiên này. Mầu sắc ở đây lại không có gì là sặc sỡ, nó mơ hồ, nó nên thơ, nó huyền diệu...


Ai hát bên bờ Đào Nguyên? Ngoài tiếng hát Trương Chi hay Lưu Nguyễn đang đưa đẩy con thuyền? Thưa đó là bầy thiên tiên đang đứng hát đón chờ hai gã tình lang tại một nơi còn nguyên vẹn trinh tiết bởi vì mùa Xuân ở đây chưa bao giờ gặp bướm trần gian tới làm cho Xuân phải ô uế, và mùa đào thì heo dòng ngày tháng chưa hề bao giờ tàn phai!


Với một nhạc điệu rất đẹp chảy dài từ bát độ trên xuống bát độ dưới, với một nhịp điệu lẳng lơ nhưng thanh thoát, Văn Cao cho chúng ta một đoản khúc có thể là khúc Nghê Thường mà ta vẫn nghe nói tới trong Đường Thi:


Thiên Thai!


Chốn đây hoa Xuân chưa gặp bướm trần gian


Có một mùa đào


Dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần.


Thiên tiên!


Chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm


Khúc Nghê Thường này


Đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn...


Nhạc bỗng sáng lên, chuyển qua giọng majeure nhưng lời ca thì vẫn chỉ nói tới tiếng đàn, tiếng nhạc. Tuyệt nhiên không nói tới người. Bầy tiên chỉ là hư ảnh. Biết đâu, ngay cả hai chàng Lưu Nguyễn cũng không có mặt trong bài ca:


Đàn soi trăng lên, nhạc lắng tiếng quyên


Đây đó nỗi lòng mong nhớ


Này khúc Bồng Lai


Là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi...


Rồi nhạc chuyển vội về giọng mineure để nói rằng tiếng đàn xui quên đời dương thế, tiếng đàn khao khát tình duyên:


Đàn xui ai quên đời dương thế,


Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên.


Cho mãi tới bây giờ Văn Cao mới hé cho ta thấy cuộc ái ân nổi dậy giữa người tiên người phàm bằng cách quay lại với nhạc đề chính trong bài ca:


Thiên Thai!


Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian


Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần...


Đàn phách lại nổi lên! Nhạc Văn Cao rộn rã một cách khác thường trong đoạn này. Gió hắt đi những tiếng hát. Những tiếng hát này sẽ làm se lòng người mỗi khi được nghe lại. Lưu Nguyễn quên trần hoàn rồi... Họ cùng bầy tiên đàn ca một vài ba thế kỉ:


Gió hắt trầm tiếng ca


Tiếng phách ròn lắng xa


Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta.


Đào Nguyên trước, Lưu Nguyễn quên trần hoàn


Cùng bầy tiên đàn ca bao năm.


Nhớ quê chiều nào xa khơi


Chắc không đường về tiên nữ ơi...


Không nói đến sự trở về trần hoàn của Lưu Nguyễn khi nhớ quê, không nói đến sự thất vọng của họ khi về tới cõi trần, nơi đó chẳng còn ai biết tới hai người nữa! Văn Cao bỏ qua sự đứng núi này trông núi nọ của họ, chỉ nói tới sự quay về đường tiên của hai cụ già Lưu Nguyễn. Nhưng than ôi, Đào Nguyên biến mất rồi! Chỉ còn rền lại tiếng ca của cõi tiên:


Gió hắt trầm tiếng ca


Tiếng phách ròn lắng xa.


Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta.


Đào nguyên trước, Lưu Nguyễn khi trở về


Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao?


Những khi chiều tà trăng lên


Tiếng ca còn rền trên cõi tiên...


Tôi hiểu được bài học không biết chọn lựa của hai gã Lưu Nguyễn trong bài Thiên Thai của Văn Cao. Vì không biết chọn lựa nên họ mất cả cõi tiên lẫn cõi trần. Họ đang sống bơ vơ ở đâu?


Tuy viết ra một bản hát vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh, nhưng Văn Cao không tả thực trong bài Thiên Thai này. Những nhân vật chính của câu truyện như hai chàng Lưu Nguyễn, bầy thiên tiên hoặc những cảnh vật như suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều được mô tả một cách rất mơ hồ. Giống như trong một giấc mộng vậy! Ta biết là có con thuyền chở Lưu Nguyễn tới cõi Thiên Thai, có bầy thiên tiên múa hát dâng trái đào thơm... nhưng ta không thấy họ được.


Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà cỏ bên suối mơ hay trước bến xuân với hai tình khúc trước, Văn Cao có thể mời đón chúng ta bước vào căn nhà bên chiếc cầu soi nước để ngồi nhìn đàn nai đùa trên đống lá vàng khô. Nhưng trong Thiên Thai, cõi mơ của Văn Cao, chúng ta không thể nào bước vào vườn cấm này được. Đây là cõi riêng của Người Sông Ngự. Nhưng ta lại được tự do tuyệt đối để nghe lên toàn thể tiếng đàn, tiếng hát vút lên từ đầu tới cuối của trường khúc Thiên Thai, tiếng đàn hát mà tôi cho là của Trương Chi trong truyện cổ và Văn Cao đã cho Thiên Thai mượn tạm. Tôi kết luận: Thiên Thai là cõi riêng của Văn Cao. Trương Chi mới là tiếng hát của Văn Cao.


Nói tới Trương Chi thì nhớ lại thuở tôi còn nhỏ, ở Hà Nội thường có những người đi hành khất bằng giọng hát, nghĩa là họ đến trước cửa từng nhà để hát những câu chuyện cổ Việt Nam, hát xong thì ngửa tay xin tiền. Tôi vẫn nhớ hình ảnh người ca sĩ ăn mày đó, miệng hát, tay đập vào cái hộp sắt bỏ trong túi áo để gõ nhịp cho bài hát. Và hình như anh ta chỉ có một bài hát duy nhất để làm vũ khí cho nghề đi ăn xin mà thôi. Đó là bài hát về anh Trương Chi:


Ngày xưa có anh Trương Chi


Người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay


Cô Mỵ nương vốn ở Lầu Tây


Con quan Thừa Tướng ngày rày cấm cung...


Sau này, tôi thường cám ơn thầm người hành khất bằng giọng hát đó, vì ngay từ khi tôi chưa có đủ trí khôn để hiểu biết cuộc đời thì anh ta đã nuôi dưỡng tình cảm của tôi bằng một câu chuyện tình đẹp ngang với những chuyện tình đẹp nhất trên thế giới.


Câu truyện cổ tích về anh Trương Chi người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay mà ca nhạc cổ truyền đã xưng tụng qua hình thức hát rong, hát dạo, hát xẩm... cũng đã được các thi sĩ, văn sĩ của thời nay nhắc tới. Chẳng hạn trong bài thơ BÀI CA NGƯ PHỦ của Vũ Hoàng Chương mà Hoàng Thư đã ngâm lên một cách mê li trên các Đài Phát Thanh ở trong nước cách đây mấy chục năm. Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm viết truyện LE CRISTAL D”AMOUR bằng Pháp Ngữ, in trong cuốn Légendes Des Terres Sereines. Thi sĩ Hoàng Cầm còn dùng truyện cổ đó để soạn vở kịch thơ TIẾNG HÁT với nội dung không ai giam nhốt nổi tiếng hát.


Trong giới Tân Nhạc, có Hùng Lân viết bài Hận Trương Chi. Phạm Duy viết bài Khối Tình Trương Chi và Văn Cao viết bài Trương Chi. Với bài hát nói lên một nỗi hận, Hùng Lân không kể chuyện anh Trương Chi, ông chỉ mượn một nhân vật tiêu biểu cho giới cầm ca để nói luôn đến chuyện Tử Kỳ và Bá Nha, chuyện người hát hay, đàn hay mà không có người thưởng thức. Phạm Duy là tôi lúc còn ấu trĩ, thì khách quan kể lại câu truyện cổ truyền. Riêng chỉ có Văn Cao là nói tới nhân vật tài hoa truyền kì này, nói tới sự não nuột trong tiếng nhạc Trương Chi, tới con người và số phận, đồng thời cũng là nói về mình!


Không phải bây giờ Văn Cao mới nói tới Trương Chi. Người Sông Ngự đã đưa hồn Trương Chi vào hồn mình từ lâu rồi! Từ khi nói tới một trong những chiều năm xưa có những cung đàn cũng năm xưa ấy réo rắt lên, bên một người con gái đẹp mà... gót hài khai hoa, mắt huyền lưu Xuân, dáng hồng thơm hương đã khiến cho Chàng Trương/Văn Cao phải đưa vào mộng mị:


Chiều năm nay


Tiếng người khơi thương


Tiếng đàn giao hoan


Giấc mộng chàng Trương...


Lúc đó, Văn Cao chỉ mới hé lộ cho ta thấy tâm hồn của anh là tâm hồn của chàng ngư phủ thất tình họ Trương. Bây giờ, anh phát triển tiếng hát câm lặng đó bằng một trường khúc não nuột nhưng cũng rất kiêu sa.


Bài hát mở đầu bằng câu nhạc dài hơi như trong Thiên Thai nhưng nhạc trong Trương Chi có nhiều tính mô tả hơn:


Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ


Trầm trầm không gian mới rung thành tơ.


Vương vất heo may hoa yến mong chờ


Ôi tiếng cầm ca, Thu tới bao giờ...


Kiêu sa lắm chứ! Khi Văn Cao cho rằng từ lúc mới có Trời, có Đất, khi chưa có Thơ thì đã có Nhạc rồi. Và chỉ có nhạc thì mới kéo được mùa Thu tới cho loài hoa, loài chim, loài người. Rồi cũng với câu nhạc đó, Văn Cao đưa tiếng nhạc của Trương Chi tới Mỵ Nương:


Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang


Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan


Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng


Đây đó từng song he hé đợi đàn...


Một nét nhạc khác cho ta thấy Mỵ Nương vui vẻ chờ đợi tiếng hát:


Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân


Hò khoan mơ bóng con đò trôi.


Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi


Lả lơi bên trời...


Nét nhạc bây giờ vút lên, như tiếng nức nở của Trương Chi sau khi Mỵ Nương bị thất vọng về cái nhan không có sắc của anh:


Anh Trương Chi


Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung


Anh thương nhớ, oán trách cuộc từ li não nùng.


Đò trăng cắm giữa sông vắng


Gió đưa câu ca về đâu?


Nhìn xuống đáy nước sông sâu


Thuyền anh đã chìm đâu...


Thưa rằng thuyền anh đã chìm sâu! Có nghĩa là anh đã gieo mình xuống sông tự tử, nhưng oan hồn của anh còn đó khiến cho tiếng hát vẫn không tắt nghỉ. Khách giang đầu còn được nghe mãi mãi tiếng than khóc của Trương Chi:


Từng khúc nhạc xa vời


Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi


Sương thu vừa buông xuống


Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông


Ai qua bến giang đầu tha thiết


Nghe sông than mối tình Trương Chi


Dâng úa trăng khi về khuya


Bao tiếng ca ru mùa Thu...


Nhưng Trương Chi có thực sự than khóc cái nghèo nàn, cái xấu trai của mình không? Ta hãy nghe Văn Cao chuyển cung từ RE thứ qua SOL trưởng một cách sướng tai vô cùng, để diễn tả giọt mưa rơi ngoài song cửa Mỵ Nương như rơi trên những cung đàn huyền diệu. Mưa cũng rơi trên con thuyền ngoài dòng sông lạnh, thuyền này chưa chắc đã là của Trương Chi:


Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn


Còn nghe như ai nức nở và than


Trầm vút tiếng gió mưa


Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?


Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn


Về phương xa ai nức nở và than


Trầm với tiếng gió vương


Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa...


Vào lúc Tân Nhạc mới chập chững biết đi mà Văn Cao đã viết được những câu nhạc diễn tả giọt mưa tài tình như vậy, thật là hiếm có. Nếu ta nhận ra được nét nhạc SOL trưởng trong đoạn mưa rơi trên cung đàn này là nhạc ngũ cung thì ta lại càng yêu quý Văn Cao hơn lên.


Câu chuyện tình éo le nhưng rồi cũng kết thúc một cách đẹp đẽ: Trương Chi chết đi nhưng vì cuộc tình chưa thỏa cho nên trái tim không chịu tan đi và hóa thành ngọc đá. Rồi người đời đem viên ngọc đó ra để làm thành một bộ chén trà dâng tặng gia đình nhà quan. Trong một tiệc trà, Mỵ Nương bưng chén ngọc lên, thấy hình ảnh chàng ngư phủ cất tiếng hát trong miệng chén. Thương nhớ con người và giọng hát năm xưa, nàng rơi lệ! Giọt nước mắt nhỏ xuống chén ngọc. Thế là mối oan tình từ bao năm nay đã được thỏa mãn. Và bây giờ thì chén ngọc, hay là trái tim của Trương Chi mới chịu tan đi.


Văn Cao không đả động tới chuyện đó. Anh tiếp tục xoáy vào nhân vật Trương Chi:


Đò ơi!


Đêm nay dòng sông Thương dâng cao


Mà ai hát dưới trăng ngà


Ngồi đây ta gõ ván thuyền ta ca trái đất còn riêng ta.


Đàn đêm thâu! Trách ai khinh nghèo quên nhau.


Đôi lứa bên giang đầu


Người ra đi với cuộc phân li


Đâu bóng thuyền Trương Chi?


Như tôi đã nói, Văn Cao không kể lại câu chuyện Trương Chi/Mỵ Nương. Anh chỉ tỏ thái độ của Chàng Trương sau khi thất tình, trước khi chết cũng như sau khi chết:


Ngồi đây ta gõ ván thuyền


Ta ca trái đất còn riêng ta...


Tâm hồn tôi đẹp - vì tôi hát hay mà - nhưng hình hài tôi xấu, người không yêu tôi à? Thì tôi vẫn có cuộc đời hay trái đất này để ra tuyên ngôn: Trái đất còn riêng ta. Trách ai khinh nghèo quên nhau. Trách ai? Trách chính quyền hay trách người đời không bao giờ dung nổi con người nghệ sĩ? Không dung thì thôi! Ta vẫn còn riêng Ta. Đó là ý nghĩa của bài Trương Chi.


Người Việt Nam yêu nhạc, trải qua gần 50 năm lịch sử của Tân Nhạc lúc nào cũng sẵn sàng bị phản bội. Không phải tới bây giờ, ở trong những cộng đồng Việt Nam trên hải ngoại, những nhà tái bản sách nhạc, những con buôn của nghề sản xuất lậu băng nhạc, những ca sĩ không biết tự trọng... luôn luôn khinh miệt người sáng tác bằng cách sử dụng bừa bãi những tác phẩm làm bằng mồ hôi và nước mắt của tác giả như: không xin phép, không trả tác quyền, không đề tên tác giả trong bìa băng, không hát đầy đủ lời ca của tác phẩm. Ngay từ hồi Văn Cao viết bài tình ca bất hủ Trương Chi này, người ta cũng không bao giờ chịu để ý tới lời 2 của nhạc phẩm để in ra hoặc hát lên. Hôm nay, tôi có dịp để ghi lại những lời ca đẹp như trái tim ngọc đá của ngư phủ họ Trương:


Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ


Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.


Ngây ngất không gian rên xiết lay bờ,


Bao tiếng cầm ca rung ánh sao mờ.


Nhạc còn lưu luyến nhắc ai huyền âm.


Lạnh lùng đôi dây tố lan trầm ngân


Trong lúc đêm khuya ai lóng tiếng cầm


Thu đã chìm xa xa ánh nguyệt đầm.


Khoan khoan đò ơi! Tương tư tiếng ca


Chàng Trương Chi cất lên hò khoan


Đêm thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi!


Nhạc ơi, thôi đàn!


Có một điều buồn đến với tôi khi hát lên lời 2 của bản Trương Chi này. Văn Cao tiên tri cái ngày anh không được phép đàn hát nữa? Như đã xẩy ra sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Đêm Thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi! Nhạc ơi, Thôi đàn... Đêm Thu đến với Văn Cao, quả rằng nó đã quá dài. Dài tới ba mươi năm có lẻ! Trong thời gian đó, Văn Cao là “Người Thăng Long Thành” hay “Người Sông Ngự” thì cũng phải chết đi như Trương Chi, trái tim anh có lẽ cũng đã thành viên ngọc đá. Tôi đã nhiều lần tự hỏi: Ai là người sẽ nhỏ lệ lên trái tim Văn Cao?


Sau ba mươi năm bẻ bút, đập đàn Văn Cao, bây giờ vì trào lưu tiến hóa của nhân loại, trước sự đòi hỏi và thắng lợi của cái đích thực gọi là dân chủ, dân quyền, theo gót các nước xã hội chủ nghĩa đàn anh hay đàn em, chính quyền Hà Nội đã chủ trương cởi mở và phục hồi địa vị cho nghệ sĩ Văn Cao.


Xa cách nhau, bị cấm không được liên lạc với nhau trong một thời gian dài hơn một đời người, vào mùa Xuân 1988, chúng tôi đã gửi cho nhau những cái hôn bằng giấy mực. Qua một vài bức ảnh mới chụp, thấy Văn Cao lúc này coi bộ yếu lắm, vì “Người Sông Ngự” uống rượu ghê quá! Vào cuối thế kỉ 20 này, tôi chúc anh có đủ sức khỏe để cùng tôi bước qua thế kỉ mới. Xin anh tiếp tục đàn ca nhé, vừa ca vừa vỗ mạn thuyền, như tôi đã bắt chước anh:


Ta ca trái đất còn riêng ta...


Văn Cao hay Trương Chi?


Đàn bao tuổi rồi, đàn ca chẳng ngơi


Bao giây phút trong quãng đời


Tình tang tang tang tính tình


Tình tang tang tang tính tình


Của tình duyên số mạng người...


BẢN ĐÀN XUÂN - Lê Thương
 
Advertisement

Bình luận facebook

Bạn đã đọc chưa

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom