Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Chương 07
Chương 7
1929-1939
Ngôi nhà tranh ở Yxhult trông tàn tạ. Nó đã xuống cấp trong những năm Allan được giáo sư Lundborg chăm sóc. Ngói lợp bị thổi bay khỏi mái, nằm rải rác trên mặt đất, cầu tiêu vì lý do nào đó đã đổ sụp và một trong các cửa sổ nhà bếp cứ mở ra đập vào trong gió.
Allan đứng ngoài đái, không có nhà vệ sinh nào dùng được nữa rồi. Sau đó anh đi vào và ngồi trong căn bếp bụi bặm của mình. Anh cứ để cửa sổ mở. Đói bụng nhưng anh kiềm chế thôi thúc đi lục chạn. Anh chắc chắn rằng nó chẳng làm mình vui được.
Allan sinh ra và lớn lên tại đây, nhưng chưa bao giờ ‘nhà’ có vẻ xa xôi như vào lúc đó. Có lẽ đấy là thời điểm để anh cắt đứt ràng buộc với quá khứ và tiếp tục theo chiều hướng khác? Phải, chắc chắn là như thế.
Allan tìm kiếm những thanh thuốc nổ của mình và làm các chuẩn bị cần thiết trước khi đóng gói những thứ lặt vặt vô giá trị mà mình có vào túi đèo hàng sau xe đạp. Vào lúc hoàng hôn ngày mùng ba tháng Sáu, 1929, anh ra đi khỏi Yxhult, khỏi Flen. Chỗ thuốc nổ phát nổ chính xác ba mươi phút sau. Căn nhà tranh Yxhult nổ tung thành nhiều mảnh và con bò hàng xóm lại bị sẩy thai.
Tuy nhiên, một giờ sau, Allan bị bắt giam tại đồn cảnh sát ở Flen và ăn bữa tối trong khi bị Krook, giám đốc cảnh sát địa phương mắng nhiếc. Cảnh sát Flen vừa mua một chiếc xe cảnh sát và nó bắt kịp rất nhanh người đàn ông đã biến nhà mình thành diêm gỗ.
Lần này, hành vi phạm tội đã rõ ràng hơn.
- Phá hủy bất cẩn, - giám đốc Krook nói giọng uy quyền.
- Ông làm ơn đưa cho tôi mẩu bánh mì được không? - Allan hỏi.
Không, giám đốc Krook không đưa, mặc dù ông có thể. Ông bắt đầu chỉ trích người trợ lí tội nghiệp của mình đã quá nhu nhược chiều mong muốn của tội phạm khi hắn đòi ăn tối. Trong lúc ấy Allan đã chén xong bữa và sau đó bị đưa đến đúng phòng tạm giam mà lần trước anh đã vào.
- Các anh có báo ngày hôm nay để đâu đó quanh đây không? - Allan hỏi. - Một cái gì đó để đọc vào buổi tối, ý tôi là thế.
Giám đốc Krook trả lời bằng cách tắt đèn trần và đóng sầm cánh cửa lại. Sáng hôm sau, điều đầu tiên mà ông làm là gọi cái bệnh viện ở Uppsala bảo họ đến và tóm lấy Allan Karlsson.
Nhưng các đồng nghiệp của Bernhard Lundborg đã giả điếc. Việc điều trị của Karlsson đã xong rồi, bây giờ họ có những người khác để thiến và phân tích. Nếu như giám đốc cảnh sát biết bao nhiêu người dân tộc đã được cứu giúp, từ người Do Thái, digan, da đen và lai đen, người đần độn và đủ loại khác. Việc Karlsson thổi bay nhà riêng của mình thành nhiều mảnh không đủ điều kiện cho một hành trình mới đến Uppsala. Người ta có thể làm gì tùy thích với ngôi nhà của mình, giám đốc cảnh sát có nghĩ thế không? Sau hết, chúng ta đang sống trong một đất nước tự do phải không? Cuối cùng, giám đốc cảnh sát Krook dập máy. Ông không địch nổi với mấy người ở các thành phố lớn. Thay vào đó, ông lấy làm tiếc rằng mình đã không để Karlsson đạp xe đi khỏi huyện tối hôm qua cho rồi.
Đó là lý do tại sao Allan Karlsson sau một đàm phán thành công vào buổi sáng lại ngồi trên xe đạp của mình với móc đèo hàng. Lần này với thức ăn cho ba ngày trong các gói gọn ghẽ, và một cái chăn đúp để giữ ấm khi thời tiết chuyển lạnh. Anh vẫy tay chào tạm biệt giám đốc Krook, ông này không buồn vẫy tay lại, và sau đó đạp xe lên phía bắc, vì điểm đó trên la bàn đối với Allan có vẻ cũng tốt như bất kì hướng nào khác.
Đến chiều, con đường đã đưa anh tới Hälleforsnäs, và thế cũng khá xa rồi. Allan dừng lại bên cạnh một triền cỏ, trải tấm chăn ra và mở một trong các gói đồ ăn của mình. Trong khi nhai một lát bánh mì syrupy với xúc xích, anh ngắm nghía cơ sở công nghiệp tình cờ nằm trước mắt mình. Bên ngoài nhà máy, nằm một đống nòng pháo từ các xưởng đúc. Allan nghĩ những người làm pháo có lẽ cần ai đó có thể đảm bảo là khi bắn, pháo thực sự bắn ra. Thêm nữa, gắng hết sức đi xa khỏi Yxhult cũng chẳng để làm gì. Hälleforsnäs hay nơi nào cũng vậy thôi. Nếu ở đó có việc làm, mà nó có thật.
Việc Allan làm với các nòng pháo và đòi hỏi về năng lực đặc biệt của anh có lẽ khá thô sơ. Tuy nhiên hóa ra nó rất chính xác. Sau một cuộc nói chuyện ngắn với nhà sản xuất, trong đó Allan lờ đi không đề cập đến một vài đoạn chọn lọc trong đời mình, anh đã được nhận vào làm như một chuyên gia khói lửa.
Mình sẽ thích ở đây, Allan nghĩ.
***
Sản xuất ống pháo đã giảm xuống tới mức tối thiểu tại xưởng đúc ở Hälleforsnäs, họ không nhận thêm đơn đặt hàng nào nữa, mà đơn đặt hàng đã ít càng ít hơn. Bộ trưởng quốc phòng, Ngài Per Albin Hansson, do hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã cắt giảm nguồn vốn cho quân đội, trong khi vua Gustaf V ngồi trong cung điện nghiến răng ken két. Per Albin, một người có óc phân tích, nghĩ rằng nó cũng có lí nếu chiến tranh nổ ra, Thụy Điển cần phải được trang bị tốt hơn so với các quốc gia đã có chiến tranh, nhưng điều đó không có nghĩa là ngay bây giờ phải trang bị vũ khí, mười năm sau cũng được. Bên cạnh đó, hiện giờ tất nhiên, chúng ta đã có Hội Quốc Liên[5].
[5] League of Nations: Tổ chức quốc tế được thành lập sau Thếchiến I và tồn tại đến hết Thế chiến II, khác với Liên Hợp Quốc (United Nations) thành lập vào năm 1945.
Hậu quả là xưởng đúc Hälleforsnäs đã chuyển sang sản xuất sản phẩm hòa bình hơn, và công nhân bị mất việc.
Nhưng Allan thì không. Bởi vì các chuyên gia khói lửa khá khó tìm. Nhà sản xuất không thể tin nổi khi Allan tình cờ xuất hiện và hóa ra là một chuyên gia về chất nổ đủ loại. Cho đến lúc đó, nhà sản xuất buộc phải dựa hoàn toàn vào một chuyên gia khói lửa mình đang có nhưng không hề thích, bởi ông ta là một người nước ngoài, râu tóc, lông đen rậm rạp khắp người và hầu như không nói tiếng Thụy Điển. Chẳng biết ông ta có đáng tin cậy hay không. Tuy nhiên, nhà sản xuất đã bắt buộc phải chấp nhận tình thế đó.
Allan, tất nhiên, không phân loại người theo màu. Anh luôn luôn nghĩ rằng giáo sư Lundborg nói chuyện kì quặc. Nhưng anh tò mò muốn gặp gã da đen đầu tiên, hoặc một chị da đen cũng được. Anh đã háo hức đọc các quảng cáo trên báo rằng Josephine Baker đã xuất hiện ở Stockholm, nhưng rồi anh chỉ được thấy Esteban, da trắng nhưng rám đen, là chuyên gia khói lửa người Tây Ban Nha.
Allan và Esteban khá hợp nhau. Họ ở chung một phòng trong khu trại của công nhân cạnh xưởng đúc. Esteban kể với Allan xuất thân ấn tượng của mình. Anh đã gặp một cô gái tại một bữa tiệc ở Madrid và bí mật vướng vào mối quan hệ trong sáng với cô, mà không nhận ra rằng cô là con gái của Thủ tướng Chính phủ mình, Miguel Primo de Rivero. Đó không phải là một người mà ta có thể tranh cãi. Ông cai trị đất nước theo ý mình, với nhà vua bất lực lê bước sau lưng ông. ‘Thủ tướng’ là một từ lịch sự cho chữ “độc tài”, theo ý kiến của Esteban. Nhưng con gái của ông thì đẹp tuyệt vời!
Xuất thân vô sản của Esteban chẳng có gì hấp dẫn với ông bố vợ tương lai. Trong lần gặp đầu tiên và duy nhất với Primo de Rivera, Esteban đã được thông báo rằng anh chỉ có hai lựa chọn. Một là biến khỏi lãnh thổ Tây Ban Nha càng xa càng tốt, hai là ở lại và lĩnh một viên đạn xuyên qua gáy.
Trong khi Primo de Rivero lên cò khẩu súng trường của ông, Esteban đã trả lời rằng mình quyết định chọn cách đầu tiên, và lùi thật nhanh ra khỏi phòng sao cho không chìa gáy ra với người đàn ông có khẩu súng trường và không hề liếc về hướng cô gái đang đứng thổn thức.
Càng xa càng tốt, Estebén nghĩ, và đi về phía bắc, rồi xa hơn nữa và cuối cùng đến phương bắc tít ở nơi các hồ bị đóng băng vào mùa đông. Thế là anh nghĩ mình đã đi đủ xa. Và anh ở đây từ ngày đó. Ba năm trước, anh nhận được việc ở xưởng đúc với một linh mục Công giáo phiên dịch giúp và, Chúa tha tội cho anh vì đã dựng lên một câu chuyện về làm việc với các vật liệu nổ ở quê hương Tây Ban Nha, trong khi trên thực tế, anh chủ yếu là đi hái cà chua.
Dần dần, Esteban đã gắng hiểu tiếng Thụy Điển và đã trở thành một chuyên gia khói lửa khá uy tín. Và bây giờ, với Allan bên cạnh, anh trở thành một chuyên gia thực sự.
**
Allan cảm thấy sống ở khu nhà công nhân tại xưởng đúc thoải mái như ở nhà. Sau một năm, anh có thể hiểu tiếng Tây Ban Nha mà Esteban dạy. Sau hai năm, tiếng Tây Ban Nha của anh hầu như thông thạo. Nhưng phải mất ba năm trước khi Esteban từ bỏ cố gắng nhồi nhét chủ nghĩa xã hội quốc tế kiểu Tây Ban Nha của mình cho Allan. Anh đã thử tất cả mọi cách, nhưng Allan cứ trơ trơ. Esteban không hiểu được một phần đặc biệt trong tính cách người bạn thân nhất của mình. Không phải vì Allan có một quan điểm trái ngược về thế giới và tranh cãi nó phải như thế nào; đơn giản là anh không có ý kiến gì. Hoặc có lẽ đó chính là ý kiến của Allan? Cuối cùng, Esteban chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc quen dần với thực tế là Allan đã không hiểu.
Ngược lại, Allan cũng phải chịu trận chuyện đó. Esteban là một người bạn tốt. Nhưng không ai đỡ nổi việc anh ta đã bị đầu độc bởi các chính trị gia chết tiệt. Và chắc chắn anh không phải là người duy nhất bị thế.
Mùa lại nối mùa trước khi cuộc sống của Allan rẽ sang ngả mới. Nó bắt đầu khi Esteban nhận được tin rằng Primo de Rivera đã từ chức và trốn khỏi đất nước. Giờ là lúc nền dân chủ đang lấp ló, có lẽ cả chủ nghĩa xã hội nữa, và Esteban không muốn bỏ lỡ điều đó.
Vì vậy, anh sẽ trở về nhà càng sớm càng tốt. Xưởng đúc ngày càng thua lỗ vì Ngài Per Albin đã quyết định rằng sẽ không có chiến tranh nữa. Esteban nghĩ rằng cả hai chuyên gia khói lửa sẽ bị sa thải bất kì ngày nào. Anh bạn Allan có dự định gì cho tương lai không? Có muốn cùng anh sang Tây Ban Nha không?
Allan nghĩ về chuyện đó. Một mặt, anh chẳng quan tâm đến bất kì cuộc cách mạng nào, kiểu Tây Ban Nha hay gì khác. Kiểu gì thì nó cũng chỉ đưa đến một cuộc cách mạng mới, theo hướng ngược lại. Mặt khác, Tây Ban Nha là nước ngoài, như tất cả các quốc gia khác, trừ Thụy Điển, và sau một đời đọc về nước ngoài thì có lẽ cũng hay để trải nghiệm ở nước ngoài thật. Và trên đường đi, biết đâu họ có thể tình cờ gặp một hay hai người da đen?
Khi Esteban hứa rằng trên đường sang Tây Ban Nha, ít nhất họ sẽ gặp một người da đen thì Allan không thể cưỡng nổi lời mời. Sau đó, hai người bạn bắt đầu thảo luận các vấn đề thực tế hơn. Và họ đi đến kết luận rằng chủ xưởng đúc là đồ ‘con hoang ngu ngốc’ (họ nghĩ đúng như thế) và không đáng để bàn. Họ quyết định sẽ đợi lĩnh lương tuần đó rồi âm thầm lặn luôn.
Thế là Chủ nhật sau đó, Allan và Esteban dậy lúc năm giờ sáng, khởi hành trên chiếc xe đạp kéo theo rơmoóc đèo hàng, đi về phía nam, nhắm đến Tây Ban Nha. Trên đường, Esteban muốn dừng lại phía ngoài nhà riêng của chủ xưởng đúc, để đổ kết quả chuyến thăm nhà xí buổi sáng của mình vào trong hộp sữa được giao mỗi sáng vào thùng thư treo ở cổng chủ nhà máy. Cần phải thế, vì Esteban trong nhiều năm đã buộc phải đóng trò ‘khỉ’ cho ông chủ nhà máy và hai thằng con trai tuổi teen của ông ta.
- Trả thù không hay ho gì đâu, - Allan cảnh báo anh ta. - Trả thù giống như chính trị, cái này dẫn tới cái kia, cái sảy nảy cái ung đấy.
Nhưng Esteban cứ khăng khăng. Chỉ vì một chút lông lá ở tay và không nói trơn mồm cái ngôn ngữ của chủ xưởng đúc, thế mà biến người ta thành vượn được à?
Allan đã phải đồng ý, thế là hai người bạn đến một thỏa hiệp hợp lý. Esteban có thể đái vào lon sữa, nhưng không ỉa vào trong đấy.
Đấy là những gì đã xảy ra khi xưởng đúc ở Hälleforsnäs mất đi cả hai chuyên gia khói lửa. Buổi sáng người ta buôn chuyện đến tai ông chủ xưởng đúc là thấy Allan và Esteban trên xe đạp với rơmoóc kéo đi về phía Katrineholm hay có lẽ xa hơn về phía nam. Vậy nên ông chủ xưởng đúc đã lên kế hoạch cho sự thiếu hụt nhân sự bất ngờ trong tuần tới ngay trên hiên ngôi nhà sang trọng của mình vào sáng Chủ nhật, trong lúc ông nhấm nháp ly sữa Sigrid được phục vụ chu đáo với bánh quy hạnh nhân. Tâm trạng của ông chủ xưởng đúc càng u ám hơn vì hình như bánh bích quy có gì đó không ổn. Nó đậm đà mùi vị amoniac.
Ông chủ xưởng đúc quyết định đợi đến tan lễ nhà thờ, rồi cho Sigrid một trận đích đáng. Tạm thời, ông sẽ giải quyết bằng cách gọi một ly sữa khác để loại bỏ mùi vị khó chịu trong miệng của mình.
**
Thế là Allan thấy mình ở Tây Ban Nha. Đi qua châu Âu mất ba tháng và trên đường đi anh đã gặp người da đen thỏa thích, hơn cả mơ ước rất nhiều. Nhưng ngay sau lần đầu tiên gặp, anh đã chán ngay. Hóa ra chẳng có sự khác biệt nào ngoài màu da của họ, tất nhiên họ nói những thứ ngôn ngữ kì quặc, nhưng dân da trắng thì cũng thế, từ miền Nam Thụy Điển trở đi. Ông giáo sư Lundborg đó chắc hồi bé bị một gã da đen nào đó dọa nạt nên mới sợ thế, Allan nghĩ.
Allan và anh bạn Esteban đến một xứ sở hỗn loạn. Nhà vua đã chạy trốn sang Rome và nền cộng hòa đã thay thế ngai vàng. Phe cánh tả gọi đó là cách mạng, trong khi phe cánh hữu khiếp sợ vì những gì đã xảy ra với nước Nga của Stalin. Liệu ở đây cũng thế?
Esteban quên mất là bạn mình rất ghét chính trị và cố gắng lôi kéo Allan về phía cách mạng, còn Allan theo thói quen của mình, nhất quyết không tham gia. Anh nhận ra dư âm những chuyện cũ ở quê nhà và vẫn không thể hiểu lý do tại sao tất cả mọi thứ, sau một thời gian sẽ trở thành chính cái mà nó đã từng chống đối.
Điều này đã được nối tiếp với một cuộc đảo chính quân sự không thành công của phái Hữu, tiếp theo là tổng đình công từ cánh Tả. Sau đó là một cuộc tổng tuyển cử. Phái Tả thắng, phái Hữu ấm ức, hoặc là ngược lại, Allan không chắc chắn lắm. Cuối cùng, dù sao đi nữa, chiến tranh bùng nổ.
Allan thấy mình đang ở nước ngoài và không có cách gì hay hơn là núp nửa bước sau anh bạn Esteban của mình, người đã gia nhập quân đội và ngay lập tức được thăng trung sĩ, vì trung đội trưởng nhận thấy Esteban rất thạo gây nổ.
Anh bạn của Allan tự hào mặc đồng phục và mong mỏi nhận nhiệm vụ đầu tiên của mình trong chiến tranh. Trung đội đã được lệnh cho nổ tung vài cây cầu trong một thung lũng ở Aragonia, và nhóm của Esteban sẽ đối phó với cây cầu đầu tiên. Esteban ngất ngây vì được tin tưởng, nhảy lên một hòn đá, tay trái giương súng trường lên trời và hét lên:
- Tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và tất cả bọn phát xít...
Esteban chưa nói hết câu thì một nửa đầu và vai anh đã bị bắn văng đi bởi một trong các súng cối đầu tiên của địch khai hỏa trong chiến tranh. Khi chuyện xảy ra Allan đứng cách đó khoảng 20 mét, và do đó không bị bẩn, do các bộ phận của người đồng chí đã văng khắp nơi quanh hòn đá mà Esteban ngu ngốc đứng lên. Một người lính bộ binh trong nhóm của Esteban bắt đầu khóc. Còn Allan nhìn những gì sót lại của bạn mình và thấy rằng vô ích để gom nhặt các mảnh vụn.
- Lẽ ra cậu nên ở lại ở Hälleforsnäs, - Allan nói và đột nhiên cảm thấy một khát khao chân thành được bổ củi bên ngoài ngôi nhà của mình ở Yxhult.
**
Phát đạn cối đã giết chết Esteban có thể đã khai hỏa cho cuộc chiến, nhưng chắc chắn không phải là phát cuối cùng. Allan nghĩ đến việc trở về nhà, nhưng chiến tranh bỗng dưng ở khắp nơi quanh anh. Thêm nữa, trở lại Thụy Điển là một chuyến đi dài khủng khiếp, và khi đến nơi lại chẳng có ai chờ đợi.
Vì vậy, Allan đã tìm gặp chỉ huy của Esteban, giới thiệu mình là chuyên gia pháo hàng đầu của lục địa và sẵn sàng làm nổ tung các cây cầu và công trình hạ tầng khác cho ngài chỉ huy, chỉ cần ba bữa ăn tử tế mỗi ngày và rượu vang đủ để say khi hoàn cảnh cho phép.
Thay vì đồng ý, ngài chỉ huy suýt cho bắn Allan khi anh cứng đầu từ chối hát ca ngợi chủ nghĩa xã hội và nền cộng hòa, lại còn đòi làm nhiệm vụ trong quần áo dân sự. Hoặc, vì cách Allan diễn đạt:
- Một điều nữa... Nếu làm nổ tung các cây cầu cho ngài thì tôi sẽ làm nhưng vẫn mặc áo len của mình, còn không thì ngài tự đi mà làm nổ lấy.
Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ thực tình ngài chỉ huy chưa bao giờ để một dân thường dọa dẫm mình theo cách đó. Vấn đề của ngài là chuyên gia chất nổ có tay nghề cao nhất trong công ty - vừa mới đây thôi - đã bị rắc thành muôn mảnh quanh một hòn đá trên ngọn đồi gần đó.
Trong lúc ngài chỉ huy ngồi trong chiếc ghế gấp kiểu nhà binh của mình, ngẫm nghĩ liệu nên nhận Allan vào làm hay xử bắn, thì một trong những sĩ quan trung đội thì thầm vào tai ngài rằng viên trung sĩ trẻ, người vừa không may bị bắn tung, trước đây đã giới thiệu tay Thụy Điển kì quặc này như một bậc thầy về vật liệu nổ.
Điều đó đã quyết định vấn đề. Ông Karlsson có thể: a) sống, b) ăn ba bữa tử tế một ngày, c) có quyền mặc quần áo dân sự, và d) có quyền hệt như mọi người khác, thỉnh thoảng uống rượu vang với liều lượng hợp lý. Đổi lại, anh sẽ làm nổ chính xác cái mà chỉ huy yêu cầu. Ngoài ra, hai lính bộ binh được lệnh giám sát đặc biệt người Thụy Điển, bởi vì biết đâu anh ta là gián điệp.
Nhiều tháng rồi nhiều năm trôi qua. Allan đã làm nổ tung những gì cần nổ, và anh đã làm như vậy với kĩ năng đáng kể. Công việc không phải không có rủi ro của nó. Thường phải bò trườn đến chỗ đối tượng nổ, đặt thuốc nổ có định giờ, và sau đó bò zig-zag trở lại căn cứ an toàn. Sau ba tháng, một trong hai người lính bảo vệ Allan đã mất mạng (anh ta bò nhầm thẳng vào một trại của địch). Sáu tháng sau, người còn lại có số phận tương tự (anh ta nhỏm dậy cho giãn lưng và ngay lập tức lưng bị bắn làm đôi). Ngài chỉ huy không bận tâm thay thế bảo vệ khác, vì Karlsson đã cư xử quá tốt.
Allan thấy giết chết nhiều người là không cần thiết, do đó, thường thì anh đảm bảo rằng cây cầu không có ai khi bị nổ. Ví dụ như cây cầu cuối cùng, nơi anh đặt thuốc nổ ngay trước khi chiến tranh kết thúc. Nhưng lần này, khi anh vừa chuẩn bị xong, và đã bò trở lại bụi cây trên một móng cầu thì một nhóm tuần tra của địch đi bộ về phía anh, người đàn ông bé nhỏ đi giữa đeo đầy huy chương. Họ đến từ phía bên kia và có vẻ hoàn toàn không biết rằng những người cộng hòa đang ở gần, càng không biết mình sắp đi theo Esteban và hàng chục ngàn người Tây Ban Nha khác vào cõi vĩnh hằng.
Nhưng rồi Allan nghĩ thế là đủ. Vì vậy, anh đứng dậy, ra khỏi bụi cây và khua tay.
- Đi đi! Ra khỏi đây ngay! - Anh gào lên với người đàn ông nhỏ con đeo huy chương và đoàn tùy tùng của ông. - Đi ngay, trước khi bị nổ tung lên!
Người đàn ông nhỏ con đeo huy chương định đi, nhưng đoàn tùy tùng của ông ta xúm xít quanh ông. Rồi họ kéo ông ta qua cầu và không dừng lại cho đến khi tới bụi cây của Allan. Tám súng trường nhằm vào người Thụy Điển và ít nhất một khẩu sắp khai hỏa nếu cây cầu bất ngờ không nổ tung sau lưng họ. Dư chấn của nó đẩy dúi người đàn ông nhỏ con đeo huy chương vào bụi cây của Allan. Trong hỗn loạn, không ai trong đoàn tùy tùng dám bắn về phía Allan vì sợ nhầm người.
Hơn nữa, anh lại ăn mặc dân sự. Và khi khói tan, không ai còn định giết Allan nữa. Người đàn ông nhỏ con đeo huy chương bắt tay anh, giải thích rằng một vị tướng thực sự biết cách để thể hiện sự cảm kích của mình và bây giờ tốt nhất là cả nhóm sẽ rút sang bên kia, có cầu hay không cũng vậy. Nếu vị cứu tinh của ông muốn theo cùng với họ, thì anh sẽ được đón tiếp nồng nhiệt hơn bởi vì sang đó, vị tướng sẽ mời anh ăn tối.
- Paella Andaluz, - vị tướng nói. - Đầu bếp của của tôi là người miền nam. ¿Comprende?[6]
[6] Anh hiểu chứ? (tiếng Tây Ban Nha).
- Vâng, - quả thật là Allan hiểu. Anh hiểu rằng mình đã cứu sống cái mạng của tổng tư lệnh, anh hiểu ra lợi thế của mình khi đứng đó trong chiếc áo len đan bẩn thỉu của mình thay vì mặc đồng phục kẻ địch, anh hiểu rằng bạn bè mình trên đồi cách đấy vài trăm mét đang theo dõi mọi chuyện qua ống nhòm và hiểu rằng để giữ sức khỏe, tốt nhất là nên đổi bên trong cuộc chiến tranh mà dù sao anh cũng chẳng biết để làm gì.
Thêm nữa, anh đang đói.
- Si, por favor, mí general[7], - Allan đáp. - Nếu có món Paella thì thật tuyệt. Hay thậm chí có thêm một hai ly vang đỏ nữa?
[7] Vâng, làm ơn, thưa tướng quân.
**
Mười năm trước, có lần Allan đã xin làm chuyên gia khói lửa tại xưởng đúc ở Hälleforsnäs. Hồi đó, anh đã quyết định ỉm đi trong lí lịch sự thực rằng mình đã ở bệnh viện tâm thần bốn năm và sau đó còn nổ tung ngôi nhà của mình nữa. Có lẽ vì thế cuộc phỏng vấn xin việc đã trôi chảy.
Allan nghĩ về chuyện đó trong khi trò chuyện với Tướng Franco. Một mặt, người ta không nên nói dối. Mặt khác, cũng chẳng hay ho gì nếu tiết lộ với vị tướng rằng chính Allan đã đặt thuốc nổ ở cây cầu và suốt ba năm qua, anh đã là một nhân viên dân sự của quân đội Cộng hòa. Không hẳn là Allan ngại nói những gì mình đã làm, nhưng đây là trường hợp đặc biệt với bữa ăn tối và nhậu nhẹt say sưa. Một khi thức ăn và rượu vodka đã được dọn ra thì sự thật có thể tạm thời dẹp sang một bên, Allan nghĩ và anh đã hết lòng nói dối vị tướng.
Vì vậy, chuyện là Allan đã trốn vào bụi cây trong khi chạy trốn khỏi quân Cộng hòa. Anh đã tận mắt thấy người ta gài thuốc nổ, may quá vì nếu không anh làm sao có thể cảnh báo vị tướng được.
Lý do mà Allan đến tận Tây Ban Nha và vấp phải chiến tranh là vì anh đã bị một người bạn lôi kéo, người đó có quan hệ thân thiết với ngài Primo di Rivera quá cố. Nhưng từ khi người bạn bị giết bởi một mảnh súng cối, Allan đã buộc phải tự tìm cách sinh tồn. Anh đã nằm trong nanh vuốt của quân Cộng hòa, nhưng cuối cùng đã gắng thoát ra được.
Và rồi Allan nhanh chóng thay đổi chủ đề, kể chuyện cha mình đã từng ở trong nhóm triều thần thân cận với Nikolai Sa hoàng Nga và rằng ông đã tử vì đạo trong một trận chiến vô vọng với lãnh đạo của những người Bolshevik, Lenin.
Bữa tối được phục vụ trong lều của vị tướng. Rượu vào lời ra, những mô tả của Allan về hành động anh hùng của cha mình càng nhiều màu sắc. Tướng Franco quá ấn tượng. Đầu tiên ông được cứu sống, rồi hóa ra vị cứu tinh của ông gần như lại có quan hệ với Sa hoàng Nikolai II.
Các món ăn ngon tuyệt vời, đầu bếp người Andulasia không dám pha tạp bất cứ vị gì khác. Rượu chảy bất tận mừng danh dự của Allan, cha Allan, của Sa hoàng Nikolai II và gia đình Sa hoàng. Và cuối cùng vị tướng lăn ra ngủ ngay trong lúc đang ôm choàng lấy Allan để xác nhận rằng giữa họ với nhau không cần chức danh gì cả.
Khi ngài tỉnh dậy thì chiến tranh đã kết thúc. Tướng Franco tiếp quản chính phủ nước Tây Ban Nha mới và phong Allan làm trưởng nhóm cận vệ của mình. Allan cám ơn ông về đề nghị đó, nhưng trả lời rằng đây là lúc mình phải hồi hương, nếu Fransisco cho phép. Tất nhiên Fransisco đồng ý, thậm chí còn viết một lá thư đề tổng tư lệnh bảo trợ vô điều kiện (‘chỉ cần đưa thư này ra nếu anh cần bất kì sự giúp đỡ nào’) và sau đó Allan được hộ tống như một ông hoàng đến tận Lisbon nơi vị tướng nghĩ là điểm xuất phát cho các con tàu đi phía bắc.
Hóa ra từ Lisbon, tàu thuyền đi về mọi hướng. Allan đứng trên cầu cảng ngẫm nghĩ một lúc. Rồi anh vẫy lá thư của vị tướng trước mũi thuyền trưởng của một chiếc thuyền buồm treo cờ Tây Ban Nha, và lập tức được đi miễn phí. Tất nhiên là anh không phải trả tiền đi đường rồi. Con tàu quả thực đi đến Thụy Điển, nhưng trên bến cảng Allan đã tự hỏi mình sẽ làm gì ở đó, và anh thực sự không tìm ra câu trả lời hay ho nào.
1929-1939
Ngôi nhà tranh ở Yxhult trông tàn tạ. Nó đã xuống cấp trong những năm Allan được giáo sư Lundborg chăm sóc. Ngói lợp bị thổi bay khỏi mái, nằm rải rác trên mặt đất, cầu tiêu vì lý do nào đó đã đổ sụp và một trong các cửa sổ nhà bếp cứ mở ra đập vào trong gió.
Allan đứng ngoài đái, không có nhà vệ sinh nào dùng được nữa rồi. Sau đó anh đi vào và ngồi trong căn bếp bụi bặm của mình. Anh cứ để cửa sổ mở. Đói bụng nhưng anh kiềm chế thôi thúc đi lục chạn. Anh chắc chắn rằng nó chẳng làm mình vui được.
Allan sinh ra và lớn lên tại đây, nhưng chưa bao giờ ‘nhà’ có vẻ xa xôi như vào lúc đó. Có lẽ đấy là thời điểm để anh cắt đứt ràng buộc với quá khứ và tiếp tục theo chiều hướng khác? Phải, chắc chắn là như thế.
Allan tìm kiếm những thanh thuốc nổ của mình và làm các chuẩn bị cần thiết trước khi đóng gói những thứ lặt vặt vô giá trị mà mình có vào túi đèo hàng sau xe đạp. Vào lúc hoàng hôn ngày mùng ba tháng Sáu, 1929, anh ra đi khỏi Yxhult, khỏi Flen. Chỗ thuốc nổ phát nổ chính xác ba mươi phút sau. Căn nhà tranh Yxhult nổ tung thành nhiều mảnh và con bò hàng xóm lại bị sẩy thai.
Tuy nhiên, một giờ sau, Allan bị bắt giam tại đồn cảnh sát ở Flen và ăn bữa tối trong khi bị Krook, giám đốc cảnh sát địa phương mắng nhiếc. Cảnh sát Flen vừa mua một chiếc xe cảnh sát và nó bắt kịp rất nhanh người đàn ông đã biến nhà mình thành diêm gỗ.
Lần này, hành vi phạm tội đã rõ ràng hơn.
- Phá hủy bất cẩn, - giám đốc Krook nói giọng uy quyền.
- Ông làm ơn đưa cho tôi mẩu bánh mì được không? - Allan hỏi.
Không, giám đốc Krook không đưa, mặc dù ông có thể. Ông bắt đầu chỉ trích người trợ lí tội nghiệp của mình đã quá nhu nhược chiều mong muốn của tội phạm khi hắn đòi ăn tối. Trong lúc ấy Allan đã chén xong bữa và sau đó bị đưa đến đúng phòng tạm giam mà lần trước anh đã vào.
- Các anh có báo ngày hôm nay để đâu đó quanh đây không? - Allan hỏi. - Một cái gì đó để đọc vào buổi tối, ý tôi là thế.
Giám đốc Krook trả lời bằng cách tắt đèn trần và đóng sầm cánh cửa lại. Sáng hôm sau, điều đầu tiên mà ông làm là gọi cái bệnh viện ở Uppsala bảo họ đến và tóm lấy Allan Karlsson.
Nhưng các đồng nghiệp của Bernhard Lundborg đã giả điếc. Việc điều trị của Karlsson đã xong rồi, bây giờ họ có những người khác để thiến và phân tích. Nếu như giám đốc cảnh sát biết bao nhiêu người dân tộc đã được cứu giúp, từ người Do Thái, digan, da đen và lai đen, người đần độn và đủ loại khác. Việc Karlsson thổi bay nhà riêng của mình thành nhiều mảnh không đủ điều kiện cho một hành trình mới đến Uppsala. Người ta có thể làm gì tùy thích với ngôi nhà của mình, giám đốc cảnh sát có nghĩ thế không? Sau hết, chúng ta đang sống trong một đất nước tự do phải không? Cuối cùng, giám đốc cảnh sát Krook dập máy. Ông không địch nổi với mấy người ở các thành phố lớn. Thay vào đó, ông lấy làm tiếc rằng mình đã không để Karlsson đạp xe đi khỏi huyện tối hôm qua cho rồi.
Đó là lý do tại sao Allan Karlsson sau một đàm phán thành công vào buổi sáng lại ngồi trên xe đạp của mình với móc đèo hàng. Lần này với thức ăn cho ba ngày trong các gói gọn ghẽ, và một cái chăn đúp để giữ ấm khi thời tiết chuyển lạnh. Anh vẫy tay chào tạm biệt giám đốc Krook, ông này không buồn vẫy tay lại, và sau đó đạp xe lên phía bắc, vì điểm đó trên la bàn đối với Allan có vẻ cũng tốt như bất kì hướng nào khác.
Đến chiều, con đường đã đưa anh tới Hälleforsnäs, và thế cũng khá xa rồi. Allan dừng lại bên cạnh một triền cỏ, trải tấm chăn ra và mở một trong các gói đồ ăn của mình. Trong khi nhai một lát bánh mì syrupy với xúc xích, anh ngắm nghía cơ sở công nghiệp tình cờ nằm trước mắt mình. Bên ngoài nhà máy, nằm một đống nòng pháo từ các xưởng đúc. Allan nghĩ những người làm pháo có lẽ cần ai đó có thể đảm bảo là khi bắn, pháo thực sự bắn ra. Thêm nữa, gắng hết sức đi xa khỏi Yxhult cũng chẳng để làm gì. Hälleforsnäs hay nơi nào cũng vậy thôi. Nếu ở đó có việc làm, mà nó có thật.
Việc Allan làm với các nòng pháo và đòi hỏi về năng lực đặc biệt của anh có lẽ khá thô sơ. Tuy nhiên hóa ra nó rất chính xác. Sau một cuộc nói chuyện ngắn với nhà sản xuất, trong đó Allan lờ đi không đề cập đến một vài đoạn chọn lọc trong đời mình, anh đã được nhận vào làm như một chuyên gia khói lửa.
Mình sẽ thích ở đây, Allan nghĩ.
***
Sản xuất ống pháo đã giảm xuống tới mức tối thiểu tại xưởng đúc ở Hälleforsnäs, họ không nhận thêm đơn đặt hàng nào nữa, mà đơn đặt hàng đã ít càng ít hơn. Bộ trưởng quốc phòng, Ngài Per Albin Hansson, do hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã cắt giảm nguồn vốn cho quân đội, trong khi vua Gustaf V ngồi trong cung điện nghiến răng ken két. Per Albin, một người có óc phân tích, nghĩ rằng nó cũng có lí nếu chiến tranh nổ ra, Thụy Điển cần phải được trang bị tốt hơn so với các quốc gia đã có chiến tranh, nhưng điều đó không có nghĩa là ngay bây giờ phải trang bị vũ khí, mười năm sau cũng được. Bên cạnh đó, hiện giờ tất nhiên, chúng ta đã có Hội Quốc Liên[5].
[5] League of Nations: Tổ chức quốc tế được thành lập sau Thếchiến I và tồn tại đến hết Thế chiến II, khác với Liên Hợp Quốc (United Nations) thành lập vào năm 1945.
Hậu quả là xưởng đúc Hälleforsnäs đã chuyển sang sản xuất sản phẩm hòa bình hơn, và công nhân bị mất việc.
Nhưng Allan thì không. Bởi vì các chuyên gia khói lửa khá khó tìm. Nhà sản xuất không thể tin nổi khi Allan tình cờ xuất hiện và hóa ra là một chuyên gia về chất nổ đủ loại. Cho đến lúc đó, nhà sản xuất buộc phải dựa hoàn toàn vào một chuyên gia khói lửa mình đang có nhưng không hề thích, bởi ông ta là một người nước ngoài, râu tóc, lông đen rậm rạp khắp người và hầu như không nói tiếng Thụy Điển. Chẳng biết ông ta có đáng tin cậy hay không. Tuy nhiên, nhà sản xuất đã bắt buộc phải chấp nhận tình thế đó.
Allan, tất nhiên, không phân loại người theo màu. Anh luôn luôn nghĩ rằng giáo sư Lundborg nói chuyện kì quặc. Nhưng anh tò mò muốn gặp gã da đen đầu tiên, hoặc một chị da đen cũng được. Anh đã háo hức đọc các quảng cáo trên báo rằng Josephine Baker đã xuất hiện ở Stockholm, nhưng rồi anh chỉ được thấy Esteban, da trắng nhưng rám đen, là chuyên gia khói lửa người Tây Ban Nha.
Allan và Esteban khá hợp nhau. Họ ở chung một phòng trong khu trại của công nhân cạnh xưởng đúc. Esteban kể với Allan xuất thân ấn tượng của mình. Anh đã gặp một cô gái tại một bữa tiệc ở Madrid và bí mật vướng vào mối quan hệ trong sáng với cô, mà không nhận ra rằng cô là con gái của Thủ tướng Chính phủ mình, Miguel Primo de Rivero. Đó không phải là một người mà ta có thể tranh cãi. Ông cai trị đất nước theo ý mình, với nhà vua bất lực lê bước sau lưng ông. ‘Thủ tướng’ là một từ lịch sự cho chữ “độc tài”, theo ý kiến của Esteban. Nhưng con gái của ông thì đẹp tuyệt vời!
Xuất thân vô sản của Esteban chẳng có gì hấp dẫn với ông bố vợ tương lai. Trong lần gặp đầu tiên và duy nhất với Primo de Rivera, Esteban đã được thông báo rằng anh chỉ có hai lựa chọn. Một là biến khỏi lãnh thổ Tây Ban Nha càng xa càng tốt, hai là ở lại và lĩnh một viên đạn xuyên qua gáy.
Trong khi Primo de Rivero lên cò khẩu súng trường của ông, Esteban đã trả lời rằng mình quyết định chọn cách đầu tiên, và lùi thật nhanh ra khỏi phòng sao cho không chìa gáy ra với người đàn ông có khẩu súng trường và không hề liếc về hướng cô gái đang đứng thổn thức.
Càng xa càng tốt, Estebén nghĩ, và đi về phía bắc, rồi xa hơn nữa và cuối cùng đến phương bắc tít ở nơi các hồ bị đóng băng vào mùa đông. Thế là anh nghĩ mình đã đi đủ xa. Và anh ở đây từ ngày đó. Ba năm trước, anh nhận được việc ở xưởng đúc với một linh mục Công giáo phiên dịch giúp và, Chúa tha tội cho anh vì đã dựng lên một câu chuyện về làm việc với các vật liệu nổ ở quê hương Tây Ban Nha, trong khi trên thực tế, anh chủ yếu là đi hái cà chua.
Dần dần, Esteban đã gắng hiểu tiếng Thụy Điển và đã trở thành một chuyên gia khói lửa khá uy tín. Và bây giờ, với Allan bên cạnh, anh trở thành một chuyên gia thực sự.
**
Allan cảm thấy sống ở khu nhà công nhân tại xưởng đúc thoải mái như ở nhà. Sau một năm, anh có thể hiểu tiếng Tây Ban Nha mà Esteban dạy. Sau hai năm, tiếng Tây Ban Nha của anh hầu như thông thạo. Nhưng phải mất ba năm trước khi Esteban từ bỏ cố gắng nhồi nhét chủ nghĩa xã hội quốc tế kiểu Tây Ban Nha của mình cho Allan. Anh đã thử tất cả mọi cách, nhưng Allan cứ trơ trơ. Esteban không hiểu được một phần đặc biệt trong tính cách người bạn thân nhất của mình. Không phải vì Allan có một quan điểm trái ngược về thế giới và tranh cãi nó phải như thế nào; đơn giản là anh không có ý kiến gì. Hoặc có lẽ đó chính là ý kiến của Allan? Cuối cùng, Esteban chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc quen dần với thực tế là Allan đã không hiểu.
Ngược lại, Allan cũng phải chịu trận chuyện đó. Esteban là một người bạn tốt. Nhưng không ai đỡ nổi việc anh ta đã bị đầu độc bởi các chính trị gia chết tiệt. Và chắc chắn anh không phải là người duy nhất bị thế.
Mùa lại nối mùa trước khi cuộc sống của Allan rẽ sang ngả mới. Nó bắt đầu khi Esteban nhận được tin rằng Primo de Rivera đã từ chức và trốn khỏi đất nước. Giờ là lúc nền dân chủ đang lấp ló, có lẽ cả chủ nghĩa xã hội nữa, và Esteban không muốn bỏ lỡ điều đó.
Vì vậy, anh sẽ trở về nhà càng sớm càng tốt. Xưởng đúc ngày càng thua lỗ vì Ngài Per Albin đã quyết định rằng sẽ không có chiến tranh nữa. Esteban nghĩ rằng cả hai chuyên gia khói lửa sẽ bị sa thải bất kì ngày nào. Anh bạn Allan có dự định gì cho tương lai không? Có muốn cùng anh sang Tây Ban Nha không?
Allan nghĩ về chuyện đó. Một mặt, anh chẳng quan tâm đến bất kì cuộc cách mạng nào, kiểu Tây Ban Nha hay gì khác. Kiểu gì thì nó cũng chỉ đưa đến một cuộc cách mạng mới, theo hướng ngược lại. Mặt khác, Tây Ban Nha là nước ngoài, như tất cả các quốc gia khác, trừ Thụy Điển, và sau một đời đọc về nước ngoài thì có lẽ cũng hay để trải nghiệm ở nước ngoài thật. Và trên đường đi, biết đâu họ có thể tình cờ gặp một hay hai người da đen?
Khi Esteban hứa rằng trên đường sang Tây Ban Nha, ít nhất họ sẽ gặp một người da đen thì Allan không thể cưỡng nổi lời mời. Sau đó, hai người bạn bắt đầu thảo luận các vấn đề thực tế hơn. Và họ đi đến kết luận rằng chủ xưởng đúc là đồ ‘con hoang ngu ngốc’ (họ nghĩ đúng như thế) và không đáng để bàn. Họ quyết định sẽ đợi lĩnh lương tuần đó rồi âm thầm lặn luôn.
Thế là Chủ nhật sau đó, Allan và Esteban dậy lúc năm giờ sáng, khởi hành trên chiếc xe đạp kéo theo rơmoóc đèo hàng, đi về phía nam, nhắm đến Tây Ban Nha. Trên đường, Esteban muốn dừng lại phía ngoài nhà riêng của chủ xưởng đúc, để đổ kết quả chuyến thăm nhà xí buổi sáng của mình vào trong hộp sữa được giao mỗi sáng vào thùng thư treo ở cổng chủ nhà máy. Cần phải thế, vì Esteban trong nhiều năm đã buộc phải đóng trò ‘khỉ’ cho ông chủ nhà máy và hai thằng con trai tuổi teen của ông ta.
- Trả thù không hay ho gì đâu, - Allan cảnh báo anh ta. - Trả thù giống như chính trị, cái này dẫn tới cái kia, cái sảy nảy cái ung đấy.
Nhưng Esteban cứ khăng khăng. Chỉ vì một chút lông lá ở tay và không nói trơn mồm cái ngôn ngữ của chủ xưởng đúc, thế mà biến người ta thành vượn được à?
Allan đã phải đồng ý, thế là hai người bạn đến một thỏa hiệp hợp lý. Esteban có thể đái vào lon sữa, nhưng không ỉa vào trong đấy.
Đấy là những gì đã xảy ra khi xưởng đúc ở Hälleforsnäs mất đi cả hai chuyên gia khói lửa. Buổi sáng người ta buôn chuyện đến tai ông chủ xưởng đúc là thấy Allan và Esteban trên xe đạp với rơmoóc kéo đi về phía Katrineholm hay có lẽ xa hơn về phía nam. Vậy nên ông chủ xưởng đúc đã lên kế hoạch cho sự thiếu hụt nhân sự bất ngờ trong tuần tới ngay trên hiên ngôi nhà sang trọng của mình vào sáng Chủ nhật, trong lúc ông nhấm nháp ly sữa Sigrid được phục vụ chu đáo với bánh quy hạnh nhân. Tâm trạng của ông chủ xưởng đúc càng u ám hơn vì hình như bánh bích quy có gì đó không ổn. Nó đậm đà mùi vị amoniac.
Ông chủ xưởng đúc quyết định đợi đến tan lễ nhà thờ, rồi cho Sigrid một trận đích đáng. Tạm thời, ông sẽ giải quyết bằng cách gọi một ly sữa khác để loại bỏ mùi vị khó chịu trong miệng của mình.
**
Thế là Allan thấy mình ở Tây Ban Nha. Đi qua châu Âu mất ba tháng và trên đường đi anh đã gặp người da đen thỏa thích, hơn cả mơ ước rất nhiều. Nhưng ngay sau lần đầu tiên gặp, anh đã chán ngay. Hóa ra chẳng có sự khác biệt nào ngoài màu da của họ, tất nhiên họ nói những thứ ngôn ngữ kì quặc, nhưng dân da trắng thì cũng thế, từ miền Nam Thụy Điển trở đi. Ông giáo sư Lundborg đó chắc hồi bé bị một gã da đen nào đó dọa nạt nên mới sợ thế, Allan nghĩ.
Allan và anh bạn Esteban đến một xứ sở hỗn loạn. Nhà vua đã chạy trốn sang Rome và nền cộng hòa đã thay thế ngai vàng. Phe cánh tả gọi đó là cách mạng, trong khi phe cánh hữu khiếp sợ vì những gì đã xảy ra với nước Nga của Stalin. Liệu ở đây cũng thế?
Esteban quên mất là bạn mình rất ghét chính trị và cố gắng lôi kéo Allan về phía cách mạng, còn Allan theo thói quen của mình, nhất quyết không tham gia. Anh nhận ra dư âm những chuyện cũ ở quê nhà và vẫn không thể hiểu lý do tại sao tất cả mọi thứ, sau một thời gian sẽ trở thành chính cái mà nó đã từng chống đối.
Điều này đã được nối tiếp với một cuộc đảo chính quân sự không thành công của phái Hữu, tiếp theo là tổng đình công từ cánh Tả. Sau đó là một cuộc tổng tuyển cử. Phái Tả thắng, phái Hữu ấm ức, hoặc là ngược lại, Allan không chắc chắn lắm. Cuối cùng, dù sao đi nữa, chiến tranh bùng nổ.
Allan thấy mình đang ở nước ngoài và không có cách gì hay hơn là núp nửa bước sau anh bạn Esteban của mình, người đã gia nhập quân đội và ngay lập tức được thăng trung sĩ, vì trung đội trưởng nhận thấy Esteban rất thạo gây nổ.
Anh bạn của Allan tự hào mặc đồng phục và mong mỏi nhận nhiệm vụ đầu tiên của mình trong chiến tranh. Trung đội đã được lệnh cho nổ tung vài cây cầu trong một thung lũng ở Aragonia, và nhóm của Esteban sẽ đối phó với cây cầu đầu tiên. Esteban ngất ngây vì được tin tưởng, nhảy lên một hòn đá, tay trái giương súng trường lên trời và hét lên:
- Tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và tất cả bọn phát xít...
Esteban chưa nói hết câu thì một nửa đầu và vai anh đã bị bắn văng đi bởi một trong các súng cối đầu tiên của địch khai hỏa trong chiến tranh. Khi chuyện xảy ra Allan đứng cách đó khoảng 20 mét, và do đó không bị bẩn, do các bộ phận của người đồng chí đã văng khắp nơi quanh hòn đá mà Esteban ngu ngốc đứng lên. Một người lính bộ binh trong nhóm của Esteban bắt đầu khóc. Còn Allan nhìn những gì sót lại của bạn mình và thấy rằng vô ích để gom nhặt các mảnh vụn.
- Lẽ ra cậu nên ở lại ở Hälleforsnäs, - Allan nói và đột nhiên cảm thấy một khát khao chân thành được bổ củi bên ngoài ngôi nhà của mình ở Yxhult.
**
Phát đạn cối đã giết chết Esteban có thể đã khai hỏa cho cuộc chiến, nhưng chắc chắn không phải là phát cuối cùng. Allan nghĩ đến việc trở về nhà, nhưng chiến tranh bỗng dưng ở khắp nơi quanh anh. Thêm nữa, trở lại Thụy Điển là một chuyến đi dài khủng khiếp, và khi đến nơi lại chẳng có ai chờ đợi.
Vì vậy, Allan đã tìm gặp chỉ huy của Esteban, giới thiệu mình là chuyên gia pháo hàng đầu của lục địa và sẵn sàng làm nổ tung các cây cầu và công trình hạ tầng khác cho ngài chỉ huy, chỉ cần ba bữa ăn tử tế mỗi ngày và rượu vang đủ để say khi hoàn cảnh cho phép.
Thay vì đồng ý, ngài chỉ huy suýt cho bắn Allan khi anh cứng đầu từ chối hát ca ngợi chủ nghĩa xã hội và nền cộng hòa, lại còn đòi làm nhiệm vụ trong quần áo dân sự. Hoặc, vì cách Allan diễn đạt:
- Một điều nữa... Nếu làm nổ tung các cây cầu cho ngài thì tôi sẽ làm nhưng vẫn mặc áo len của mình, còn không thì ngài tự đi mà làm nổ lấy.
Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ thực tình ngài chỉ huy chưa bao giờ để một dân thường dọa dẫm mình theo cách đó. Vấn đề của ngài là chuyên gia chất nổ có tay nghề cao nhất trong công ty - vừa mới đây thôi - đã bị rắc thành muôn mảnh quanh một hòn đá trên ngọn đồi gần đó.
Trong lúc ngài chỉ huy ngồi trong chiếc ghế gấp kiểu nhà binh của mình, ngẫm nghĩ liệu nên nhận Allan vào làm hay xử bắn, thì một trong những sĩ quan trung đội thì thầm vào tai ngài rằng viên trung sĩ trẻ, người vừa không may bị bắn tung, trước đây đã giới thiệu tay Thụy Điển kì quặc này như một bậc thầy về vật liệu nổ.
Điều đó đã quyết định vấn đề. Ông Karlsson có thể: a) sống, b) ăn ba bữa tử tế một ngày, c) có quyền mặc quần áo dân sự, và d) có quyền hệt như mọi người khác, thỉnh thoảng uống rượu vang với liều lượng hợp lý. Đổi lại, anh sẽ làm nổ chính xác cái mà chỉ huy yêu cầu. Ngoài ra, hai lính bộ binh được lệnh giám sát đặc biệt người Thụy Điển, bởi vì biết đâu anh ta là gián điệp.
Nhiều tháng rồi nhiều năm trôi qua. Allan đã làm nổ tung những gì cần nổ, và anh đã làm như vậy với kĩ năng đáng kể. Công việc không phải không có rủi ro của nó. Thường phải bò trườn đến chỗ đối tượng nổ, đặt thuốc nổ có định giờ, và sau đó bò zig-zag trở lại căn cứ an toàn. Sau ba tháng, một trong hai người lính bảo vệ Allan đã mất mạng (anh ta bò nhầm thẳng vào một trại của địch). Sáu tháng sau, người còn lại có số phận tương tự (anh ta nhỏm dậy cho giãn lưng và ngay lập tức lưng bị bắn làm đôi). Ngài chỉ huy không bận tâm thay thế bảo vệ khác, vì Karlsson đã cư xử quá tốt.
Allan thấy giết chết nhiều người là không cần thiết, do đó, thường thì anh đảm bảo rằng cây cầu không có ai khi bị nổ. Ví dụ như cây cầu cuối cùng, nơi anh đặt thuốc nổ ngay trước khi chiến tranh kết thúc. Nhưng lần này, khi anh vừa chuẩn bị xong, và đã bò trở lại bụi cây trên một móng cầu thì một nhóm tuần tra của địch đi bộ về phía anh, người đàn ông bé nhỏ đi giữa đeo đầy huy chương. Họ đến từ phía bên kia và có vẻ hoàn toàn không biết rằng những người cộng hòa đang ở gần, càng không biết mình sắp đi theo Esteban và hàng chục ngàn người Tây Ban Nha khác vào cõi vĩnh hằng.
Nhưng rồi Allan nghĩ thế là đủ. Vì vậy, anh đứng dậy, ra khỏi bụi cây và khua tay.
- Đi đi! Ra khỏi đây ngay! - Anh gào lên với người đàn ông nhỏ con đeo huy chương và đoàn tùy tùng của ông. - Đi ngay, trước khi bị nổ tung lên!
Người đàn ông nhỏ con đeo huy chương định đi, nhưng đoàn tùy tùng của ông ta xúm xít quanh ông. Rồi họ kéo ông ta qua cầu và không dừng lại cho đến khi tới bụi cây của Allan. Tám súng trường nhằm vào người Thụy Điển và ít nhất một khẩu sắp khai hỏa nếu cây cầu bất ngờ không nổ tung sau lưng họ. Dư chấn của nó đẩy dúi người đàn ông nhỏ con đeo huy chương vào bụi cây của Allan. Trong hỗn loạn, không ai trong đoàn tùy tùng dám bắn về phía Allan vì sợ nhầm người.
Hơn nữa, anh lại ăn mặc dân sự. Và khi khói tan, không ai còn định giết Allan nữa. Người đàn ông nhỏ con đeo huy chương bắt tay anh, giải thích rằng một vị tướng thực sự biết cách để thể hiện sự cảm kích của mình và bây giờ tốt nhất là cả nhóm sẽ rút sang bên kia, có cầu hay không cũng vậy. Nếu vị cứu tinh của ông muốn theo cùng với họ, thì anh sẽ được đón tiếp nồng nhiệt hơn bởi vì sang đó, vị tướng sẽ mời anh ăn tối.
- Paella Andaluz, - vị tướng nói. - Đầu bếp của của tôi là người miền nam. ¿Comprende?[6]
[6] Anh hiểu chứ? (tiếng Tây Ban Nha).
- Vâng, - quả thật là Allan hiểu. Anh hiểu rằng mình đã cứu sống cái mạng của tổng tư lệnh, anh hiểu ra lợi thế của mình khi đứng đó trong chiếc áo len đan bẩn thỉu của mình thay vì mặc đồng phục kẻ địch, anh hiểu rằng bạn bè mình trên đồi cách đấy vài trăm mét đang theo dõi mọi chuyện qua ống nhòm và hiểu rằng để giữ sức khỏe, tốt nhất là nên đổi bên trong cuộc chiến tranh mà dù sao anh cũng chẳng biết để làm gì.
Thêm nữa, anh đang đói.
- Si, por favor, mí general[7], - Allan đáp. - Nếu có món Paella thì thật tuyệt. Hay thậm chí có thêm một hai ly vang đỏ nữa?
[7] Vâng, làm ơn, thưa tướng quân.
**
Mười năm trước, có lần Allan đã xin làm chuyên gia khói lửa tại xưởng đúc ở Hälleforsnäs. Hồi đó, anh đã quyết định ỉm đi trong lí lịch sự thực rằng mình đã ở bệnh viện tâm thần bốn năm và sau đó còn nổ tung ngôi nhà của mình nữa. Có lẽ vì thế cuộc phỏng vấn xin việc đã trôi chảy.
Allan nghĩ về chuyện đó trong khi trò chuyện với Tướng Franco. Một mặt, người ta không nên nói dối. Mặt khác, cũng chẳng hay ho gì nếu tiết lộ với vị tướng rằng chính Allan đã đặt thuốc nổ ở cây cầu và suốt ba năm qua, anh đã là một nhân viên dân sự của quân đội Cộng hòa. Không hẳn là Allan ngại nói những gì mình đã làm, nhưng đây là trường hợp đặc biệt với bữa ăn tối và nhậu nhẹt say sưa. Một khi thức ăn và rượu vodka đã được dọn ra thì sự thật có thể tạm thời dẹp sang một bên, Allan nghĩ và anh đã hết lòng nói dối vị tướng.
Vì vậy, chuyện là Allan đã trốn vào bụi cây trong khi chạy trốn khỏi quân Cộng hòa. Anh đã tận mắt thấy người ta gài thuốc nổ, may quá vì nếu không anh làm sao có thể cảnh báo vị tướng được.
Lý do mà Allan đến tận Tây Ban Nha và vấp phải chiến tranh là vì anh đã bị một người bạn lôi kéo, người đó có quan hệ thân thiết với ngài Primo di Rivera quá cố. Nhưng từ khi người bạn bị giết bởi một mảnh súng cối, Allan đã buộc phải tự tìm cách sinh tồn. Anh đã nằm trong nanh vuốt của quân Cộng hòa, nhưng cuối cùng đã gắng thoát ra được.
Và rồi Allan nhanh chóng thay đổi chủ đề, kể chuyện cha mình đã từng ở trong nhóm triều thần thân cận với Nikolai Sa hoàng Nga và rằng ông đã tử vì đạo trong một trận chiến vô vọng với lãnh đạo của những người Bolshevik, Lenin.
Bữa tối được phục vụ trong lều của vị tướng. Rượu vào lời ra, những mô tả của Allan về hành động anh hùng của cha mình càng nhiều màu sắc. Tướng Franco quá ấn tượng. Đầu tiên ông được cứu sống, rồi hóa ra vị cứu tinh của ông gần như lại có quan hệ với Sa hoàng Nikolai II.
Các món ăn ngon tuyệt vời, đầu bếp người Andulasia không dám pha tạp bất cứ vị gì khác. Rượu chảy bất tận mừng danh dự của Allan, cha Allan, của Sa hoàng Nikolai II và gia đình Sa hoàng. Và cuối cùng vị tướng lăn ra ngủ ngay trong lúc đang ôm choàng lấy Allan để xác nhận rằng giữa họ với nhau không cần chức danh gì cả.
Khi ngài tỉnh dậy thì chiến tranh đã kết thúc. Tướng Franco tiếp quản chính phủ nước Tây Ban Nha mới và phong Allan làm trưởng nhóm cận vệ của mình. Allan cám ơn ông về đề nghị đó, nhưng trả lời rằng đây là lúc mình phải hồi hương, nếu Fransisco cho phép. Tất nhiên Fransisco đồng ý, thậm chí còn viết một lá thư đề tổng tư lệnh bảo trợ vô điều kiện (‘chỉ cần đưa thư này ra nếu anh cần bất kì sự giúp đỡ nào’) và sau đó Allan được hộ tống như một ông hoàng đến tận Lisbon nơi vị tướng nghĩ là điểm xuất phát cho các con tàu đi phía bắc.
Hóa ra từ Lisbon, tàu thuyền đi về mọi hướng. Allan đứng trên cầu cảng ngẫm nghĩ một lúc. Rồi anh vẫy lá thư của vị tướng trước mũi thuyền trưởng của một chiếc thuyền buồm treo cờ Tây Ban Nha, và lập tức được đi miễn phí. Tất nhiên là anh không phải trả tiền đi đường rồi. Con tàu quả thực đi đến Thụy Điển, nhưng trên bến cảng Allan đã tự hỏi mình sẽ làm gì ở đó, và anh thực sự không tìm ra câu trả lời hay ho nào.
Bình luận facebook