Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Chương 03 - Phần 2
Julius không hợp với cuộc sống nông dân (cha cậu thế mà có lí) và cũng không muốn sống như thế. Vì vậy, cậu đã bán tất cả mọi thứ, ngoại trừ một vài mẫu rừng mà cậu nghĩ có thể hữu ích khi về già.
Sau đó, cậu đã đến Stockholm và trong vòng hai năm phung phí tất cả tiền bạc của mình. Rồi cậu trở về rừng.
Trong một cuộc đấu thầu, Julius đã nhiệt tình xin thầu năm nghìn cột điện cho Công ty Điện lực huyện Hudiksvall. Vì Julius không quan tâm đến các chi tiết như thuế và thuế giá trị gia tăng, ông đã thắng thầu, và với sự trợ giúp của khoảng mười người tị nạn Hungary, ông đã bàn giao được số cột đúng thời gian, kiếm được nhiều tiền ngoài sức tưởng tượng.
Mọi thứ đến lúc đó đều ổn, nhưng vấn đề là Julius buộc phải ăn gian một chút, bởi vì các cây vẫn chưa phát triển hết. Các cây cột do đó bị ngắn hơn qui định chừng một mét, và có lẽ sẽ chẳng ai để ý nếu không có chuyện là hầu hết nông dân vừa được mua máy gặt đập liên hợp.
Công ty Điện lực Huyện Hudiksvall lập tức trồng cột đan chéo các cánh đồng và đồng cỏ trong vùng, lúc đó đúng mùa gặt và trong một buổi sáng dây điện đã được kéo xuống hai mươi sáu điểm, nơi có hai mươi hai máy gặt đập mới mua. Cả một góc vùng nông thôn Hälsningland mất điện trong nhiều tuần, thu hoạch mất trắng, máy vắt sữa ngừng làm việc. Nông dân nổi giận, ban đầu với Công ty Điện huyện Hudiksvall – rồi quay sang trút vào Julius.
- Câu khẩu hiệu ‘Hudiksvall Hạnh phúc’ không phải được chế ra vào lúc ấy đâu, cam đoan với cụ thế. Tôi đã trốn trong khách sạn Town ở Sundsvall suốt bảy tháng và lại cạn sạch tiền. Mình làm một chầu nữa với món cưng cứng nhé?
Cụ Allan đồng ý. Cả xương nai rừng cũng được tắm trong bia Pilsner, và bây giờ Allan thấy mãn nguyện khủng khiếp đến mức cụ gần như bắt đầu sợ chết.
Julius tiếp tục câu chuyện của mình. Sau khi suýt bị một máy kéo ở trung tâm Sundsvall cán mỏng (lái xe là một nông dân có cái nhìn sát nhân), ông nhận ra rằng người dân địa phương sẽ không quên sai lầm nhỏ của mình trong hàng trăm năm tới. Vì vậy, ông chuyển xa xuống phía nam và dừng lại ở Mariefred, nơi ông thỉnh thoảng trộm cắp tí ti cho đến khi mệt mỏi với cuộc sống ở tỉnh lẻ và mua được nhà ga Byringe cũ với giá 25.000 Crown mà ông đã chôm được trong két an toàn ở Nhà nghỉ Gripsholm. Ở nhà ga này, bây giờ ông chủ yếu sống bằng tiền trợ cấp của nhà nước, săn trộm trong rừng nhà hàng xóm, nấu và bán rượu tự chưng cất tại nhà, cũng như bán lại ít hàng hóa chôm được từ hàng xóm của mình. Ở vùng này ông không được yêu mến lắm, Julius tiếp tục, và miệng đầy thức ăn, cụ Allan bảo rằng chuyện đó cụ hiểu được.
Khi Julius mời cụ già tráng miệng bằng một ly rượu mạnh cuối cùng, Allan đáp cụ luôn luôn mềm lòng trước món tráng miệng loại đó, nhưng đầu tiên cụ phải tìm ra chỗ vệ sinh công cộng, phòng khi cái trong nhà bị hỏng. Julius đứng dậy, bật đèn trần vì trời đã bắt đầu tối, rồi chỉ và nói rằng có một khu vệ sinh dùng được ở bên phải của cầu thang trong sảnh, và hứa sẽ có hai li sơnáp đầy sẵn sàng đợi Allan quay trở lại.
Allan tìm thấy nhà vệ sinh chỗ Julius chỉ. Cụ chọn tư thế đứng đái, và như thường lệ, những giọt cuối cùng bị rớt. Vài giọt đã hạ cánh nhẹ nhàng trên đôi dép dính nước tiểu.
Tiểu khoảng nửa chừng, Allan nghe có tiếng ai đó trên cầu thang. Ý nghĩ đầu tiên của Allan, cụ phải thừa nhận, rằng có lẽ là Julius chuồn đi với chiếc vali mới đánh cắp của cụ. Nhưng sau đó tiếng ồn to hơn. Ai đó đã đi từ tầng dưới lên trên.
Cụ Allan nhận ra mối nguy sắp xảy ra, vì tiếng bước chân cụ nghe thấy ngoài cửa là của gã thanh niên người gầy, mái tóc dài, vàng hoe và nhờn bóng, bộ râu lởm chởm, mặc áo khoác bò với dòng chữ Never Again trên lưng. Và, nếu đúng là gã thì cụ gặp rắc rối rồi.
* * *
Chiếc xe buýt từ Strängnäs đến Trung tâm Du lịch Malmköping sớm ba phút. Xe buýt không có khách và bác tài đã tăng tốc một chút sau trạm dừng cuối để có thời gian làm một điếu thuốc trước khi tiếp tục hành trình đi Flen.
Nhưng bác hầu như không có thời gian để châm điếu thuốc trước khi một thanh niên người gầy, mái tóc dài, vàng hoe và nhờn bóng, bộ râu lởm chởm, mặc áo khoác bò với dòng chữ Never Again trên lưng đi đến. Thực ra bác tài không nhìn thấy dòng chữ trên lưng vừa rồi, nhưng nó vẫn ở đấy.
- Cậu đi Flen à?
Bác hỏi, hơi do dự, bởi vì có một cái gì đó ở gã thanh niên này gây cảm giác không ổn.
- Tao không đi Flen. Mà mày cũng thế, - gã trả lời.
Vật vờ chờ xe suốt bốn tiếng thật quá sức chịu đựng của gã. Thêm nữa, sau khi đã mất nửa thời gian, gã nhận ra rằng nếu mình ngay lập tức lấy xe hơi mà đi thì đã có thể bắt kịp với cái xe buýt từ lâu trước khi nó tới Strängnäs.
Nhất là bây giờ xe cảnh sát đã bắt đầu lượn lờ trong cái huyện bé tẹo này. Bất cứ lúc nào cảnh sát có thể ập vào Trung tâm Du lịch, và bắt đầu thẩm vấn người đàn ông nhỏ con phía sau cửa sổ phòng vé lý do tại sao anh ta trông hoảng sợ thế và vì sao cánh cửa văn phòng anh ta lại treo lủng lẳng trên có một góc bản lề.
Về việc này, gã không thể hiểu được những gì cảnh sát làm ở đó. Ông chủ của gã ở Never Again đã chọn Malmköping là địa điểm giao dịch vì ba lý do: trước hết, gần Stockholm, thứ hai, ở đây thông tin liên lạc tương đối tốt, thứ ba - và quan trọng nhất - bởi vì cánh tay luật pháp không đủ dài để vươn tới đó. Đơn giản là ở Malmköping không có cảnh sát.
Hay, chính xác hơn là: không nên có, nhưng chỗ này lại đang lúc nhúc cảnh sát! Gã thanh niên đã thấy hai chiếc xe với bốn cảnh sát, theo gã hiểu thế có nghĩa là ở đấy cảnh sát đang đông như kiến.
Lúc đầu, gã tưởng cảnh sát kiếm mình. Nhưng điều đó nghĩa là người đàn ông nhỏ con đã khai ra, và gã dứt khoát bác bỏ khả năng này. Trong khi chờ đợi xe buýt đến, gã chẳng có gì để làm ngoài việc canh chừng người đàn ông nhỏ con, đập tan điện thoại phòng của anh ta thành mảnh vụn và gắng hết sức chắp vá lại cánh cửa văn phòng.
Khi chiếc xe buýt cuối cùng đã đến và gã để ý thấy nó không có khách, gã lập tức quyết định bắt cóc cả tài xế lẫn xe buýt.
Phải mất hai mươi giây để thuyết phục bác tài quay vòng xe buýt và lái về phía bắc một lần nữa. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi gã lại ngồi đúng chiếc ghế mà cụ già gã đang đuổi theo từng ngồi trước đó, trong cùng ngày.
Bác tài run rẩy vì sợ hãi, cố giữ bình tĩnh bằng một điếu thuốc. Hút thuốc thì tất nhiên bị cấm trên xe buýt, nhưng luật pháp duy nhất mà bác tài tuân theo lúc đó thì đang ngồi xeo xéo phía sau bác trong xe buýt, người gầy, mái tóc dài, vàng hoe và nhờn bóng, bộ râu lởm chởm, mặc áo khoác bò với dòng chữ Never Again trên lưng.
Trên đường đi, gã thanh niên hỏi lão già ăn trộm vali đã đi đâu. Bác tài nói rằng ông cụ đã xuống xe buýt ở ga Byringe và khả năng ga đó còn tồn tại là rất hiếm. Rồi bác tài kể với gã về chuyện ngược đời với tờ 50 crown và câu hỏi có thể đi bao xa với chừng đó tiền.
Bác tài không biết gì nhiều về ga Byringe, ngoại trừ việc hiếm ai lên hoặc xuống xe bus ở điểm dừng đó. Nhưng bác nghĩ rằng có một nhà ga xe lửa bỏ hoang xa xa trong rừng, và làng Byringe đâu đó ở vùng lân cận. Ông cụ không thể nào đi xa hơn chỗ đó, bác tài đoán. Cụ già quá rồi mà vali thì nặng, dù là có bánh xe.
Gã thanh niên lập tức bình tĩnh lại. Gã không gọi ông chủ ở Stockholm, vì ông chủ là một trong số ít người có thể làm mọi người sợ hãi hơn gã nhiều, mà chỉ bằng lời nói. Gã rùng mình khó chịu khi nghĩ đến những gì ông chủ sẽ nói nếu biết chiếc vali bị thất lạc. Tốt hơn là giải quyết vấn đề trước rồi nói với ông sau. Có thể thấy lão già không đến được Strängnäs rồi đi xa hơn, thế thì gã việc gì phải lo, chiếc vali sẽ sớm trở lại trong tay gã thôi.
- Chỗ này đây, - bác tài cho biết. - Đây là trạm dừng xe buýt Byringe...
Bác tài nhả chân ga và chiếc xe từ từ lăn vào phía bên đường. Bác sẽ bị giết bây giờ ư?
Không, hóa ra bác không chết. Tuy nhiên, điện thoại di động của bác thì chết tức tưởi dưới đế giày của gã thanh niên. Và từ miệng của gã tuôn ra một tràng những đe dọa giết cả nhà bác tài, nếu bác có ý định nào liên lạc với cảnh sát, thay vì quay xe buýt và tiếp tục hành trình đến Flen.
Gã thanh niên ra đi khuất, để bác tài và chiếc xe buýt chạy thoát. Bác tài khốn khổ sốc đến mức không dám quay vòng xe buýt mà vẫn tiếp tục đi theo hướng Strängnäs, đậu ở giữa Trädgårdsgatan, hoảng sợ bước vào khách sạn Delia, nơi bác nhanh chóng cạn bốn ly rượu whisky. Sau đó, trước sự kinh dị của người phục vụ bar, bác bắt đầu khóc. Sau hai ly whisky nữa, người phục vụ bar cho bác mượn cái điện thoại để nhỡ bác cần gọi điện thoại cho ai đó. Thế là bác tài lại khóc rống lên lần nữa - và bác gọi điện cho bồ.
***
Gã trai nghĩ mình có thể thấy vết bánh xe của chiếc vali in dấu sỏi trên đường. Chẳng bao lâu nó hiện ra. May quá, vì trời bắt đầu tối.
Đôi khi gã trai ước mình làm ăn có kế hoạch hơn. Gã hơi lo ngại khi thấy mình đang đứng trong một khu rừng sụp tối, và chẳng bao lâu nữa sẽ tối đen. Lúc đó gã biết làm gì?
Những mối lo âu tan biến ngay khi gã chợt nhìn thấy tòa nhà tồi tàn màu vàng, một phần bịt bằng ván, ở dưới ngọn đồi mà gã vừa đi qua. Và khi ai đó bật một ngọn đèn ở tầng trên, gã lầm bầm:
- Giờ ta tóm được lão rồi, lão già.
***
Cụ Allan nhanh nhanh tè nốt chỗ dở dang. Sau đó, cụ thận trọng mở cửa nhà vệ sinh, lắng nghe xem cái gì đang xảy ra trong nhà bếp. Lập tức cụ nghe thấy tiếng xác nhận những gì cụ không muốn. Allan nhận ra giọng gã trai đang hét lên với Julius Jonsson rằng ông nên nói “lão chó chết” đang núp ở đâu.
Allan lẻn đến cửa nhà bếp, cực kì khẽ khàng trong đôi dép đi trong phòng ngủ. Gã thanh niên đã tóm hai tai Julius, theo đúng cách mà gã đã làm với người đàn ông nhỏ con tại Trung tâm Du lịch ở Malmköping. Vừa lắc Julius tội nghiệp, gã vừa tiếp tục tra hỏi nơi cụ Allan trốn. Allan nghĩ gã có thể hài lòng lấy lại chiếc vali, nó đang chình ình giữa sàn. Julius nhăn nhúm mặt mày nhưng không chịu trả lời. Cụ Allan thấy bác buôn gỗ già quả là một tay cứng cựa, rồi cụ lục soát trong sảnh tìm vũ khí thích hợp. Giữa đống rác, cụ thấy một vài thứ có thể dùng tạm: một cái xà beng, một tấm ván, một bình xịt thuốc diệt côn trùng và một gói thuốc chuột. Đầu tiên cụ định chọn thuốc chuột nhưng không thể nghĩ ra cách trút một hoặc hai thìa vào miệng gã trai. Cái xà beng thì hơi quá nặng với ông cụ trăm tuổi và bình xịt diệt côn trùng thì... không, phải lấy tấm ván.
Thế là cụ Allan tóm chắc lấy vũ khí của mình và mất bốn bước, ở tuổi của cụ như thế là cực nhanh, đi thẳng tới ngay sau lưng nạn nhân dự định của mình.
Gã trai chắc phải ngờ rằng cụ Allan ở đấy, vì ngay trước khi cụ ra tay, gã buông Julius Jonsson ra và xoay người lại.
Gã bị tấm ván đập mạnh vào giữa trán, đứng sững, trợn mắt lên một giây trước khi ngã vật ra, đập đầu lên cạnh bàn bếp.
Không có máu, không rên rỉ, không có gì. Gã chỉ nằm đó, với đôi mắt nhắm lại.
- Cừ đấy, - Julius nói.
- Cảm ơn, - cụ Allan đáp, - còn món tráng miệng anh đã hứa đâu?
Allan và Julius ngồi xuống bàn ăn, với gã thanh niên tóc dài lịm dưới chân. Julius rót một cốc rượu cho Allan và nâng cốc. Cụ Allan chạm cốc.
- Chà. Thế đấy! - Julius nói khi chỗ rượu mạnh trôi xuống cổ họng mình. - Tôi đoán rằng gã nằm trên sàn là chủ cái vali?
Câu hỏi giống như một khẳng định. Cụ Allan nhận thấy đây là lúc cụ nên giải thích rõ hơn một hai điều.
Chẳng có gì nhiều để giải thích. Hầu hết những gì đã xảy ra trong ngày đều khó hiểu với cụ. Tuy thế, cụ cũng kể xong chuyện mình đào tẩu khỏi nhà, rồi ngẫu nhiên chôm chiếc vali tại Trung tâm Du lịch ở Malmköping và lo ngay ngáy rằng gã thanh niên đang nằm bất tỉnh trên sàn có thể sẽ nhanh chóng dậy xử cụ. Và cụ chân thành xin lỗi vì thực tế Julius đang ngồi đó với đôi tai đỏ bầm, đau nhức. Nhưng Julius suýt nổi cáu, bảo rằng cụ Allan đừng có ngồi đó xin lỗi vì cuối cùng đời của Julius Jonsson mới có tí việc để hành động.
Julius đã trở lại tươi tỉnh. Ông nghĩ đã đến lúc cả hai nên xem có cái gì trong vali. Khi cụ Allan chỉ ra là nó bị khóa, Julius bảo cụ đừng có nói chuyện ngớ ngẩn nữa.
- Có cái khóa nào ngăn được Julius Jonsson? - Julius Jonsson nói.
Nhưng làm gì cũng phải đúng lúc, ông tiếp tục. Đầu tiên là cái nguy cơ nằm chình ình trên sàn nhà. Sẽ chẳng làm ăn được gì nếu gã thanh niên tỉnh dậy và tiếp tục cái đang làm dở trước khi gã ngất xỉu.
Cụ Allan gợi ý rằng họ nên trói gã vào một cái cây bên ngoài nhà ga, nhưng Julius phản đối rằng nếu gã tỉnh dậy la hét lên thì dưới làng có thể nghe thấy. Chỉ có vài gia đình vẫn sống ở đó, nhưng họ đều ít nhiều có lý do để thù Julius và có lẽ sẽ đứng về phía gã trai nếu có cơ hội.
Julius có ý này hay hơn. Phía trong nhà bếp có một phòng đông lạnh rất kín, nơi ông bảo quản và xẻ thịt nai rừng săn trộm được. Hiện nay phòng không có con nai nào và đang đóng cửa. Julius không muốn sử dụng máy lạnh nếu không cần thiết vì nó ngốn điện kinh khủng. Tất nhiên Julius có điện, do Gösta ở trang trại Nhà Rừng vô tình trả tiền, nhưng nếu muốn ăn trộm điện lâu dài thì phải dùng in ít thôi.
Cụ Allan kiểm tra phòng đông lạnh đã tắt điện và thấy nó là một phòng tạm giam tuyệt vời, không có bất kì tiện nghi thừa nào. Kích thước 1,8 x 2,7 mét có lẽ hơi rộng rãi cho gã trai, nhưng cũng chẳng nên nghiệt ngã quá làm gì.
Hai ông già hò nhau kéo gã trai vào phòng tạm giam. Gã rên rỉ khi bị đặt lên cái rương gỗ đã bị lộn ngược để ở góc phòng, và họ dựa người gã vào tường. Dường như gã sắp tỉnh. Tốt nhất là đi nhanh ra ngoài và khóa chắc cửa lại.
Nháy mắt mọi thứ đã xong. Julius nâng chiếc vali đặt lên bàn ăn, nhìn ổ khóa, liếm sạch cái dĩa bữa tối vừa dùng để xiên nai rừng nướng với khoai tây, và phá khóa trong vài giây. Sau đó ông mời cụ Allan tự tay mở khóa, vì rằng đây là chiến lợi phẩm của cụ.
- Tất cả mọi thứ của tôi cũng là của anh, - Allan nói. - Chúng ta chia đều, nhưng nếu có một đôi giày cỡ của tôi thì phần tôi cái đó nhé.
Rồi cụ Allan mở khóa.
- Quỷ tha ma bắt, - cụ Allan thốt lên.
- Quỷ tha ma bắt, - Julius nói.
- Thả tao ra! - Có tiếng từ phòng đông lạnh.
Sau đó, cậu đã đến Stockholm và trong vòng hai năm phung phí tất cả tiền bạc của mình. Rồi cậu trở về rừng.
Trong một cuộc đấu thầu, Julius đã nhiệt tình xin thầu năm nghìn cột điện cho Công ty Điện lực huyện Hudiksvall. Vì Julius không quan tâm đến các chi tiết như thuế và thuế giá trị gia tăng, ông đã thắng thầu, và với sự trợ giúp của khoảng mười người tị nạn Hungary, ông đã bàn giao được số cột đúng thời gian, kiếm được nhiều tiền ngoài sức tưởng tượng.
Mọi thứ đến lúc đó đều ổn, nhưng vấn đề là Julius buộc phải ăn gian một chút, bởi vì các cây vẫn chưa phát triển hết. Các cây cột do đó bị ngắn hơn qui định chừng một mét, và có lẽ sẽ chẳng ai để ý nếu không có chuyện là hầu hết nông dân vừa được mua máy gặt đập liên hợp.
Công ty Điện lực Huyện Hudiksvall lập tức trồng cột đan chéo các cánh đồng và đồng cỏ trong vùng, lúc đó đúng mùa gặt và trong một buổi sáng dây điện đã được kéo xuống hai mươi sáu điểm, nơi có hai mươi hai máy gặt đập mới mua. Cả một góc vùng nông thôn Hälsningland mất điện trong nhiều tuần, thu hoạch mất trắng, máy vắt sữa ngừng làm việc. Nông dân nổi giận, ban đầu với Công ty Điện huyện Hudiksvall – rồi quay sang trút vào Julius.
- Câu khẩu hiệu ‘Hudiksvall Hạnh phúc’ không phải được chế ra vào lúc ấy đâu, cam đoan với cụ thế. Tôi đã trốn trong khách sạn Town ở Sundsvall suốt bảy tháng và lại cạn sạch tiền. Mình làm một chầu nữa với món cưng cứng nhé?
Cụ Allan đồng ý. Cả xương nai rừng cũng được tắm trong bia Pilsner, và bây giờ Allan thấy mãn nguyện khủng khiếp đến mức cụ gần như bắt đầu sợ chết.
Julius tiếp tục câu chuyện của mình. Sau khi suýt bị một máy kéo ở trung tâm Sundsvall cán mỏng (lái xe là một nông dân có cái nhìn sát nhân), ông nhận ra rằng người dân địa phương sẽ không quên sai lầm nhỏ của mình trong hàng trăm năm tới. Vì vậy, ông chuyển xa xuống phía nam và dừng lại ở Mariefred, nơi ông thỉnh thoảng trộm cắp tí ti cho đến khi mệt mỏi với cuộc sống ở tỉnh lẻ và mua được nhà ga Byringe cũ với giá 25.000 Crown mà ông đã chôm được trong két an toàn ở Nhà nghỉ Gripsholm. Ở nhà ga này, bây giờ ông chủ yếu sống bằng tiền trợ cấp của nhà nước, săn trộm trong rừng nhà hàng xóm, nấu và bán rượu tự chưng cất tại nhà, cũng như bán lại ít hàng hóa chôm được từ hàng xóm của mình. Ở vùng này ông không được yêu mến lắm, Julius tiếp tục, và miệng đầy thức ăn, cụ Allan bảo rằng chuyện đó cụ hiểu được.
Khi Julius mời cụ già tráng miệng bằng một ly rượu mạnh cuối cùng, Allan đáp cụ luôn luôn mềm lòng trước món tráng miệng loại đó, nhưng đầu tiên cụ phải tìm ra chỗ vệ sinh công cộng, phòng khi cái trong nhà bị hỏng. Julius đứng dậy, bật đèn trần vì trời đã bắt đầu tối, rồi chỉ và nói rằng có một khu vệ sinh dùng được ở bên phải của cầu thang trong sảnh, và hứa sẽ có hai li sơnáp đầy sẵn sàng đợi Allan quay trở lại.
Allan tìm thấy nhà vệ sinh chỗ Julius chỉ. Cụ chọn tư thế đứng đái, và như thường lệ, những giọt cuối cùng bị rớt. Vài giọt đã hạ cánh nhẹ nhàng trên đôi dép dính nước tiểu.
Tiểu khoảng nửa chừng, Allan nghe có tiếng ai đó trên cầu thang. Ý nghĩ đầu tiên của Allan, cụ phải thừa nhận, rằng có lẽ là Julius chuồn đi với chiếc vali mới đánh cắp của cụ. Nhưng sau đó tiếng ồn to hơn. Ai đó đã đi từ tầng dưới lên trên.
Cụ Allan nhận ra mối nguy sắp xảy ra, vì tiếng bước chân cụ nghe thấy ngoài cửa là của gã thanh niên người gầy, mái tóc dài, vàng hoe và nhờn bóng, bộ râu lởm chởm, mặc áo khoác bò với dòng chữ Never Again trên lưng. Và, nếu đúng là gã thì cụ gặp rắc rối rồi.
* * *
Chiếc xe buýt từ Strängnäs đến Trung tâm Du lịch Malmköping sớm ba phút. Xe buýt không có khách và bác tài đã tăng tốc một chút sau trạm dừng cuối để có thời gian làm một điếu thuốc trước khi tiếp tục hành trình đi Flen.
Nhưng bác hầu như không có thời gian để châm điếu thuốc trước khi một thanh niên người gầy, mái tóc dài, vàng hoe và nhờn bóng, bộ râu lởm chởm, mặc áo khoác bò với dòng chữ Never Again trên lưng đi đến. Thực ra bác tài không nhìn thấy dòng chữ trên lưng vừa rồi, nhưng nó vẫn ở đấy.
- Cậu đi Flen à?
Bác hỏi, hơi do dự, bởi vì có một cái gì đó ở gã thanh niên này gây cảm giác không ổn.
- Tao không đi Flen. Mà mày cũng thế, - gã trả lời.
Vật vờ chờ xe suốt bốn tiếng thật quá sức chịu đựng của gã. Thêm nữa, sau khi đã mất nửa thời gian, gã nhận ra rằng nếu mình ngay lập tức lấy xe hơi mà đi thì đã có thể bắt kịp với cái xe buýt từ lâu trước khi nó tới Strängnäs.
Nhất là bây giờ xe cảnh sát đã bắt đầu lượn lờ trong cái huyện bé tẹo này. Bất cứ lúc nào cảnh sát có thể ập vào Trung tâm Du lịch, và bắt đầu thẩm vấn người đàn ông nhỏ con phía sau cửa sổ phòng vé lý do tại sao anh ta trông hoảng sợ thế và vì sao cánh cửa văn phòng anh ta lại treo lủng lẳng trên có một góc bản lề.
Về việc này, gã không thể hiểu được những gì cảnh sát làm ở đó. Ông chủ của gã ở Never Again đã chọn Malmköping là địa điểm giao dịch vì ba lý do: trước hết, gần Stockholm, thứ hai, ở đây thông tin liên lạc tương đối tốt, thứ ba - và quan trọng nhất - bởi vì cánh tay luật pháp không đủ dài để vươn tới đó. Đơn giản là ở Malmköping không có cảnh sát.
Hay, chính xác hơn là: không nên có, nhưng chỗ này lại đang lúc nhúc cảnh sát! Gã thanh niên đã thấy hai chiếc xe với bốn cảnh sát, theo gã hiểu thế có nghĩa là ở đấy cảnh sát đang đông như kiến.
Lúc đầu, gã tưởng cảnh sát kiếm mình. Nhưng điều đó nghĩa là người đàn ông nhỏ con đã khai ra, và gã dứt khoát bác bỏ khả năng này. Trong khi chờ đợi xe buýt đến, gã chẳng có gì để làm ngoài việc canh chừng người đàn ông nhỏ con, đập tan điện thoại phòng của anh ta thành mảnh vụn và gắng hết sức chắp vá lại cánh cửa văn phòng.
Khi chiếc xe buýt cuối cùng đã đến và gã để ý thấy nó không có khách, gã lập tức quyết định bắt cóc cả tài xế lẫn xe buýt.
Phải mất hai mươi giây để thuyết phục bác tài quay vòng xe buýt và lái về phía bắc một lần nữa. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi gã lại ngồi đúng chiếc ghế mà cụ già gã đang đuổi theo từng ngồi trước đó, trong cùng ngày.
Bác tài run rẩy vì sợ hãi, cố giữ bình tĩnh bằng một điếu thuốc. Hút thuốc thì tất nhiên bị cấm trên xe buýt, nhưng luật pháp duy nhất mà bác tài tuân theo lúc đó thì đang ngồi xeo xéo phía sau bác trong xe buýt, người gầy, mái tóc dài, vàng hoe và nhờn bóng, bộ râu lởm chởm, mặc áo khoác bò với dòng chữ Never Again trên lưng.
Trên đường đi, gã thanh niên hỏi lão già ăn trộm vali đã đi đâu. Bác tài nói rằng ông cụ đã xuống xe buýt ở ga Byringe và khả năng ga đó còn tồn tại là rất hiếm. Rồi bác tài kể với gã về chuyện ngược đời với tờ 50 crown và câu hỏi có thể đi bao xa với chừng đó tiền.
Bác tài không biết gì nhiều về ga Byringe, ngoại trừ việc hiếm ai lên hoặc xuống xe bus ở điểm dừng đó. Nhưng bác nghĩ rằng có một nhà ga xe lửa bỏ hoang xa xa trong rừng, và làng Byringe đâu đó ở vùng lân cận. Ông cụ không thể nào đi xa hơn chỗ đó, bác tài đoán. Cụ già quá rồi mà vali thì nặng, dù là có bánh xe.
Gã thanh niên lập tức bình tĩnh lại. Gã không gọi ông chủ ở Stockholm, vì ông chủ là một trong số ít người có thể làm mọi người sợ hãi hơn gã nhiều, mà chỉ bằng lời nói. Gã rùng mình khó chịu khi nghĩ đến những gì ông chủ sẽ nói nếu biết chiếc vali bị thất lạc. Tốt hơn là giải quyết vấn đề trước rồi nói với ông sau. Có thể thấy lão già không đến được Strängnäs rồi đi xa hơn, thế thì gã việc gì phải lo, chiếc vali sẽ sớm trở lại trong tay gã thôi.
- Chỗ này đây, - bác tài cho biết. - Đây là trạm dừng xe buýt Byringe...
Bác tài nhả chân ga và chiếc xe từ từ lăn vào phía bên đường. Bác sẽ bị giết bây giờ ư?
Không, hóa ra bác không chết. Tuy nhiên, điện thoại di động của bác thì chết tức tưởi dưới đế giày của gã thanh niên. Và từ miệng của gã tuôn ra một tràng những đe dọa giết cả nhà bác tài, nếu bác có ý định nào liên lạc với cảnh sát, thay vì quay xe buýt và tiếp tục hành trình đến Flen.
Gã thanh niên ra đi khuất, để bác tài và chiếc xe buýt chạy thoát. Bác tài khốn khổ sốc đến mức không dám quay vòng xe buýt mà vẫn tiếp tục đi theo hướng Strängnäs, đậu ở giữa Trädgårdsgatan, hoảng sợ bước vào khách sạn Delia, nơi bác nhanh chóng cạn bốn ly rượu whisky. Sau đó, trước sự kinh dị của người phục vụ bar, bác bắt đầu khóc. Sau hai ly whisky nữa, người phục vụ bar cho bác mượn cái điện thoại để nhỡ bác cần gọi điện thoại cho ai đó. Thế là bác tài lại khóc rống lên lần nữa - và bác gọi điện cho bồ.
***
Gã trai nghĩ mình có thể thấy vết bánh xe của chiếc vali in dấu sỏi trên đường. Chẳng bao lâu nó hiện ra. May quá, vì trời bắt đầu tối.
Đôi khi gã trai ước mình làm ăn có kế hoạch hơn. Gã hơi lo ngại khi thấy mình đang đứng trong một khu rừng sụp tối, và chẳng bao lâu nữa sẽ tối đen. Lúc đó gã biết làm gì?
Những mối lo âu tan biến ngay khi gã chợt nhìn thấy tòa nhà tồi tàn màu vàng, một phần bịt bằng ván, ở dưới ngọn đồi mà gã vừa đi qua. Và khi ai đó bật một ngọn đèn ở tầng trên, gã lầm bầm:
- Giờ ta tóm được lão rồi, lão già.
***
Cụ Allan nhanh nhanh tè nốt chỗ dở dang. Sau đó, cụ thận trọng mở cửa nhà vệ sinh, lắng nghe xem cái gì đang xảy ra trong nhà bếp. Lập tức cụ nghe thấy tiếng xác nhận những gì cụ không muốn. Allan nhận ra giọng gã trai đang hét lên với Julius Jonsson rằng ông nên nói “lão chó chết” đang núp ở đâu.
Allan lẻn đến cửa nhà bếp, cực kì khẽ khàng trong đôi dép đi trong phòng ngủ. Gã thanh niên đã tóm hai tai Julius, theo đúng cách mà gã đã làm với người đàn ông nhỏ con tại Trung tâm Du lịch ở Malmköping. Vừa lắc Julius tội nghiệp, gã vừa tiếp tục tra hỏi nơi cụ Allan trốn. Allan nghĩ gã có thể hài lòng lấy lại chiếc vali, nó đang chình ình giữa sàn. Julius nhăn nhúm mặt mày nhưng không chịu trả lời. Cụ Allan thấy bác buôn gỗ già quả là một tay cứng cựa, rồi cụ lục soát trong sảnh tìm vũ khí thích hợp. Giữa đống rác, cụ thấy một vài thứ có thể dùng tạm: một cái xà beng, một tấm ván, một bình xịt thuốc diệt côn trùng và một gói thuốc chuột. Đầu tiên cụ định chọn thuốc chuột nhưng không thể nghĩ ra cách trút một hoặc hai thìa vào miệng gã trai. Cái xà beng thì hơi quá nặng với ông cụ trăm tuổi và bình xịt diệt côn trùng thì... không, phải lấy tấm ván.
Thế là cụ Allan tóm chắc lấy vũ khí của mình và mất bốn bước, ở tuổi của cụ như thế là cực nhanh, đi thẳng tới ngay sau lưng nạn nhân dự định của mình.
Gã trai chắc phải ngờ rằng cụ Allan ở đấy, vì ngay trước khi cụ ra tay, gã buông Julius Jonsson ra và xoay người lại.
Gã bị tấm ván đập mạnh vào giữa trán, đứng sững, trợn mắt lên một giây trước khi ngã vật ra, đập đầu lên cạnh bàn bếp.
Không có máu, không rên rỉ, không có gì. Gã chỉ nằm đó, với đôi mắt nhắm lại.
- Cừ đấy, - Julius nói.
- Cảm ơn, - cụ Allan đáp, - còn món tráng miệng anh đã hứa đâu?
Allan và Julius ngồi xuống bàn ăn, với gã thanh niên tóc dài lịm dưới chân. Julius rót một cốc rượu cho Allan và nâng cốc. Cụ Allan chạm cốc.
- Chà. Thế đấy! - Julius nói khi chỗ rượu mạnh trôi xuống cổ họng mình. - Tôi đoán rằng gã nằm trên sàn là chủ cái vali?
Câu hỏi giống như một khẳng định. Cụ Allan nhận thấy đây là lúc cụ nên giải thích rõ hơn một hai điều.
Chẳng có gì nhiều để giải thích. Hầu hết những gì đã xảy ra trong ngày đều khó hiểu với cụ. Tuy thế, cụ cũng kể xong chuyện mình đào tẩu khỏi nhà, rồi ngẫu nhiên chôm chiếc vali tại Trung tâm Du lịch ở Malmköping và lo ngay ngáy rằng gã thanh niên đang nằm bất tỉnh trên sàn có thể sẽ nhanh chóng dậy xử cụ. Và cụ chân thành xin lỗi vì thực tế Julius đang ngồi đó với đôi tai đỏ bầm, đau nhức. Nhưng Julius suýt nổi cáu, bảo rằng cụ Allan đừng có ngồi đó xin lỗi vì cuối cùng đời của Julius Jonsson mới có tí việc để hành động.
Julius đã trở lại tươi tỉnh. Ông nghĩ đã đến lúc cả hai nên xem có cái gì trong vali. Khi cụ Allan chỉ ra là nó bị khóa, Julius bảo cụ đừng có nói chuyện ngớ ngẩn nữa.
- Có cái khóa nào ngăn được Julius Jonsson? - Julius Jonsson nói.
Nhưng làm gì cũng phải đúng lúc, ông tiếp tục. Đầu tiên là cái nguy cơ nằm chình ình trên sàn nhà. Sẽ chẳng làm ăn được gì nếu gã thanh niên tỉnh dậy và tiếp tục cái đang làm dở trước khi gã ngất xỉu.
Cụ Allan gợi ý rằng họ nên trói gã vào một cái cây bên ngoài nhà ga, nhưng Julius phản đối rằng nếu gã tỉnh dậy la hét lên thì dưới làng có thể nghe thấy. Chỉ có vài gia đình vẫn sống ở đó, nhưng họ đều ít nhiều có lý do để thù Julius và có lẽ sẽ đứng về phía gã trai nếu có cơ hội.
Julius có ý này hay hơn. Phía trong nhà bếp có một phòng đông lạnh rất kín, nơi ông bảo quản và xẻ thịt nai rừng săn trộm được. Hiện nay phòng không có con nai nào và đang đóng cửa. Julius không muốn sử dụng máy lạnh nếu không cần thiết vì nó ngốn điện kinh khủng. Tất nhiên Julius có điện, do Gösta ở trang trại Nhà Rừng vô tình trả tiền, nhưng nếu muốn ăn trộm điện lâu dài thì phải dùng in ít thôi.
Cụ Allan kiểm tra phòng đông lạnh đã tắt điện và thấy nó là một phòng tạm giam tuyệt vời, không có bất kì tiện nghi thừa nào. Kích thước 1,8 x 2,7 mét có lẽ hơi rộng rãi cho gã trai, nhưng cũng chẳng nên nghiệt ngã quá làm gì.
Hai ông già hò nhau kéo gã trai vào phòng tạm giam. Gã rên rỉ khi bị đặt lên cái rương gỗ đã bị lộn ngược để ở góc phòng, và họ dựa người gã vào tường. Dường như gã sắp tỉnh. Tốt nhất là đi nhanh ra ngoài và khóa chắc cửa lại.
Nháy mắt mọi thứ đã xong. Julius nâng chiếc vali đặt lên bàn ăn, nhìn ổ khóa, liếm sạch cái dĩa bữa tối vừa dùng để xiên nai rừng nướng với khoai tây, và phá khóa trong vài giây. Sau đó ông mời cụ Allan tự tay mở khóa, vì rằng đây là chiến lợi phẩm của cụ.
- Tất cả mọi thứ của tôi cũng là của anh, - Allan nói. - Chúng ta chia đều, nhưng nếu có một đôi giày cỡ của tôi thì phần tôi cái đó nhé.
Rồi cụ Allan mở khóa.
- Quỷ tha ma bắt, - cụ Allan thốt lên.
- Quỷ tha ma bắt, - Julius nói.
- Thả tao ra! - Có tiếng từ phòng đông lạnh.
Bình luận facebook