• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG 88.198.7.247 TỪ NGÀY 1/6

Full Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất (2 Viewers)

  • Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Chương 16 - Phần 1

Chương 16


1948-1953


Người đàn ông trên ghế đá công viên vừa mới chào Mr. Karlsson bằng tiếng Anh, từ đó Allan đã rút ra hai kết luận. Thứ nhất, ông ta không phải người Thụy Điển, nếu không thì ông ta có thể sẽ cố gắng nói tiếng Thụy Điển. Thứ hai, ông ta biết Allan là ai, bởi vì đã gọi được tên.


Người đàn ông ăn mặc lịch sự, đội chiếc mũ màu xám có vành đen, áo khoác màu xám, đi giày đen. Ông ta có lẽ là một doanh nhân. Trông ông ta thân thiện và chắc chắn có mục đích. Vì vậy, Allan đáp, bằng tiếng Anh.


- Liệu có phải cuộc sống của tôi có tình cờ sắp rẽ sang hướng mới bây giờ chăng?


Người đàn ông trả lời rằng cũng không loại trừ điều đó, nhưng nói thêm bằng một giọng thân thiện rằng nó phụ thuộc vào chính ông Karlsson. Có chuyện là, sếp của ông ta muốn gặp ông Karlsson để yêu cầu ông Karlsson làm việc cho họ.


Allan đáp rằng mấy hôm nay mình đang rất thảnh thơi sung sướng, nhưng tất nhiên ông không thể ngồi trên ghế đá công viên đến hết đời. Vì vậy, ông hỏi người đàn ông liệu mình có được phép biết tên sếp của ông ta không. Allan nghĩ nó sẽ dễ dàng hơn để nói có hay không khi biết mình đang nói về cái gì. Quý ông có đồng ý như vậy không?


Người đàn ông thân thiện hoàn toàn đồng ý, nhưng sếp của ông ta hơi đặc biệt và có lẽ sẽ thích gặp mặt để tự giới thiệu hơn.


- Nhưng tôi thì sẵn sàng đi cùng với ông Karlsson đến gặp ông sếp ngay lập tức, nếu ông Karlsson đi được.


Tất nhiên là được, Allan nghĩ, ông hoàn toàn có thể đi luôn, người đàn ông cho biết quãng đường khá xa. Nếu ông Karlsson muốn lấy đồ đạc của mình từ khách sạn, người đàn ông hứa sẽ đợi ở tiền sảnh. Về việc này, người đàn ông có thể chở ông Karlsson về khách sạn, bởi vì xe và tài xế của ông ta ngay đây.


Chiếc xe cũng rất phong cách, Ford Coupé màu đỏ đời mới nhất. Và một tài xế riêng! Thuộc tuýp người kín đáo. Không có vẻ thân thiện như người đàn ông kia.


- Tôi nghĩ rằng chúng ta không cần về khách sạn, - Allan cho biết. - Tôi thường đi du lịch rất gọn nhẹ.


- Được, thế thì đi thôi, - người đàn ông thân thiện nói và vỗ lưng tài xế của mình ra hiệu ‘lái đi’.


Chuyến đi đưa họ tới Dalarö, cách thủ đô hơn một giờ xe về phía nam, theo những con đường quanh co. Allan và người đàn ông thân thiện trò chuyện này kia. Người đàn ông giảng giải về sự diệu kì vô tận của Opera, trong khi Allan kể với ông ta làm thế nào để băng qua dãy Hy Mã Lạp Sơn mà không chết cóng.


Mặt trời đã lặn khi chiếc Coupé đỏ lăn bánh vào một ngôi làng nhỏ trên bờ biển vốn rất đông khách du lịch đảo vào mùa hè, nhưng mùa đông thì tối và yên tĩnh.


- À, thế ra đây là nơi sếp ông sống, - Allan nói.


- Không, không hẳn thế, - người đàn ông thân thiện đáp.


Viên tài xế không được thân thiện như người đàn ông, chẳng nói chẳng rằng thả Allan và người đàn ông thân thiện ở cạnh bến cảng Dalarö rồi đi luôn. Trước đó, người đàn ông thân thiện đã lấy ra một chiếc áo khoác lông thú từ cốp chiếc Ford, và chu đáo choàng nó lên vai Allan, miệng xin lỗi rằng họ sẽ phải đi bộ một đoạn ngắn trong cái lạnh mùa đông.


Allan không phải là kiểu người hay hi vọng (hoặc ngược lại) về những gì có thể xảy ra trong cuộc sống của mình ở tương lai gần. Chuyện gì đến thì đến. Không việc gì phải lo lắng trước về nó cả.


Tuy thế, Allan rất ngạc nhiên khi người đàn ông thân thiện đưa mình đi khỏi trung tâm của Dalarö và đi trên băng giá vào màn đêm tối đen của đảo.


Người đàn ông thân thiện và Allan tiếp tục bước đi. Đôi khi ông ta bật đèn pin, rọi sáng một chút bóng tối mùa đông trước khi dùng nó để định hướng trên chiếc la bàn của mình. Suốt đoạn đường đi bộ, ông ta không nói chuyện với Allan mà chỉ đếm thành lời từng bước của mình - bằng một ngôn ngữ mà Allan chưa nghe bao giờ.


Sau mười lăm phút đi bộ khá nhanh giữa chỗ trống, người đàn ông thân thiện nói rằng họ đã đến nơi. Xung quanh họ tối om, ngoại trừ một ánh sáng nhấp nháy trên hòn đảo xa xa. Người đàn ông thân thiện nhân dịp đó cho Allan biết rằng ánh sáng ấy đến từ phía đông nam Kymmendö, nơi mà như ông ta được biết, có liên quan với August Strindberg và lịch sử văn học Thụy Điển. Allan hoàn toàn mù tịt, và cũng không có thời gian để thảo luận về vấn đề này xa hơn bởi vì nền đất (hay đúng hơn, băng) dưới chân Allan và người đàn ông thân thiện bất ngờ toác ra.


Có thể người đàn ông thân thiện đã tính lầm một chút. Hoặc thuyền trưởng của chiếc tàu ngầm đã không đến được chính xác nơi ông ta cần phải đến. Dù vì lí do gì thì con tàu dài 97 mét đã trồi lên qua băng vỡ quá gần Allan và người đàn ông thân thiện. Cả hai ngã ngửa, suýt rơi xuống chỗ nước băng giá. Nhưng mọi việc đã sớm được giải quyết, và Allan được giúp đỡ để trèo xuống chỗ ấm áp.


- Chà, mở mắt ra mà ngồi đoán những gì sẽ xảy ra trong ngày thì chỉ phí công, - Allan nói. - Rốt cuộc, thì phải đoán đến bao giờ mới đoán ra chuyện này?


Bây giờ người đàn ông thân thiện nghĩ rằng ông ta không phải bí mật nữa. Ông nói với Allan rằng tên mình là Yury Borisovich Popov và rằng ông làm việc cho Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết, ông là một nhà vật lý, không phải chính trị gia hay quân nhân, và ông được cử đến Stockholm để thuyết phục ông Karlsson đi theo đến Moskva.


Borisovich Yury được giao nhiệm vụ này vì có một điểm tương đồng khá miễn cưỡng giữa một giai đoạn đời ông Karlsson với xuất thân của Yury Borisovitch như một nhà vật lý, có lẽ nó sẽ thuận lợi khi cả hai nói cùng một thứ ngôn ngữ, đại loại thế.


- Nhưng tôi không phải là một nhà vật lý, - Allan nói.


- Có thể thế, nhưng nguồn tin của tôi báo rằng ông biết cái mà tôi muốn biết.


- Thực vậy ư? Chà, thế bây giờ thì là điều gì?


- Bom, ông Karlsson ạ. Quả bom.


**


Yury Borisovich và Allan Emmanuel ngay lập tức khoái nhau. Đồng ý đi theo mà chẳng biết đi đâu, gặp ai và tại sao - điều đó gây ấn tượng với Yury Borisovich và nó cho thấy Allan có cái tính tùy hứng mà Yury thiếu. Còn với Allan, ông đánh giá cao việc mình có thể trò chuyện với một người mà không cố gắng nhồi nhét chính trị hay tôn giáo vào ông.


Thêm nữa, hóa ra cả Yury Borisovich và Allan Emmanuel đều là fan cuồng của vodka. Tối hôm trước, Yury Borisovich đã có dịp thưởng thức đủ loại của Thụy Điển trong khi ông - nói thật là - phải theo dõi Allan Emmanuel trong phòng ăn tại khách sạn Grand. Đầu tiên, Yury Borisovich nghĩ rằng nó quá mạnh, mà không có vị ngọt Nga, nhưng sau một vài ly, ông đã quen với nó. Và thêm hai ly nữa, ông thấy nó “chẳng tệ chút nào”.


- Nhưng cái này tất nhiên là ngon hơn, - ông Yury Borisovich nói và giơ một chai Stolichnaya một lít trong căn phòng sĩ quan nơi ông và Allan Emmanuel đang ngồi. - Và bây giờ mỗi người sẽ có một ly!


- Ý hay đấy, - Allan nói. - Không khí biển đòi hỏi điều đó.


Ngay sau khi ly đầu tiên, Allan đã đổi cách xưng hô giữa hai người đàn ông. Về lâu dài, mỗi khi cần thu hút sự chú ý của Yury Borisovich mà phải gọi Yury Borisovich là Yury Borisovich thì mệt quá.


Còn ông không muốn bị gọi là Emmanuel Allan, vì chẳng ai gọi thế từ khi ông được giáo sĩ ở Yxhult rửa tội.


- Vì thế, từ bây giờ, ông là Yury còn tôi là Allan, - Allan tuyên bố. - Nếu không, tôi sẽ nhảy khỏi cái tàu này ngay ở đây.


- Đừng làm thế, Allan yêu quý, chúng ta đang ở độ sâu 200 mét, - Yury nói. - Rót đi.


Yury Borisovich Popov là một nhà xã hội chủ nghĩa đầy hoài bão và không mong gì hơn là tiếp tục làm việc cho chủ nghĩa xã hội Xô Viết. Đồng chí Stalin là một người đàn ông nghiêm khắc nhưng Yury biết rằng nếu cứ phục vụ chế độ trung thành và hiệu quả thì chẳng việc phải sợ hãi. Allan trả lời rằng ông không định phục vụ bất kì chế độ nào, nhưng tất nhiên ông có thể cho Yury một hoặc hai lời khuyên nếu họ đang gặp khó khăn về vấn đề bom nguyên tử. Nhưng trước hết, Allan muốn nếm thử một ly vodka mà ngay cả khi tỉnh táo ta cũng không thể phát âm tên của nó. Và một điều nữa: Yury phải hứa là ông sẽ tiếp tục như đã bắt đầu và không nói chuyện chính trị.


Yury chân thành cám ơn Allan về lời hứa giúp đỡ, và nói thẳng ra rằng Nguyên soái Beria, sếp của Yury, định trả cho chuyên gia Thụy Điển trọn gói một lần 100.000 đôla Mỹ, với điều kiện rằng Allan giúp hướng dẫn chế tạo một quả bom.


- Có vẻ là một thỏa thuận tốt đẹp đấy, - Allan nói.


Cái chai vơi đều đặn trong lúc Allan và Yury tán đủ thứ chuyện trên trời dưới biển (trừ chính trị và tôn giáo). Họ cũng đề cập đến vấn đề bom nguyên tử, mặc dù nó thực sự dành cho những ngày tới, Allan có thời gian cho ông ta vài lời khuyên đơn giản. Và thêm nữa.


- Hmmm, - nhà vật lý cao cấp Yury Borisovich Popov nói. - Tôi nghĩ rằng tôi hiểu...


- Chà, tôi thì không, - Allan nói. - Ông giải thích lại về opera đi. Thế nó không phải chỉ rặt la hét ư?


Yury mỉm cười, nhấp một ngụm lớn vodka, đứng lên - và bắt đầu hát. Trong cơn say, ông ta không hát dân ca cổ mà chọn aria “Nessun Dorma” trong vở Turandot của Puccini.


- Chà, đáng kể đấy, - Allan nói khi Yury hát xong.


- Nessun Dorma! - Yury long trọng. - Không ai được phép ngủ!


Bất kể liệu có ai được phép ngủ hay không, cả hai đã nhanh chóng rơi vào giấc ngủ trong giường của mình bên cạnh phòng sĩ quan. Khi họ tỉnh dậy, tàu ngầm đã bỏ neo ở cảng Leningrad. Ở đó, một chiếc limousine đang chờ để đưa họ vào điện Kremlin gặp gỡ Nguyên soái Beria.


- Saint Petersburg, Petrograd, Leningrad... có thể tưởng tượng nổi không? - Allan nói.


- Chúc ông buổi sáng tốt lành, - Yury đáp.


Yury và Allan vào ghế sau của chiếc limousine Humber Pullman, đi suốt ngày đường từ Leningrad tới Moskva. Một vách trượt ngăn cách chỗ ngồi của lái xe với... salon... nơi Allan và người bạn mới của mình đang ngồi. Salon còn có một cái tủ lạnh với nước, thức uống có ga và tất cả chỗ rượu mà hai vị khách hiện tại không thể thiếu được. Bên cạnh đó là một bát kẹo dẻo mâm xôi và một khay sôcôla tuyệt ngon. Chiếc xe hơi và nội thất của nó đáng lẽ là một ví dụ tuyệt vời cho kĩ nghệ xã hội chủ nghĩa Xô Viết nếu như nó không phải được nhập khẩu hết từ Anh.


Yury kể với Allan về xuất thân của mình, kể cả việc theo học Ernest Rutherford, nhà vật lý hạt nhân huyền thoại người New Zealand đã đoạt giải Nobel. Đó là lý do vì sao Yury Borisovich nói tiếng Anh tốt. Allan, đến lượt mình, mô tả (Yury Borisovitch ngày càng kinh ngạc) cuộc phiêu lưu của mình ở Tây Ban Nha, Mỹ, Trung Quốc, Hy Mã Lạp Sơn và Iran.


- Và chuyện gì đã xảy ra với ông mục sư Anh giáo sau đó? - Yury thắc mắc.


- Tôi không biết, - Allan đáp. - Hoặc là ông ta sẽ Anh giáo hóa cả Ba Tư, hoặc sẽ chết thôi. Ít có khả năng nào khác giữa cái đó.


- Nghe hơi giống như thách thức Stalin ở Liên Xô, - Yury thẳng thắn nói. - Ngoại trừ thực tế rằng đó là tội ác chống phá cách mạng, khả năng sống sót là rất ít.


Vào ngày đặc biệt và với người bạn đặc biệt này, sự chân thật của Yury dường như không có giới hạn. Ông dốc bầu tâm sự về Nguyên soái Beria, sếp tình báo, người rất bất ngờ và miễn cưỡng trở thành lãnh đạo của dự án chế tạo bom nguyên tử. Beria là người không biết xấu hổ là gì. Ông ta đã lạm dụng tình dục phụ nữ và trẻ em, còn những kẻ chống đối sẽ bị ông tống vào tù - nếu không giết quách đi.


- Ông phải hiểu cho tôi, - Yury giải thích. - Các thành phần chống đối tất nhiên phải được đào thải càng sớm càng tốt, nhưng chúng phải là chống lại nền tảng cách mạng chân chính. Phải loại bỏ những kẻ không giúp ích cho mục tiêu của chủ nghĩa xã hội! Nhưng không phải là những người không tiếp tay cho các mục tiêu của Nguyên soái Beria. Không! Allan, điều đó thật khủng khiếp. Nguyên soái Beria là không phải là đại diện thực sự của cách mạng. Nhưng ông không thể đổ lỗi cho đồng chí Stalin về điều đó. Tôi chưa bao giờ được hân hạnh gặp ông ấy, nhưng ông ấy có trách nhiệm cho cả quốc gia, gần như toàn bộ một lục địa. Và nếu với tất cả các công việc đó, và trong khoảnh khắc vội vã, ông đã giao cho Nguyên soái Beria nhiều trách nhiệm hơn Nguyên soái Beria có khả năng gánh vác... chà, đồng chí Stalin có quyền làm thế! Và bây giờ, Allan thân yêu ạ, tôi sẽ cho ông biết một tin thực sự tuyệt vời. Ông và tôi, ngay chiều nay, sẽ được vinh dự thuyết trình không chỉ với Nguyên soái Beria mà cả đích thân đồng chí Stalin! Ông mời chúng ta ăn tối.


- Chà, tôi thực sự mong đến lúc đó, - Allan nói. - Nhưng làm thế nào chúng ta cầm cự được đến tận lúc ấy? Liệu chúng ta có phải cầm hơi bằng kẹo dẻo quả mâm xôi không?


Yury lo liệu để chiếc limousine dừng lại ở một thị trấn nhỏ trên đường, mua ít bánh mì kẹp cho Allan. Rồi hành trình tiếp tục với cuộc trò chuyện thú vị.


Vừa nhai bánh mì kẹp, Allan vừa nghĩ rằng Nguyên soái Beria, theo như mô tả của Yury, có vẻ giống với ông sếp mật vụ mới qua đời ở Teheran.


Về phần mình, Yury ngồi đó cố gắng hiểu anh bạn đồng nghiệp Thụy Điển của mình. Anh bạn Thụy Điển sắp được ăn tối với Stalin, và đã nói rằng rất mong được như thế. Tuy nhiên, Yury phải hỏi rõ ý ông là nói đến bữa ăn tối hay nhà lãnh đạo.


- Phải ăn để sống chứ, - Allan lịch sự đáp và đánh giá cao chất lượng của bánh mì Nga. - Tuy nhiên, Yury thân mến, tha lỗi cho tôi nếu tôi mạn phép đặt một hai câu hỏi chứ?


- Tất nhiên, Allan thân mến. Cứ hỏi đi, tôi sẽ sức trả lời.


Allan nói rằng thực tình ông không lắng nghe khi Yury vừa ba hoa về chính trị, bởi vì chính trị không phải là thứ Allan quan tâm lắm trong thế giới này. Thêm nữa, ông nhớ rõ ràng đêm hôm trước Yury đã hứa không nói chuyện theo hướng này.


Tuy thế, Allan đã để ý đến mô tả của Yury về nhược điểm trong nhân cách của Nguyên soái Beria. Allan tin rằng mình đã từng gặp những người loại đó. Một mặt, nếu Allan hiểu chính xác, thì Nguyên soái Beria rất tàn nhẫn. Mặt khác, ông ta lại vô cùng chăm sóc Allan, với chiếc xe limousine và tất cả mọi thứ.


- Đâm ra tôi thắc mắc tại sao ông ta không đơn giản là bắt cóc tôi và sau đó dùng bạo lực vắt của tôi ra những gì ông ta muốn biết, - Allan hỏi. - Thế thì ông ta sẽ không bị lãng phí kẹo dẻo mâm xôi, sôcôla ngon, hàng trăm ngàn đôla và rất nhiều thứ khác.


Yury cho biết bi kịch mà Allan vừa nêu cũng đã từng xảy ra. Nguyên soái Beria đã hơn một lần - dưới danh nghĩa cách mạng, tra tấn những người vô tội. Yury biết trường hợp đó. Nhưng tình hình bây giờ, Yury cảm thấy rất khó để diễn đạt chính xác ý mình, nó là như thế, Yury rồi mở tủ lạnh lấy một lon bia mặc dù vẫn chưa đến 12 giờ trưa, tình hình là... Yury thừa nhận, Nguyên soái Beria mới đây đã thất bại trong chiến lược mà Allan vừa vẽ ra. Một chuyên gia phương Tây đã bị bắt cóc ở Thụy Sĩ và được đưa đến chỗ Nguyên soái Beria, nhưng tất cả đã kết thúc trong một mớ hỗn độn khủng khiếp.


Yury xin lỗi rằng mình không muốn nói nữa, nhưng Allan phải tin những gì Yury đã nói: bài học từ sự thất bại mới đây là các dịch vụ hạt nhân cần thiết, theo quyết định từ trên, sẽ được mua trên thị trường phương Tây dựa trên cung và cầu, dù là trắng trợn đến đâu.


**


Chương trình vũ khí nguyên tử của Liên Xô bắt đầu với một lá thư của nhà vật lý hạt nhân Georgij Nikolajevitch Flyorov gửi đồng chí Stalin, trong đó ông ta đã chỉ ra vào tháng 4 năm 1942 rằng trong các phương tiện truyền thông của liên minh phương Tây chưa từng nghe nhắc đến một tiếng hay có văn bản nào liên quan đến sự phân hạch hạt nhân kể từ khi nó được phát hiện vào năm 1939.


Đồng chí Stalin không phải là trẻ con. Và cũng giống như nhà vật lý hạt nhân Flyorov, Stalin nghĩ rằng sự im lặng chung trong ba năm quanh phát hiện về phân hạch chỉ có thể hiểu là có nhiều điều để nói, chẳng hạn như ai đó trong quá trình chế tạo quả bom sẽ ngay lập tức đặt Liên bang Xô Viết - nói theo kiểu Nga là - vào thế chiếu tướng.


Như vậy là không thể chần chừ, nếu không phải vì tình tiết nhỏ là Hitler và Đức Quốc xã đã hầu như chiếm hết các phần mà Liên Xô thâu tóm - có nghĩa là toàn bộ phía tây sông Volga, gồm cả Moskva, và tệ hơn là ngay cả Stalingrad!


Trận Stalingrad, nhìn một cách nhẹ nhàng, là một vấn đề cá nhân với Stalin. Tất nhiên, khoảng một triệu rưởi người đã chết, nhưng Hồng quân chiến thắng và bắt đầu đẩy Hitler lùi lại, cuối cùng là đến tận đường hầm ở Berlin.


Tận đến khi người Đức phải rút lui thì Stalin mới cảm thấy an toàn về bản thân và đất nước mình có tương lai, nhưng rồi sau đó mọi thứ lại thay đổi khi động đến nghiên cứu phân hạch, như một biến thể hiện đại hơn của bảo hiểm nhân thọ đã hết hạn từ lâu dưới cái tên Hiệp ước Ribbentrop-Molotov.


Nhưng tất nhiên, bom nguyên tử không phải là thứ có thể làm xong trong một buổi sáng, đặc biệt là khi thậm chí nó còn chưa được phát minh ra. Công việc nghiên cứu bom nguyên tử của Liên Xô đã được tiến hành một vài năm mà không có tiến triển nào cho đến ngày có một vụ nổ ở New Mexico.


Người Mỹ đã thắng cuộc đua, nhưng điều đó không có gì đáng ngạc nhiên vì họ đã bắt đầu chạy đua từ sớm hơn nhiều. Và sau thử nghiệm ở sa mạc New Mexico, đã có hai vụ nổ thật: một ở Hiroshima, cái kia ở Nagasaki. Bằng vào đó, Truman đã véo mũi Stalin, cho thế giới thấy ai nắm quyền quyết định, và kể cả những người không biết Stalin cũng có thể hiểu rằng ông sẽ không chịu bó tay trước tình hình như vậy.


- Giải quyết vấn đề đi, - đồng chí Stalin nói với Nguyên soái Beria. - Tôi nói rõ là: Giải quyết vấn đề!


Nguyên soái Beria nhận ra rằng các nhà vật lý, nhà hóa học và toán học của mình đã sa lầy, và tống một nửa số họ đến trại tù Gulag cũng chẳng giúp được gì. Bên cạnh đó, nguyên soái không nhận được dấu hiệu nào cho thấy các nhân viên trong lĩnh vực này phá khóa tại cơ sở Los Alamos và đoạt lấy báu vật. Vào thời điểm này thì không thể ăn cắp bản thiết kế của người Mỹ.


Giải pháp là họ sẽ phải nhập khẩu tri thức, điều quyết định trong việc bổ sung vào những gì họ đã biết ở trung tâm nghiên cứu tại thành phố bí mật Sarov cách Moskva vài giờ xe chạy về phía đông nam. Vì Nguyên soái Beria chỉ chấp nhận cái gì tốt nhất, ông đã nói với người lãnh đạo bộ tình báo quốc tế:


- Lấy Albert Einstein về xem sao.


- Nhưng... Albert Einstein... - Vị sếp tình báo quốc tế lắp bắp.


- Albert Einstein là bộ não sắc bén nhất trên thế giới. Ông định làm như tôi nói, hay đang muốn chết? - Nguyên soái Beria nói.


Viên sếp tình báo quốc tế vừa quen một phụ nữ mới trong đời và không có gì trên trái đất này thơm như cô ấy, vì vậy ông không muốn chết tí nào. Nhưng trước khi viên sếp tình báo quốc tế kịp nói ra điều này với Nguyên soái Beria, thống chế đã ra lệnh:


- Giải quyết vấn đề. Tôi nói rõ ràng hơn: Giải quyết vấn đề!


Tất nhiên, nó chẳng dễ dàng gì để bắt Albert Einstein rồi đóng gói gửi đi Moskva.


Trước hết, họ phải tìm ra ông ta. Ông sinh ở Đức, nhưng đã chuyển tới Ý, sau đó đến Thụy Sĩ và Mỹ, và từ đó, ông đi qua lại giữa tất cả các nơi này vì đủ thứ lý do.


Hiện thời ông có nhà riêng ở New Jersey, nhưng theo các điệp viên tại chỗ, ngôi nhà dường như bỏ không. Thêm nữa, nếu có thể, Nguyên soái Beria muốn vụ bắt cóc xảy ra ở châu Âu. Đưa lậu người nổi tiếng ra khỏi Hoa Kì và xuyên qua Đại Tây Dương không phải dễ.


Nhưng ông ta ở đâu? Ông hiếm khi hoặc không bao giờ nói với mọi người mình đi đâu trước một chuyến đi, và khét tiếng là đã đến muộn vài ngày cho những cuộc họp quan trọng đã định trước.


Viên sếp tình báo quốc tế đã viết một danh sách các địa điểm liên quan gần gũi với Einstein, rồi cử đến mỗi nơi một điệp viên để theo dõi. Tất nhiên, cả nhà của ông ta ở New Jersey, và nhà của bạn thân nhất của ông ở Genève. Ngoài ra là cả phát ngôn viên của Einstein ở Washington và hai người bạn khác, một ở Basel, một ở Cleveland, Ohio. Mất vài ngày kiên trì chờ đợi, nhưng rồi cũng có kết quả - dưới hình ảnh một người đàn ông mặc áo mưa màu xám, cổ dựng lên và đội mũ. Người đàn ông đi bộ đến nhà Michele Besso, bạn thân nhất còn sống của Albert Einstein. Ông ta bấm chuông cửa và được chính Besso chân thành và nhiệt tình chào đón, ngoài ra còn có một cặp vợ chồng già, họ cần được điều tra thêm. Điệp viên theo dõi đã triệu tập đồng nghiệp đang thi hành phận sự ở cách Basel 250 km, và sau hàng tiếng đồng hồ nhòm qua cửa sổ, so sánh với những bộ ảnh mà họ mang theo, hai điệp viên đi đến kết luận rằng đây chính là Albert Einstein, đến thăm người bạn thân nhất của mình. Cặp vợ chồng già có lẽ là anh rể của Michele Besso và vợ ông ta, Maja, em gái của Albert Einstein. Một cuộc gặp mặt gia đình!


Albert ở đó với bạn mình và vợ chồng em gái suốt hai ngày theo dõi, trước khi lại mặc áo khoác, đi găng đội mũ và rời đi, cũng kín đáo như khi đến.


Nhưng ông không đi xa hơn được khúc quanh thì đã bị tóm lấy từ phía sau rồi nhanh như chớp bị đẩy vào ghế sau một chiếc xe hơi và gây mê bằng chất chloroform.


Sau đó ông được đưa qua Áo tới Hungary nơi có quan hệ hữu hảo với liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết, vì thế không chất vấn lôi thôi khi phía Liên Xô tỏ ý muốn hạ cánh xuống sân bay quân sự ở Pécs lấy nhiên liệu cho máy bay, nhân tiện đón hai công dân Xô Viết và một người đàn ông rất buồn ngủ, rồi ngay lập tức cất cánh đi về đâu không rõ.


Ngày hôm sau, họ bắt đầu thẩm vấn Albert Einstein trong các cơ sở của công an mật ở Moskva, do Nguyên soái Beria phụ trách. Câu hỏi là liệu Einstein có chọn hợp tác, vì lợi ích sức khỏe bản thân, hay phản đối mà chẳng giúp được ai.


Tiếc thay, nó hóa ra lại là cái sau. Albert Einstein không chịu thừa nhận rằng mình từng nghĩ đến kĩ thuật phân hạch hạt nhân (mặc dù ai cũng biết ngay từ năm 1939, ông đã liên lạc với Tổng thống Roosevelt về vấn đề này, từ đó đã dẫn đến dự án Manhattan). Thực ra, thậm chí Albert Einstein còn không nhận mình là Albert Einstein. Ông khăng khăng với sự bướng bỉnh ngu ngốc rằng thực ra mình là em trai của Albert Einstein, Herbert Einstein. Tuy nhiên, Albert Einstein không có em trai mà chỉ có một em gái thôi. Do đó, đương nhiên trò lừa đảo này không qua mắt được Beria và các điều tra viên của ông, và họ sắp xuống tay bạo lực thì một chuyện đáng chú ý đã xảy ra ở Đại lộ số Bảy ở New York, phía bên kia của thế giới.


Ở đó, tại phòng Carnegie, chính Albert Einstein đang thuyết trình bài giảng nổi tiếng về thuyết tương đối, với khán giả là hai nghìn tám trăm khách mời đặc biệt, trong đó có hai gián điệp của Liên Xô.


Hai Albert Einstein thành ra thừa mất một cho Nguyên soái Beria, cho dù một người ở phía bên kia Đại Tây Dương. Chẳng bao lâu có thể xác định rằng người ở phòng Carnegie là thật, thế thì gã chết tiệt kia là ai?


Bị đe dọa phải chịu những điều mà không ai muốn chịu, Albert Einstein rởm hứa sẽ làm rõ mọi chuyện cho Nguyên soái Beria.


- Ông sẽ được biết rõ ràng về mọi thứ, thưa nguyên soái, miễn là ông đừng ngắt lời tôi, - Albert Einstein rởm đã hứa.


Nguyên soái Beria hứa sẽ không ngắt lời ông ta bằng bất cứ cái gì khác ngoài một viên đạn trong đầu Einstein rởm, và rằng ông sẽ đợi để làm điều đó ngay nếu biết rõ rằng mình đang nghe toàn những lời dối trá.


- Đấy, ông cứ tiếp tục đi. Đừng để tôi phải ngăn lại, - Nguyên soái Beria nói và lên cò súng.


Người đàn ông trước đó đã tuyên bố rằng mình là Herbert, em trai không ai biết của Albert Einstein, hít một hơi thật sâu và bắt đầu bằng cách... nói y như thế một lần nữa (suýt nữa thì bị bắn ngay lúc đó).


Câu chuyện tiếp theo, nếu đúng là sự thật, buồn đến nỗi nguyên soái Beria không thể giết ngay người kể.


Herbert Einstein nói rằng Hermann và Pauline Einstein đã thực sự có hai con: con trai đầu lòng Albert, sau đó là con gái Maja. Về chuyện đó, nguyên soái đã đúng. Nhưng sự tình là bố của Einstein đã không giữ nổi đôi tay và các bộ phận khác của cơ thể mình rời khỏi cô thư ký xinh đẹp (nhưng trí thông minh rất hạn chế) tại nhà máy điện hóa học mà ông điều hành ở Munich. Điều này làm nên bí mật của Herbert, Albert và Maja và người em không hợp pháp.


Đúng như các điệp viên của nguyên soái đã xác định, Herbert gần như một bản sao chính xác của Albert, mặc dù trẻ hơn mười ba tuổi. Tất nhiên, từ vẻ bên ngoài, người ta không thấy được là Herbert đã không may thừa hưởng tất cả trí thông minh của mẹ mình. Hoặc cũng thiếu như mẹ.


Năm 1895, khi Herbert được hai tuổi, gia đình đã di chuyển từ Munich đến Milan. Herbert đi theo, nhưng mẹ ông thì không. Tất nhiên bố Einstein đã đề nghị với bà một giải pháp thích hợp, nhưng mẹ Herbert không quan tâm. Bà không khoái thay xúc xích Đức bằng mì spaghetti, và tiếng Đức thay bằng... ngôn ngữ gì đó mà họ nói ở Ý. Thêm nữa, đứa bé quấy quá, nó gào thét suốt ngày đòi ăn và bĩnh nhoe nhoét trong tã của mình! Nếu ai đó muốn đưa Herbert đi chỗ khác, cũng tốt thôi, nhưng bà không đi đâu cả.
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom