Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Chương 03 - Phần 1
Chương 3
Thứ Hai ngày 2 tháng Năm 2005
Ngay sau 3 giờ chiều ngày 2 tháng Năm, sự yên bình của Malmköping bị xáo trộn mất vài ngày. Xơ Alice ở Nhà Già từ tức giận chuyển thành lo lắng, lôi chiếc chìa khóa chính của mình ra. Vì cụ Allan chẳng làm gì để xóa lối đào tẩu của mình, nó sờ sờ ra rằng nhân vật chính của buổi sinh nhật đã trèo ra qua cửa sổ. Theo các dấu vết để lại, rõ ràng cụ đã đứng một lúc, giẫm nát cả đám hoa păngxê, rồi biến mất.
Ở cương vị của mình, ngài thị trưởng cảm thấy mình phải ra lệnh. Ngài chỉ thị cho nhân viên chia thành từng nhóm hai người một để tìm kiếm. Chắc chắn cụ Allan không đi đâu xa được và các nhóm nên tập trung vào các vùng lân cận. Một nhóm được phái đến công viên, một vào Cửa hàng Rượu Quốc doanh (nơi mà Xơ Alice biết cụ Allan đôi khi mò đến), một nhóm đến những cửa hàng khác trên đường phố chính, và một nhóm lên Trung tâm cộng đồng ở trên đồi. Còn đích thân ngài thị trưởng sẽ ở lại Nhà Già để canh chừng các cụ còn chưa mất tích và suy nghĩ về động thái tiếp theo. Và ngài cũng nói với các nhân viên tìm kiếm của mình rằng họ nên kín đáo một chút, không việc gì mà phải làm ầm ĩ lên về việc này. Trong lúc nhầm lẫn, thị trưởng quên béng rằng một trong các nhóm tìm kiếm ngài đã gửi đi có một phóng viên và nhiếp ảnh của tờ báo địa phương.
***
Trung tâm Du lịch không nằm trong khu vực tìm kiếm chính của ngài thị trưởng. Tuy nhiên, ở đó có một “nhóm lẻ” là một gã thanh niên rất tức giận, người gầy, mái tóc dài vàng hoe và nhờn bóng, bộ râu lởm chởm, mặc áo khoác bò với dòng chữ Never Again ở lưng, đã sục sạo tất cả các góc của nhà ga.
Vì chẳng có dấu vết của ông cụ hay chiếc vali, gã trai quyết định đi tới chỗ người đàn ông nhỏ con phía sau cửa sổ bán vé duy nhất đang mở, để hỏi thông tin, xem cụ già có thể đi đâu.
Người đàn ông nhỏ con chắc phải chán ngấy công việc của mình nhưng vẫn có niềm tự hào nghề nghiệp. Vì vậy, anh ta giải thích cho gã thanh niên to mồm kia rằng sự bảo mật cho hành khách tại trạm xe buýt là không thể thỏa hiệp, nhấn mạnh thêm là, dù trong trường hợp nào, anh ta cũng không cung cấp bất kì thông tin nào thuộc kiểu tin mà gã muốn có.
Gã thanh niên đứng lặng một lúc, dường như để dịch những gì người đàn ông nhỏ con nói ra ngôn ngữ đơn giản. Sau đó gã bước sang trái năm mét; đến cánh cửa văn phòng vốn không được chắc chắn cho lắm. Gã không thèm bận tâm kiểm tra xem nó đã bị khóa. Thay vào đó, gã lùi lại một bước, giơ chân phải đi ủng đá vào cửa khiến các mảnh vụn bay tứ tung. Người đàn ông nhỏ con còn chưa kịp nhấc chiếc điện thoại đang nắm trong tay để kêu cứu thì đã thấy mình lơ lửng trong không khí trước mặt gã thanh niên, gã xách cả người anh ta lên, mỗi tay tóm chắc một tai.
- Tao đếch biết bảo mật là cái chết tiệt gì, nhưng tao là một con quỷ có thể bắt cóc mở miệng được, - gã bảo người đàn ông nhỏ con trước khi thả anh ta đánh phịch xuống chiếc ghế xoay kiểu văn phòng.
Rồi gã giải thích những gì mình định làm, bằng búa và móng tay, với bộ phận sinh dục của người đàn ông nhỏ con, nếu anh ta không theo ý gã. Mô tả sống động đến nỗi người đàn ông nhỏ con ngay lập tức quyết định nói hết những gì mình biết, cụ thể là ông lão được hỏi có lẽ đã lấy xe buýt đi Strängnäs. Còn chuyện ông lão đã lấy chiếc vali thì người đàn ông nhỏ con không dám chắc, vì anh ta không phải là loại gián điệp theo dõi du khách.
Rồi người đàn ông nhỏ con ngừng lại để xem gã kia đã hài lòng với những gì mình nói chưa, và ngay lập tức anh ta thấy tốt nhất là cung cấp thêm thông tin. Vì vậy, anh ta cho biết rằng hành trình giữa Malmköping và Strängnäs có mười hai điểm dừng xe buýt và tất nhiên ông cụ có thể xuống xe tại bất kì điểm nào.
Chỉ có người lái xe buýt biết điều đó, và theo lịch trình, ông ta sẽ trở lại Malmköping vào 19 giờ 10 phút tối nay, khi xe buýt quay về Flen.
Giờ thì gã trai ngồi xuống bên cạnh người đàn ông nhỏ con đang khiếp đảm với đôi tai đau nhức.
- Phải nghĩ xem, - gã nói.
Thế là, gã suy nghĩ. Gã nghĩ chắc chắn mình có thể ép người đàn ông nhỏ con phun ra số điện thoại di động của tài xế xe buýt, rồi gọi cho tài xế nói rằng chiếc vali của lão già là đồ ăn cắp. Nhưng sau đó tất nhiên có nguy cơ rằng tài xế xe buýt sẽ báo cảnh sát và gã không muốn điều đó. Thêm nữa, có lẽ nó cũng không quá khẩn cấp, bởi vì lão già có vẻ đến tuổi chầu trời rồi, bây giờ lại cõng thêm một cái vali, lão sẽ phải bắt xe buýt, xe lửa hoặc taxi nếu muốn đi tiếp từ ga Strängnäs. Như vậy lão sẽ để lại dấu vết phía sau, và sẽ luôn luôn có ai đó bị xách tai treo lủng lẳng, sẵn sàng khai ra lão già vừa định đi đâu. Gã trai tin chắc vào khả năng của mình để thuyết phục mọi người phun hết cho gã những gì họ biết.
Nghĩ xong, gã quyết định chờ xe buýt và gặp tài xế mà không cần phải thân thiện quá.
Quyết định xong, gã đứng lên, cảnh cáo người đàn ông nhỏ con những gì sẽ xảy ra với vợ con, nhà cửa và chính anh ta nếu anh ta nói với cảnh sát hay bất cứ ai khác chuyện vừa rồi.
Người đàn ông nhỏ con chưa có vợ con gì, nhưng anh ta tha thiết muốn giữ đôi tai cũng như bộ phận sinh dục của mình ít nhiều còn nguyên vẹn. Vì vậy, anh ta đã hứa danh dự như một nhân viên đường sắt quốc gia rằng mình sẽ không hé răng cho bất kì ai.
Anh ta giữ lời hứa đó đến tận ngày hôm sau.
***
Các cặp tìm kiếm đã trở lại Nhà Già và báo cáo những quan sát của họ. Đúng ra là chẳng quan sát được gì. Ngài thị trưởng không muốn dính líu đến cảnh sát và ngài còn đang bận rộn tính xem có cách gì thay thế thì phóng viên tờ báo địa phương đã táo bạo hỏi:
- Thế ngài sẽ làm gì bây giờ, thưa Thị trưởng?
Thị trưởng im lặng một lúc, sau đó ngài nói:
- Tất nhiên là gọi cảnh sát.
Chúa ơi, sao mà ngài ghét báo chí tự do thế.
***
Allan thức giấc khi bác tài nhẹ nhàng vỗ vào cụ, thông báo rằng họ đã đến ga Byringe. Ngay sau đó, bác chuyển chiếc vali ra qua cửa trước xe buýt, cụ Allan đi đằng sau.
Bác tài thắc mắc liệu cụ già có thể tự xoay xở được không, và cụ Allan đáp rằng bác ta không cần phải lo lắng về chuyện này. Rồi cụ cảm ơn sự giúp đỡ của bác và vẫy tay chào khi chiếc xe buýt lại lăn bánh trên Quốc lộ 55, đi về phía Strängnäs.
Mặt trời buổi chiều đã khuất sau những cây linh sam cao quanh cụ Allan. Hơi lạnh bắt đầu thấm qua chiếc áo khoác mỏng và đôi dép đi trong nhà. Quanh Byringe chẳng có gì trừ một nhà ga trơ trọi. Cả ba hướng chỉ có rừng và rừng. Và một con đường rải sỏi nho nhỏ phía bên phải.
Cụ Allan nghĩ trong chiếc vali mà cụ tự dưng nổi hứng khuân theo biết đâu có quần áo ấm. Tuy nhiên, chiếc vali đã bị khóa và chẳng có tuốc nơ vít hay dụng cụ gì khác, cố gắng mở nó quả là vô vọng. Không có lựa chọn gì khác ngoài việc bắt đầu di chuyển, vì cụ không thể đứng đó bên cạnh đường cao tốc và chết cóng. Dựa vào kinh nghiệm khôn ngoan, cụ khá chắc chắn rằng mình sẽ không làm nổi việc đó cho dù cố gắng.
Chiếc vali có một cái quai ở nắp bên hông và nếu kéo nó, vali sẽ dễ dàng lăn theo trên các bánh xe nhỏ. Allan bước từng bước ngắn, chệnh choạng dọc theo con đường sỏi vào rừng. Sau lưng cụ, cái vali nhảy chồm chồm trên sỏi.
Được vài trăm mét, cụ Allan đi tới chỗ cụ tưởng là ga Byringe - đó là một trạm xe lửa bỏ không, xây dựng bên một tuyến đường sắt cũ chắc chắn đã hoàn toàn ngừng hoạt động.
Cụ thực sự là một cụ già trăm tuổi gương mẫu, nhưng từng ấy chuyện trong một thời gian ngắn quả là hơi nhiều. Cụ Allan ngồi lên chiếc vali, gom lại các ý nghĩ và lấy sức.
Xeo xéo bên trái trước mặt cụ là nhà ga tồi tàn, màu vàng, xây hai tầng, tất cả các cửa sổ tầng dưới bị bịt kín bằng những tấm ván thô và đóng đinh lên. Chếch về bên phải, có thể theo đường ray bỏ hoang, thẳng như một mũi tên xa xa, lao sâu hơn vào rừng, cụ Allan thấy mình theo lối đó. Các lối đi còn chưa bị thiên nhiên xóa mất nhưng nó chỉ là vấn đề thời gian.
Cái nền gỗ hẳn là không còn an toàn để đi bộ. Trên lớp ván ngoài cùng, người ta vẫn có thể đọc dòng chữ sơn: Không đi bộ trên đường này. Đi trên đường này có gì nguy hiểm đâu, cụ Allan nghĩ. Nhưng chẳng ai còn sáng suốt mà lại tình nguyện đi bộ trên cái nền gỗ này?
Câu hỏi được trả lời ngay lập tức, vì đúng lúc đó cánh cửa tồi tàn của nhà ga mở ra và một người đàn ông trạc bảy mươi tuổi, đội mũ, áo sơ mi carô và gilê màu đen, mắt nâu, để râu bạc, bước ra khỏi nhà trên đôi ủng vững chãi. Rõ ràng ông ta biết những tấm ván sẽ không ẹp xuống dưới chân mình nhưng ông lại hướng tất cả sự chú ý về phía cụ già trước mặt.
Người đàn ông đội mũ dừng lại ở giữa sân ga, trông hơi thù địch. Nhưng rồi hình như ông ta đổi ý, có lẽ thấy vì kẻ xâm phạm lãnh địa của mình chỉ là một cụ già rệu rã.
Cụ Allan ngồi nguyên trên chiếc vali mới đánh cắp, không biết nói gì và cũng chẳng hơi sức đâu để nói. Tuy nhiên, cụ vẫn điềm tĩnh nhìn người đàn ông đội mũ và chờ đợi ông ta mở lời. Chuyện đó diễn ra ngay lập tức, không đến nỗi thù địch như đã tưởng lúc ban đầu. Một kiểu thăm dò xem sao.
- Cụ là ai và cụ làm gì trên sân ga của tôi? - Người đàn ông đội mũ nói.
Cụ Allan không trả lời, cụ chưa xác định được là mình đang gặp bạn hay thù.
Nhưng sau đó cụ nghĩ rằng khôn ngoan ra thì đừng cãi cọ với người duy nhất trong tầm nhìn, người thậm chí có thể cho cụ vào sưởi ấm trước khi cái lạnh buổi tối đánh gục cụ. Thế là cụ quyết định nói sự thật.
Vì vậy, cụ nói rằng tên mình là Allan, rằng cụ vừa tròn một trăm tuổi và rất sung với tuổi của mình, sung đến mức cụ vừa chạy trốn khỏi nhà, và còn có thời gian để ăn cắp một chiếc vali từ anh thanh niên mà bây giờ chắc chắn đang không vui vẻ gì về chuyện đó, và rằng đầu gối của cụ lúc này không được ổn lắm nên cụ rất muốn nghỉ chân một lúc.
Nói xong, cụ im lặng ngồi yên trên vali và chờ đợi phán quyết của tòa án.
- Thật thế à, - người đàn ông đội mũ mỉm cười nói. - Cụ đúng là một tên trộm!
- Một tên trộm già, - cụ Allan đáp, rầu rĩ.
Người đàn ông đội mũ nhanh nhẹn nhảy xuống từ bậc thềm và đi tới chỗ cụ già trăm tuổi như để ngắm kĩ hơn.
- Có thật là cụ một trăm tuổi không? - Ông ta nói. - Nếu thế thì cụ phải đói rồi.
Cụ Allan không hiểu nổi logic đó, nhưng tất nhiên, cụ đói. Vì vậy, cụ hỏi xem thực đơn có gì và liệu trong đó không có thứ gì cứng chứ.
Người đàn ông đội mũ chìa tay ra giới thiệu mình là Julius Jonsson và kéo cụ già đứng lên. Rồi ông ta tuyên bố rằng mình sẽ xách vali cho cụ Allan, và có món nai rừng nướng nếu cụ thích, nó chắc cũng hơi cứng, nhưng mà bổ cả người lẫn đầu gối.
Nhiều năm nay Julius Jonsson không có ai để nói chuyện nên rất hồ hởi đón tiếp cụ già mang vali. Đầu tiên là một ít thức ăn cứng bổ đầu gối, rồi bổ thứ khác, thêm nhiều hơn để bổ lưng và cổ, và sau đó để ngon miệng, và cuối cùng để tạo một bầu không khí trò chuyện thân mật. Cụ Allan hỏi Julius làm gì để sống, và được nghe cả một chuyện dài.
Julius sinh ra ở miền bắc, vùng Strömbacka không xa Hudiksvall, là con duy nhất của cặp vợ chồng nông dân Anders và Elvina Jonsson.
Cậu làm công trong nông trại của gia đình và bị bố đánh đập hàng ngày vì cho rằng Julius chẳng làm gì nên hồn. Đến năm Julius hai mươi lăm tuổi, đầu tiên mẹ cậu mất vì bệnh ung thư khiến Julius rất đau buồn, ngay sau đó cha cậu bị đầm lầy nuốt chửng khi đang cố gắng cứu một con bò cái. Julius cũng rất buồn, vì cậu vốn yêu bò cái.
Thứ Hai ngày 2 tháng Năm 2005
Ngay sau 3 giờ chiều ngày 2 tháng Năm, sự yên bình của Malmköping bị xáo trộn mất vài ngày. Xơ Alice ở Nhà Già từ tức giận chuyển thành lo lắng, lôi chiếc chìa khóa chính của mình ra. Vì cụ Allan chẳng làm gì để xóa lối đào tẩu của mình, nó sờ sờ ra rằng nhân vật chính của buổi sinh nhật đã trèo ra qua cửa sổ. Theo các dấu vết để lại, rõ ràng cụ đã đứng một lúc, giẫm nát cả đám hoa păngxê, rồi biến mất.
Ở cương vị của mình, ngài thị trưởng cảm thấy mình phải ra lệnh. Ngài chỉ thị cho nhân viên chia thành từng nhóm hai người một để tìm kiếm. Chắc chắn cụ Allan không đi đâu xa được và các nhóm nên tập trung vào các vùng lân cận. Một nhóm được phái đến công viên, một vào Cửa hàng Rượu Quốc doanh (nơi mà Xơ Alice biết cụ Allan đôi khi mò đến), một nhóm đến những cửa hàng khác trên đường phố chính, và một nhóm lên Trung tâm cộng đồng ở trên đồi. Còn đích thân ngài thị trưởng sẽ ở lại Nhà Già để canh chừng các cụ còn chưa mất tích và suy nghĩ về động thái tiếp theo. Và ngài cũng nói với các nhân viên tìm kiếm của mình rằng họ nên kín đáo một chút, không việc gì mà phải làm ầm ĩ lên về việc này. Trong lúc nhầm lẫn, thị trưởng quên béng rằng một trong các nhóm tìm kiếm ngài đã gửi đi có một phóng viên và nhiếp ảnh của tờ báo địa phương.
***
Trung tâm Du lịch không nằm trong khu vực tìm kiếm chính của ngài thị trưởng. Tuy nhiên, ở đó có một “nhóm lẻ” là một gã thanh niên rất tức giận, người gầy, mái tóc dài vàng hoe và nhờn bóng, bộ râu lởm chởm, mặc áo khoác bò với dòng chữ Never Again ở lưng, đã sục sạo tất cả các góc của nhà ga.
Vì chẳng có dấu vết của ông cụ hay chiếc vali, gã trai quyết định đi tới chỗ người đàn ông nhỏ con phía sau cửa sổ bán vé duy nhất đang mở, để hỏi thông tin, xem cụ già có thể đi đâu.
Người đàn ông nhỏ con chắc phải chán ngấy công việc của mình nhưng vẫn có niềm tự hào nghề nghiệp. Vì vậy, anh ta giải thích cho gã thanh niên to mồm kia rằng sự bảo mật cho hành khách tại trạm xe buýt là không thể thỏa hiệp, nhấn mạnh thêm là, dù trong trường hợp nào, anh ta cũng không cung cấp bất kì thông tin nào thuộc kiểu tin mà gã muốn có.
Gã thanh niên đứng lặng một lúc, dường như để dịch những gì người đàn ông nhỏ con nói ra ngôn ngữ đơn giản. Sau đó gã bước sang trái năm mét; đến cánh cửa văn phòng vốn không được chắc chắn cho lắm. Gã không thèm bận tâm kiểm tra xem nó đã bị khóa. Thay vào đó, gã lùi lại một bước, giơ chân phải đi ủng đá vào cửa khiến các mảnh vụn bay tứ tung. Người đàn ông nhỏ con còn chưa kịp nhấc chiếc điện thoại đang nắm trong tay để kêu cứu thì đã thấy mình lơ lửng trong không khí trước mặt gã thanh niên, gã xách cả người anh ta lên, mỗi tay tóm chắc một tai.
- Tao đếch biết bảo mật là cái chết tiệt gì, nhưng tao là một con quỷ có thể bắt cóc mở miệng được, - gã bảo người đàn ông nhỏ con trước khi thả anh ta đánh phịch xuống chiếc ghế xoay kiểu văn phòng.
Rồi gã giải thích những gì mình định làm, bằng búa và móng tay, với bộ phận sinh dục của người đàn ông nhỏ con, nếu anh ta không theo ý gã. Mô tả sống động đến nỗi người đàn ông nhỏ con ngay lập tức quyết định nói hết những gì mình biết, cụ thể là ông lão được hỏi có lẽ đã lấy xe buýt đi Strängnäs. Còn chuyện ông lão đã lấy chiếc vali thì người đàn ông nhỏ con không dám chắc, vì anh ta không phải là loại gián điệp theo dõi du khách.
Rồi người đàn ông nhỏ con ngừng lại để xem gã kia đã hài lòng với những gì mình nói chưa, và ngay lập tức anh ta thấy tốt nhất là cung cấp thêm thông tin. Vì vậy, anh ta cho biết rằng hành trình giữa Malmköping và Strängnäs có mười hai điểm dừng xe buýt và tất nhiên ông cụ có thể xuống xe tại bất kì điểm nào.
Chỉ có người lái xe buýt biết điều đó, và theo lịch trình, ông ta sẽ trở lại Malmköping vào 19 giờ 10 phút tối nay, khi xe buýt quay về Flen.
Giờ thì gã trai ngồi xuống bên cạnh người đàn ông nhỏ con đang khiếp đảm với đôi tai đau nhức.
- Phải nghĩ xem, - gã nói.
Thế là, gã suy nghĩ. Gã nghĩ chắc chắn mình có thể ép người đàn ông nhỏ con phun ra số điện thoại di động của tài xế xe buýt, rồi gọi cho tài xế nói rằng chiếc vali của lão già là đồ ăn cắp. Nhưng sau đó tất nhiên có nguy cơ rằng tài xế xe buýt sẽ báo cảnh sát và gã không muốn điều đó. Thêm nữa, có lẽ nó cũng không quá khẩn cấp, bởi vì lão già có vẻ đến tuổi chầu trời rồi, bây giờ lại cõng thêm một cái vali, lão sẽ phải bắt xe buýt, xe lửa hoặc taxi nếu muốn đi tiếp từ ga Strängnäs. Như vậy lão sẽ để lại dấu vết phía sau, và sẽ luôn luôn có ai đó bị xách tai treo lủng lẳng, sẵn sàng khai ra lão già vừa định đi đâu. Gã trai tin chắc vào khả năng của mình để thuyết phục mọi người phun hết cho gã những gì họ biết.
Nghĩ xong, gã quyết định chờ xe buýt và gặp tài xế mà không cần phải thân thiện quá.
Quyết định xong, gã đứng lên, cảnh cáo người đàn ông nhỏ con những gì sẽ xảy ra với vợ con, nhà cửa và chính anh ta nếu anh ta nói với cảnh sát hay bất cứ ai khác chuyện vừa rồi.
Người đàn ông nhỏ con chưa có vợ con gì, nhưng anh ta tha thiết muốn giữ đôi tai cũng như bộ phận sinh dục của mình ít nhiều còn nguyên vẹn. Vì vậy, anh ta đã hứa danh dự như một nhân viên đường sắt quốc gia rằng mình sẽ không hé răng cho bất kì ai.
Anh ta giữ lời hứa đó đến tận ngày hôm sau.
***
Các cặp tìm kiếm đã trở lại Nhà Già và báo cáo những quan sát của họ. Đúng ra là chẳng quan sát được gì. Ngài thị trưởng không muốn dính líu đến cảnh sát và ngài còn đang bận rộn tính xem có cách gì thay thế thì phóng viên tờ báo địa phương đã táo bạo hỏi:
- Thế ngài sẽ làm gì bây giờ, thưa Thị trưởng?
Thị trưởng im lặng một lúc, sau đó ngài nói:
- Tất nhiên là gọi cảnh sát.
Chúa ơi, sao mà ngài ghét báo chí tự do thế.
***
Allan thức giấc khi bác tài nhẹ nhàng vỗ vào cụ, thông báo rằng họ đã đến ga Byringe. Ngay sau đó, bác chuyển chiếc vali ra qua cửa trước xe buýt, cụ Allan đi đằng sau.
Bác tài thắc mắc liệu cụ già có thể tự xoay xở được không, và cụ Allan đáp rằng bác ta không cần phải lo lắng về chuyện này. Rồi cụ cảm ơn sự giúp đỡ của bác và vẫy tay chào khi chiếc xe buýt lại lăn bánh trên Quốc lộ 55, đi về phía Strängnäs.
Mặt trời buổi chiều đã khuất sau những cây linh sam cao quanh cụ Allan. Hơi lạnh bắt đầu thấm qua chiếc áo khoác mỏng và đôi dép đi trong nhà. Quanh Byringe chẳng có gì trừ một nhà ga trơ trọi. Cả ba hướng chỉ có rừng và rừng. Và một con đường rải sỏi nho nhỏ phía bên phải.
Cụ Allan nghĩ trong chiếc vali mà cụ tự dưng nổi hứng khuân theo biết đâu có quần áo ấm. Tuy nhiên, chiếc vali đã bị khóa và chẳng có tuốc nơ vít hay dụng cụ gì khác, cố gắng mở nó quả là vô vọng. Không có lựa chọn gì khác ngoài việc bắt đầu di chuyển, vì cụ không thể đứng đó bên cạnh đường cao tốc và chết cóng. Dựa vào kinh nghiệm khôn ngoan, cụ khá chắc chắn rằng mình sẽ không làm nổi việc đó cho dù cố gắng.
Chiếc vali có một cái quai ở nắp bên hông và nếu kéo nó, vali sẽ dễ dàng lăn theo trên các bánh xe nhỏ. Allan bước từng bước ngắn, chệnh choạng dọc theo con đường sỏi vào rừng. Sau lưng cụ, cái vali nhảy chồm chồm trên sỏi.
Được vài trăm mét, cụ Allan đi tới chỗ cụ tưởng là ga Byringe - đó là một trạm xe lửa bỏ không, xây dựng bên một tuyến đường sắt cũ chắc chắn đã hoàn toàn ngừng hoạt động.
Cụ thực sự là một cụ già trăm tuổi gương mẫu, nhưng từng ấy chuyện trong một thời gian ngắn quả là hơi nhiều. Cụ Allan ngồi lên chiếc vali, gom lại các ý nghĩ và lấy sức.
Xeo xéo bên trái trước mặt cụ là nhà ga tồi tàn, màu vàng, xây hai tầng, tất cả các cửa sổ tầng dưới bị bịt kín bằng những tấm ván thô và đóng đinh lên. Chếch về bên phải, có thể theo đường ray bỏ hoang, thẳng như một mũi tên xa xa, lao sâu hơn vào rừng, cụ Allan thấy mình theo lối đó. Các lối đi còn chưa bị thiên nhiên xóa mất nhưng nó chỉ là vấn đề thời gian.
Cái nền gỗ hẳn là không còn an toàn để đi bộ. Trên lớp ván ngoài cùng, người ta vẫn có thể đọc dòng chữ sơn: Không đi bộ trên đường này. Đi trên đường này có gì nguy hiểm đâu, cụ Allan nghĩ. Nhưng chẳng ai còn sáng suốt mà lại tình nguyện đi bộ trên cái nền gỗ này?
Câu hỏi được trả lời ngay lập tức, vì đúng lúc đó cánh cửa tồi tàn của nhà ga mở ra và một người đàn ông trạc bảy mươi tuổi, đội mũ, áo sơ mi carô và gilê màu đen, mắt nâu, để râu bạc, bước ra khỏi nhà trên đôi ủng vững chãi. Rõ ràng ông ta biết những tấm ván sẽ không ẹp xuống dưới chân mình nhưng ông lại hướng tất cả sự chú ý về phía cụ già trước mặt.
Người đàn ông đội mũ dừng lại ở giữa sân ga, trông hơi thù địch. Nhưng rồi hình như ông ta đổi ý, có lẽ thấy vì kẻ xâm phạm lãnh địa của mình chỉ là một cụ già rệu rã.
Cụ Allan ngồi nguyên trên chiếc vali mới đánh cắp, không biết nói gì và cũng chẳng hơi sức đâu để nói. Tuy nhiên, cụ vẫn điềm tĩnh nhìn người đàn ông đội mũ và chờ đợi ông ta mở lời. Chuyện đó diễn ra ngay lập tức, không đến nỗi thù địch như đã tưởng lúc ban đầu. Một kiểu thăm dò xem sao.
- Cụ là ai và cụ làm gì trên sân ga của tôi? - Người đàn ông đội mũ nói.
Cụ Allan không trả lời, cụ chưa xác định được là mình đang gặp bạn hay thù.
Nhưng sau đó cụ nghĩ rằng khôn ngoan ra thì đừng cãi cọ với người duy nhất trong tầm nhìn, người thậm chí có thể cho cụ vào sưởi ấm trước khi cái lạnh buổi tối đánh gục cụ. Thế là cụ quyết định nói sự thật.
Vì vậy, cụ nói rằng tên mình là Allan, rằng cụ vừa tròn một trăm tuổi và rất sung với tuổi của mình, sung đến mức cụ vừa chạy trốn khỏi nhà, và còn có thời gian để ăn cắp một chiếc vali từ anh thanh niên mà bây giờ chắc chắn đang không vui vẻ gì về chuyện đó, và rằng đầu gối của cụ lúc này không được ổn lắm nên cụ rất muốn nghỉ chân một lúc.
Nói xong, cụ im lặng ngồi yên trên vali và chờ đợi phán quyết của tòa án.
- Thật thế à, - người đàn ông đội mũ mỉm cười nói. - Cụ đúng là một tên trộm!
- Một tên trộm già, - cụ Allan đáp, rầu rĩ.
Người đàn ông đội mũ nhanh nhẹn nhảy xuống từ bậc thềm và đi tới chỗ cụ già trăm tuổi như để ngắm kĩ hơn.
- Có thật là cụ một trăm tuổi không? - Ông ta nói. - Nếu thế thì cụ phải đói rồi.
Cụ Allan không hiểu nổi logic đó, nhưng tất nhiên, cụ đói. Vì vậy, cụ hỏi xem thực đơn có gì và liệu trong đó không có thứ gì cứng chứ.
Người đàn ông đội mũ chìa tay ra giới thiệu mình là Julius Jonsson và kéo cụ già đứng lên. Rồi ông ta tuyên bố rằng mình sẽ xách vali cho cụ Allan, và có món nai rừng nướng nếu cụ thích, nó chắc cũng hơi cứng, nhưng mà bổ cả người lẫn đầu gối.
Nhiều năm nay Julius Jonsson không có ai để nói chuyện nên rất hồ hởi đón tiếp cụ già mang vali. Đầu tiên là một ít thức ăn cứng bổ đầu gối, rồi bổ thứ khác, thêm nhiều hơn để bổ lưng và cổ, và sau đó để ngon miệng, và cuối cùng để tạo một bầu không khí trò chuyện thân mật. Cụ Allan hỏi Julius làm gì để sống, và được nghe cả một chuyện dài.
Julius sinh ra ở miền bắc, vùng Strömbacka không xa Hudiksvall, là con duy nhất của cặp vợ chồng nông dân Anders và Elvina Jonsson.
Cậu làm công trong nông trại của gia đình và bị bố đánh đập hàng ngày vì cho rằng Julius chẳng làm gì nên hồn. Đến năm Julius hai mươi lăm tuổi, đầu tiên mẹ cậu mất vì bệnh ung thư khiến Julius rất đau buồn, ngay sau đó cha cậu bị đầm lầy nuốt chửng khi đang cố gắng cứu một con bò cái. Julius cũng rất buồn, vì cậu vốn yêu bò cái.
Bình luận facebook